BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------  ----------

NGUYỄN THỊ THANH TÂM TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC

NGOÀI ĐẾN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở NHỮNG

NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh - Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------  ----------

NGUYỄN THỊ THANH TÂM TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC

NGOÀI ĐẾN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở NHỮNG

NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển” là công trình

nghiên cứu của riêng tôi.

Các thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và các

kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình

nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu

toàn bộ trách nhiệm trước Hội đồng.

TP.HCM, tháng 11 năm 2013

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Tâm

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển” là công trình

nghiên cứu của riêng tôi.

Các thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và các

kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình

nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu

toàn bộ trách nhiệm trước Hội đồng.

TP.HCM, tháng 11 năm 2013

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Tâm

MỤC LỤC

Phụ bìa

Lời cam đoan

Danh mục cụm từ viết tắt

Mục lục

Danh mục bảng biểu

Tóm tắt ......................................................................................................... 1

1. Giới thiệu .................................................................................................. 2

2. Tổng quan những nghiên cứu trước đây .............................................. 4

2.1. Những nghiên cứu về mặt lý thuyết .................................................... 4

2.2. Những nghiên cứu về mặt thực nghiệm ............................................... 6

3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 21

3.1. Mô hình nghiên cứu ........................................................................... 21

3.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 26

3.3. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................. 30

3.3.1. Mẫu nghiên cứu ............................................................................. 30

3.3.2. Nguồn dữ liệu ................................................................................ 32

4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu .................................................... 34

4.1. Thống kê mô tả ................................................................................... 34

4.2. Kết quả nghiên cứu chính .................................................................. 36

4.3. Kết quả các kiểm định độ vững của mô hình ..................................... 44

5. Kết luận .................................................................................................. 55

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tóm tắt những công trình nghiên cứu thực nghiệm trước đây ....... 18

Bảng 2: Mô tả biến trong mô hình nghiên cứu ............................................. 24

Bảng 3: Các nước trong mẫu nghiên cứu ..................................................... 30

Bảng 4: Tên biến và nguồn dữ liệu ............................................................. 32

Bảng 5: Mô tả dữ liệu .................................................................................. 34

Bảng 6: Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu ....... 35

Bảng 7: Tác động ngắn hạn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư

trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp system

GMM ............................................................................................... 37

Bảng 8: Tác động ngắn hạn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư

trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp system

GMM (nhân tố phát triển thị trường được đo lường bằng biến

Credit thay vì biến M2) ................................................................... 42

Bảng 9: Tác động dài hạn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư

trong nước ở những nước đang phát triển ...................................... 43

Bảng 10: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trực tiếp ở

trong nước ở những nước đang phát triển sau khi loại bỏ những

nước có nguồn dự trữ ngoại hối lớn. ............................................... 45

Bảng 11: Kiểm định quan hệ tuyến tính giữa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và

đầu tư trong nước ............................................................................ 47

Bảng 12: Kiểm định tác động của mức độ phát triển tài chính đến mối quan

hệ của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư trong nước. .......... 48

Bảng 13: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước,

phương pháp Pooled OLS. .............................................................. 50

Bảng 14: Kiểm định Hausman ....................................................................... 51

Bảng 15: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước,

phương pháp tác động cố định. ....................................................... 52

Bảng 16: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước,

phương pháp Difference GMM. ..................................................... 53

1

TÓM TẮT:

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của những nước đang phát

triển ngày càng gia tăng mạnh mẽ, điều này có thể ảnh hưởng đến hoạt động

đầu tư trong nước, từ đó tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy,

nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước

ở những nước đang phát triển là điều rất cần thiết. Mục tiêu của luận văn là

nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước

ở 40 nước đang phát triển trên thế giới bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và

phương pháp system GMM. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài có tác động nghịch chiều đến đầu tư trong nước.

2

1. GIỚI THIỆU

Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay thì hoạt động đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài ngày càng mạnh mẽ, nhất là đối với những nước đang phát

triển. Theo số liệu thống kê của Hội nghị liên hiệp quốc tề về thương mại và

phát triển UNCTAD, năm 2005, tỷ trọng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

của những nước đang phát triển so với toàn thế giới chiếm khoảng 15%. Từ

năm 2005 – 2012, tỷ trọng này liên tục tăng lên, đến năm 2012 đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài của những nước đang phát triển chiếm 30% so với thế giới.

Sự gia tăng trong dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho thấy

rằng trong thời gian gần đây những nước đang phát triển ngày càng tham gia

mạnh mẽ vào nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ tác động đến đầu tư trong nước. Đầu tư trong

nước lại là nhân tố quan trọng đối với tốc độ phát triển kinh tế. Do vậy, tác

động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước là vấn đề cần

được tìm hiểu, nghiên cứu. Dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm

đạt được, các nhà làm chính sách có thể đưa ra những chính sách kinh tế

nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng

trưởng tốt.

Xét về mặt lý thuyết, các nhà nghiên cứu cho rằng đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài có thể tác động đến đầu tư trong nước thông qua hai kênh tác

động: thị trường tài chính và thị trường sản xuất. Tuy nhiên, tác động này vẫn

chưa rõ ràng, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể làm tăng, giảm hoặc không

thay đổi hoạt động đầu tư trong nước. Vì thế, nghiên cứu thực nghiệm để xác

định tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước ở

những nước đang phát triển là điều cần thiết.

3

Căn cứ vào những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Tác động của đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát

triển” để nghiên cứu trong luận văn của mình.

Mục tiêu của luận văn là đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác

động của đầu trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước ở những nước

đang phát triển trên thế giới trong khoảng thời gian gần đây.

Dựa vào một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm trước đây, đặc biệt là

bài nghiên cứu của tác giả Ali Al-Sadig (2013), câu hỏi nghiên cứu đặt ra là:

liệu rằng, đối với những nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

có làm giảm đầu tư trong nước hay không?

Luận văn sử dụng dữ liệu bảng của 40 nước đang phát triển trên thế

giới trong khoảng thời gian từ 2005 – 2012 và phương pháp System GMM để

có thể xử lý tốt vấn đề tính nội sinh của những biến nghiên cứu trong bài.

Phần còn lại của luận văn gồm các phần sau:

Phần 2: Tổng quan những nghiên cứu trước đây, gồm những nghiên

cứu về mặt lý thuyết và thực nghiệm tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước.

Phần 3: Phương pháp nghiên cứu, gồm có mô hình nghiên cứu, phương

pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu.

Phần 4: Kết quả nghiên cứu: gồm có kết quả nghiên cứu chính và

những kết quả kiểm tra độ vững.

Phần 5: Kết luận.

4

2. TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY.

2.1. Những nghiên cứu về mặt lý thuyết.

Về mặt lý thuyết, các nhà nghiên cứu cho rằng đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài có thể ảnh hưởng đến đầu tư trong nước thông qua hai kênh: thị trường

tài chính và thị trường sản xuất.

Đối với kênh thị trường tài chính, hai tác giả Steven và Lipsey (1992)

cho rằng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ làm giảm đầu tư trong nước. Tác

giả cho rằng trong thị trường vốn hoàn hảo, công ty có khả năng vay mượn để

tăng vốn đầu tư ở mức lãi suất nhất định. Tức là quyết định đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài của công ty không ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trong nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường vốn không hoàn hảo, nếu công ty

tăng tỷ số nợ quá cao, rủi ro sẽ gia tăng, dẫn đến chi phí sử dụng vốn của công

ty sẽ tăng theo. Do đó, công ty bị giới hạn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động

đầu tư ở một mức nào đó. Khi công ty đầu tư ra nước ngoài sẽ làm giảm khả

năng thực hiện các dự án đầu tư trong nước.

Đối với kênh thị trường sản xuất, các nhà nghiên cứu cho rằng tác động

của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước phụ thuộc vào động

cơ đầu tư ra nước ngoài của công ty.

Theo Dunning (1993), có bốn động cơ để công ty thực hiện đầu tư ra

nước ngoài: tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm

hiệu quả thị trường và tìm kiếm tài sản chiến lược.

Đầu tiên, đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên

xảy ra khi công ty muốn đầu tư vào những thị trường có nguồn tài nguyên

thiên nhiên mà nước mình không có hoặc khan hiếm. Hejazi và Pauly (2003)

5

cho rằng nếu công ty đầu tư ra nước ngoài vì động cơ này sẽ không làm thay

đổi đầu tư trong nước, thậm chí có thể thúc đẩy xuất khẩu hàng trung gian

trong nước, từ đó gia tăng đầu tư trong nước.

Thứ hai, đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm thị trường nghĩa là công

ty muốn gia nhập thị trường mới hoặc tránh những rào cản về thương mại như

chi phí vận chuyển hoặc bảo hộ thương mại của nước chủ nhà. Công ty đầu tư

ra nước ngoài vì động cơ này có thể làm tăng hoặc không tác động đến đầu tư

trong nước. Cụ thể là, nếu công ty đầu tư vào những ngành dịch vụ (hoặc

những ngành không có khả năng xuất khẩu) không dẫn đến việc thay thế xuất

khẩu sản phẩm trong nước thì không những không làm giảm mà còn có tác

động thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước thông qua thúc đẩy hoạt động sản

xuất hàng trung gian (Hejazi và Pauly, 2003). Nếu công ty đầu tư vào những

lĩnh vực có tác động thay thế xuất khẩu thì sẽ làm giảm đầu tư trong nước.

Tuy nhiên trong trường hợp này, vẫn có khả năng đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trung gian ở trong

nước nên chưa chắc đầu tư trong nước sẽ giảm.

Thứ ba, công ty có động cơ tìm kiếm hiệu quả thị trường do sự khác

biệt về giá của những nhân tố sản xuất (như chi phí tiền lương nhân công…).

Mỗi giai đoạn khác nhau trong chu trình sản xuất của công ty sẽ được xây

dựng ở nơi có chi phí thấp nhất. Do vậy trong ngắn hạn, công ty đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài để tìm kiếm hiệu quả thị trường sẽ có tác động làm giảm

đầu tư trong nước. Tuy nhiên, trong dài hạn, công ty có thể nhập khẩu những

nguyên liệu đầu vào trung gian từ những cơ sở ở nước ngoài với giá thành

thấp hơn, cơ sở trong nước có thể sản xuất sản phẩm với giá thấp hơn, từ đó

thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, và hoạt động đầu tư sản xuất trong nước

(Herze, 2008).

