BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHÚ CƯỜNG
THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI
CỤC HẢI QUAN LONG AN
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã Số:60.34.04.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS - TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHÚ CƯỜNG
THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI
CỤC HẢI QUAN LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Tính mới của đề tài 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
7. Kết cấu luận văn 4
CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU 5
1.1. Khái quát về thu thuế nhập khẩu. 5
1.1.1. Khái quát chung 5
1.1.2 Đặc điểm của thuế nhập khẩu 8
1.1.3. Phân loại thuế nhập khẩu 9
1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 12
12 1.2.1. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước
13 1.2.2. Bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước
14 1.2.3. Kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập khẩu
14 1.2.4. Góp phần định hướng người tiêu dùng
15 1.2.5. Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước
1.3. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống
15 thất thu thuế nhập khẩu.
15 1.3.1. Khái niệm về thất thu thuế nhập khẩu
1
16 1.3.2. Phân loại thất thu thuế nhập khẩu
1.4. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu một số nước trên thế giới 19
1.4.1. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế của Thụy Điển, Italia:
Kinh nghiệm, bài học cho Việt Nam. 19
1.4.2. Tại Philippine 27
1.4.3. Tại New Zealand 27
1.4.4. Tại Malaysia 28
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LONG AN. 31
2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của
Cục Hải quan tỉnh Long An. 31
2.1.1. Vị trí và chức năng 31
2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn 31
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Long An 31
2.2. Tình hình thu thuế, công tác chống thất thu thuế nhập khẩu
của Cục Hải quan Long An giai đoạn 2010 – 2014. 32
2.2.1. Tình hình thu thuế nhập khẩu 32
2.2.2. Tình hình nợ động và thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu 36
2.2.3. Tình hình hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuế nhập khẩu 37
2.3. Tình hình chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An 39
2.3.1. Đánh giá chung 39
2.3.2. Biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu đã triển khai 41
2.3.3 Một số tồn tại 42
2.4. Thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục HQLA 43
2.4.1. Gian lận thuế trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất
hàng hóa NK 43
2.4.2. Gian lận thuế trong việc xác định trị giá hải quan 44
2.4.3. Lợi dụng chính sách ân hạn thuế, miễn thuế hàng NK 47
2
2.4.4. Gian lận định mức 48
2.4.5. Thất thu thuế khác 50
2.5. Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu 51
2.5.1. Nguyên nhân khách quan 51
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan 54
2.6. Hậu quả của thất thu thuế nhập khẩu 55
2.6.1. Về mặt kinh tế 55
2.6.2. Về mặt xã hội 55
2.7. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An 56
2.7.1. Áp dụng quản lý rủi ro trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu 56
2.7.2. Chống thất thu thuế từ công tác kiểm tra sau thông quan 57
2.7.3. Chống thất thu thuế từ công tác thanh tra thuế của Hải quan 58
2.7.4. Thu hồi nợ đọng và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế nhập khẩu 59
2.8. Đánh giá chung về thực trạng chống thất thu thuế
của Cục Hải quan Long An giai đoạn 2010 – 2014 59
2.8.1. Kết quả 59
2.8.2. Hạn chế 62
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG THẤT THU
THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LONG AN. 65
3.1. Mục tiêu chống thất thu thuế nhập khẩu 65
3.2. Các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu 66
3.2.1. Áp mã, xác định thuế suất hàng hóa nhập khẩu 67
3.2.2. Xác định trị giá tính thuế 68
3.2.3. Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu 69
3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan 71
3.2.5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý
vi phạm thuế của đối tượng nộp thuế 71
3.2.6. Tăng cường điều kiện vật chất – kỹ thuật và ứng dụng công nghệ
3
thông tin 73
3.2.7. Công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại 74
3.2.8. Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế 75
3.2.9. Các giải pháp khác 76
3.3. Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu 77
3.3.1. Về con người 77
3.3.2. Về khoa học kỹ thuật 78
3.3.3. Về công tác phối hợp Hải quan 78
4
KẾT LUẬN 80
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt
Tiếng Việt
Tiếng Anh
AFTA
Asean free trade Area
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Cộng đồng Kinh tế ASEAN ASEAN Economic Community AEC
AIFTA Khu vực Mậu dịch Tự do Asean-India Free Trade Area
ASEAN
AHTN 2007
Danh mục biểu thuế hài hòa Asean Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEAN Harmonized Tariff Nomenclature Association of South East Asian Nations Common Effective Preferential Tariff of the ASEAN Free Trade Area
CEPT/AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CKD Linh kiện nhập khẩu hoàn chỉnh Chronic Kidney Disease
Certificate of origin
GATT
General Agreement of trade and Tariff
HS
Harmonized System
Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa
KYOTO
Công ước quốc tế về đơn giản, hài hòa thủ tục hải quan
International Convention on and simplification yhe harmonization of Customs
C/O Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
MFN
VAT
Thuế giá trị gia tăng
Value added tax
WCO
Tổ chức hải quan thế giới
World Customs Organization
WTO
Tổ chức thương mại thế giới World trade Organization
Quy chế Tối huệ quốc Most Favoured Nation
Danh mục viết tắt tiếng Việt
Chữ viết tắt
Tiếng Việt
DN
Doanh nghiệp
CI02 Hệ thống thu thập xử lý thông tin nghiệpvụ hải quan
Ecustoms Hệ thống thông quan điện tử tập trung
HQVN
Hải quan Việt Nam
GC Gia công
KTSTQ
Kiểm tra sau thông quan
HSL Danh mục nhạy cảm cao
KT559, GTT02 Hệ thống kế toán tập trung
NSXXK Nhập nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu
NL, VT, MMTB Nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị
NSNN Ngân sách nhà nước
QLRR Quản lý rủi ro
XNK
Xuất nhập khẩu
SL Danh mục nhạy cảm thường
Vnaccs/Vcis Hệ thống thông quan hàng hóa tự động Việt Nam/hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tình báo
Danh mục các bảng
STT
Bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1
38
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long
An năm 2010-2014
2
Bảng 2.2
39
Số thu thuế xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long
An năm 2010-2014
3
Bảng 2.3
41
Nợ đọng và công tác thu hồi nợ đọng thuế xuất nhập
khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
4
Bảng 2.4
42
Hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuếxuất nhập
khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
5
Bảng 2.5
64
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩutại Cục Hải
quan Long An năm 2010-2014
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong số những nguồn thu quan trọng đóng
góp vào Ngân sách Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, các nhiệm vụ
chính trị, ngoại giao của Nhà nước trong từng thời kỳ, bảo hộ sản xuất trong nước
và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo công
bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử và ổn định đã tạo thuận lợi hơn cho hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, góp phần huy động nguồn thu cho ngân sách, bảo hộ sản xuất trong nước. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình tổ chức thực hiện thuế nhập khẩu
vẫn còn tình trạng thất thu thuế. Thất thu thuế nhập khẩu đã xảy ra trong thời gian
dài, số thuế thất thu không phải là nhỏ (Công tác chống thất thu thuế ngành Hải
quan năm 2010: 261,90 tỷ đồng tăng 14%; năm 2011: 512,5 tỷ đồng tăng 76%; năm
2012: 1.373 tỷ đồng tăng 2,5 lần; năm 2013: 1.643,7 tỷ đồng tăng 20%; năm 2014:
1.677,5 tỷ đồng tăng 2,05%. Số liệu Cục Hải quan Long An chi tiết tại bảng 2.5),
làm ảnh hưởng xấu đến cân đối thu - chi của ngân sách nhà nước và tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nguyên nhân
của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu có thể do khách quan như chính sách thuế
thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai họa bất ngờ…; cũng có thể do nguyên nhân chủ
quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian lận, trốn thuế, công tác quản lý chưa chặt
chẽ, việc thu thập thông tin và cập nhật thông tin vào các phần mềm để quản lý
chưa kịp thời …Vì vậy, việc tìm ra giải pháp để chống thất thu thuế nhập khẩu là
một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả chính sách thuế của nhà nước, tạo sự công bằng giữa các
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thất thu thuế nhập khẩu không những chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu của
ngân sách Nhà nước mà nó có tác động đến môi trường đầu tư, đến kinh tế, xã
hội…Khi để xảy ra thất thu thuế nhập khẩu, công cụ quản lý bằng thuế giảm tính
2
hiệu lực không còn phát huy tác dụng của nó, từ đó ảnh hưởng đến quan hệ thương
mại trong và ngoài nước. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như tầm quan trọng của
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu, nên Tác giả chọn đề tài “Thất thu thuế
nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An” có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực
tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa một cách cụ thể các lý thuyết về thuế nhập khẩu, công tác
chống thất thu thuế nhập khẩu tại các Chi cục Hải quan, Cục Hải quan Long An.
- Phân tích thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An từ
năm 2010 đến năm 2014.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong công tác chống thất thu thuế nhập
khẩu trong thời gian tới nhằm đảm bảo sự công bằng trong sản xuất kinh doanh
giữa các doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các thủ đoạn gian lận, trốn thuế gây thất thu thuế nhập khẩu phổ biến trên
thế giới và Việt Nam hiện nay.
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện tại địa bàn thuộc ba tỉnh là Long An, Tiền Giang và
Bến Tre của các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Tác giả tập trung
nghiên cứu các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu trong thời gian qua của Cục
Hải quan Long An.
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá công tác chống thất thu thuế nhập
khẩu tại Cục Hải quan Long An từ năm 2010 đến 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề thất thu thuế nhập khẩu được thực hiện bằng phương
pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với việc tổng hợp, đánh giá, so sánh để tìm ra
nguyên nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu.
3
Luận văn có kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó, tiếp thu ý kiến góp ý
của Lãnh đạo Cục, các Phòng, các Chi cục về những vấn đề có liên quan đến thất
thu thuế nhập khẩu.
5. Tính mới của đề tài:
Cho đến nay, có một số tác giả nghiên cứu thất thu thuế nhập khẩu trong lĩnh
vực hải quan, cụ thể như sau:
- Trần Hồ Quốc Thiện, 2011. Quản lý hải quan đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nghiên cứu tại tỉnh Đồng Nai. Luận
văn Thạc sỹ. Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
- Nguyễn Thị Thùy Trang, 2009. Gian lận thương mại qua trị giá tính thuế
đối với hàng nhập khẩu tại Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sỹ.
Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
- Hoàng Thị Huyền Trang, 2005. Thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất thu
thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sỹ. Trường Đại học Kinh tế-
Đại học quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Bích Thủy, 2015. Thất thu thuế qua mã số hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang. Luận văn Thạc sỹ. Trường Đại học
Kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội.
Các nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu việc thất thu thuế qua trị giá
tính thuế, mã số hàng hóa; công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu nguyên
liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các nghiên cứu này chưa đề cập đến nguyên
nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu; và thất thu thuế nhập khẩu qua thành phần,
cấu tạo của hàng hóa nhập khẩu; định mức chung (gồm định mức cho một đơn vị
sản phẩm và tỷ lệ hao hụt); thời hạn ân hạn thuế nhập khẩu; thời hạn nộp thuế nhập
khẩu đối với việc chuyển mục đích hàng hóa để tiêu thụ nội địa; lợi dụng sự phân
luồng tờ khai, các định mức của loại hình gia công (GC)- nhập nguyên liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu (NSXXK) chưa kết nối với hệ thống thông quan tự động
Vnaccs/Vcis. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu
hiện nay. Đây chính là tính mới của đề tài nghiên cứu.
4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận về thuế nhập khẩu,
vai trò của thuế nhập khẩu trong tiến trình hội nhập và điều tiết chính sách vĩ mô
của nhà nước; thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập
khẩu trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, trong luận văn cũng đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu, và xem
đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đối với Cục Hải quan Long An trong công
tác chống thu thuế nhập khẩu.
Về mặt thực tiễn: Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế, tăng cường
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập của Việt Nam
nhằm góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh,
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo mọi điều thuận lợi để các doanh
nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm ba Chương với
nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về chống thất thu thuế nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải
quan Long An.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu tại
Cục Hải quan Long An.
5
CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. Khái quát về thu thuế nhập khẩu.
1.1.1. Khái quát chung:
Trong thời cổ đại và trung cổ, thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa
phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường nó được nhà nước
giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan
thực hiện công việc kiểm tra, tính và thu thuế. Tại một số quốc gia, cơ quan chức
năng khi tính thuế nhập khẩu cũng tính luôn cả thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với
mặt hàng nhập khẩu đó, mặc dù thuế giá trị gia tăng về nguyên lý chỉ được đánh khi
hàng hóa tham gia lưu thông. Một số quốc gia có chính sách hoàn thuế nhập khẩu
cùng thuế VAT khi các mặt hàng nhập khẩu được sử dụng vào sản xuất hàng xuất
khẩu.
Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan
(trong đó có thuế nhập khẩu) thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởng chung của
chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp và chính sách
đầu tư. Các khối thương mại là nhóm các quốc gia liên minh thỏa thuận giảm thiểu
hay loại trừ thuế quan đối với thương mại trong khối, cũng như khả năng áp đặt
thuế quan có hiệu quả lên hàng nhập khẩu từ ngoài khối. Liên minh hải quan của
khối thường có biểu thuế quan ngoài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thì
các quốc gia thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa
nhập khẩu vào trong khối.
Thuế là một công cụ tài chính vô cùng quan trọng, gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của Nhà nước mà bất cứ quốc gia nào cũng sử dụng công cụ thuế để tham
gia vào việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Thuế giống như một vết dầu
loang trên sông. Theo thời gian thuế ngày càng thẩm thấu và lan tỏa ra mọi ngành
nghề, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của tổ chức, cá
nhân trong xã hội. Năm 1726, nhà chính trị kiêm nhà văn Daniel Defoe trong quyển
“ The political History of the Devil” đã khẳng định “Những thứ như thuế và cái chết
6
có thể được tin là chắc chắn hơn những thứ khác”. Năm 1817, nhà khoa học nổi
tiếng của Mỹ Benjiamin Franklin trong quyển “The word of Benjiamin Franklin” đã
viết “Trên thế giới không có thứ gì có thể được nói là chắc chắn, ngoại trừ cái chết
và thuế”. Tác giả lừng danh “Gone with the Wind” của nhà văn Margaret Mitchell
cũng viết “Cái chết, thuế và sinh con! Không bao giờ có bất cứ thời gian thuận tiện
nào để dành cho bất cứ thứ nào trong số chúng”. Điều này đã chứng minh được sự
lan tỏa và tính tất yếu của thuế. Tùy thuộc vào từng thể chế chính trị, từng giai đoạn
lịch sử khác nhau đã xuất hiện rất nhiều học thuyết về thuế. Tuy nhiên, các học
thuyết này đã thể hiện nhiều quan điểm tương đồng cũng như những quan điểm đối
kháng lẫn nhau về thuế.
Thuyết thuế ước đã khẳng định rằng “Thuế là đối giá của hàng hóa và dịch
vụ công cộng Chính phủ cung cấp”. Thuyết tương đẳng phát biểu “Thuế là một
phần tài sản công dân để yên hưởng phần còn lại”. Hai học thuyết này khá tương
đồng và thể hiện rất rõ quyền lợi của người nộp thuế. Học thuyết đã khẳng định
hoàn toàn không có sự bắt buộc nào, thuế được xây dựng và thực thi trên cơ sở tự
nguyện. Chính phủ sẽ đệ trình Luật thuế để Quốc Hội xem xét và thông qua. Chính
phủ cung cấp hàng hóa, dịch vụ công và người dân là người nhận các hàng hóa,
dịch vụ công này. Giao dịch này được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và dựa
trên cơ sở trao đổi ngang giá một cách trực tiếp như một giao dịch mua bán trên thị
trường. Người giữ vai trò quyết định đối với giao dịch này là Quốc hội chứ không
phải là Chính phủ. Các đại biểu Quốc hội là người biểu quyết một Luật thuế sẽ có
hiệu lực hay không khi thông qua hay bác bỏ nó. Nhìn chung, hai học thuyết này
mang tính chất so dịu – thể hiện quyền lợi hơn là nghĩa vụ từ thuế. Chúng thể hiện
tính công bằng của thuế theo chiều hướng công bằng theo lợi ích kinh tế của người
nộp thuế dựa trên cơ sở người hưởng thụ nhiều hàng hóa, dịch vụ công sẽ nộp thuế
nhiều hơn.
Các nhà kinh tế học đại diện của học thuyết quyền lực Nhà nước đưa ra các
quan điểm về thuế mang tính chất dung hòa giữa các học thuyết trước đó. Theo
E.R.A Seligman cho rằng: “Thuế là sự đóng góp cưỡng bức của mọi người cho
7
Chính phủ để trang trải các chi phí và lợi ích chung không mà ít căn cứ vào lợi ích
riêng được hưởng”. Theo Philip E Taylor “Thuế là sự đóng góp cưỡng bách của
mỗi Chính phủ để trang trải các chi phí vì quyền lợi chung mà ít căn cứ vào lợi ích
riêng được hưởng”. Theo Simon James và Christopher Nobes “Thuế là một khoản
thu do Nhà nước thực hiện mà không có sự hoàn trả nào”. Không là những nhà kinh
tế học đại diện cho học thuyết quyền lực Nhà nước nhưng K. Marx và F. Engles
cũng đưa ra các quan điểm về thuế khá tương đồng. Theo K.Marx “Thuế là cơ sở
kinh tế của Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà
người dân đóng góp để dùng cho việc chi tiêu của Nhà nước”. Theo F. Engles “ Để
duy trì quyền lực công cộng cần có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là
thuế”. Rõ ràng quan điểm của Học thuyết quyền lực Nhà nước đã có sự dung hóa
một mặt nhấn mạnh tính cưỡng chế của thuế, mặt khác đề cập đến lợi ích chung của
xã hội nhận được từ thuế. Khác với học thuyết khế ước và tương đẵng đề cập đến
lợi ích riêng tư dựa trên quan hệ trao đổi ngang giá trực tiếp. Học thuyết quyền lực
Nhà nước đề cập đến tính cưỡng chế, bắt buộc và không có sự hoàn trả trược tiếp
nhưng đề cập đến lợi ích chung mà xã hội nhận được.
Theo từ điển Luật học: “ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế
gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới”
[110, tr 87].
Theo từ điển kinh tế học (Anh – Việt) có nêu: “Thuế nhập khẩu là một khoản
thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng
để tăng nguồn thu cho Chính Phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự
cạnh tranh của nước ngoài” [111].
Thuế nói chung vừa là phạm trù mang tính khách quan vừa là phạm trù mang
tính lịch sử. Thuế tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và hoạt động của nhà
nước. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, giai cấp và tầng lớp xã hội
xuất hiện thì nhà nước cũng được hình thành. Để thực hiện chức năng của mình thì
nhà nước cùng cần có một nguồn tài chính được huy động từ người dân đóng góp
đó là thuế. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc được thể hiện bằng Luật do Nhà nước
8
đặt ra đối với thể nhân và pháp nhân đóng góp cho ngân sách, và thuế không có tính
chất hoàn trả trực tiếp. Thuế được áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau và được
chia thành nhiều loại thuế; trong đó khoản thuế nhập khẩu là một khoản thuế không
thể thiếu được khi hoạt động mua bán giữa các quốc gia xãy ra. Thuế nhập khẩu là
khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của hàng hóa, dịch vụ khi trao đổi với nước
khác mà người chủ sở hữu phải nộp thuế.
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu động viên từ người tiêu dùng hàng nhập
khẩu nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo hộ sản
xuất trong nước. Thuế nhập khẩu do các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu
thuộc đối tượng chịu thuế phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định của pháp
luật với số tiền thuế nhập khẩu phải nộp theo thời hạn nhất định của pháp luật. Sử
dụng tốt chính sách thuế nhập khẩu là phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của thuế,
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; thực hiện
chính sách kinh tế đối ngoại của quốc gia với các quốc gia khác trong thương mại
quốc tế.
Ngoài ra cần hiểu thuế nhập khẩu là:
- Thuế nhập khẩu là loại thuế độc lập trong hệ thống pháp luật thuế Việt
Nam và các nước trên thế giới.
- Tên gọi đạo luật là thuế xuất khẩu, nhập khẩu điều chỉnh loại thuế khác
nhau là thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
- Mục đích quan trọng của thuế nhập khẩu là do yêu cầu bảo hộ nền sản xuất
trong nước nhưng không thể áp dụng các biện pháp hành chính (hàng rào phi thuế
quan) thì thuế nhập khẩu là công cụ hữu hiệu nhất thực hiện được yêu cầu này.
- Hiện nay, do yêu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế,
nhà nước còn ban hành thêm thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá. Thực
chất đây là hai loại thuế bổ sung cho thuế nhập khẩu trong những trường hợp có căn
cứ cho rằng hàng hoá đó có trợ cấp của nhà nước hoặc có hành vi bán phá giá nhằm
mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2 Đặc điểm của thuế nhập khẩu:
9
Do thuế nhập khẩu có đặc điểm khác hơn so với các loại thuế khác trong hệ
thống thuế là việc sử dụng thuế nhập khẩu không những tác động đến nền kinh tế
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ ngoại giao và chính sách đối xử với các
quốc gia khác. Thuế nhập khẩu có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thuế nhập khẩu chỉ thu vào hàng hóa nhập khẩu mà không thu vào hàng
hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu, Nhà nước sử dụng
thuế nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào
cơ cấu giá cả hàng hóa nhập khẩu. Việc tăng, giảm thuế suất nhập khẩu có tác động
trực tiếp đến cơ cấu giá cả hàng hóa và ảnh hưởng rất lớn đến người tiêu dùng trong
việc quyết định mua hàng hóa, các nhà nhập khẩu và sản xuất hàng hóa phải điều
chỉnh kế hoạch của mình cho phù hợp với sức mua của người dân.
- Thuế nhập khẩu gắn với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ. Hoạt động ngoại thương giữ vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia; hoạt động này đòi hỏi phải có sự giám sát, quản lý chặt chẽ của
Nhà nước thông qua chính sách pháp luật. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu
hướng hội nhập kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp
đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thuế nhập khẩu chỉ do cơ quan Hải quan quản lý thu nhằm gắn công tác
quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với các
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.3. Phân loại thuế nhập khẩu:
- Căn cứ vào mục đích của việc thu thuế:
Nếu căn cứ vào mục đích của việc thu thuế thì thuế nhập khẩu được chia
thành các loại sau:
+ Loại để tạo nguồn thu: Thuế nhập khẩu được quy định đối với tất cả các
mặt hàng để tạo lập nguồn thu cho Chính phủ, không phân biệt khả năng sản xuất,
nhu cầu bảo hộ và chính sách thương mại của quốc gia đó.
+ Loại để bảo hộ: Loại này thường được quy định có lựa chọn. Nếu trong
nước có sản xuất, có khả năng sản xuất nhưng chưa đủ sức cạnh tranh, cần sự bảo
10
hộ của nhà nước thì xây dựng mức thuế bảo hộ để hàng sản xuất trong nước đủ sức
cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
+ Loại để trừng phạt: Loại thuế này thường được sử dụng để trả đũa lại
những hành vi phân biệt đối xử của một quốc gia này đối với hàng hóa của một
quốc gia khác.
- Căn cứ vào phạm vi tác dụng:
Nếu căn cứ vào phạm vi tác dụng thì thuế nhập khẩu có các loại sau:
+ Thuế nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính độc lập của một quốc gia
(quy định tùy ý theo mục tiêu của quốc gia mình mà không phụ thuộc vào bất kỳ
một Hiệp định song phương hoặc đa phương nào đã ký kết).
+ Thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: là loại thuế thực hiện theo các
cam kết trong các Hiệp định song phương hoặc đa phương đã ký kết.
- Căn cứ vào cách thức đánh thuế:
Nếu căn cứ vào cách thức đánh thuế thì thuế xuất nhập khẩu được phân chia
thành các loại:
+ Tính thuế đối với hàng hoá áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm: Việc
xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp đối với hàng hoá áp
dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm được căn cứ vào số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, trị giá tính thuế, thuế
suất từng mặt hàng và được thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế Số lượng đơn vị từng mặt Trị giá tính Thuế
xuất khẩu, hàng thực tế xuất khẩu, thuế tính trên suất của x = x thuế nhập nhập khẩu ghi trong tờ từng mặt một đơn vị
hàng hàng hóa khẩu phải nộp khai hải quan
+ Tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp:
. Căn cứ tính thuế đối với hàng hoá áp dụng thuế tuyệt đối là: Số lượng đơn
vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng
thuế tuyệt đối; mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá; và tỷ giá tính
11
thuế.
. Việc xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp theo mức
thuế tuyệt đối thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế xuất Số lượng đơn vị từng Mức thuế tuyệt Tỷ
khẩu, thuế nhập mặt hàng thực tế xuất đối quy định giá = x x khẩu phải nộp khẩu, nhập khẩu ghi trên một đơn vị tính
theo mức thuế trong tờ khai hải quan hàng hoá thuế
tuyệt đối áp dụng thuế tuyệt đối
. Căn cứ tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế hỗn hợp là: Số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng thuế
hỗn hợp; thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và trị giá tính thuế của hàng hóa áp dụng
thuế hỗn hợp; mức thuế tuyệt đối của hàng hóa áp dụng thuế hỗn hợp và tỷ giá tính
thuế theo quy định của pháp luật.
. Việc xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp đối với hàng
hóa áp dụng thuế hỗn hợp thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế xuất khẩu, thuế Số tiền thuế tuyệt đối nhập khẩu phải nộp đối với Số tiền thuế tính theo phải nộp tính theo quy hàng hóa áp dụng thuế hỗn quy định = + định hợp
+ Thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp: Số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng thuế tự vệ,
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Trị giá tính thuế nhập khẩu của từng
mặt hàng nhập khẩu áp dụng thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ
cấp; mức thuế từng mặt hàng theo quy định của pháp luật. Phương pháp tính thuế
như sau:
12
Số lượng đơn vị từng Số tiền thuế tự mặt hàng thực tế nhập Giá Thuế suất thuế vệ, thuế chống khẩu ghi trong tờ khai tính tự vệ, thuế bán phá giá hải quan áp dụng thuế thuế chống bán phá = x x hoặc thuế tự vệ, thuế chống bán nhập giá hoặc thuế chống trợ cấp phá giá hoặc thuế khẩu chống trợ cấp phải nộp chống trợ cấp
Tổng số tiền thuế nhập Số tiền thuế tự
khẩu phải nộp cho hàng vệ, thuế chống Số tiền thuế phải nộp
hóa áp dụng thuế tự vệ, = tính theo quy định của + bán phá giá hoặc
thuế chống bán phá giá pháp luật thuế chống trợ
cấp phải nộp hoặc thuế chống trợ cấp
1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu:
Xét về chức năng, vai trò của thuế nhập khẩu đều có nét tương đồng với các
loại thuế gián thu khác. Tuy nhiên, sự xuất hiện của thuế nhập khẩu lại bắt nguồn từ
yêu cầu điều chỉnh sự vận động của hàng hóa giữa các quốc gia có chủ quyền, nó là
một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi nước, nên thuế nhập khẩu
cũng có những nét riêng về mặt nội dung, vai trò, cũng như cách thức hành thu.