6

Cuối cùng, công ty đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm tài sản chiến

lược, là những tài sản không có sẵn trong nước nhưng lại đóng vai trò quan

trọng trong chiến lược phát triển lâu dài của công ty. Ví dụ, công ty đầu tư ra

nước ngoài để mở rộng thương hiệu công ty hay xây dựng mạng lưới phân

phối rộng lớn nhằm mục đích tăng khả năng cạnh tranh; hoặc các cở sở ở

nước ngoài của công ty sau khi tiếp thu khoa học công nghệ mới, trình độ

quản lý cao của các đối tác sẽ chuyển về cho công ty mẹ, nâng cao khả năng

sản xuất của công ty mẹ…Tóm lại, động cơ đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm

kiếm tài sản chiến lược có ý nghĩa lớn đối với công ty, có tác động thúc đẩy

hiệu quả hoạt động đầu tư trong nước của công ty.

Như vậy, xét về mặt lý thuyết, dựa trên hai kênh thị trường tài chính và

thị trường sản xuất, thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể làm tăng, giảm,

hoặc không tác động đến đầu tư trong nước.

2.2. Những nghiên cứu về mặt thực nghiệm.

Những nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài đến đầu tư trong nước được thực hiện dựa trên hai cấp độ dữ liệu:

dữ liệu vĩ mô và dữ liệu vi mô (dữ liệu ngành, dữ liệu công ty).

Các tác giả sử dụng dữ liệu vĩ mô gồm có: Feldstein (1995), Andersen

và Hainaut (1998), Desai và cộng sự (2005), Soo Khoon và cộng sự (2012),

Sauramo (2008), Herzer và Schrooten (2007), Ali Al- Sadig (2013).

 Feldstein (1995): Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến

đầu tư trong nước.

Feldstein (1995) sử dụng dữ liệu của 18 nước OECD trong những năm

1980 và 15 nước OECD trong những năm 1990 để kiểm định mối quan hệ

7

giữa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư trong nước. Trong bài nghiên

cứu, đầu tiên tác giả đã hồi quy biến đầu tư trong nước (GDI) theo ba biến

phục thuộc: tổng tiết kiệm quốc gia (Saving), đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

(OFDI), đầu tư trực tiếp nước ngoài (IFDI). Kết quả cho thấy rằng, đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư trong nước.

Tuy nhiên, tác giả lại cho rằng biến OFDI, IFDI là những biến nội sinh

bởi: “Biến đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có

tương quan với những biến có tác động thúc đẩy đầu tư trong nước. Một quốc

gia có điều kiện đầu tư trong nước tốt sẽ thu hút nhiều vốn FDI và giảm đầu

tư ra nước ngoài”.

Để xử lý vấn đề này, ban đầu tác giả dự định sử dụng biến công cụ, tuy

nhiên lại không thể tìm ra biến công cụ phù hợp cho biến OFDI và IFDI. Do

vậy, ông đã thêm vào mô hình những biến có quan hệ với cả đầu tư trong

nước (GDI) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (IFDI), đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài (OFDI) để giảm độ chệch của kết quả ước lượng, gồm có: biến giả xem

nước đó có thuộc châu Âu hay không (E), biến quy mô đo lường bằng dân số

trung bình (SIZE), biến lạm phát (INF), tốc độ tăng trưởng GDP trung bình

(GRO).

Kết quả cuối cùng của bài nghiên cứu là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

tăng 1 đô la sẽ làm giảm 1 đô la đầu tư trong nước.

 Andersen và Hainaut (1998): Đầu tư trực tiếp nước ngoài và

lao động ở những nước công nghiệp

Andersen và Hainaut (1998) kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài đến đầu tư trong nước dựa trên dữ liệu thời gian ở bốn quốc gia:

8

Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức trong giai đoạn từ những năm 1960 đến những năm

1990.

Tác giả sử dụng các biến trong mô hình cũng tương tự như của

Feldstein, với ba biến độc lập chính là tiết kiệm (Saving), đầu tư trực tiếp

nước ngoài (IFDI), đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI) và phương pháp

ECM để nghiên cứu tác động trong ngắn, dài hạn.

Kết quả cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư trong

nước. Tuy nhiên, mức độ tác động ở mỗi quốc gia lại khác nhau, không phải

là tỷ lệ 1:1 như kết quả nghiên cứu của tác giả Feldstein (1995). Cụ thể, đầu

tư trong nước ở Mỹ giảm 1.08 đô la, Nhật giảm 1.32 đô la, Đức giảm 1.72 đô

la, Anh giảm 0.41 đô la khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tăng 1 đô la. Tác

động này của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Mỹ được bù trừ bởi tác động

của đầu tư trực tiếp vào trong nước; trong khi ở Đức tác động cùng chiều của

đầu tư trực tiếp vào trong nước lớn hơn so với tác động nghịch chiều của đầu

trực tiếp ra nước ngoài.

 Desai và cộng sự (2005): Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu

tư trong nước.

Dựa trên bài nghiên cứu của Feldstein (1995), Desai và cộng sự (2005)

cũng thực hiện nghiên cứu khác cho các nước OECD. Tác giả đã mở rộng

phạm vi nghiên cứu, gồm 20 nước trong khoảng những năm 1980 và 26 nước

trong khoảng những năm 1990.

Kết quả nghiên cứu đạt được cũng khá tương đồng so với nghiên cứu

của Feldstein (1995), đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư trong

nước (1: 1.33 trong những năm 1980 và 1: 1.07 trong những năm 1990); đầu

9

tư trực tiếp nước ngoài làm tăng đầu tư trong nước (1: 1.18 trong những năm

1980).

 Soo Khoon và cộng sự (2012): Đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài và đầu tư trong nước.

Soo Khoon và cộng sự (2012) cũng dựa trên công trình nghiên cứu của

Feldstein để thực hiện bài nghiên cứu đối với Malaysia. Các biến trong mô

hình gồm có: tổng đầu tư trong nước (GDI), tổng tiết kiệm (GNS), dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

(OFDI). Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp ARDL vì hai lý

do: dữ liệu quý nên dữ liệu thu thập được tương đối ít, gồm 47 quan sát từ

quý 3 năm 1999 đến quý 1 năm 2010 và mục tiêu của tác giả là kiểm định tác

động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI) đến đầu tư trong nước (GDI)

trong dài hạn.

Kết quả cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài OFDI làm giảm đầu tư

trong nước (tỷ lệ 1: 0.48), trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ gia tăng

đầu tư trong nước (tỷ lệ 1: 1.83). Từ đó tác giả cho rằng, Malaysia có thể bù

trừ tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước bằng

cách tăng cường thu hút vốn FDI.

 Sauramo (2008): Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm

đầu tư trong nước hay không? Bằng chứng thực nghiệm ở Phần Lan.

Sauramo (2008) nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở Phần Lan trong khoảng thời gian 1965 – 2006. Trong

bài nghiên cứu, nhằm mục đích tập trung nghiên cứu tác động của OFDI đến

đầu tư trong nước, tác giả không đưa biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (IFDI)

vào mô hình nghiên cứu như những nghiên cứu trước đó mà chỉ sử dụng các

10

biến: đầu tư trong nước (DI), tiết kiệm trong nước (S) và đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài (OFDI).

Bên cạnh đó, để ước lượng tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,

tác giả sử dụng đồng thời hai phương pháp nghiên cứu: phương pháp ECM và

phương pháp VAR. Dữ liệu cũng được phân thành hai mức độ, đầu tiên là dữ

liệu của toàn nền kinh tế, tiếp đó là dữ liệu của ngành (ngoại trừ ngành tài

chính).

Đầu tiên, tác giả sử dụng dữ liệu hàng năm cho toàn nền kinh tế. Kết

quả ước lượng bằng phương pháp ECM cho thấy, trong dài hạn, OFDI có tác

động nghịch chiều đến đầu tư trong nước theo tỷ lệ gần bằng 1:1. Trong ngắn

hạn, OFDI không có tác động đến đầu tư trong nước. Khi sử dụng phương

pháp VAR, kết quả cũng tương tự.

Tiếp đó, tác giả sử dụng dữ liệu ngành từ 1975-2006 để có thể phân

tích kỹ hơn mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư trong

nước ở Phần Lan. Kết quả nghiên cứu đạt được cũng tương tự như trên, OFDI

làm giảm đầu tư trong nước.

Do tác giả đã loại bỏ những công ty thuộc lĩnh vực tài chính ra khỏi

mẫu nghiên cứu, phần lớn dữ liệu thu thập được từ lĩnh vực sản xuất nên tác

giả cho rằng tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến hoạt động đầu tư

 Herzer và Schrooten (2007): Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu

trong nước ở Phần Lan thực sự có ý nghĩa đối với lĩnh vực sản xuất.

tư trong nước.

Khác với những nhà nghiên cứu trên, Herzer và Schrooten (2007) chỉ

sử dụng biến dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài OFDI và biến đầu tư

11

trong nước DI trong mô hình nghiên cứu và áp dụng phương pháp đồng liên

kết và phân tích nhân quả dựa trên dữ liệu thời gian để nghiên cứu ở Mỹ

(1970-2003) và Đức (1971- 2004).

Kết quả cho thấy, có sự khác biệt giữa hai quốc gia. Ở Mỹ, trong dài

hạn, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm tăng đầu tư trong nước. Do những

công ty đa quốc gia thường kết hợp sản xuất trong nước và nước ngoài nhằm

mục đích giảm chi phí sản xuất, từ đó thúc đẩy sản lượng đầu ra và đầu tư ở

trong nước. Trong khi đó, ở Đức, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm tăng đầu

tư trong nước trong ngắn hạn nhưng làm giảm đầu tư trong nước trong dài

hạn. Tác giả cho rằng sự khác biệt giữa hai quốc gia này là do khác biệt về

nhân tố pháp lý.

 Ali Al- Sadig (2013): Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu

tư trong nước: trường hợp của những nước đang phát triển.

Trong khi những nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào những nước

phát triển thì Ali Al - Sadig (2013) thực hiện nghiên cứu dành cho những

nước đang phát triển. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng cho 121 nước trong

khoảng thời gian từ 1990 -2010, (trong đó phần lớn là những nước đang phát

triển).

Tác giả hồi quy biến đầu tư trong nước (DI) theo 8 biến giải thích gồm

có: dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (IFDI), dòng vốn đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài (OFDI), biến trễ của đầu tư trong nước (DIt-1), tổng tiết kiệm quốc

gia (Saving), lạm phát (INF), độ mở thương mại (Openess), tốc độ tăng

trường GDP thực (RGDP), phát triển tài chính (M2/Credit).

Đặc biệt, trong bài nghiên cứu tác giả đã xử lý vấn đề nội sinh của các

biến giải thích trong mô hình bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và phương pháp

12

ước lượng system GMM. Biến công cụ là các biến trễ, các biến trễ sai phân

của những biến nội sinh được đưa vào để ước lượng, giảm độ chệch của kết

quả.