Thông qua việc quy định mức thuế suất cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu thể hiện
chính sách và mức độ bảo hộ sản xuất trong nước, cũng như chính sách đối xử giữa
các quốc gia, việc áp dụng xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu
đảm bảo tính công bằng, minh bạch sẽ góp phần thúc đẩy phát triển thương mại
quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thuế nhập khẩu còn có vai trò
quan trọng, cụ thể như sau:
1.2.1. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước:
Nguồn thu ngân sách nhà nước được cấu thành từ các nguồn sau: thuế, phí,
lệ phí; trong đó thuế chiếm tỷ trọng lớn ảnh hưởng đến quy mô ngân sách. Trong cơ
cấu thuế, thuế nhập khẩu chiếm một phần quan trọng, thông qua thuế nhập khẩu
13
Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động nhập khẩu hàng
hóa tập trung vào ngân sách Nhà nước. Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao vừa bảo
hộ sản xuất trong nước, vừa đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Ngược lại, thu thuế nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập khẩu, nhìn bên ngoài
số thu đóng góp cho ngân sách thấp hoặc không đáng kể, nhưng xét trong tổng thể
quy trình sản xuất xã hội thì thu ngân sách sẽ tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm
thông qua các loại thuế như giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...
1.2.2. Bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước:
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào đầu vào của quá trình sản xuất thông
qua việc đánh thuế trên hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất...
Ngoài chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các loại thuế gián thu
khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc
tác động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường.
Đối với những hàng hoá nhập khẩu mà trong nước đã sản xuất được hoặc
những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà nước sẽ xây dựng mức thuế suất cao đối với loại
hàng hóa này nhằm mục đích hạn chế tiêu dùng trong nước đối với hàng hóa nhập
khẩu; đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong nước tạo ra những hàng hóa tương tự, có
tính năng, công dụng như nhau nhưng giá thành sản phẩm thấp, chất lượng không
thua kém hàng hóa nhập khẩu. Nhà nước xây dựng mức thuế suất đối với bất kỳ loại
hàng hóa nhập khẩu nào đều dựa trên các cam kết đã thỏa thuận, tình hình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, giá trị nguồn nguyên liệu đầu vào cho
sản xuất…Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước phải tự chủ động đổi mới tư duy
trong quản lý, tự lập trong sản xuất, đặc biệt là chú trọng thay thế công nghệ mới,
cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm… Nói chung, các doanh
nghiệp trong nước phải tự bảo vệ mình trên cơ sở lợi thế từ sự bảo hộ của Nhà nước
để có kế hoạch sản xuất kinh doanh mà thị trường và người tiêu dùng chấp nhận
nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh, góp phần tăng nguồn thu thuế
cho ngân sách nhà nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước trông chờ vào sự bảo hộ
của Nhà nước thì sẽ gặp khó khăn trong sản xuất, trong tương lại sẽ bị diệt vong vì
14
hiện tại trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập
khẩu được thực hiện thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu bị hạn chế. Vì vậy, để
phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước
phải có sự lựa chọn những ngành nghề phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước,
đồng thời buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi mới công
nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành,
chủ động trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi phá bỏ rào cản thuế quan.
1.2.3. Kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập khẩu:
Khi mở cửa thị trường, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc mua
bán hàng hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và bất kỳ loại hàng hóa gì. Có
những hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản cho con người, có những hàng hóa, dich vụ
là tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm là động lực trực tiếp nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế... Thông qua việc kiểm tra và thu thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để
nắm được thực trạng hàng hóa thuộc chủng loại gì, số lượng bao nhiêu, nhập khẩu
từ nước nào…Qua đó, Nhà nước kiểm soát được toàn bộ các loại hàng hóa nhập
khẩu, để có những điều chỉnh chính sách đối với hàng hóa kịp thời và phù hợp với
thực tiễn.
Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, Nhà nước dùng các biện pháp
phi thuế quan như: hạn ngạch, giấy phép, cấp phép tự động…thì biện pháp sử dụng
công cụ thuế nhập khẩu được các nước sử dụng phổ biến. Thông qua công cụ thuế
nhập khẩu, Nhà nước thực hiện điều tiết hoạt động nhập khẩu như đối với một số
hàng hóa có thể khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu do nhu cầu, tình hình sản
xuất trong nước…
1.2.4. Góp phần định hướng người tiêu dùng:
Thuế suất nhập khẩu cao hay thấp có tác dụng hạn chế hoặc kích thích tiêu
dùng. Do vậy, Nhà nước đánh thuế cũng là định hướng cho người tiêu dùng nên sử
dụng loại hàng hóa nào và không nên sử dụng loại hàng hóa nào. Đối với loại hàng
hóa trong nước sản xuất được và có chất lượng tương tự hàng hóa nhập khẩu, khi
Nhà nước tăng thuế suất nhập khẩu thì người tiêu dùng chuyển sang sử dụng hàng
15
hóa sản xuất trong nước. Ngược lại, nếu không tăng thuế suất nhập khẩu và trong
điều kiện nền sản xuất trong nước chưa có khả năng cạnh trong trong sản xuất và
kinh doanh thì hàng hóa sản xuất ra sẽ có giá thành cao, chất lượng kém nên người
tiêu dùng họ sẽ chuyển sang sử dụng hóa hóa nhập khẩu. Vì vậy, thuế suất nhập
khẩu cao hay thấp đều có tác động rất lớn đến người tiêu dùng trong việc định
hướng tiêu thụ sản phẩm.
1.2.5. Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước:
Ngoài các vai trò nêu trên, thuế nhập khẩu còn đóng góp vào quan hệ đối
ngoại của đất nước. Thuế nhập khẩu có thể đánh cao đối với các mặt hàng của các
nước có chính sách phân biệt quốc gia đối với đất nước mình hay cho một số nước
đã ký Hiệp định thương mại thuế quan. Nhà nước phân biệt khu vực thuế cho từng
nước đó có Hiệp định thương mại với nước mình đối với từng mặt hàng cụ thể, do
đó biểu thuế phân thành ba loại: thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế
suất thông thường.
1.3. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập
khẩu.
1.3.1. Khái niệm về thất thu thuế nhập khẩu:
Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ
thống thuế khoá nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước và
lợi ích của doanh nghiệp (DN) (hay lợi ích cá nhân). Trên thực tế thì hai lợi ích này
thường mâu thuẫn nhau, Nhà nước luôn có khuynh hướng tăng nguồn thu từ thuế,
trong khi đó DN luôn mong muốn giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Nói
cách khác, ở đâu có thuế khoá thì ở đó có thất thu. Thất thu thuế biểu hiện, diễn
biến rất đa dạng và phức tạp, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của một quốc gia,
song có thể khái quát hoá thành hai dạng: thất thu thực tế và thất thu tiềm năng.
Trong đó, thất thu thực tế, có nghĩa là có nhiều khoản thu được quy định rõ ràng
trong các luật thuế, song do nhiều nguyên nhân số tiền đó không được tập trung vào
ngân sách đúng quy định. Còn thất thu tiềm năng, bao hàm cả trường hợp “lách
thuế” có nguyên nhân từ kẽ hở của luật pháp hoặc sự buông lỏng quản lý, có nghĩa
16
là thực tế có nhiều nguồn thu cần thiết phải động viên vào ngân sách nhưng lại
không thu được, vì chưa có quy định của luật pháp.
Thất thu thuế có thể hiểu một cách đơn giản đó là khoản tiền thuế bị đối
tượng nộp thuế chiếm dụng, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định của chính sách
thuế. Thất thu thuế nhập khẩu là khoản tiền thuế nhập khẩu bị tổ chức, cá nhân có
hàng hoá nhập khẩu chiếm đoạt, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định của Luật
thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
1.3.2. Phân loại thất thu thuế nhập khẩu:
- Theo nguyên nhân thất thu thuế
+ Thất thu do nguyên nhân chủ quan:
Thất thu thuế nhập khẩu phát sinh do đối tượng nộp thuế cố tình trốn tránh
nghĩa vụ thuế như: khai sai chủng loại hàng hóa để được hưởng thuế suất thấp; khai
trị giá hải quan thấp hơn giá trị thực thanh toán; gian lận định mức đối với hàng hóa
nhập khẩu để gia công hàng hóa cho nước ngoài và sản xuất hàng xuất khẩu, phần
nguyên vật liệu dư thừa bán vào thị trường nội địa; lợi dụng chính sách ân hạn nộp
thuế nhập khẩu, sau khi nhập khẩu hàng hóa thì tiêu thụ nhanh chóng rồi đã bỏ
trốn...
+ Thất thu do nguyên nhân khách quan:
Do Nhà nước ban hành chính sách quản lý thuế chưa rõ ràng; Biểu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu có nhiều dòng hàng có tên hàng hóa tương tự nhưng mức thuế suất
lại khác nhau nên doanh nghiệp thường lựa chọn các dòng hàng có mã số, thuế suất
thấp hoặc 0% để áp mã hàng hóa dẫn tới tranh chấp về mã số thuế, trị giá hải quan
giữa đối tượng nộp thuế với cơ quan hải quan; đặc biệt đối với những mặt hàng
chưa được định danh cụ thể trong Biểu thuế hoặc thành phần, cấu tạo hàng hóa
không được doanh nghiệp khai cụ thể nên cơ quan hải quan tiến hành phân tích,
phân loại hàng hóa để xác định mã số, thuế suất nhập khẩu…Vì vậy, dẫn đến phát
sinh số thuế phải nộp bổ sung sau khi hàng hóa được thông quan. Văn bản chính
sách về thuế của Nhà nước ổn định chưa cao, có những thời điểm thay đổi thuế suất
tăng đối với một số hàng hóa này và giảm hoặc miễn thuế đối với một số hàng hóa
17
khác làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc sản xuất, tính giá thành sản
phẩm và đặc biệt làm cho doanh nghiệp dễ bị nợ thuế…
- Tính chất của thất thu thuế:
Căn cứ vào tính chất của tiền thuế bị thất thu, có thể phân loại thất thu thuế
thành hai loại:
Số tiền thất thu thuế nhập khẩu có khả năng thu hồi: Là các khoản nợ thuế
như chờ xác định lại trị giá tính thuế; hoặc có kết quả phân tích, phân loại, giám
định hàng hóa; kiểm tra sau thông quan, bảo lãnh quá thời hạn… nhưng doanh
nghiệp vẫn còn hoạt động bình thường. Trường hợp này cơ quan hải quan đôn đốc,
nhắc nhỡ thì doanh nghiệp sẽ nộp, vì nếu doanh nghiệp không nộp thuế bổ sung thì
sẽ không nhận được hàng hóa nhập khẩu.
Số tiền thất thu thuế nhập khẩu không có khả năng thu hồi: Là các khoản
thuế phải truy thu, ấn định thuế mà đối tượng nộp thuế không có khả năng nộp thuế
do các doanh nghiệp nợ thuế không còn nguồn vốn để nộp, doanh nghiệp giải thể,
phá sản hoặc làm ăn thua lỗ, bỏ trốn...
Cách thức phân loại thất thu thuế nhập khẩu cho chúng ta thấy mỗi loại thất
thu và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là rất khác nhau. Việc phân
loại thất thu thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý và đề ra các biện pháp quản
lý, thu hồi thuế nhập khẩu cho phù hợp.
1.3.3. Sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu:
Để khuyến khích lưu thông hàng hóa, kích thích nền kinh tế, nhiều quốc gia
trên thế giới đã cắt giảm hàng rào thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế, là
nguồn thu quan trọng của Nhà nước, định hướng tiêu dùng, khuyến khích sản xuất
trong nước phát triển, định hướng quan hệ quốc tế và hoạt động ngoại thương.
- Đối với nền kinh tế:
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế phát triển và ngày càng hội nhập
sâu rộng thì chức năng quản lý nhà nước không chỉ dừng lại ở mức độ duy trì bộ
máy hoạt động của nhà nước từ nguồn thu thuế nhập khẩu, mà nhà nước phải đề ra
18
các chính sách để chống thất thu thuế nhập khẩu, hoàn thuế nhập khẩu không đúng
đối tượng… nhằm quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan
trọng của ngân sách Nhà nước, do đó thất thu thuế nhập khẩu có tác động rất lớn
đến việc cân đối thu – chi, cán cân thanh toán ngoại thương của quốc gia. Khi ngân
sách bị thiếu hụt, Chính phủ sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng nhập khẩu đặc
biệt là hàng tiêu dùng; hạn chế các trường hợp được ưu đãi miễn thuế, giảm thuế…
Ngược lại, Chính phủ có thể giảm mức thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa nhập
khẩu, mở rộng các trường hợp ưu đãi miễn giảm thuế..