Kết quả ước lượng cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm

đầu tư trong nước (tỷ lệ 1:0.29 trong ngắn hạn và 1: 0.73 trong dài hạn). Hơn

nữa, kết quả ước lượng còn được khẳng định bằng nhiều phép kiểm tra độ

vững của mô hình: loại những nước có nguồn dự trữ ngoại hối lớn ra khỏi

mẫu, thêm các nhân tố đo lường rủi ro quốc gia vào mô hình ước lượng, kiểm

định tính tuyến tính của mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và

đầu tư trong nước, kiểm định tác động của mức độ phát triển tài chính đến

mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư trong nước, thực

hiện ước lượng bằng các phương pháp khác.

Kết quả sau khi kiểm tra độ vững cho thấy, OFDI thực sự có tác động

làm giảm đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển.

Ngoài những nghiên cứu thực nghiệm sử dụng dữ liệu vĩ mô trên,

những nghiên cứu thực nghiệm dựa trên dữ liệu vi mô cũng có kết quả khác

 Lipsey và Steven (1992): Quan hệ giữa đầu tư trong nước và đầu

nhau.

tư nước ngoài.

Lipsey và Steven (1992) sử dụng dữ liệu của 7 công ty đa quốc gia ở

Mỹ trong khoảng thời gian 16 – 20 năm để nghiên cứu tác động của đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước thông qua kênh tác động tài

chính. Trong bài nghiên cứu, tác giả chia hoạt động đầu tư của mỗi công ty

thành hai phần: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; dựa theo đó tác giả

sẽ tiến hành thực hiện ước lượng cho từng công ty. Tức là sẽ có 14 phương

13

trình hồi quy cho 7 công ty, phân theo đầu tư trong nước và đầu tư nước

ngoài. Ngoài những biến cơ bản, tác giả sử dụng tỷ lệ nợ/ vốn cổ phần như là

một mối liên kết tài chính giữa hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước

ngoài.

Kết quả cho thấy, đầu tư ra nước ngoài và đầu tư trong nước của những

công ty đa quốc gia ở Mỹ thực sự có tương quan với nhau và là quan hệ cùng

chiều.

 Desai (2005): Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong

nước.

Tương tự, Desai (2005) cũng sử dụng dữ liệu thời gian của những công

ty đa quốc gia Mỹ trong giai đoạn những năm 1980, 1990. Đầu tiên, tác giả

hồi quy chi tiêu đầu tư trong nước theo chi tiêu đầu tư ra nước ngoài của các

công ty đa quốc gia Mỹ, sau đó tác giả thêm vào mô hình nghiên cứu hai biến

kiểm soát khác là tiết kiệm nội địa và chi tiêu đầu tư ở Mỹ của những công ty

nước ngoài.

Kết quả cuối cùng cho thấy, khi các công ty đa quốc gia Mỹ tăng chi

tiêu đầu tư ở nước ngoài thì chi tiêu đầu tư ở trong nước cũng sẽ tăng. Bên

cạnh đó, chi tiêu đầu tư trong nước còn chịu tác động nghịch chiều của chi

tiêu đầu tư ở Mỹ của các công ty nước ngoài, tác động cùng chiều của tiết

kiệm nội địa. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng, kết quả của bài nghiên cứu có

thể bị chệch do bỏ sót những biến quan trọng.

 Desai (2005): Đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động đầu

tư trong nước.

Trong bài nghiên cứu sau đó, Desai và các cộng sự (2005) đã giới hạn

14

mẫu dữ liệu, chỉ sử dụng mẫu nghiên cứu gồm các công ty thuộc lĩnh vực sản

xuất để hạn chế hiện tương phương sai thay đổi. Nhằm mục đích xử lý vấn đề

bỏ sót biến của bài nghiên cứu trước, tác giả sử dụng biến công cụ trong mô

hình nghiên cứu.

Theo tác giả biến công cụ phải thỏa điều kiện: có tương quan trực tiếp

với hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhưng chỉ có tương quan gián tiếp với

hoạt động đầu tư trong nước và không bị chi phối bởi những nhà đầu tư Mỹ.

Dựa theo yêu cầu đó, tác giả lựa chọn biến tốc độ tăng trưởng kinh tế của

quốc gia mà các công ty đa quốc gia Mỹ đầu tư vào làm biến công cụ cho mô

hình nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu vẫn khẳng định rằng, hoạt động đầu tư ra nước

ngoài của các công ty đa quốc gia Mỹ có tác dụng thúc đẩy hoạt động đầu tư

trong nước.

 John Mullen (2010): Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư

trong nước ở ngành sản xuất công nghiệp Mỹ tác động loại bỏ và thay

thế.

Sử dụng dữ liệu vi mô để nghiên cứu tác động đầu tư ra nước ngoài và

đầu tư trực tiếp vào trong nước đến đầu tư trong nước ở Mỹ còn có nhà

nghiên cứu John Mullen (2010). Ông sử dụng dữ liệu cấp độ ngành trong

khoảng thời gian 1997-2007.

Ông hồi quy biến phụ thuộc là vốn đầu tư trong nước theo các biến giải

thích: đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FKO), đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FKI), lợi nhuận (π), lao động (L), sản lượng đầu ra (Q) bằng phương pháp

OLS.

15

Tuy nhiên, khác với kết quả nghiên cứu của Desai (2005), kết quả hồi

quy của bài nghiên cứu này cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm

đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước gia tăng đầu tư

trong nước. Tác giả giải thích kết quả trên dựa vào những nguyên nhân sau.

Thứ nhất là do tác động thay thế xuất khẩu khi đầu tư ra nước ngoài của

những công ty đa quốc gia làm giảm hoạt động đầu tư trong nước. Thứ hai là

do chi phí sản xuất thấp ở nước ngoài khiến cho các công ty Mỹ xây dựng các

cơ sở sản xuất ở nước ngoài, giảm nhu cầu đầu tư trong nước.

 Hejazi và Pauly (2003): Động lực cho đầu tư trực tiếp nước

ngoài và đầu tư trong nước.

Hejazi và Pauly (2003) sử dụng dữ liệu cấp độ ngành của Canada trong

giai đoạn 1984 -1995 để kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước. Ông hồi quy biến đầu tư trong nước theo 10 biến

giải thích gồm có lợi nhuận, thuế thu nhập doanh nghiệp, giá cả đầu vào của

hàng hóa trung gian, chi phí lao động, lãi suất, vốn cổ phần năm trước, khấu

hao, chi phí R&D, FDI ngành, OFDI ngành.

Tác giả cho rằng, dữ liệu theo ngành sẽ linh hoạt hơn so với dữ liệu vĩ

mô. Hơn nữa, ông cũng liên kết tác động của OFDI đến đầu tư trong nước dựa

theo động cơ đầu tư của nhà đầu tư.

Kết quả bài nghiên cứu chỉ ra rằng, tác động của OFDI đến đầu tư

trong nước phụ thuộc vào đối tác đầu tư. Đối với đối tác Mỹ và Anh, động cơ

của nhà đầu tư Canada chủ yếu là tìm kiếm thị trường mới, do vậy OFDI sẽ

không làm thay đổi hoặc làm tăng đầu tư trong nước. Cụ thể hơn, khi nhà đầu

tư Canada đầu tư trực tiếp sang Mỹ thì sẽ làm tăng đầu tư trong nước; khi nhà

đầu tư Canada đầu tư trực tiếp sang Anh thì sẽ không làm thay đổi đầu tư

16

trong nước. Đối với những đối tác đầu tư khác, do động cơ đầu tư chủ yếu của

các nhà đầu tư Canada là tìm kiếm hiệu quả thị trường (khác biệt về giá cả các

yếu tố sản xuất) và những công ty thương mại ít đầu tư vào những nước này

nên nhìn chung đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có tác động làm giảm đầu tư

trong nước.

 Goedegebuure (2006): Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước.

Nhằm mục đích nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở nền kinh tế nhỏ, Goedegebuure (2006) thực hiện bài

nghiên cứu ở Hà Lan. Bởi vì quyết định đầu tư được thực hiện ở mỗi công ty,

do đó bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu vi mô, mẫu nghiên cứu gồm 23.807

công ty ở Hà Lan, thời gian nghiên cứu từ 1996-2000.

Điểm đặc biệt trong bài nghiên cứu này là, tác giả phân đầu tư trong

nước thành hai loại, đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển R&D và đầu

tư vào tài sản. Dựa theo đó hình thành nên hai lĩnh vực: những ngành chuyên

sâu về R&D và những ngành truyền thống. Trong bài nghiên cứu tác giả sẽ

nghiên cứu kỹ tác động của OFDI đến hoạt động đầu tư trong nước thuộc hai

lĩnh vực này.

Đối với những ngành thuộc lĩnh vực chuyên sâu về R&D, kết quả cho

thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tương quan dương với đầu tư trong nước

vào R&D, nhưng không tác động đến hoạt động đầu tư vào tài sản. Tác giả

cho rằng, trong lĩnh vực chuyên sâu về R&D, đầu từ vào R&D đóng vai trò

quan trọng trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh. Trong môi trường năng động

như hiện nay, đầu tư vào R&D chỉ có thể được đảm bảo nếu công ty mở rộng

thị trường ra nước ngoài và đặc điểm của lĩnh vực này đòi hỏi các công ty

17

phải trực tiếp kiểm soát hoạt động ở nước ngoài. Vì thế, hoạt động đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài sẽ hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư vào R&D ở cả trong

và ngoài nước.

Trong khi đó, một mặt, đầu tư trong nước vào tài sản có thể tăng tương

ứng với hoạt động đầu tư vào R&D. Mặt khác những công ty thuộc lĩnh vực

R&D hoạt động trong môi trường rất năng động, đòi hỏi họ phải chuyển dây

chuyền sản xuất sang những nước có chi phí (chi phí tiền lương) thấp hơn. Do

vậy, tổng hợp lại, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không tác động đến đầu tư

vào tài sản.

Đối với những ngành truyền thống, kết quả của bài nghiên cứu cho thấy

tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước vào R&D

và tài sản không rõ ràng.

Tóm lại, đã có khá nhiều nghiên cứu thực hiện để tìm hiểu tác động của

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước. Các tác giả đã sử dụng

nhiều loại dữ liệu khác nhau (dữ liệu thời gian, dữ liệu chéo, dữ liệu bảng), ở

nhiều cấp độ khác nhau (dữ liệu vĩ mô, dữ liệu ngành, dữ liệu công ty) và

nhiều phương pháp ước lượng khác nhau. Kết quả đạt được cũng có sự khác

biệt theo từng quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn các kết quả đặc biệt

là kết quả nghiên cứu dành cho những nước đang phát triển của Ali Al –

Sadig (2013) cho thấy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư trong

nước. Chính vì thế trong luận văn này, đối với những nước đang phát triển từ

2005 – 2012, tôi cũng kỳ vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư

trong nước.