- Đối với môi trường kinh doanh:
Để đảm bảo môi trường kinh doanh được bình đẳng, đòi hỏi các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu phải chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cũng là một
tiêu chí quan trọng. Sự bất bình đẳng thể hiện ở chổ, những doanh nghiệp làm ăn
chân chính, thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế nhưng hóa sản xuất ra tiêu thụ gặp nhiều
khó khăn do giá thành cao; ngược lại đối với doanh nghiệp không chấp hành tốt
pháp luật, trốn thuế thì lại bán sản phẩm giá thấp, thu lợi nhuận bất hợp pháp, gây
mất ổn định thì trường kinh doanh… Thất thu thuế nhập khẩu làm ảnh hưởng đến
môi trường kinh doanh và tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các doanh
nghiệp; thu hút đầu tư nước ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn. Thuế nhập khẩu ngoài vai
trò quan trọng là công cụ để Nhà nước kiểm soát hoạt động ngoại thương còn là
công cụ hữu ích để bảo vệ nền sản xuất trong nước.
- Đối với xã hội:
Thất thu thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến công bằng xã hội, bởi vì thông
qua chính sách thuế nhập khẩu Nhà nước sẽ huy động được nguồn thu từ các tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa nhập khẩu phải nộp thuế, đồng thời điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Nếu các tổ chức, cá nhân kinh doanh chỉ nhằm vào lợi nhuận, bất
chấp thủ đoạn, luôn tìm cách gian lận, trốn thuế, gây thu thu thuế làm ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp làm ăn chân chính, môi trường kinh doanh, ảnh hưởng đến an
ninh trật tự xã hội.
19
- Đối với đạo đức:
Khi Nhà nước ban hành chính sách pháp luật về thuế không những đảm bảo
phù hợp với cam kết quốc tế mà còn phải phù hợp với điều kiển sản xuất kinh
doanh trong nước. Tuy nhiên, chính sách thuế bao giờ cũng sẽ có những hạn chế do
môi trường luôn luôn biến đổi. Đối với chính sách thuế nhập khẩu, có những doanh
nghiệp cố tình lách luật hoặc lợi dụng những quy định về thuế nhập khẩu chưa rõ
ràng thì cấu kết với người thực thi pháp luật để gian lân, trốn thuế dẫn đến gây thất
thu thuế nhập khẩu cho ngân sách Nhà nước, tổn hại nền kinh tế, suy giảm cạnh
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp làm ăn chân chính, chấp hành tốt pháp luật;
đạo đức xã hội bị xâm hại nghiêm trọng…
1.4. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu một số nước trên thế giới:
1.4.1. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế của Thụy Điển, Italia: Kinh nghiệm,
bài học cho Việt Nam.
Trong lĩnh vực quản lý rủi ro có rất nhiều khía cạnh, nội dung chuyên môn
nghiệp vụ mang tính kỹ thuật mà từng bước các cơ quan Hải quan và cơ quan Thuế
Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng đưa vào thực tiễn quản lý của ngành mình, với
từng sắc thuế.
Luật Quản lý thuế sửa đổi năm 2013 đã bổ sung một nhóm vấn đề rất quan
trọng đó là các vấn đề phục vụ mục tiêu cải cách - hiện đại hoá và hội nhập, phù
hợp thông lệ quốc tế, bao gồm 4 nội dung:
(i) Bổ sung nguyên tắc quản lý rủi ro trong công tác quản lý thuế về áp dụng
cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế và giải thích từ ngữ về quản lý rủi ro trong
quản lý thuế;
(ii) Bổ sung cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá (APA)
trong chống chuyển giá ở các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài;
(iii) Mở rộng phạm vi thu thập thông tin về người nộp thuế từ nguồn nước
ngoài theo các hiệp định, điều ước đã ký để cho phép khai thác thông tin từ nguồn
nước ngoài phục vụ công tác quản lý thuế. Nội dung cụ thể được thể hiện tại khoản
2 Điều 70;
20
(iv) Bổ sung nghĩa vụ của người nộp thuế trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin để nâng cao quản trị doanh nghiệp cũng như phát triển phương thức quản
lý thuế điện tử. Đối với người nộp thuế là tổ chức kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ
tầng về công nghệ thông tin phải thực hiện kê khai nộp thuế, giao dịch với cơ quan
quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của Pháp luật về giao
dịch điện tử.
- Kinh nghiệm về áp dụng chiến lược kiểm toán của Thụy Điển:
Thứ nhất, áp dụng 4 chiến lược kiểm toán
Trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn và dựa trên lý thuyết quản lý, cơ quan quản
lý thuế Thụy Điển cho rằng các trường hợp trốn lậu thuế mới theo xu hướng vi
phạm ở quy mô, phạm vi nhỏ, theo dạng thử nghiệm, thăm dò cơ quan quản lý thuế,
sau đó mới tiếp tục gia tăng, leo thang từng bước trong trường hợp các lần vi phạm
trước đã được thực hiện trót lọt.
Sơ đồ trên thể hiện có 4 loại chiến lược/kế hoạch kiểm toán do cơ quan quản
lý thuế thực hiện.
21
Chiến lược đầu tiên “Bắt giữ được các vụ lớn” là để bắt các trường hợp trốn
thuế với số tiền lớn. Chiến lược này không thực hiện thường xuyên, mà có khi vài
năm mới có thể bắt được một đến hai “mẻ lưới lớn, cá to” vi phạm trốn thuế với số
tiền lớn. Để thực hiện chiến lược này phải huy động nguồn lực chuyên gia tinh nhuệ
và bỏ rất nhiều thời gian công sức.
Chiến lược thứ hai là để ngăn các trường hợp mới vi phạm không có cơ hội
kéo dài hành vi của mình. Điều này có nghĩa là những trường hợp mới vi phạm lần
đầu (các doanh nghiệp mới, những người trẻ tuổi hiếu thắng làm liều) cần được
kiểm toán kể cả khi lượng trốn thuế còn nhỏ, mang tính răn đe.
Chiến lược thứ ba là nhằm tạo ra hiệu quả ngăn ngừa cá nhân tốt hơn bằng
việc “liên tiếp kiểm toán”. Nghĩa là những đối tượng nộp thuế đã được kiểm toán
trong quá khứ (và phát hiện có trốn thuế) cần phải được kiểm toán lại. Để triển khai
chiến lược này cần phối hợp với các đối tượng nộp thuế. Ý tưởng này xuất phát từ
lô-gic cho rằng một đối tượng nộp thuế đã được kiểm toán sẽ dễ thay đổi hành vi
của mình hơn nếu biết rằng mỗi lần bị phát hiện sẽ dẫn tới nguy cơ bị kiểm toán lớn
hơn trong tương lai.
Chiến lược thứ tư là để tạo ra hiệu quả ngăn ngừa chung tốt hơn thông qua
kiểm toán các khu vực “phù hợp” theo người dân. Ví dụ, xác định các đối tượng
nộp thuế đang trốn thuế trong khi lại tạo ra phúc lợi xã hội. Các vụ kiểm toán này sẽ
nhận được sự quan tâm tích cực của giới truyền thông. Số vụ kiểm toán không cần
lớn nhưng cần tập trung vào các khu vực mà người dân cho rằng việc trốn thuế là
không công bằng và gây tác động tiêu cực đến lòng tin vào hệ thống thuế, hay nói
cách khác là những vụ “có yếu tố gây bất bình cao”.
Vậy bài học được rút ra cho cơ quan quản lý thuế Việt Nam là gì?
Thực tế khi áp dụng vào Việt Nam, cách gọi của chúng ta đối với các “chiến
lược” này thường là các “kế hoạch” hoặc “phương thức” thực hiện cho đơn giản và
dễ hiểu không nhầm lẫn. Việt Nam có thể nghiên cứu lần lượt áp dụng các kế hoạch
này hoặc triển khai linh hoạt tùy vào thời điểm, khu vực, lĩnh vực hoặc đối tượng
quản lý thuế để đạt được hiệu quả cao.
22
Thứ hai là biện pháp gửi thư cho đối tượng nộp thuế
Trong thực tiễn công tác quản lý thuế, việc thiết lập và tạo mối quan hệ tốt
giữa cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế luôn được quan tâm và đưa vào chiến
lược thực hiện công tác quản lý thuế trong các giai đoạn. “Gửi thư tới các đối tượng
nộp thuế” được cho là một biện pháp hiệu quả. Nội dung thư có thể là thông báo
cho doanh nghiệp về chính sách thuế và các hoạt động kiểm toán trong quá khứ
cũng như tương lai. Thư cũng có thể được xem như một công cụ tác động tới thái
độ của các đối tượng nộp thuế khi thông báo cho họ về kết quả, tình hình chấp hành
tuân thủ pháp luật thuế, quan điểm và cách hành xử của cơ quan quản lý thuế đối
với các đối tượng nộp thuế khác có vi phạm pháp luật. Cơ quan thuế Thuỵ Điển đã
tiến hành bài kiểm tra đưới đây về biện pháp gửi thư. Gửi thư tới hai nhóm doanh
nghiệp giống nhau, tự doanh trong lĩnh vực xây dựng. Các bức thư được gửi đi
trong năm thu nhập, trước khi khai thu nhập chịu thuế một thời gian dài. Một nhóm
nhận được thư nói rằng một số (trong số những người nhận được thư) sẽ bị kiểm
toán vào năm sau. Phương pháp lựa chọn cũng được mô tả. Những người có mức
tiền mặt tịnh thấp nhất sẽ bị kiểm toán (tiền mặt tịnh cho thấy những cách sẵn có để
trang trải cuộc sống và bao gồm toàn bộ thu nhập, toàn bộ chi phí và sự thay đổi
vốn tịnh). Đây là nhóm xử lý và được đặt tên là nhóm thử nghiệm. Nhóm thứ hai
nhận được thư cho biết một số người sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên để kiểm toán
(nhóm ngẫu nhiên, chỉ sử dụng để đánh giá). Nhóm thứ ba cũng được sử dụng để
đánh giá. Nhóm này, có tên là nhóm kiểm soát, không nhận được bất kỳ lá thư nào
(nhưng vẫn giống như hai nhóm có thư).
Mục đích của thư là để tác động đến hành vi của các đối tượng nộp thuế để
khiến họ khai báo mức thu nhập cao hơn (chính xác hơn). Số vụ kiểm toán được
thực hiện với những nhóm có thư không cao hơn so với các nhóm tự doanh khác,
các bức thư chỉ có tác dụng như đòn bẩy. Kết quả của các bức thư được đánh giá
sau khi việc khai báo thu nhập chịu thuế đã hoàn tất (và trước khi tiến hành bất kỳ
hoạt động kiểm toán nào). Thư được gửi tới các nhóm nhỏ vì đó chỉ mới là bước thử
nghiệm. Kết quả cho thấy nhóm thử nghiệm (chủ thể của biện pháp lựa chọn) có thu
23
nhập tăng nhiều nhất. Nhóm ngẫu nhiên cũng có mức thu nhập trung bình tăng lên,
tuy nhiên mức tăng thấp hơn nhóm thử nghiệm.
Bài học gì được rút ra từ kinh nghiệm này?
Việc thông báo các nội dung về chính sách và kết quả các hoạt động kiểm tra
của cơ quan quản lý thuế đã được áp dụng tại Việt Nam, tuy nhiên chúng ta chưa
làm bài bản theo cụm đối tượng, khu vực mà theo vụ việc nhỏ lẻ hoặc cho số đông
bằng các hoạt động chung như hội thảo, hội nghị doanh nghiệp, khách hàng ở từng
khu vực, đơn vị hành chính các cấp. Để phục vụ, “chăm sóc” từng đối tượng cụ thể
một cách khoa học, minh bạch, bài bản thì chưa làm được. Tới đây nên áp dụng vào
thực tiễn phương pháp này nhằm đem lại hiệu quả tốt như tại Thụy Điển.
- Kinh nghiệm về áp dụng của cơ quan quản lý thuế Italy:
Thứ nhất là phân tích rủi ro đối với mã số thuế VAT mới
“Phân tích rủi ro đối với mã số thuế VAT mới” là một ứng dụng công nghệ
thông tin do Phòng nghiên cứu và phân tích của cơ quan thuế Italia xử lý nhằm nâng
cao năng lực đấu tranh phòng ngừa gian lận thuế VAT. Phần mềm này bao hàm và
tự động xử lý các dữ liệu cá nhân, thông tin về thu nhập và tài sản của các đối tượng
nộp thuế, hoặc trên danh nghĩa cá nhân hoặc với tư cách đại diện cho một công ty,
các đối tượng này phải có một mã số thuế VAT mới.
Kết quả của quá trình xử lý chính là một “hồ sơ rủi ro”. Tất cả các mã số
thuế VAT đều được phân tích chứ không chỉ có những trường hợp liên quan tới lĩnh
vực hoạt động có rủi ro. Dựa trên kinh nghiệm trước đó và các thông tin do cơ quan
xử lý gian lận thuế VAT nội địa cung cấp, mỗi thông tin được cho một điểm số
đánh giá rủi ro.