18

Bảng 1: Tóm tắt những công trình nghiên cứu thực nghiệm trước

đây.

Tác giả Tổng quan nghiên cứu Kết quả nghiên cứu

Những bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu vĩ mô

Feldstein (1995) - 18 nước OECD trong OFDI có tác động nghịch

những năm 1980 và 15 nước chiều đối với đầu tư trong

OECD trong những năm 1990 nước.

- Dữ liệu chéo

Andersen và - Mỹ, Anh, Nhật Bản, OFDI có tác động nghịch

Hainaut (1998) Đức từ 1960 đến 1990 chiều đối với đầu tư trong

nước. - Dữ liệu thời gian cho

từng quốc gia nghiên cứu.

Desai và cộng - 20 nước OECD trong OFDI có tác động nghịch

sự (2005) khoảng những năm 1980 và chiều đối với đầu tư trong

26 nước OECD trong khoảng nước

những năm 1990.

- Phương pháp OLS.

Soo Khoon và - Malaysia OFDI có tác động nghịch

cộng sự (2012) chiều đối với đầu tư trong 1999-2010 -

nước Phương pháp ARDL -

Sauramo (2008) Phần Lan OFDI có tác động nghịch -

chiều đối với đầu tư trong 1965 – 2006 -

19

nước - Phương pháp VAR,

ECM.

Herzer và - Mỹ (1970-2003) và Đức - Ở Mỹ, trong dài

Schrooten (1971- 2004). hạn, đầu tư trực tiếp ra

(2007) nước ngoài làm tăng đầu - Phương pháp phân tích

tư trong nước. đồng liên kết và phân tích

nhân quả. - Ở Đức, đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài làm

tăng đầu tư trong nước

trong ngắn hạn nhưng làm

giảm đầu tư trong nước

trong dài hạn.

Ali Al- Sadig - 121 nước trên thế giới. OFDI có tác động nghịch

(2013) chiều đối với đầu tư trong - Phương pháp system

nước GMM.

Những bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu vi mô

Lipsey và - 7 công ty đa quốc OFDI có tác động dương đối

Steven (1992) gia ở Mỹ trong với đầu tư trong nước.

khoảng thời gian từ

16-20 năm.

Desai (2005 a) - Những công ty đa OFDI làm tăng đầu tư trong

quốc gia ở Mỹ trong nước.

những năm 1980,

1990.

20

Desai (2005b) - Những công ty đa OFDI làm tăng đầu tư trong

quốc gia ở Mỹ. nước

- Phương pháp sử

dụng biến công cụ.

John Mullen - Những công ty đa OFDI làm giảm đầu tư trong

(2010) quốc gia ở Mỹ từ nước

1997-2007

- Phương pháp OLS.

Hejazi và Pauly - Canada từ 1984 - Tác động của OFDI đến đầu

(2003) 1995. tư trong nước phụ thuộc vào

đối tác đầu tư - Phương pháp OLS.

Goedegebuure - 23.807 công ty ở Hà - Đối với những ngành

(2006) Lan chuyên sâu về R&D, OFDI

tương quan dương với đầu tư - Từ 1996-2000

trong nước vào R&D.

- Đối với những ngành

truyền thống, tác động của

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước vào

R&D và tài sản không rõ

ràng.

21

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

3.1. Mô hình nghiên cứu.

Dựa theo nghiên cứu của Ali Al-Sadig (2013), để nghiên cứu tác động

của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước trong ngắn và dài

hạn, tôi sử dụng mô hình điều chỉnh từng phần “ partial adjustment”.

Đầu tư kỳ vọng I* được thể hiện qua:

I* = x’i, tβ + u i, t (1)

với xi,t là điều kiện kinh tế của quốc gia đó.

ui,t là sai số ngẫu nhiên.

Bởi vì đầu tư kỳ vọng I* không quan sát được, nên mối quan hệ giữa

đầu tư kỳ vọng và đầu tư thực I được thể hiện bởi:

i, t - I i, t-1) (2)

I i, t – I i, t-1 = θ (I*

với I i, t-1 là độ trễ một năm của biến đầu tư thực I của quốc gia i

θ là tham số thuộc (0, 1] thể hiện tốc độ điều chỉnh của đầu tư kỳ vọng.

Phương trình (2) có thể viết lại như sau:

i, t (3)

Ii, t = (1- θ) I i, t-1 + θ I*

Kết hợp (1) và (3), ta có: I i, t = γ I i, t-1 + λ x’i, t + ε i, t (4)

với γ = (1-θ) và λ = θβ, εi, t = θ u i, t .

22

Như vậy, mô hình nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước có dạng mô hình động. Tác động trong ngắn hạn

của nhân tố xi đến Ii được thể hiện qua hệ số hồi quy của biến xi trong phương

trình (4), tức là λ.

Tác động trong dài hạn của nhân tố xi đến Ii được thể hiện qua hệ số hồi

quy của biến xi trong phương trình (1), tức là β. Mà β = λ/θ = λ /(1- γ).

Biến trễ của biến đầu tư trong nước DI t-1 được được xem như là dấu

hiệu tốt của môi trường đầu tư. Do vậy, biến này được đưa vào mô hình

nghiên cứu và có kỳ vọng tương quan dương với đầu tư trong nước.

Dựa vào những bài nghiên cứu thực nghiệm ở trên, tôi kỳ vọng hệ số

biến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài OFDI sẽ có giá trị âm, tức biến OFDI có

tương quan âm với đầu tư trong nước; hệ số của biến đầu tư trực tiếp nước

ngoài IFDI có giá trị dương, tức IFDI có tương quan dương với đầu tư trong

nước.

Ngoài ra, những biến kiểm soát khác cũng được đưa vào mô hình.

Agenor (2004) cho rằng tiết kiệm nội địa là nhân tố quan trọng đối với đầu tư

trong nước ở những nước mới nổi. Nghiên cứu thực nghiệm của Feldstein và

Horioka (1980) cho thấy tiết kiệm và đầu tư có mối tương quan dương mạnh,

tiết kiệm gia tăng làm tawng nguồn vốn phục vụ hoạt động đầu tư, từ đó thúc

đẩy hoạt động đầu tư trong nước. Kết quả nghiên cứu của những nhà nghiên

cứu khác khi nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu

tư trong nước (trình bày ở phần 2.2) cũng khẳng định điều đó. Dựa vào những

kết quả đó, tổng tiết kiệm quốc gia được đưa vào mô hình với kỳ vọng tương

quan dương với đầu tư trong nước.

23

Các tác giả Wai và Wong (1982), Blejer và Khan (1984), Greene và

Villanueva (1991) cho rằng tốc độ tăng trưởng GDP thực là động lực thúc đẩy

hoạt động đầu tư trong nước và đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho

thấy tăng trưởng GDP thực có tác động cùng chiều đến đầu tư ở những nước

đang phát triển. Do vậy, biến RGDP được đưa vào mô hình với kỳ vọng

tương quan dương với đầu tư trong nước.

Sự ổn định vĩ mô có vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư, nếu

nền kinh tế vĩ mô không ổn định sẽ có tác động nghịch chiều lên đầu tư trong

nước. Trong các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến đầu tư

tư nhân ở những nước đang phát triển, Greene và Villanueva (1991) và

Serven và Solimano (1993) sử dụng tỷ lệ lạm phát để đo lường độ bất ổn của

nền kinh tế vĩ mô và nhận thấy rằng lạm phát tác động nghịch chiều đến đầu

tư tư nhân. Do vậy, tôi cũng sử dụng biến lạm phát (INF) trong mô hình với

kỳ vọng tương quan âm với đầu tư trong nước.

Nghiên cứu thực nghiệm về phát triển tài chính và đầu tư trong nước

của Ndikumama (2003) cho thấy tác động tích cực của các nhân tố đo lường

phát triển tài chính đến đầu tư trong nước. Dựa vào kết quả đó, tôi sử dụng hai

nhân tố để đo lường phát triển tài chính là cung tiền mở rộng (M2) và tín

dụng nội địa dành cho khu vực tư nhân (Credit) làm biến kiểm soát cho mô

hình. Cả hai biến này đều có kỳ vọng tương quan dương với đầu tư trong

nước.

Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng độ mở thương mại là

nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong nước. Tuy nhiên, tác động của

nhân tố này lại không rõ ràng. Nghiên cứu của Balasubramanyam (1996) cho

kết quả độ mở thương mại có tương quan dương với đầu tư trong nước. Tuy

nhiên, trong nghiên cứu của Serven (2002), độ mở thương mại lại có tương

24

quan âm với đầu tư trong nước. Ndikumama (2000) cho rằng độ mở thương

mại có tác động tích cực đối với đầu tư trong nước thông qua truyền dẫn công

nghệ và tri thức, ngược lại tác động tiêu cực đối với đầu tư trong nước nếu

người dân trong nước ưa chuộng hàng nhập khẩu. Từ những kết quả nghiên

cứu trên, tôi đưa biến độ mở thương mại vào mô hình, nhưng chưa thể xác

định dấu của hệ số biến Openess.

Tóm lại, mô hình nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đến đầu tư trong nước có thể được viết như sau:

DI i, t = α0 + α1 DI i, t-1 + α2 OFDI i, t +α3 IFDIi, t + α4 savingi, t

+ α5 RGDPi, t + α6 INFi, t + α7 M2i, t + α8 openessi, t + εi,t (5)

(i= 1,2,… N: quốc gia; t = 1, 2, … T: thời kỳ; εi,t = ηi + vi,t: sai số ngẫu

nhiên)

Trong đó:

Bảng 2: Mô tả biến trong mô hình nghiên cứu

Biến Ý nghĩa Bài nghiên cứu sử dụng

DIi, t Đầu tư trong nước của quốc

gia i tại thời gian t.

Ali Al Sadig (2013) DIi, t-1 Đầu tư trong nước của quốc

gia i tại thời gian t -1.

25

Feldstein (1995). OFDIi, t Dòng vốn đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài của quốc gia i tại Andersen và Hainaut (1998) thời gian t.

Desai (2005 a,b)

Ali Al Sadig (2013)

Dòng vốn đầu tư trực tiếp Feldstein (1995). IFDIi, t

nước ngoài của quốc gia i tại Andersen và Hainaut(1998) thời gian t.

Desai (2005 a,b)

Ali Al Sadig (2013)

Agenor (2004) Savingi, t Tổng tiết kiệm quốc gia i tại

thời gian t Feldstein và Horioka (1980)

Feldstein (1995).