Một số nhân tố liên quan tới mã số thuế VAT mới (ví dụ: xác minh giữa địa
điểm kinh doanh và nơi ở của chủ doanh nghiệp/người đại diện, trong vòng 3 năm
gần nhất thay đổi nơi cư trú nhiều hơn 2 lần, .v…v..), một số nhân tố lại chỉ ra mã
số thuế VAT đã nhận trước đó, nếu có (ví dụ các đối tượng nộp thuế VAT, các
khoản hoàn thuế VAT, không nộp thuế VAT trong vòng 05 năm gần nhất, .v…v..).
Mỗi nhân tố lại bao gồm thêm các chi tiết bên trong.
24
Điểm số rủi ro cuối cùng, được tính từ tổng điểm của 16 nhân tố rủi ro, được
phân cho đối tượng nộp thuế và là một chỉ số rủi ro quan trọng.
Kết thúc chu trình, ứng dụng này sẽ đưa ra một danh sách gồm toàn bộ các
mã số thuế VAT mới bằng cách làm giảm điểm số rủi ro. Có thể lựa chọn mã số
thuế VAT bằng cách sử dụng các biến số sau:
- Lãnh thổ (quốc gia, khu vực, cơ quan thuế nội địa).
- Hoạt động (một hoạt động cụ thể, toàn bộ lĩnh vực, ..v...v..).
- Khoảng thời gian (1 năm, nửa năm, 1 quý, 1 tháng).
Sử dụng phần mềm sẽ rất hữu ích trong việc phát hiện các trường hợp khả
nghi mà cơ quan thuế nội địa phải phân tích thêm trước khi tiến hành bất kỳ hành
động kiểm soát nào ngay tại hiện trường. Ứng dụng này là một công cụ nghiên cứu
phân tích giành cho các cơ quan thuế ở địa phương, các cơ quan trong khu vực có
trách nhiệm kiểm soát, điều phối và đánh giá các kết quả phân tích từ chương trình
này.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam?
Áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nguồn thu là một yêu cầu
cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý thuế đã được Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài
chính khẳng định. Tuy nhiên, cần tiếp tục đi sâu và đưa công nghệ vào từng nội
dung cụ thể, mà ở đây là các mã số thuế VAT.
Thuế VAT là một sắc thuế quan trọng và nguồn thu lớn của ngân sách, do
vậy việc tập trung nguồn lực và nghiên cứu tiếp thu công nghệ quản lý của các nước
tiên tiến trên thế giới là hướng đi đúng và hiệu quả của cơ quan quản lý thuế trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, văn bản quy ước giữa Bộ trưởng Tài chính và cơ quan thuế.
Bộ trưởng Tài chính và cơ quan thuế mỗi năm đưa ra một văn bản quy ước
trong đó quy định rõ các mục tiêu của cơ quan thuế và sự phân bổ các nguồn tài
chính liên quan. Bản quy ước có giá trị trong vòng ba năm và được cập nhật sau
mỗi năm tài chính.
25
Ví dụ, bản quy ước trong thời gian từ năm 2005 – 2007 đưa ra các kế hoạch
chiến lược như sau:
(1) Nâng cao tính hiệu quả trong các hoạt động có liên quan tới phòng chống
trốn thuế. Mục đích là để nâng cao số lượng kiểm soát đối với các đối tượng nộp
thuế nhằm đảm bảo:
• Tiến hành kiểm toán tài chính đầy đủ đối với các công ty lớn nhưng cũng
không bỏ qua các đối tượng nộp thuế khác;
• Tiến hành kiểm tra ngay tại hiện trường để kiểm tra sự tuân thủ của các đối
tượng nộp thuế;
• Kiểm soát tổng thể các báo cáo doanh thu để nộp thuế;
• Giảm thiểu các vụ việc khái nại có liên quan đến pháp lý.
(2) Cung cấp dịch vụ cao cấp hơn cho cộng đồng và các đối tượng nộp thuế
nhằm các mục đích:
• Nâng cao mức độ tự nguyện tuân thủ;
• Nâng cao hiệu quả thu thuế;
• Cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan thu thuế và đối tượng nộp thuế;
• Củng cố việc thi hành Luật thuế, kể cả ở cấp quốc tế.
(3) Xây dựng các mô hình tổ chức và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực
nhằm các mục đích:
• Tăng cường đổi mới cơ cấu tổ chức ở các cấp;
• Phát triển quy trình quản lý nhân sự mới;
• Cải thiện quan hệ giữa cơ quan thuế và cộng đồng.
Bài học cho Việt Nam trong kinh nghiệm này là gì?
Theo Luật Quản lý thuế và các luật liên quan thì hàng năm Quốc hội, Chính
phủ, Bộ Tài chính Việt Nam thường giao chỉ tiêu các nhiệm vụ về thu ngân sách
cho cơ quan Thuế và Hải quan theo hệ thống quản lý của mình. Tuy nhiên, theo
kinh nghiệm ở đây thì giao chỉ tiêu trong 3 năm liên tiếp có mặt lợi ích của nó là
tính chủ động và bù trừ. Ví dụ có năm kết quả thu đạt chỉ tiêu vượt mức hoặc có
năm lại không thể đạt mức thu do khách quan. Cụ thể, năm 2015 giá dầu thô giảm
26
nên khả năng thu không thể như kế hoạch đã đề ra. Vậy nếu xử lý theo cách kế
hoạch 3 năm thì áp lực sẽ giảm đi và tính chủ động sẽ tăng cao hơn, năm này bù trừ
cho năm kia sẽ là một chính sách hay và hiệu quả.
Thứ ba là “các cảnh báo sớm”
“Các cảnh báo sớm” là một ứng dụng công nghệ thông tin liên tục được nâng
cấp, nhằm mục đích để tiến hành kiểm soát sớm đối với những hành vi khả nghi,
ngay từ những dấu hiệu trốn thuế đầu tiên. Thực ra, chương trình này muốn nhấn
mạnh sự chênh lệch và bất thường có liên quan tới tất cả các đối tượng có mã số
thuế VAT, bằng cách kiểm tra các giao dịch tiến hành trong 36 tháng gần nhất và
kiểm tra chéo một vài chỉ số rủi ro có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đối
tượng nộp thuế.
(1) Các chỉ số rủi ro chính có liên quan trực tiếp tới đối tượng nộp thuế là:
- Không nộp một phần hoặc toàn bộ thuế VAT;
- Các đối tượng nợ thuế VAT;
- Mức thuế VAT ấn định;
- Công ty vừa giải thế hoặc phá sản;
- Hoạt động có liên quan tới Hải quan;
- Các giao dịch thực hiện trong khu vực EU;
- Thay đổi địa chỉ báo cáo thuế hoặc địa điểm hợp pháp khác với nơi diễn ra
hoạt động thực tế;
- Yêu cầu được hoàn thuế;
- Những người ở độ tuổi trên 75 hoặc dưới 18 có mã số thuế VAT.
(2) Các chỉ số rủi ro khác do ứng dụng này xử lý là các chỉ số có liên quan
gián tiếp tới các đối tượng nộp thuế vì các chỉ số này có liên quan tới những đối
tượng khác có quan hệ làm ăn với đối tượng nộp thuế, ví dụ cùng là đại diện hợp
pháp, đối tác hoặc giám đốc. Các chỉ số rủi ro gián tiếp bao gồm:
- Ấn định mức thuế trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Xuất hoá đơn giả;
- Phá sản hoặc bị buộc phải dừng các hoạt động hành chính;
27
- Đối tượng trốn toàn bộ thuế;
- Ngừng hoạt động trong vòng 01 năm kể từ ngày thành lập.
Thông tin được các cán bộ thuế kiểm tra chéo dựa trên các phương pháp do
phòng nghiên cứu phân tích trung ương đưa ra nhằm lựa chọn các đối tượng nộp
thuế cần kiểm tra.
Bài học cho Hải quan Việt Nam.
Tính chủ động của hoạt động quản lý là yếu tố ưu việt đầu tiên với kinh
nghiệm này. Cơ quan quản lý thuế phải luôn chủ động và linh hoạt trong việc áp
dụng CNTT để xử lý mọi thông tin có liên quan đến người nộp thuế xuất hiện được
đánh giá là có rủi ro từ nhỏ đến lớn, trong một thời gian hạn định được theo dõi cập
nhật trên hệ thống. Nguyên tắc quản lý ở đây được đưa ra là không thể để “mất bò
mới lo làm chuồng”. Tất cả các thông tin liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
người nộp thuế và các mối quan hệ nhằng nhịt, đan xen đều được thu thập, cập nhật
và phân tích sớm nhất để cơ quan quản lý thuế các cấp có định hướng chủ động và
sớm có biện pháp quản lý hiệu quả và kịp thời.
1.4.2. Tại Philippine:
Chính phủ Philippine cũng thực hiện chính sách khuyến khích người dân tố
giác hành vi trốn thuế cho cơ quan công quyền sẽ được thưởng việc cung cấp thông
tin, hoặc được hưởng 10% số thuế truy thu và danh tính người báo tin được giữ bí
mật.
Việc nộp thuế của các doanh nghiệp được thực hiện thông qua ngân hàng,
đại lý được ngân hàng trung ương ủy quyền thu không quá 30 ngày kể từ ngày
thông quan hàng hóa. Nếu doanh nghiệp nộp không đủ tiền thuế sẽ bị phạt tăng
thêm 25% số tiền thuế đó. Trường hợp doanh nghiệp gian lận, gây thất thu ngân
sách nhà nước sẽ bị nộp phạt thêm 50% số tiền thuế phải nộp. Vì vậy, cơ quan quản
lý thuế tại Philippine được thuận lợi hơn, kiểm soát chặt chẽ hơn.
1.4.3. Tại New Zealand:
Theo quy định, Luật Hải quan New Zealand gồm 399 Điều khoản và 4 phụ
lục; các quy định về xác định trị giá hải quan cho hàng hóa nhập khẩu được quy
28
định từ Điều 60 đến Điều 63 và phụ lục 2 của Bộ luật. Các văn bản quy định liên
quan đến lĩnh vực hải quan là văn bản Luật với mức độ chi tiết cao, nên rất thuận lợi
cho doanh nghiệp khi áp dụng trong việc khai báo hải quan, nếu doanh nghiệp
vướng mắc thì cơ quan hải quan có trách nhiệm hướng dẫn, giải thích. Đối với Hải
quan New Zealand, nhà nước ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể cho cán bộ hải
quan (bộ phận kiểm tra sau thông quan chịu trách nhiệm kiểm tra trị giá) trong việc
xác định giá tính thuế hàng hóa, việc thông quan hàng hóa sẽ thuận lợi hơn khi cán
bộ hải quan thực hiện. Do đó, giảm hao phí thời gian cho doanh nghiệp và cơ quan
hải quan trong việc quản lý giá tính thuế.
Thủ tục xác định trị giá hải quan của New Zealand kết nối với hệ thống
thông quan điện tử hàng hóa nhập khẩu. Trường hợp doanh nghiệp đăng ký tờ khai
và được cơ quan hải quan chấp nhận thì thực hiện việc thông quan hàng hóa cho
doanh nghiệp; nếu cơ quan hải quan không rõ, chứng từ liên quan đến hàng hóa
chưa đầy đủ thì cơ quan hải quan sẽ nghiên cứu thêm, thực hiện kiểm tra hàng hóa
với tỷ lệ 2% - 3% trên tổng lượng hàng hóa nhập khẩu; và nếu cơ quan hải quan
nghi ngờ liên quan đến việc khai sai trị giá, trị giá thấp… thì sẽ chuyển trực tiếp cho
bộ phận kiểm tra sau thông quan để tiếp tục kiểm tra trị giá sau khi hàng hóa được
giải phóng. Trường hợp trị giá hàng hóa nhập khẩu không được chấp nhận thì Cục
trưởng hải quan địa phương ra quyết định điều chỉnh giá; nếu doanh nghiệp không
đồng ý thì sẽ khiếu kiện đến cơ quan hải quan vùng (trong vòng 28 ngày sau khi có
quyết định của cơ quan hải quan) và tòa án quốc gia là cơ quan giải quyết sau cùng.
1.4.4. Tại Malaysia:
Hải quan Malaysia đầu tư phương tiện và nguồn nhân lực cho công tác
chống thất thu thuế và gian lận thương mại, trong đó chú trọng công tác trao đổi
thông tin về thủ tục hải quan, thông tin về thất thu thuế đối với những mặt hàng
nhạy cảm, phức tạp, lưỡng dụng, khó xác định mã số. Hải quan Malaysia, định kỳ
tổ chức gặp gỡ với DN để trao đổi về những vướng mắc đối với thủ tục hải quan và
cung cấp thông tin về các quy định mới của hải quan.
29
Hải quan Malaysia khuyến khích các DN hoạt động XNK tham gia vào công
việc chống thất thu thuế và chống gian lận thương mại, cụ thể:
- Thành lập ủy ban hỗn hợp giữa cơ quan Hải quan và các DN làm đại lý Hải
quan để hổ trợ DN trong việc khai hải quan, trong đó chú trọng công tác xác định
mã số hàng hóa HS, xác định trị giá tính thuế theo phương pháp GATT. Sự tham
gia tích cực của các DN đại lý làm thủ tục hải quan giúp cho Hải quan trong công
tác chống thất thu thuế và chống gian lận thương mại đạt hiệu quả cao; xây dựng
mối quan hệ chặt chẽ giữa Hải quan – DN từ đó giúp cho công tác thông quan hàng
hóa được nhanh chóng.