Desai (2005 a,b)

Ali Al Sadig (2013)

Wai và Wong (1982) RGDPi, t Tốc độ tăng trưởng của GDP

thực của quốc gia i tại thời Blejer và Khan (1984) gian t

Greene và Villanueva (1991)

26

Greene và Villanueva(1991) INFi, t Tỷ lệ lạm phát hàng năm của

quốc gia i tại thời gian t. Serven và Solimano (1993)

Ndikumama (2003) M2i, t Cung tiền mở rộng của quốc

gia i tại thời gian t.

Balasubramanyam (1996) Openess i,t Độ mở thương mại của quốc

gia i tại thời gian t. Serven (2002)

Ndikumama (2000)

3.2. Phương pháp nghiên cứu.

Trong luận văn của mình, để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển, tôi sử

dụng dữ liệu bảng và phương pháp System GMM của Arellano và Bover

(1995), Blundell và Bond (1998).

Trong mô hình nghiên cứu (phương trình 5) xuất hiện vài vấn đề như

sau:

- Biến trễ của biến phụ thuộc đóng vai trò là biến độc lập (DI t-1) trong

mô hình, nó có thể tương quan với nhân tố tác động cố định ηi trong sai số

ngẫu nhiên εi,t. Do vậy, biến DI t-1 được xem là biến độc lập nội sinh trong mô

hình nghiên cứu.

- Các biến OFDI, IFDI có khả năng là biến nội sinh. Trong bài nghiên

cứu của mình, Feldstein (1995) đã đưa ra quan điểm, nhận xét cho rằng các

27

biến OFDI, IFDI và DI có mối quan hệ tương hỗ hai chiều. Dòng vốn OFDI,

IFDI tác động đến đầu tư trong nước và ngược lại, OFDI, IFDI chịu tác động

của đầu tư trong nước.

Nói tóm lại, mô hình nghiên cứu đưa ra vi phạm một trong những giả

định quan trọng của phương pháp OLS: không có mối quan hệ tương quan

giữa biến giải thích và sai số ngẫu nhiên. Nếu sử dụng phương pháp ước

lượng OLS thông thường thì kết quả ước lượng sẽ bị chệch. Chính vì thế,

trong luận văn này tôi lựa chọn phương pháp GMM để nghiên cứu tác động

của OFDI đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển.

Theo phương pháp này, bộ biến công cụ thỏa mãn hai điều kiện: (1)

biến công cụ là những biến có tương quan với biến độc lập nội sinh, (2) biến

công cụ không có tương quan với sai số ngẫu nhiên sẽ được sử dụng để khắc

phục hiện tượng nội sinh.

Ngoài ra, mô hình sử dụng trong luận văn có sự tham gia của biến độc

lập DI t-1 là biến trễ của biến phụ thuộc nên còn được gọi là mô hình động.

Phương pháp GMM đối với mô hình động gồm có Difference GMM

(Arellano và Bond, 1991) và System GMM (Arellano và Bover, 1995);

(Blundell và Bond, 1998). Cả hai phương pháp này đều sử dụng biến trễ của

biến độc lập nội sinh là biến công cụ để đưa ra kết quả ước lượng tốt.

Đối với Difference GMM, phương trình (5) được lấy sai phân bậc nhất

để loại bỏ những nhân tố không đổi theo thời gian ra khỏi mô hình:

DI i, t = α0 + α1 DI i,t-1 + α2 OFDI i, t +α3 IFDIi, t + α4 saving i, t

+ α5 RGDP i, t + α6 INFi, t + α7 M2i, t + α8 openessi, t + εi,t

28

DI i, t-1= α0 + α1 DI t-2 + α2 OFDI i, t-1 +α3 IFDIi, t-1 + α4 savingi, t-1

+ α5 RGDPi, t-1+ α6 INFi, t-1 + α7 M2i, t-1 + α8 openessi,t-1 + εi,t-1

ΔDI i, t= α1Δ DI i, t-1 + α2ΔOFDIi, t +α3 ΔIFDIi, t + α4 Δsavingi, t

+Δα5 RGDPi, t + α6ΔINFi, t + α7ΔM2i, t + α8Δopenessi, t + Δvi, t (6)

Do Δεi, t = εi ,t - εi, t-1 = (ηi- ηi) + (vi, t - vi, t-1) = Δvi, t.

Biến công cụ được sử dụng là biến trễ của các biến độc lập nội sinh, ví

dụ DIi, t-2 là biến công cụ cho ΔDI i, t-1.

Tuy nhiên, theo Blundell và Bond (1998), nếu chỉ sử dụng các biến trễ

của các biến độc lập nội sinh làm biến công cụ thì kết quả vẫn có thể bị chệch,

mức độ tin cậy không cao.

Dựa trên nền tảng của phương pháp Difference GMM các nhà nghiên

cứu đã xây dựng phương pháp System GMM. Phương pháp này khắc phục

hạn chế của Difference GMM bằng cách kết hợp cả phương trình (5) và (6)

với giả định rằng không có tương quan giữa sai phân của các biến độc lập với

các nhân tố không đổi theo thời gian của mỗi quốc gia (ηi).

Khi đó, biến công cụ cho các biến nội sinh trong phương trình (5) là sai

phân biến trễ của các biến nội sinh (ví dụ ΔDI i, t-2 là biến trễ cho biến DI i, t-1);

biến công cụ cho các biến trong phương trình (6) là các biến trễ của các biến

nội sinh (ví dụ DI i, t-2 là biến công cụ cho ΔDI i, t-1).

Tóm lại, để xử lý tốt vấn đề tính nội sinh của các biến độc lập trong mô

hình tôi lựa chọn phương pháp System GMM.

29

Phương pháp System GMM gồm có ba kiểm định quan trọng:

Kiểm định tự tương quan bậc 1: kiểm tra giả định có hiện tượng tự

tương quan bậc 1 trong phương trình sai phân (phương trình 6).

Giả thuyết Ho1: không có tự tương quan bậc 1 trong phương trình sai

phân.

Nếu p-value < mức ý nghĩa (thường là 5%): bác bỏ giả thuyết Ho1, có

tương quan bậc 1 trong phương trình sai phân; phù hợp giả định, yêu cầu của

System GMM.

- Kiểm định tự tương quan bậc 2: kiểm tra giả định không có hiện tượng

tự tương quan bậc 2 trong phương trình sai phân.

Giả thuyết Ho2: không có tự tương quan bậc 2 trong phương trình sai

phân.

Nếu p-value > mức ý nghĩa (thường là 5%): chấp nhận giả thuyết Ho2,

không có tự tương quan bậc 2 trong phương trình sai phân; phù hợp với giả

định, yêu cầu của System GMM.

- Kiểm định Hansen J: kiểm tra độ tin cậy của biến công cụ được sử

dụng trong mô hình.

Giả thuyết Ho3: biến công cụ là phù hợp (biến công cụ không có tương

quan với sai số ngẫu nhiên).

Nếu p-value > mức ý nghĩa đã chọn (thường là 5%): chấp nhận giả

thuyết Ho3, biến công cụ không có tương quan với sai số ngẫu nhiên.

30

3.3. Dữ liệu nghiên cứu.

3.3.1. Mẫu nghiên cứu.

Luận văn sử dụng dữ liệu bảng của 40 nước đang phát triển trên thế

giới trong khoảng thời gian từ 2005 – 2012.

Cơ sở để tôi lựa chọn những nước trong mẫu nghiên cứu là: những

nước đang phát triển và có hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong

những năm gần đây.

Danh sách các nước trong mẫu nghiên cứu được thể hiện ở bảng dưới:

Bảng 3: Các nước trong mẫu nghiên cứu.

STT Tên nước STT Tên nước

1 Argentina 21 Lethoso

2 Bahamas 22 Malaysia

3 Bangladesh 23 Mexico

4 Benin 24 Mongolia

5 Brazil 25 Morroco

6 26 Campuchia Mozambique

31

7 27 Chile Namibia

8 28 Colombia Pakistan

9 29 Cộng hòa Congo Panama

10 30 Ai Cập Philipines

11 31 Dominica Saint Kitts và Nevis

12 32 Grenada Saint Lucia

13 Guatemala 33 Saint Vincent và the Grenadines

14 34 Honduras Senegal

15 35 Ấn Độ Singapore

16 36 Indonesia Thái Lan

17 37 Jamaica Tunisia

18 38 Jordan Thổ Nhĩ Kỳ

19 39 Keyna Uruguay

20 40 Lebanon Việt Nam

32

3.3.2. Nguồn dữ liệu.

Dữ liệu của các biến sử dụng trong luận văn được thu thập từ các

nguồn sau: World Bank, IMF, UNCTAD. Cụ thể như sau:

Bảng 4: Tên biến và nguồn dữ liệu.

Biến Tên biến Đơn vị tính Nguồn dữ liệu

DI Đầu tư trong nước % so với GDP World Bank‘s World

Developmet Indicators

M2 Cung tiền mở rộng % so với GDP World Bank‘s World

Developmet Indicators

Credit Tín dụng nội địa dành % với GDP. World Bank‘s World

cho khu vực tư nhân Developmet Indicators

INF Tỷ lệ lạm phát % thay đổi World Bank‘s World

trong chỉ số Developmet Indicators

tiêu dùng hàng

năm.

RGDP Tốc độ tăng trưởng % thay đổi của UNCTAD’s World

GDP thực. GDP thực Development Indicators

hàng năm.

33

OFDI Dòng vốn đầu tư trực % so với UNCTAD’s World

tiếp ra nước ngoài. GDP. Development Indicators

IFDI Dòng vốn đầu tư trực % so với UNCTAD’s World

tiếp vào trong nước GDP. Development Indicators

Openess Độ mở thương mại, % so với GDP UNCTAD’s World

gổm tổng xuất nhập Development Indicators

khẩu hàng hóa và dịch

vụ.

Saving Tổng tiết kiệm quốc % so với World Economic

gia. GDP. Outlook

34

4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.

4.1. Thống kê mô tả.

Trước tiên, bài nghiên cứu này sẽ trình bày thống kê dữ liệu của các

biến qua các năm, để thấy được tổng quan của nguồn dữ liệu.

Bảng 5: Mô tả dữ liệu.