- Việc triển khai Hiệp định trị giá GATT/WTO tại Malaysia, Hải quan
Malaysia thực hiện phương pháp quản lý hải quan hiện đại như quản lý rủi ro, kiểm
tra sau thông quan, phối hợp với Cục điều tra chống buôn lậu để xác định đối tượng,
mặt hàng trọng điểm để tiến hành tập trung kiểm tra; Cơ quan Hải quan có quyền
yêu cầu DN cung cấp tòan bộ hồ sơ hải quan, chứng từ, số sách kế toán có liên quan
đến hàng hóa để kiểm tra.
- Hải quan Malaysia có Cục nghiệp vụ quản lý việc thực hiện Hiệp định trị
giá GATT/WTO, kiểm tra cơ sở dữ liệu về giá để so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, còn
có Cục ngăn chặn và Điều tra đây là đơn vị chịu trách nhiệm toàn bộ thông tin tình
báo và tiến hành điều tra những vụ việc ở mức độ quốc gia; Cục kiểm tra sau thông
quan (KTSTQ) là đơn vị quản lý công tác kiểm tra sau thông quan. Ba bộ phận này
phối hợp rất chặt chẽ nhằm ngăn chặn gian lận thương mại, chống thất thu thuế
nhập khẩu. Các đơn vị Hải quan vùng nhận thông tin tình báo từ Tổng cục, và thu
thập thông tin tình báo để tiến hành điều tra và thực hiện công tác KTSTQ, các hành
vi gian lận thương mại. Tại các cửa khẩu, Hải quan có các bộ phận quản lý giá hàng
hóa nhập khẩu, thu thập thông tin, điều tra về giá nhập khẩu hàng hóa, nhằm mục
đích chia sẽ thông tin và thực hiện các biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu.
Kết luận Chương 1:
Trong Chương 1, tác giả tập trung nghiên cứu sâu các khái niệm về thuế
nhập khẩu, vai trò của thuế nhập khẩu; thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải
30
chống thất thu thuế nhập khẩu. Qua đó, tác giả tập trung phân tích thất thu thuế
nhập khẩu nó ảnh hưởng như thế nào đến cán cân thánh toán, môi trường đầu tư,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp…Bên cạnh đó, tác giả nêu một số kinh nghiệm
của hải quan các nước về công tác chống thất thu thuế nhập khẩu, gian lậm thương
mại nhằm làm rõ mục tiêu của luận văn cần hướng tới.
Trong Chương 2, Tác giả nêu khái quát tình hình thu thuế nhập khẩu tại Cục
Hải quan Long An; và tiến hành phân tích, đánh giá công tác chống thất thu thuế
nhập khẩu trên cơ sở các biện pháp mà Cục Hải quan Long An đã vận dụng trong
thời gian qua.
31
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI
CỤC HẢI QUAN LONG AN.
2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Cục Hải quan tỉnh Long
An.
Căn cứ Quyết định số: 1027/QĐ-BTC ngày 11/5/2010 của Bộ Trưởng Bộ
Tài Chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Hải
quan tỉnh Long An trực thuộc Tổng Cục Hải quan như sau:
2.1.1. Vị trí và chức năng:
Cục Hải quan tỉnh Long An là tổ chức trực thuộc Tổng cục Hải quan, có
chức năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lý nhà nước về hải quan
và tổ chức thực thi pháp luật về hải quan, các quy định khác của pháp luật có liên
quan trên địa bàn hoạt động của Cục Hải quan theo quy định của pháp luật.
Cục Hải quan tỉnh Long An có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở
tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn:
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai thực hiện các quy định của nhà
nước về hải quan trên địa bàn hoạt động của Cục Hải quan.
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục Hải quan trong việc tổ chức triển
khai nhiệm vụ được giao.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về hải quan theo
quy định của pháp luật.
- Xử lý vi phạm hành chính hoặc khởi tố đối với các vụ buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại
đối với các quyết định hành chính của các đơn vị trực thuộc và giải quyết khiếu nại,
tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật….
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Long An:
32
Cục Hải quan Long An được thành lập theo Quyết định 129/QĐ-TCCB ngày
19/05/1989 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Hiện tại, toàn Cục có 135
CBCC và 11 nhân viên Hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo Nghị định
68/2000/NĐ-CP, làm việc tại 05 Phòng tham mưu giúp việc, 06 Chi cục Hải quan, 1
Chi cục Kiểm tra sau thông quan và 1 Đội Kiểm soát Hải quan.
Biên chế hiện có của đơn vị là 135/139 trong định biên; 11/16 HĐLĐ không
xác định thời hạn theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Về Trình độ cán bộ công chức:
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ là 06 đ/c (tỷ lệ 4.4%); Đại học 112 (tỷ lệ 83%); Cao
đẳng và trung cấp: 13 (tỷ lệ 9.6%); còn lại: 04 (tỷ lệ 3%); Anh văn trình độ A trở
lên: 131 (tỷ lệ 97%); Tin học trình độ A trở lên: 133 (tỷ lệ 98.5%); Lý luận chính
trị: Cao cấp 12 (chiếm 8.8%); Trung cấp 43 (chiếm 31.9%); Quản lý Nhà nước: 79
(chiếm 58.5 %).
Theo Quyết định số: 1027/QĐ-BTC ngày 11/5/2010 của Bộ Trưởng Bộ Tài
Chính thì Cục Hải quan tỉnh Long An có các đơn vị trực thuộc như sau:
- Các đơn vị tham mưu giúp Cục trưởng Cục Hải quan
+ Phòng Nghiệp vụ;
+ Phòng Chống buôn lậu và Xử lý vi phạm;
+ Phòng Thanh tra;
+ Phòng Tổ chức cán bộ;
+ Văn Phòng.
- Các Chi cục Hải quan, Chi cục Kiểm tra sau thông quan, Đội Kiểm soát
Hải quan, trực thuộc Cục Hải quan tỉnh Long An.
2.2. Tình hình thu thuế, công tác chống thất thu thuế nhập khẩu của Cục Hải
quan Long An giai đoạn 2010 – 2014.
2.2.1. Tình hình thu thuế nhập khẩu:
Cục Hải quan Long An thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về Hải quan
trên địa bàn thuộc ba tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre. Cục Hải quan Long An tổ
chức, chỉ đạo, hướng dẫn các Chi cục thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa
33
xuất khẩu, nhập khẩu; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh; tổ chức thu thuế
xuất khẩu, nhập khẩu và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua tình hình thu thuế xuất nhập khẩu được Ngành Hải
quan và Bộ tài chính giao thu ngân sách tăng dần qua các năm từ 2010-2014 (tăng
bình quân 54,5% do Bộ Tài Chính và tăng bình quân 64,48% do TCHQ giao). Để
hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách qua các năm thì Lãnh đạo Cục phải đề ra nhiều
giải pháp trong đó có công tác chống thất thu thuế là nhiệm vụ trọng tâm; và công
chức toàn đơn vị phải nỗ lực mới hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. Kết quả như sau:
- Kim ngạch XNK:
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của
Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
STT Số DN
Tỷ lệ(%)
Số TK
Tỷ lệ(%)
Kim ngạch
Tỷ lệ(%)
XNK
ĐVT: triệu USD.
2010 368 +22 58.109 +80 1,975.153 +15
2011 478 +30 63.786 +9,8 3,144.345 +59
2012 528 +13 82.916 +30 3,834.910 +29
2013 758 +44 115.952 +40 5,064.625 +38
(Trích nguồn báo cáo năm 2010-2014 của Cục Hải quan Long An)
2014 901 +19 160.088 +33 6,710.787 +33
Kết quả hoạt động của Cục Hải quan Long An giai đoạn 2010-2014 cho thấy
tình hình tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp ngày càng
tăng nhanh cả về số lượng doanh nghiệp và kim ngạch xuất nhập khẩu. Nếu tính tốc
độ tăng bình quân kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2010- 2015 là 34,8%
và số tờ khai tăng 38,56%, trong khi đó biên chế không tăng hoặc tăng không đáng
kể nên việc giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp tại các khâu trước, trong thông quan là một áp lực công việc rất lớn
đối với công chức hải quan. Bên cạnh đó, thực hiện chính sách thu hút đầu tư của
34
các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre thì Cục Hải quan Long An phải không
ngừng cải cách thủ tục hành chính, bố trí nhận sự tại các khâu trong quy trình
nghiệp vụ hải quan phải phù hợp, trang bị phương tiện phục vụ cho việc thông quan
hàng hóa, đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử và tiến tới thông quan tự
động thông qua hệ thống Vnaccs/Vcis thì mới có thể đáp ứng yêu cầu công việc.
- Công tác thu thuế nhập khẩu:
Bảng 2.2 Số thu thuế xuất nhập khẩu của
Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
STT
Số thu thuế theo kế
Tỷ lệ
Số thu
So với kỳ
Kết quả thu NSNN
hoạch
thuế
trước
(-/+)%
(+/-)%
thực hiện
Bộ TC
TCHQ
TCHQ
Bộ
Bộ TC
TCHQ
TC
(+/-)%
(+/-)%
2010
205.000
230.000 24,24
39,39
+64
+112
+88
433.810
2011
360.000
400.000
75,6
73,91
+163
+217
+185
1.141.930
2012
935.000
965.000 159,7
141,2
-15
+4
+0,06
970.970
2013
1.000.000 1.070.000
6,95
10,88
+13 +11,01
+3
1.101.200
2014
1.060.000 1.680.000
6
57
+63,5
+70
+7
1.801.430
(Trích nguồn báo cáo năm 2010-2014 của Cục Hải quan Long An)
ĐVT: Triệu đồng.
Cục Hải quan Long An quản lý các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu
trên địa bàn ba tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre có những thuận lợi, khó khăn,
cơ hội và thách thức.
+ Điểm mạnh: Các khu công nghiệp của tỉnh Long An tập trung tiếp giáp các
huyện thuộc TP. Hồ Chí Minh, khoảng cách rất gần nên rất thuận lợi cho các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư từ TP. Hồ Chí Minh di chuyển về Long An vì nguồn lao
35
động rẻ, chi phí đầu tư thấp, ưu đãi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp …trong
khi đó khoảng cách vận chuyển hàng hóa ngắn, thuận tiện cho việc đi lại của các
nhà đầu tư.
+ Điểm yếu: Kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng nhu cầu đối với việc
vận chuyển nguyên liệu, vật tư, hàng hóa xuất nhập khẩu; doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa tạo ra giá trị gia tăng cho địa
phương, chủ yếu là giải quyết việc làm đối với lao động phổ thông, còn gây ô nhiểm
môi trường…Bên cạnh đó, nguồn lao động để cung cấp cho các doanh nghiệp chủ
yếu là lao động từ nông nghiệp chưa được đào tạo chuyên nghiệp mang tính công
nghiệp, trình độ còn thấp.
+ Cơ hội: Do tiếp giáp TP. Hồ Chí Minh, cùng với chính sách ưu đãi đầu tư
của địa phương thì sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư; đặc biệt là đầu
tư vào lính vực công nghệ thông tin, điện tử. Ngoài ra, người lao động cũng có điều
kiện tiếp cận công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các doanh nghiệp nước ngoài; tiếp thu
cách quản lý hiện đại; công chức hải quan phải thay đổi thái độ trong giao tiếp, cách
giải quyết công việc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
+ Thách thức: Hiện nay, theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật thì các Doanh nghiệp được phép làm thủ tục xuất nhập
khẩu hàng hóa tại bất kỳ địa điểm làm thủ tục hải quan trên toàn quốc nếu doanh
nghiệp thuận lợi, khai báo hải quan thông suốt 24/24 giờ. Số thu thuế nhập khẩu
được giao tăng dần qua các năm; theo cam kết của Việt Nam với các nước trong
khu vực và thế giới thì phải cắt giảm thuế nhập khẩu. Do đó, để hoàn thành nhiệm
thu ngân sách nhà nước thì Lãnh đạo và công chức hải quan phải thay đổi nhận thức
từ cách quản lý sang phục vụ - quản lý, lấy mục tiêu phục vụ làm trọng tâm; nếu
không thì cơ quan hải quan sẽ không hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong đó nhiệm
vụ thu ngân sách nhà nước là quan trọng nhất.
Qua bảng số liệu trên, tình hình thu thuế nhập khẩu do Bộ Tài Chính và Tổng
Cục Hải quan giao cho Cục Hải quan Long An tăng bình quân với tốc độ rất cao so
với tốc độ phát triển kinh tế của cả nước nói chung và Tỉnh nói riêng trong 5 năm là
36
54,5% (Bộ Tài Chính) và 64,48% (TCHQ); trong khi đó thuế nhập khẩu theo cam
kết Việt Nam phải cắt giảm, điều này có khả năng còn một số nguồn thu chưa thu
đúng hoặc chưa đủ và hoặc là thất thu thuế nhập khẩu. Để hoàn thành nhiệm vụ thu
ngân sách nhà nước ( tăng thu bình quân 82,80% do Bộ tài Chính và 56,62% do
TCHQ) thì Lãnh đạo và công chức Cục Hải quan Long An phải đề ra nhiều giải
pháp thu ngân sách nhà nước, trong đó tập trung quyết liệt công tác chống thất thu
thuế nhập khẩu, không để nợ thuế mới phát sinh….