Gía trị Giá trị Giá trị Giá trị Độ lệch

Biến lớn nhất nhỏ nhất trung bình trung vị chuẩn

63.4891 12.5222 25.4502 23.5670 7.5637 DI

OFDI 20.7778 -1.5491 1.2812 0.2667 2.8522

IFDI 55.0313 -.20876 7.3829 5.1972 7.2595

INF 46.2210 -1.6720 6.4885 5.48191 5.2062

SAVING 48.4150 -6.109 19.7181 18.2235 10.6539

RGDP 17.2619 -6.7885 4.5694 4.76801 3.47064

OPENESS 445.6204 21.955 100.8623 85.4465 64.9326

M2 247.8240 7.7803 72.8284 63.382 41.5610

Số liệu tính toán dựa trên mẫu gồm 40 nước đang phát triển trên thế giới

từ 2005-2012. Kết quả cho thấy dữ liệu phân phối không đều ở hai bên, chỉ

số trung bình và trung vị của các biến DI, IFDI, OFDI, Openess, M2 khá

chênh nhau.

35

Do đó, xét về tổng thể thì dữ liệu phân phối chưa chuẩn. Việc áp dụng

phương pháp OLS thuần túy có thể cho ra kết quả bị chệch và không vững

cho nên cần thiết phải sử dụng các phương pháp khác để khắc phục nhược

điểm này.

Tiếp theo tôi sẽ xem xét tương tác giữa các biến độc lập với lần lượt các

biến OFDI, IFDI, INF Saving, M2, Openess, RGDP để đưa ra những đánh giá

về số liệu của các biến này dựa trên nguồn dữ liệu đã thu thập.

Bảng 6: Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu.

DI

OFDI

IFDI

INF

saving M2

openess RGDP

DI

1.000

OFDI

-0.012 1.000

0.494

0.291

IFDI

1.000

-0.040

INF

-0.2204 -0.038 1.000

0.3079

-0.025

Saving 0.366

-0.069 1.000

0.324

0.3333 0.244

-0.325 0.223

M2

1.000

0.5921 0.404

-0.100 0.439

openess 0.146

0.384 1.000

0.150

0.117

0.193

0.300

-0.085 0.143

RGDP 0.149

1.000

36

Có thể nhận thấy các cặp biến trong mô hình đều có hệ số tương quan

thấp, đa phần đều nhỏ hơn 0.5 (trừ tương quan giữa Openess và OFDI là

0.5921). Do đó dữ liệu nghiên cứu ít có khả năng xuất hiện hiện tượng đa

cộng tuyến.

Theo đó, các biến được đưa vào mô hình có thể được xem là khá phù

hợp trong việc nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu

tư trong nước của các nước đang phát triển.

4.2. Kết quả nghiên cứu chính.

Dựa trên dữ liệu thu thập được từ 40 nước đang phát triển trên thế giới từ

2005-2012 và phương pháp system GMM, trong phần này tôi sẽ trình bày các

kết quả đạt được sau khi kiểm định hồi quy để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu

được đặt ra ở phần đầu luận văn: đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm

đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển hay không?

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm được trình bày ở bảng 7.

37

Bảng 7: Tác động ngắn hạn của Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến

đầu tư trong nước ở các nước đang phát triển 2005-2012, phương pháp

system GMM.

Kết quả cho thấy, hệ số hồi quy của biến OFDI âm (-0.99), có ý nghĩa

thống kê ở mức 10%, hay nói cách khác đầu tư trực tiếp ra nước ngoài OFDI

có tác động làm giảm đầu tư trong nước. Theo đó, 1% gia tăng trong OFDI

làm giảm 0.99% đầu tư trong nước (trong điều kiện các yếu tố khác không

đổi).

Kết quả này phù hợp với quan điểm của các nhà nghiên cứu Steven và

Lipsey (1992), trong điều kiện thị trường vốn không hoàn hảo, nguồn vốn đầu

tư bị giới hạn, nếu nhà đầu tư trong nước đầu tư ra nước ngoài nhiều sẽ làm

giảm lượng vốn để thực hiện các dự án đầu tư trong nước. Ngoài ra, kết quả

38

đưa ra cũng tương đồng với kỳ vọng ban đầu của luận văn cũng như kết quả

nghiên cứu thực nghiệm của Feldstein (1995), Desai (2005), Andersen và

Hainaut (1998), Al Sadig (2013).

Biến IFDI có hệ số hồi quy dương, có ý nghĩa ở mức 5%, hàm ý rằng

đầu tư trực tiếp vào trong nước có tác động tích cực đến đầu tư trong nước.

Cụ thể, 1% gia tăng trong IFDI làm tăng 0.44% đầu tư trong nước (trong điều

kiện các yếu tố khác không đổi).

Điều này có thể giải thích do: hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở

một quốc gia diễn ra mạnh mẽ thì nhu cầu về những sản phẩm công nghiệp

phụ trợ phục vụ cho hoạt động sản xuất của những doanh nghiệp FDI sẽ gia

tăng. Từ đó, kích thích sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ trong

nước, thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước.

Kết quả này cũng phù hợp với kỳ vọng ban đầu của luận văn và kết quả

nghiên cứu thực nghiệm của nhiều nhà nghiên cứu trước đây như Feldstein

(1995), Desai (2005), Andersen và Hainaut (1998), Al Sadig (2013).

Kết quả từ bảng 7 cũng cho thấy đầu tư trong nước chịu tác động của

các nhân tố khác. Hệ số hồi quy của biến DIt-1 dương (0.48), có ý nghĩa thống

kê ở mức ý nghĩa 1%; tức là 1% gia tăng trong đầu tư trong năm trước sẽ dẫn

đến gia tăng 0.48% trong đầu tư năm nay (trong điều kiện các yếu tố khác

không đổi). Như vậy, đầu tư trong nước của năm trước thực sự là dấu hiệu tốt

cho đầu tư hiện tại, tương tự như kết quả nghiên cứu của Al Sadig (2013).

Đầu tư trong nước còn chịu tác động của nhân tố tổng tiết kiệm quốc

gia. Hệ số hồi quy của biến Saving dương (0.311), có ý nghĩa ở mức 5% cho

thấy tổng tiết kiệm quốc gia có tương quan cùng chiều với đầu tư trong nước.

39

1% gia tăng trong tổng tiết kiệm quốc gia dẫn đến 0.311% gia tăng trong đầu

tư trong nước (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).

Kết quả đưa ra hàm ý rằng tổng tiết kiệm là nguồn vốn đầu tư quan

trọng của một quốc gia. Quốc gia nào có nguồn tiết kiệm càng nhiều, thì sẽ bổ

sung tốt cho nguồn vốn đầu tư, do vậy khả năng thực hiện những dự án đầu tư

trong nước càng cao. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu thực

nghiệm của nhiều nhà nghiên cứu trước đây như Feldstein (1995), Desai

(2005), Al Sadig (2013).

Hệ số hồi quy của biến RGDP dương (0.3), có ý nghĩa thống kê ở mức

ý nghĩa 10% cũng hàm ý tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tương quan dương

với đầu tư trong nước. 1% gia tăng trong tốc độ tăng trưởng kinh tế thực dẫn

đến đầu tư trong nước tăng 0.3% (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).

Kết quả trên cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của Blejer và Khan

(1984), Greene và Villanueva (1991), tốc độ tăng trưởng kinh tế thực là động

lực tốt đối với đầu tư trong nước.

Nhân tố phát triển tài chính được đo lường bằng biến M2 có hệ số hồi

quy dương (0.046), có ý nghĩa thống kê cho thấy phát triển tài chính đóng vai

trò tích cực đối với đầu tư trong nước. 1% gia tăng trong cung tiền mở rộng

M2 dẫn đến 0.046% gia tăng trong đầu tư trong nước (trong điều kiện các yếu

tố khác không đổi).

Như vậy một quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, nguồn vốn huy

động được sẽ dồi dào hơn, và chi phí rẻ hơn, bên cạnh đó vốn được phân bổ

một cách hiệu quả hơn. Nhờ đó, nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn

để mở rộng hoạt động đầu tư trong nước hơn. Kết quả này giống với kết quả

nghiên cứu Ndikumama (2003) đã đưa ra.

40

Tuy nhiên, kết quả hồi quy trong bảng 7 cũng cho thấy rằng, hệ số hồi

quy của hai biến độ mở thương mại (Openess) và lạm phát (INF) không có ý

nghĩa thống kê. Nghĩa là đối với mẫu dữ liệu được sử dụng trong luận văn

này, hai nhân tố độ mở thương mại (Openess) và lạm phát (INF) không có tác

động đến đầu tư trong nước.

Tóm lại, kết quả hồi quy đạt được có sự tương đồng với kết quả của

những bài nghiên cứu thực nghiệm trước đó. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

có tác động nghịch chiều đối với đầu tư trong nước. Tuy nhiên, đầu tư trong

nước lại chịu tác động tích cực của những nhân tố: đầu tư trực tiếp nước

ngoài, đầu tư trong nước năm trước, phát triển tài chính hay tổng tiết kiệm

quốc gia. Do vậy, chúng ta có thể hạn chế tác động của đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài, thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước bằng cách thực hiện những

biện pháp, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao mức

tổng tiết kiệm trong nước để bổ sung nguồn vốn đầu tư hay phát triển thị

1

trường tài chính giúp những nhà đầu tư tiếp cận với nguồn vốn tốt hơn.

Kiểm định Hansen có p-value =0.138 > 0.05, do vậy giả thuyết Ho3

được chấp nhận, không tồn tại mối quan hệ tương quan giữa biến công cụ và

sai số ngẫu nhiên trong mô hình nghiên cứu hay các biến công cụ sử dụng

trong mô hình là phù hợp.

Hệ số p-value của kiểm định tự tương quan bậc 1 là 0.018 (< 0.05), có

thể bác bỏ giả thuyết Ho1, tức là có hiện tượng tự tương quan bậc 1 trong

phương trình sai phân (phương trình 6), phù hợp với giả định của phương

1 Gỉa thuyết Ho1, Ho2, Ho3 được trình bày ở phần kiểm định phương pháp system GMM (phần 3.2).

pháp System GMM.

41

Hệ số p-value của kiểm định tự tương quan bậc 2 là 0.232 (> 0.05),

chấp nhận giả thuyết Ho2, tức là không có hiện tượng tự tương quan bậc 2

trong phương trình sai phân (phương trình 6), phù hợp với giả định của

phương pháp System GMM.

Tóm lại, kiểm định Hansen, kiểm định tự tương quan bậc 1, tự tương

quan bậc 2 đều cho kết quả phù hợp với giả định, yêu cầu của phương pháp

System GMM. Hay nói cách khác, kết quả ước lượng trình bày trong bảng 7

là đáng tin cậy.

Như đã trình bày ở phần 3.1, nhân tố phát triển thị trường được đo

lường bằng 2 chỉ số, cung tiền M2 và tín dụng nội địa dành cho khu vực tư

nhân (Credit). Do vậy, trong phần tiếp theo, tôi sẽ thực hiện hồi quy khi thay

thế biến M2 bằng biến tín dụng nội địa dành cho khu vực tư nhân (Credit) để

xem xét khi sử dụng chỉ số khác để đo lường nhân tố phát triển tài chính, kết

quả ước lượng có thay đổi hay không.