2.2.2. Tình hình nợ động và thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu:
Bảng 2.3 Nợ đọng và công tác thu hồi nợ đọng
thuế xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
STT
Nợ đọng
Kết quả thu hồi nợ đọng
Số tiền
Tỷ lệ (-/+)%
Số tiền
Tỷ lệ (%)
ĐVT: Triệu đồng.
2010 133.640 -7 83,52 0,062
2011 8.732 -93,46 2.320 2.677
2012 23.987 +174,7 3.051 131,5
2013 12.143 -49,37 12.890 322,48
(Trích nguồn báo cáo năm 2010-2014 của Cục Hải quan Long An)
2014 2.975 -75,5 3.346 25,96
Căn cứ Điều 42 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 thì
thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đều được ân hạn thuế (trừ hàng hóa
tiêu dùng), đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ đọng thuế, thậm chí
gây thất thu thuế nhập khẩu; bởi vì một số doanh nghiệp không chấp hành tốt phát
luật nhập khẩu hàng hóa về và tiến hành bán ngay, sau đó tiếp tục nhập khẩu...khi
đến hạn nộp thuế thì Doanh nghiệp đưa ra nhiều lý do để kéo dài thời hạn nộp thuế,
thậm chí không nộp thuế mà còn bỏ trốn hoặc tự giải thể doanh nghiệp. Vì vậy, cơ
quan hải quan mất rất nhiều thời gian để thu hồi nợ đọng thuế nhưng hiệu quả thì
không cao.
37
Căn cứ Điều 42 Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 sửa
đổi, bổ sung một số Điều Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 có hiệu lực từ ngày
01/7/2013 quy định chặt chẽ hơn tính chấp hành pháp luật của doanh doanh nghiệp
về thời hạn nộp thuế đối với các loại hình nhập khẩu; trong đó loại hình xuất khẩu,
nhập khẩu thì phải nộp thuế ngay hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng (trừ loại
hình nhập nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu). Từ đó, nợ đọng thuế giảm rất nhiều
và doanh nghiệp cũng không còn cơ hội để kéo dài thời gian nộp thuế vì không nộp
thuế hoặc không được tổ chức tín dụng bảo lãnh thì không được nhận hàng hóa,
nguyên liệu, vật tư về sản xuất. Bên cạnh đó, Cục Hải quan Long An đẩy mạnh
công tác thu hồi nợ thuế, nếu doanh nghiệp cố tình chây ỳ thì ban hành quyết định
cưỡng chế và thông báo trên hệ thống toàn Ngành, doanh nghiệp không mở tờ khai
hải quan được và buộc doanh nghiệp phải thanh toán hết nợ thuế (trừ doanh nghiệp
giải thể), nên số thu hồi nợ thuế nhập khẩu tăng 322,48%, nợ thuế giảm từ 49,37%
lên 75,5%.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu đối với hàng hóa trong từng thời kỳ có sự
thay đổi, nhất là từ khi áp dụng Luật thuế sửa đổi bổ sung Luật thuế số
78/2006/QH11 thì các doanh nghiệp phải chủ động đối với nguồn tài chính, không
thể trông chờ vào nhà nước, các doanh nghiệp không có điều kiện về tài chính thì
ký kết với ngân hàng để bảo lãnh tiền thuế nhập khẩu hàng hóa, tình hình nợ thuế
không phát sinh và cơ quan hải quan không phải mất nhiều thời gian cho công tác
này, vì trong thời gian qua việc doanh nghiệp được ân hạn thuế nhập khẩu là một
trong những nguyên nhân gây nên nợ thuế, chây ỳ hoặc trốn thuế làm cho tình hình
thất thu thuế nhập khẩu tăng lên và việc giải quyết hậu quả mất rất nhiều thời gian
nhưng việc thu hồi nợ thuế không cao.
2.2.3. Tình hình hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuế nhập khẩu:
Bảng 2.4 Hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuế
xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
38
Không thu thuế
Miễn thuế (triệu USD)
STT
Hoàn thuế
(tỷ đồng)
(tỷ đồng)
Tổng
Số tiền Tỷ lệ +/-
Tổng
Số tiền
Tỷ lệ +/-
Tổng
Số tiền
Tỷ lệ +/-
số
(%)
(%)
số
(%)
số
QĐ
QĐ
QĐ
159,47
2010
354
11,30
+70
+64
166
8.830
+15
681
147,65
2011
512
26,21
+145
-11
231
282,856
-96,8
571
2012
426
28,80
+9,9
316,83
+115
237
471,311 +66,63
632
2013
300
10,85
-62,3
241,53
-23,8
155
199,535
-57,66
519
2014
448
58,25 +436,92
489,44
102,64
157
0,6
-99,7
714
(Trích nguồn báo cáo năm 2010-2014 của Cục Hải quan Long An)
Tình hình hoàn thuế, không thu thuế đối với loại hình nhập nguyên liệu để
sản xuất xuất khẩu (NSXXK); các doanh nghiệp không đủ điều kiện để ân hạn thuế
nhập khẩu 275 ngày thì phải nộp thuế ngay hoặc quá 275 ngày mà chưa có sản
phẩm xuất khẩu, hoặc lượng nguyên liệu kiểm tra tại doanh nghiệp không còn tồn
kho thì doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu, thuế GTGT. Khi doanh nghiệp xuất
khẩu sản phẩm và nộp đầy đủ chứng từ theo quy định thì cơ quan hải quan ban hành
quyết định hoàn thuế, không thuế cho doanh nghiệp. Còn đối với trường hợp miễn
thuế nhập khẩu, xét miễn thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An đối với loại
hình gia công, nhập khẩu máy móc tạo tài sản cố định. Đối với loại hình NSXXK và
GC, doanh nghiệp thường xây dựng định mức và tỷ lệ hao hụt cao hơn thực tế nhằm
trốn thuế nhập khẩu và bán lượng nguyên liệu, vật tư dư thừa vào thì trường nội địa;
hoặc cơ quan hải quan quản lý tình hình xuất nhập khẩu của doanh nghiệp không
chặt chẽ thì doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu, vật tư , máy móc…bán vào thì
trường nội địa rồi bỏ trốn, vì đối với hai loại hình này doanh nghiệp được phép thuê
đất, nhà xưởng, máy móc thiết bị và chưa có sự ràng buộc cụ thể đối với trách
nhiệm của doanh nghiệp. Đây là hai loại hình dễ gây thất thu thuế nhập khẩu.
39
Đối với cơ quan hải quan thì việc xây dựng định mức, tỷ lệ hao hụt trong quá
trình sản xuất thuộc về kỹ thuật cần có chuyên môn sâu trong lĩnh vực này; một số
doanh nghiệp không chấp hành tốt pháp luật lợi dụng vào việc phân luồng tờ khai
của hệ thống để khai báo chủ yếu tập trung vào luồng xanh để gian lận trọng lượng,
số lượng hàng hóa để thu lợi bất chính; hoặc loại hình NSXXK lợi dụng nguyên liệu
từ nguồn nhập khẩu kinh doanh để kết hợp và sản xuất hàng hóa để xuất khẩu và
nhận hoàn thuế nhập khẩu đối với loại hình NSXXK, bởi vì nguồn nguyên liệu, vật
tư nhập khẩu về doanh nghiệp tự quyền quyết định, nếu bán vào thị trường lượng
nguyên liệu, vật tư trong vòng hai năm không hết hoặc không được, khi doanh
nghiệp đưa vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm thì được hoàn thuế nhập khẩu, nếu
cơ quan hải quan không kiểm soát được việc hạch toán chứng từ, sổ sách kế toán
đối với lượng nguyên liệu, vật tư đã nhập khẩu và thực tế đã bán và nếu doanh
nghiệp nhập nhiều khai ít, khai không đúng tên hàng, thuế suất…thì việc hoàn lại số
thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp là gây thất thu thuế nhập khẩu rất lớn cho ngân
sách Nhà nước.
Qua bảng phân tích số liệu cho thấy tốc độ hoàn thuế nhập khẩu (NK) tăng
bình quân 120%, không thu thuế NK tăng bình quân 49,37%; đây là một công việc
hết sức phức tạp, đầy rủi ro bởi vì công chức quyết toán hồ sơ hoàn thuế, không thu
thuế phần lớn căn cứ vào tính hợp lệ của hồ sơ, tính chấp hành pháp luật của DN để
quyết định việc hoàn thuế, không thu thuế cho DN; trong khi đó một hồ sơ hoàn
thuế, không thu thuế liên quan đến nhiều tờ khai, quyết toán nhiều lần, nguồn
nguyên liệu (NL), vật tư (VT) DN sử dụng từ nhiều loại hình nhập khẩu với các tờ
khai khác nhau, nếu công chức hải quan không nắm vững pháp luật quy định đối
với từng loại hình xuất nhập khẩu, kiểm tra chứng từ thanh toán với phía nước
ngoài, sổ sách kế toán của DN…thì rất dễ dẫn đến hoàn thuế, không thu thuế nhầm
lẫn gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.
2.3. Tình hình chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An.
2.3.1. Đánh giá chung:
40
Tình hình thu ngân sách Nhà nước của Ngành Hải quan được Quốc Hội,
Chính phủ hầu hết tăng qua các năm như: năm 2010: 131.500 tỷ đồng; năm 2011:
180.700 tỷ đồng; năm 2012: 223.900 tỷ đồng; năm 2013: 237.500 tỷ đồng; năm
2014: 224.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo số liệu Tổng cục hải quan tình hình thu thuế
xuất khẩu, nhập khẩu có xu hướng giảm dần do phải cắt giảm thuế theo lộ trình cam
kết của Việt Nam nhưng Quốc Hội, Chính phủ, Bộ tài chính vẫn giao tăng hàng
năm góp phần điều chỉnh cơ cấu thu ngân sách Nhà nước theo hướng bền vững và
phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất
thu thuế; Cụ thể giai đoạn 2010-2015 số thu bình quân chiếm khoảng 15%-16%
tổng thu ngân sách nhà nước. Trong những năm gần đây, do tác động của việc thực
hiện cam kết cắt giảm thuế quan, tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập
khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước giảm dần ( năm 2011 số thu NSNN từ thuế
xuất nhập khẩu đạt 65.622 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 9,09%; năm 2012 số thu đạt
60.066 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,96%; năm 2013 số thu đạt 66.450 tỷ đồng, chiếm
tỷ trọng 8,22%; năm 2014 số thu đạt 80.099 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,99%; ước thu
năm 2015 đạt 81.200 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 8,11%). Giai đoạn 2011-2015, tốc độ
tăng thu từ thuế xuất nhập khẩu ước đạt 5,8%. Về cơ cấu thu NSNN, bình quân giai
đoạn 2011-2015 thu từ thuế xuất khẩu chiếm 20,5%; thu từ thuế nhập khẩu chiếm
79,5% tổng số thu thuế xuất nhập khẩu.
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu của Ngành Hải quan chủ yếu tập
trung các hành vi gian lận, trốn thuế, khai sai định mức thực tế đối với loại hình gia
công - NSXXK, khai báo hải quan không đúng so với số lượng hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu…Kết quả như sau: Năm 2010: 261,90 tỷ đồng tăng 14%; năm 2011:
512,5 tỷ đồng tăng 76%; năm 2012: 1.373 tỷ đồng tăng 2,5 lần; năm 2013: 1.643,7
tỷ đồng tăng 20%; năm 2014: 1.677,5 tỷ đồng tăng 2,05%.
Số thu ngân sách Nhà nước do Bộ tài chính giao cho Cục Hải quan Long An
cũng tăng dần qua các năm với mức chênh lệch cao (năm 2010: 205 tỷ đồng, năm
2011: 360 tỷ đồng, năm 2012: 935 tỷ đồng; năm 2013: 1.101,2 tỷ đồng; năm 2014:
1.060 tỷ đồng; năm 2015: 2.000 tỷ đồng). Bên cạnh đó, công tác kiểm tra sau thông
41
quan nhằm mục đích chống thất thu thuế nhập khẩu được Tổng cục hải quan giao
tăng về số cuộc kiểm tra và số tiền chống thất thu thuế nhập khẩu cũng tăng cao (chi
tiết xem mục 2.6.1).
Trên cơ sở thực hiện công tác chống thất thu thuế nhập khẩu theo chủ trương
chung của Ngành hải quan, Cục Hải quan tỉnh Long An đã đề ra các biện pháp
chống thất thu thuế nhập khẩu, cụ thể là: gian lận định mức đối với loại hình GC -
NSXXK, trốn thuế và nợ đọng thuế nhập khẩu; lợi dụng những bất cập trong quy
trình thủ tục Hải quan mới, sự thay đổi chính sách mặt hàng, chính sách ưu đãi đầu
tư, các đối tượng lợi dụng việc áp dụng quản lý rủi ro, hệ thống phân luồng tự động
trong quy trình thủ tục Hải quan…
2.3.2. Biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu đã triển khai:
Công tác thu thập thông tin, hành vi vi phạm hành chính, hàng hóa của doanh
nghiệp xuất nhập khẩu… được cập nhật thường xuyên, liên tục. Đây là điều kiện
quan trọng nhất giúp cho công chức hải quan khai thác dữ liệu, thông tin về doanh
nghiệp để có quyết định chính xác trong việc thông quan hàng hóa. Lực lượng kiểm
tra sau thông quan đã vận hành hệ thống quản lý rủi ro một cách đồng bộ trong toàn
ngành, bước đầu phục vụ hiệu quả quy trình thông quan, cho phép đánh giá, phân
loại rủi ro đối với lô hàng nhập khẩu.