Kết quả ước lượng mới được trình bày ở bảng 8 dưới đây:

42

Bảng 8: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư

trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp system GMM.

(nhân tố phát triển thị trường được đo lường bằng biến Credit thay vì

M2)

Hệ số hồi quy của biến OFDI vẫn âm (-1.431), có ý nghĩa thống kê ở

mức 5%. Kết quả này cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn có tác động

nghịch chiều đến đầu tư trong nước và mức độ tác động mạnh hơn khi thay

thế biến Credit cho biến M2.

Hệ số hồi quy của biến IFDI dương (0.39), có ý nghĩa ở mức 5%, tức

đầu tư trực tiếp vào trong nước có tương quan dương với đầu tư trong nước.

Biến Credit có hệ số hồi quy dương (0.095), có ý nghĩa ở mức 1% cho thấy

khi sử dụng biến Credit để đo lường thì phát triển tài chính vẫn đóng vai trò

43

tích cực đối với đầu tư trong nước. Hơn nữa, mức độ tác động của nhân tố

phát triển tài chính đến đầu tư trong nước mạnh hơn khi sử dùng biến M2 để

đo lường phát triển tài chính.

Ngoài ra, các biến DI t-1, Saving, RGDP đều có hệ số hồi quy dương có

ý nghĩa thống kê ở mức 1%, điều này cho thấy đầu tư trong nước vẫn chịu tác

động cùng chiều của các nhân tố này.

Hệ số hồi quy của các biến Openess và INF vẫn không có ý nghĩa

thống kê, tức là hai nhân tố độ mở thương mại và lạm phát vẫn không tác

động đến đầu tư trong nước.

Tóm lại, khi thay thế biến M2 bằng biến Credit, kết quả vẫn không thay

đổi nhiều. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có tác động nghịch chiều đến đầu tư

trong nước. Bên cạnh đó, đầu tư trong nước vẫn chịu tác động cùng chiều của

các nhân tố khác như đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đầu tư trong nước năm

trước, tổng tiết kiệm quốc gia, tốc độ tăng trưởng GDP thực, phát triển tài

chính.

Tác động dài hạn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong

nước được ước lượng dựa vào tác động trong ngắn hạn của đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài và của biến trễ DIt-1. Kết quả được trình bày trong bảng 9.

Bảng 9: Tác động trong dài hạn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở các nước đang phát triển 2005-2012.

Biến giải thích Hệ số hồi quy t- statistic

OFDI -1.91611*** -1.96

44

Hệ số hồi quy của OFDI âm, có ý nghĩa ở mức 10% cho thấy trong dài

hạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư trong nước. Cụ thể, 1%

gia tăng trong OFDI làm giảm 1.91% đầu tư trong nước.

4.3. Kết quả các kiểm định độ vững mô hình.

Để kiểm định lại độ vững của kết quả kiểm định tác động của đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước, tôi thực hiện thêm các kiểm

định độ vững sau:

 Loại những nước có nguồn dự trữ ngoại hối lớn ra khỏi mẫu

nghiên cứu

Dựa theo nghiên cứu của Ali Al Sadig (2013), trong mẫu nghiên cứu

được sử dụng, nếu có những nước xuất khẩu dầu mỏ là những nước có nguồn

dự trữ ngoại hối lớn thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Đối với những

nước này, hoạt động đầu tư ra nước ngoài không những chịu tác động của

những nhân tố kinh tế còn chịu ảnh hưởng bởi nhân tố chính sách.

Do vậy, để kiểm tra xem kết quả nghiên cứu đạt được ở phần 4.2 có

chịu ảnh hưởng của những nước xuất khẩu dầu mỏ hay không, tôi loại bỏ

những nước này ra khỏi mẫu nghiên cứu và tiến hành ước lượng lại.

Bảng 10 trình bày kết quả ước lượng sau khi loại bỏ các nước xuất

2 Indonesia thuộc hiệp hội những nước xuất khẩu dầu lửa OPEC. Colombia là nước có tỷ trọng xuất khẩu

dầu mỏ/ tổng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ khoảng hơn 20%. (Theo bài nghiên cứu của Karm Ismail, tác giả

chọn những nước xuất khẩu dầu là những nước có tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ/ tổng xuất khẩu hơn 20%)

khẩu dầu mỏ gồm: Colombia, Indonesia2.

45

Bảng 10: Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư

trong nước ở những nước đang phát triển sau khi loại bỏ những nước có

nguồn dự trữ ngoại hối lớn.

Hệ số hồi quy của biến OFDI âm (-0.7626), có ý nghĩa thống kê ở mức

10%. Kết quả này cho thấy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn tác động

nghịch chiều đến đầu tư trong nước, tương tự như kết quả nghiên cứu đạt

được ở phần 4.2.

Như vậy, sau khi loại bỏ những nước xuất khẩu dầu có nguồn dự trữ

ngoại hối lớn ra khỏi mẫu nghiên cứu, kết quả đưa ra vẫn không thay đổi

nhiều. Hay nói cách khác, kết quả đạt được là đáng tin cậy.

46

 Kiểm định tính phi tuyến

Nhằm mục đích xem xét tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước là tác động tuyến tính hay tác động phi tuyến, trong

phần này tôi sẽ thực hiện kiểm định tính phi tuyến.

Phương pháp thực hiện kiểm định tính phi tuyến được sử dụng trong

luận văn: đưa thêm biến bình phương của OFDI vào mô hình nghiên cứu. Nếu hệ số hồi quy của biến OFDI2 dương, có ý nghĩa thống kê thì tác động của đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước có dạng chữ U. Nếu hệ số hồi quy của biến OFDI2 âm, có ý nghĩa thống kê thì tác động của đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài đến đầu tư trong nước có dạng chữ U ngược. Còn nếu như hệ số hồi quy của biến OFDI2 không có ý nghĩa thống kê thì tác động của OFDI

đến đầu tư trong nước là tác động tuyến tính.

Kết quả hồi quy kiểm định tính phi tuyến được trình bày ở bảng 11.

47

Bảng 11: Kiểm định quan hệ tuyến tính giữa OFDI và đầu tư trong

nước.

Kết quả hồi quy cho thấy hệ số hồi quy của biến OFDI2 dương, không

có ý nghĩa thống kê, tức là không tồn tại quan hệ phi tuyến giữa OFDI và đầu

tư trong nước.

 Kiểm định tác động của mức độ phát triển tài chính đến mối quan

hệ của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước:

Để kiểm định xem tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu

tư trong nước có phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính hay không, tôi đưa

48

thêm vào mô hình hồi quy biến mới, là biến tương tác của hai biến OFDI và

M2.

Kết quả hồi quy của kiểm định này được trình bày ở bảng 12.

Bảng 12: Kiểm định tác động của mức độ phát triển tài chính đến

mối quan hệ của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài OFDI đến đầu tư trong

nước.

49

Biến OFDI *M2 có hệ số hồi quy âm, không có ý nghĩa thống kê. Kết

quả này cho thấy tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong

nước không phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của nước đó. Hay nói

cách khác, dù cho phát triển tài chính ở mức độ cao hay thấp thì mức độ tác

động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước vẫn không thay

đổi.

 Kiểm định tác động của OFDI đến đầu tư trong nước bằng các

phương pháp ước lượng khác:

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là System GMM

và kết quả hồi quy cho thấy rằng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có tác động

nghịch chiều đối với đầu tư trong nước. Để khẳng định lại kết quả này, dựa

theo nghiên cứu của Ali Al Sadig (2013), tôi thực hiện kiểm định lại bằng

những phương pháp khác: phương pháp OLS gộp (Pooled OLS), phương

pháp tác động cố định (Fixed effect)/ tác động ngẫu nhiên (random effect) và

phương pháp Difference GMM. Nếu kết quả kiểm định thực hiện bằng các

phương pháp khác cũng tương tự như kết quả của phương pháp system GMM

thì có thêm cơ sở để khẳng định rằng kết quả nghiên cứu đạt được ở phần 4.2

là đáng tin cậy.

Đầu tiên, phương pháp Pooled OLS được sử dụng. Phương pháp này

đòi hỏi phải thỏa mãn các giả định: biến giải thích là biến phi ngẫu nhiên, kỳ

vọng của các yếu tố ngẫu nhiên bằng 0, các yếu tố ngẫu nhiên có phương sai

bằng nhau, không có sự tương quan giữa các yếu tố ngẫu nhiên, biến giải

thích và yếu tố ngẫu nhiên không có tương quan với nhau. Nếu một trong

những giả đinh này không được thỏa mãn, kết quả ước lượng sẽ bị chệch. Kết

quả ước lượng bằng phương pháp Pooled OLS được trình bày trong bảng 13.

50

Bảng 13: kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp

Pooled OLS

Bảng kết quả hồi quy cho thấy hệ số R2 đạt được khá cao (83.88%), hệ

số hồi quy của biến OFDI âm (-0.243), có ý nghĩa ở mức 1%. Nghĩa là, kết

quả nghiên cứu của phương pháp Pooled OLS tương đồng với kết quả nghiên

cứu của phương pháp System GMM, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm

đầu tư trong nước.

Thứ hai, tôi sử dụng phương pháp tác động cố định/ tác động ngẫu

nhiên để xem xét tác động của sự khác biệt của mỗi quốc gia đến kết quả

nghiên cứu.

51

Phương pháp tác động cố định: mỗi đơn vị chéo (mỗi quốc gia) đều có

những đặc điểm riêng biệt có thể tác động đến các biến độc lập trong mô hình

nghiên cứu. Giữa sai số ngẫu nhiên (có chứa những đặc điểm riêng biệt này)

và các biến độc lập trong mô hình có tồn tại mối quan hệ tương quan. Phương

pháp tác động cố định có thể kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm

riêng biệt này ra khỏi các biến độc lập để chúng ta có thể ước lượng những

ảnh hưởng thực của các biến độc lập lên biến phụ thuộc.

Phương pháp tác động ngẫu nhiên: những đặc điểm riêng biệt của mỗi

đơn vị chéo được giả sử là ngẫu nhiên và không tương quan với các biến độc

lập trong mô hình nghiên cứu. Hệ số chặn của mỗi đơn vị chéo là một hệ số

chặn chung cộng thêm giá trị ngẫu nhiên của đơn vị chéo - giá trị này khác

nhau đối với từng đơn vị chéo nhưng không đổi theo thời gian.

Để xác định ước lượng theo phương pháp tác động cố định hay tác

động ngẫu nhiên, tôi thực hiện kiểm định Hausman với giả thuyết Ho: tác

động cá biệt của mỗi đơn vị chéo không gian không có tương quan với các

biến hồi quy khác trong mô hình.

Nếu giả thuyết Ho được chấp nhận, phương pháp tác động ngẫu nhiên

phù hợp hơn phương pháp tác động cố định.

Bảng 14 trình bày kết quả kiểm định Hausman.

Bảng 14: Kiểm định hausman

52

Kết quả kiểm định Hausman có χ2(8) = 147.8, P-value = 0.000, do

vậy giả thuyết Ho có thể bị bác bỏ, phương pháp tác động cố định phù hợp

hơn phương pháp tác động ngẫu nhiên.

Kết quả hồi quy bằng phương pháp tác động cố định được trình bày ở

bảng 15.

Bảng 15: kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp tác

động cố định.

Kết quả cho thấy, hệ số hồi quy của OFDI vẫn âm (-0.279), có ý nghĩa

thống kê ở mức 5%. Như vậy, sử dụng phương pháp tác động cố định, tác

động nghịch chiều của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước

vẫn không thay đổi.

53

Cuối cùng, tôi khẳng định kết quả nghiên cứu bằng phương pháp

Difference GMM. Khác với hai phương pháp trên, Difference GMM có thể

xử lý tốt hơn vấn đề tính nội sinh của các biến giải thích, cũng như phù hợp

cho dạng mô hình động. Do vậy, đây là phương pháp tương đối phù hợp với

để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với đầu tư trong

nước ở những nước đang phát triển. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần 3.2,

phương pháp difference GMM dựa trên phương trình sai phân của phương

trình gốc, và biến công cụ là những biến trễ của những biến độc lập nội sinh

không có độ mạnh cao, đặc biệt là đối với những biến ngẫu nhiên hoặc tương

đối ngẫu nhiên. Kết quả hồi quy được trình bày trong bảng 16.

Bảng 16: kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

đến đầu tư trong nước ở những nước đang phát triển, phương pháp

Difference GMM

54

Kết quả kiểm định cho thấy hệ số hồi quy của biến OFDI âm (-0.422),

có ý nghĩa ở mức 5%, hay đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm giảm đầu tư

trong nước. Như vậy, tác động nghịch chiều của đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài đối với đầu tư trong nước vẫn không thay đổi khi thực hiện hồi quy

bằng phương pháp Difference GMM.

Tóm lại, khi sử dụng các phương pháp hồi quy khác để ước lượng tác

động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước kết quả đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài có tác động nghịch chiều đến đầu tư trong nước vẫn

được giữ nguyên. Hay nói cách khác, kết quả hồi quy đạt được bằng phương

pháp System GMM là kết quả tương đối vững, ổn định, có độ tin cậy.

55

KẾT LUẬN.

Về mặt lý thuyết, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể tác động đến đầu

tư trong nước thông qua hai kênh: thị trường tài chính và thị trường sản xuất.

Trong điều kiện thị trường vốn không hoàn hảo, nguồn vốn khan hiếm, đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài sẽ làm giảm nguồn vốn đầu tư trong nước. Bên cạnh

đó, các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vì nhiều

động cơ: tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả sản xuất, tìm kiếm tài

nguyên thiên nhiên và tìm kiếm tài sản chiến lược. Tùy theo từng động cơ,

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể làm tăng, giảm hoặc không đổi đầu tư

trong nước.

Luận văn đã sử dụng mẫu dữ liệu của 40 quốc gia đang phát triển trên

thế giới từ 2005-2012 để tiến hành kiểm định thực nghiệm tác động của đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài đến đầu tư trong nước. Nhằm mục đích đưa ra kết

quả tốt, đáng tin cậy, tính nội sinh của các biến giải thích trong mô hình

nghiên cứu được xử lý bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và phương pháp ước

lượng system GMM. Ngoài ra, các kiểm định độ nhạy cũng được thêm vào để

khẳng định kết quả nghiên cứu.

Tương tự như những bài nghiên cứu trước đây, kết quả đạt được cho

thấy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có tác động nghịch chiều đến đầu tư trong

nước cả trong ngắn và dài hạn. Điều này phù hợp với quan điểm của Steven

và Lipsey (1992), thông qua kênh thị trường tài chính, đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài làm giảm đầu tư trong nước. Ngoài ra, kết quả bài nghiên cứu cũng

khẳng định các nhân tố IFDI, tiết kiệm có tác động cùng chiều với đầu tư

trong nước. Như vậy, để giảm tác động nghịch chiều của đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài đến đầu tư trong nước, chúng ta có thể đưa ra những biện pháp,

56

chính sách nhằm gia tăng vốn đầu tư trực tiếp vào trong nước hay tổng tiết

kiệm quốc gia.

Luận văn nghiên cứu cho các nước đang phát triển trên thế giới, tuy

nhiên do hạn chế về mặt dữ liệu nên tôi chỉ thu thập dữ liệu cho 40 quốc gia

trong khoảng thời gian 8 năm từ 2005-2012. Mẫu nghiên cứu này vẫn còn

tương đối nhỏ, do vậy, những bài nghiên cứu sau về tác động của OFDI đến

đầu tư trong nước có thể mở rộng mẫu nghiên cứu để đưa ra kết quả tốt hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Agenor, P., 2004. The Economics of Adjustment and Growth. Second

edition, Harvard University Press.

2. Al-Sadig, 2013. Outward Foreign Direct Investment and Domestic

Investment: the Case of Developing countries. IMF working paper, No

13/52.

3. Andersen, P.S. and P. Hainaut, 1998. Foreign Direct Investment and

Employment in the Industrial Countries. BIS Working Papers No. 61.

Basle: Bank for International Settlements.

4. Arellano, M. and O. Bover, 1995. Another Look at the Instrumental

Variable Estimation of Error-Components Models. Journal of

Econometrics, 68: pp. 29–52.

5. Arellano, M. and S. Bond, 1991. Some Tests of Specification for Panel

Data: Monte Carlo Evidence and an Application to Employment

Equation. The Review of Economic Studies, 58(2): pp. 277–297.

6. Balasubramanyam, V., Salisu, M. and D. Sapsford, 1996. Foreign direct

Investment and Growth in EP and IS countries. Economic Journal 106,

pp. 92-105

7. Baltagi, B., 2005. Econometric Analysis of Panel Data. 3rd edition

Hoboken, NJ: Wiley.

8. Blejer, M., and M. Khan, 1984. Government Policy and Private

Investment in Developing Countries. IMF Staff Papers, 31(2): pp.379–

403.

9. Blundell, R. and S. Bond, 1998. Initial Conditions and Moment

Restrictions in Dynamic Panel Data Models. Journal of Econometrics,

87: pp. 115–143.

10. Cheng Hsiao, 2006. Panel Data Analysis - Advantages and Challenges.

Wise Working Paper Series, No 0602.

11. David Roodman, 2006. How to Do xtabond2: An Introduction to

“Difference” and “System” GMM in Stata. The Center for Global

Development, working paper no 103.

12. Desai, M.A., C. F. Foley, and J. R. Hines, Jr., 2005. Foreign Direct

Investment and the Domestic Capital Stock. American Economic Review.

13. Desai, M.A., C. F. Foley, and J. R. Hines, Jr., 2005. Foreign Direct

Investment and Domestic Economic Activity. National Bureau of

Economic Research

14. Dunning, J., 1993. Multinational Enterprises and the Global Econom.

Workingham, UK: Adison Wesley Publishing Company.

15. Feldstein, M., 1995. The Effects of Outbound Foreign Direct Investment

on the Domestic Capital Stock. In: Feldstein, M., J.R. Hines Jr., and R.G.

Hubbard (eds.). The Effects of Taxation on Multinational Corporations.

16. Feldstein, M., and C. Horioka, 1980. Domestic Savings and International

Capital flows. Economic Journal.

17. Goedegebuure, 2006. The Effects of Outward Foreign Direct Investment

on Domestic Investment. Investment Management and Financial

Innovations, Vol 3.

18. Greene, J., and D. Villanueva, 1991. Private Investment in Developing

Countries. IMF Staff Papers, 38(1): pp. 33–58. Washington:

International Monetary Fund.

19. Hejazi, W., and P. Pauly, 2003. Motivations for FDI and Domestic

Capital Formation, Journal of International Business Studies.

20. Herzer, D., and M. Schrooten, 2007. Outward FDI and Domestic

Investment. DIW Discussion Paper 679.

21. Herzer, D, 2008. The Long-Run Relationship between Outward FDI and

Total Factor Productivity: Evidence for Developing Countries. German

Development Economics Conference, Berlin 2011, conference paper No

41.

22. International Monetary Fund, 2013. World Economic Outlook database.

23. John K. Mullen, 2010. FDI and Domestic Capital Stock in US

Manufacturing Industries: Crowding-Out and Displacement Effects.

Department of Economics National University of Ireland, Galway.

24. Kareem Islam, 2010. The Structural Manifestation of the `Dutch

Disease’: The Case of Oil Exporting Countries. IMF Working paper No

10/103.

25. Ndikumana, L., 2000. Financial Determinants of Domestic Investment

in Sub-Saharan Africa: Evidence from Panel Data. World

Development, 28(2): pp. 381–400.

26. Ndikumana, 2003. Financial Development, Financial Structure, and

Domestic Investment: International Evidence. University of

Massachusetts – Amherst.

27. Sauramo, P., 2008. Does Outward Foreign Direct Investment Reduce

Domestic Investment? Macro-evidence from Finland. Labour Institute

for Economic Research, Discussion Papers No. 239.

28. Serven, L, 2003. Real exchange rate uncertainty and private investment

in developing countries. Review of Economics and Statistics, 85 (1), pp.

212-218.

29. Servén, L., and A. Solimano, 1993. Debt Crisis, Adjustment Policies and

Capital Formation in Developing Countries: Where Do We Stand?.

World Development, 21(1): pp. 127–140.

30. Soo Khoon, Goh, Koi Nyen, Wong, 2012. Outward FDI and Domestic

Investment, Centre for Policy Research and International Studies,

Universiti Sains Malaysia, and Business School, Sunway University,

Malaysia.

31. Stevens, G.V.G. and Lipsey, R.E, 1992. Interactions between Domestic

and Foreign Investment. Journal of International Money and Finance

11.

32. The World Bank Groups, 2013. World Development Indicators.

33. UNCTAD, 2013. World Investment Report.

34. Wai, T.U. and C.H. Wong, 1982. Determinants of Private Investment in

Developing Countries. Journal of Development Studies.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Mô tả dữ liệu.

Phụ lục 2: Bảng ma trận tương quan