Công tác kiểm tra, xác định trị giá tính thuế, mã số, thuế suất, C/O… hàng
nhập khẩu được thực hiện tại các Chi cục, Chi cục kiểm tra sau thông quan và các
bộ phận có liên quan. Đối với hàng hóa có nghi vấn thì công chức hải quan trực tiếp
làm việc với doanh nghiệp đề nghị cung cấp các chứng từ có liên quan đến hàng
hóa; nếu có đủ cơ sở kết luận doanh nghiệp có hành vi gian lận, trốn thuế thì tiến
hành truy thu thuế và xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp cơ quan hải
quan chưa đủ cơ sở kết luận về hành vi vi phạm của doanh nghiệp nhưng có nghi
ngờ tính không hợp pháp của các chứng từ thì chuyển cho bộ phận kiểm tra sau
thông quan tại Chi cục, Chi cục kiểm tra sau thông quan và các lực lượng chống
buôn lậu tại Cục Hải quan để tiếp tục điều tra, làm rõ.
42
Tập trung kiểm tra hàng hóa nhập khẩu đối với hàng hóa miễn thuế, không
thu thuế đối với loại hình nhập khẩu hàng hóa để gia công, nhập khẩu nguyên liệu
để sản xuất hàng xuất khẩu, danh mục máy móc thiết bị (MMTB) tạo tài sản cố
định. Đây là loại hình dễ gây thất thu thuế nhập khẩu do doanh nghiệp gian lận định
mức, chuyển mục đích sử dụng, lợi dụng việc phân luồng tờ khai của hệ thống
thông quan tự động… Công tác tham mưu chỉ đạo và trực tiếp đấu tranh đã có nhiều
kết quả tốt. Thường xuyên tiến hành công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình tại các
địa bàn trọng điểm để kịp thời phát hiện những đối tượng trọng điểm, những vụ việc
nổi cộm, có rủi ro cao.
Tăng cường công tác phối kết hợp với các lực lượng trong và ngoài Ngành hải
quan đối với công tác điều tra, xử lý những vụ buôn lậu, những doanh nghiệp nợ
đọng tiền thuế xuất, nhập khẩu với số lượng lớn chây ỳ, bỏ trốn, không để nợ thuế
mới phát sinh, xử lý nợ đọng thuế...
Quán triệt tư tưởng cho toàn thể cán bộ công chức trong đơn vị về tình hình
phát triển kinh tế, xã hội, những khó khăn, thách thức do sự biến động về kinh tế;
đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập là vấn đề
then chốt; tạo điều kiện thông thoáng khâu trước thông quan hàng hóa và quản lý,
kiểm tra chặt chẽ khâu sau thông quan; tạo lập môi trường kinh doanh bình đẵng
giữa các doanh nghiệp, chú trọng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp làm ăn chân
chính; kiến quyết xử lý đối với các doanh nghiệp cố tình gian lận, trốn thuế gây thất
thu thuế cho ngân sách nhà nước.
2.3.3. Một số tồn tại:
- Công tác kiểm tra sau thông quan chưa đạt hiệu quả do chưa thực hiện đồng
bộ, năng lực của công chức hải quan chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, cụ
thể chỉ tập trung kiểm tra sau thông quan đối với loại hình gia công và sản xuất xuất
khẩu; còn đối với loại hình nhập khẩu kinh doanh có thực hiện kiểm tra nhưng chưa
đạt kết quả so với quy mô hoạt động doanh nghiệp trên địa bản quản lý.
- Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu đối với loại hình GC, NSXXK gặp
khó khăn trong việc tính toán định mức, tỷ lệ hao hụt vì đây là lĩnh vực đòi hỏi phải
43
có trình độ kỹ thuật chuyên sâu; tính chất lý hóa của nguyên liệu, vật tư do tác động
của môi trường…Ngoài ra, đối với loại hình nhập kinh doanh thì doanh nghiệp
thường khai báo giá thấp so với các hàng hóa cùng loại, cùng nhà sản xuất nhưng
doanh nghiệp đưa ra rất nhiều lý do, cung cấp đầy đủ chứng từ thanh toán, C/O…
- Dữ liệu trên hệ thống Vnaccs/Vcis chưa khai thác một cách hiệu quả, phần
lớn còn thực hiện thủ công nên công tác thu thập thông tin DN để tổ chức công tác
chống thất thu thuế NK còn hạn chế. Hệ thống Vnaccs/Vcis triển khai theo mô hình
tập trung cấp Tổng cục, các hệ thống phần mềm thống kê tại các Cục hải quan
không thực hiện được, một số hệ thống hỗ trợ như KT559, GTT02, Ecustoms…sẽ
phải chuyển lên mô hình tập trung để có thể tương tác dữ liệu với hệ thống
Vnaccs/Vcis và một số phần mềm hỗ trợ liên quan. Cụ thể hệ thống Vnaccs/Vcis
còn thiếu một số chức năng chưa phù hợp với tình hình Việt Nam nhất là loại hình
GC, NSXXK nên cơ quan hải quan xây dựng phần mềm ECUSTOM (V5) để hỗ trợ
nên làm giảm tính hiệu quả của hệ thống.
- Sự phối hợp trao đổi thông tin trong nội bộ ngành Hải quan chưa đáp ứng
tính mau lẹ, mức độ tin cậy trong nội bộ không cao dẫn đến hiệu quả trong công tác
phối kết hợp thấp. Mối quan hệ giữa Hải quan Việt nam với Hải quan các nước
trong khu vực được thiết lập nhưng thông tin còn rất ít, việc tra cứu thông tin hàng
hóa từ phía nước ngoài còn thấp. ..Do vậy, hạn chế lớn trong việc trao đổi thông tin
về trị giá hàng hóa, về xuất xứ hàng trong khi tình hình buôn lậu, gian lận thương
mại diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi trên nhiều bình diện và sắc thái mới.
2.4. Thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An:
2.4.1. Gian lận thuế trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất của hàng
hóa nhập khẩu:
Việc áp mã hàng hóa thực hiện theo phương pháp GATT, trị giá hàng hóa
nhập khẩu được áp dụng một cách tuần tự sáu phương pháp xác định trị giá hải
quan, các tài liệu kỹ thuật, catalogue... Theo quy định của pháp luật thì doanh
nghiệp tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc khai báo của doanh nghiệp nên doanh nghiệp đã thực hiện hành vi mô tả sai tên
44
hàng hóa, tính chất hàng hóa trên tờ khai Hải quan, đưa hàng hóa từ mã số có thuế
suất cao về mã số có thuế suất thấp để gian lận trốn thuế.
Hiện nay, biểu thuế nhập khẩu còn nhiều dòng hàng với cùng một tên gọi,
cùng một mã số nhưng khi phân chia theo phân nhóm thì có phân nhóm có thuế suất
nhập khẩu, có phân nhóm có thuế suất 0%, các doanh nghiệp phần lớn khi áp mã
thường áp vào phân nhóm có thuế suất thấp hoặc bằng 0% để trốn thuế; hoặc DN
lợi dụng sự thông thoáng của chính sách pháp luật trong việc thông quan hàng hóa
DN khai sai tên hàng, chủng loại; hoặc cũng có thể có một loại hàng hóa thông
thường nhìn bằng cảm quan thì không thể xác định chính xác thành phần cấu tạo,
tính chất lý hóa, công dụng… nếu không thực hiện phân tích, phân loại để xác định
mã số thì rất khó xác định mức thuế suất áp dụng cho loại hàng hóa này.
Ví dụ: Thép nhôm kẽm thuộc phân nhóm 7210.60 thuế suất nhập khẩu từ
10%-20%, doanh nghiệp khai báo thành Thép tráng chì thuộc phân nhóm 7210.20
thuế suất 0%.
Ví dụ: Công ty TNHH Xây dựng và thương mại QT khai báo mặt hàng
“Thanh thép không gỉ dạng phôi cán nóng” và “Thép không gỉ cuốn không đều”
khai báo mã số 7221.00.00 với thuế suất nhập khẩu 0%, thực tế khi kiểm tra “ Cây
thép không gỉ thành phẩm” – “ Thép không gỉ ở dạng thanh và que khác, có mặt cắt
ngang hình tròn” thuộc mã số 7222.20.10 và 7222.30.10, thuế suất 10%.
2.4.2. Gian lận thuế trong việc xác định trị giá hải quan:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành quy định nhiều mức thuế suất
khác nhau, đặc biệt đối với thuế suất thuế nhập khẩu. Việc thiết kế nhiều mức thuế
suất trong biểu thuế xuất nhập khẩu gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc
xác định trị giá hải quan, bởi vì người khai hải quan luôn tìm cách để chuyển hàng
hóa có mức thuế suất cao về hàng hóa có mức thuế suất thấp hơn để trốn thuế nhập
khẩu. Xác định giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng
được xác định theo quy định của pháp luật về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập
khẩu, nhưng giá tính thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có thể khác với việc xác
định trị giá hải quan (Điểm 1, 2 Điều 9 Luật thuế XK, thuế NK) bởi vì giá tính thuế
45
là giá thực thanh toán theo giá ghi trên hợp đồng nên doanh nghiệp rất dễ gian lận
qua giá tính thuế.
Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan có hiệu lực thì 70%
lô hàng nhập khẩu được miễn kiểm tra thực tế. Các doanh nghiệp được thực hiện tự
khai báo hải quan về thuế suất, trị giá hải quan, tiền thuế nhập khẩu hàng hóa, tự
nộp thuế và tự chịu trách nhiệm đối với pháp luật về nội dung đã khai báo. Để thực
hiện gian lận thuế nhập khẩu quan trị giá tính thuế, các doanh nghiệp thường khai
báo trị giá thấp đối với những hàng hóa có thuế suất nhập khẩu cao, hàng hóa chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt, nhạy cảm, hàng hóa hay biến động; hoặc khai tăng trị giá giá
tính thuế so với giá thực tế của hàng hóa NK để tăng vốn đầu tư nhằm mục đích
chuyển lậu lợi nhuận ra nước ngoài như các Công ty đa quốc gia, Công ty mẹ -
Công ty con. Ngoài ra, các DN thường không khai báo các khoản phải cộng như:
chi phí bảo hiểm, hoa hồng, môi giới… DN chỉ khai báo giá tính thuế theo giá đã ký
kết trên hợp đồng…
Việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO đã tạo bước ngoặt cơ bản cho hệ
thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt vừa đảm bảo tính
công bằng về nghĩa vụ thuế và thực hiện cam kết quốc tế, mặt khác tạo điều kiện
cho doanh nghiệp thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong thời
gian qua có khá nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này để gian lận thuế qua
trị giá hải quan. Các hành vi gian lận thường được các doanh nghiệp thực hiện dưới
các hình thức như: dựa vào các loại hàng hóa tương tự, giống hệt của các doanh
nghiệp đã nhập khẩu trước đó mà cơ quan hải quan đã chấp nhận trị giá khai báo;
hoặc doanh nghiệp hợp thức hóa chứng từ đầu vào từ phía nước ngoài như: invoice,
C/O, Hợp đồng mua bán, chứng từ thanh toán…để khai báo trị giá thấp, thuế suất
ưu đãi thấp….hoặc doanh nghiệp lợi dụng sự phân luồng tờ khai của hệ thống thông
quan tự động để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan hải quan…
Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 25 của Thông tư 38/2015/TT-BTC
thì:
“1. Kiểm tra trị giá hải quan:
46
a) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có đủ cơ sở bác bỏ trị giá khai báo nếu
thuộc một trong các trường hợp sau:
a.1) Người khai hải quan không kê khai hoặc kê khai không đúng, không đủ
các chỉ tiêu liên quan đến trị giá hải quan trên tờ khai hàng hóa xuất khẩu; tờ khai
hàng hóa nhập khẩu hoặc tờ khai trị giá (nếu có);
a.2) Các nội dung về trị giá, điều kiện giao hàng trên hóa đơn thương mại
không phù hợp với các nội dung tương ứng (nếu có) trên vận tải đơn hoặc các
chứng từ vận tải khác có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật.
b) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có nghi vấn về trị giá khai báo nhưng
chưa đủ cơ sở bác bỏ là trường hợp trị giá khai báo thấp hơn thông tin rủi ro về trị
giá tại cơ sở dữ liệu giá theo quy định của Tổng cục Hải quan.
2. Xử lý kết quả kiểm tra:
a) Trường hợp có đủ cơ sở bác bỏ trị giá khai báo: Cơ quan hải quan thông
báo cơ sở bác bỏ trị giá khai báo và xử lý như sau:
a.1) Nếu người khai hải quan đồng ý với cơ sở bác bỏ trị giá khai báo của cơ
quan hải quan thì thực hiện khai bổ sung trong thời hạn tối đa 05 ngày kể từ ngày
cơ quan hải quan thông báo, cơ quan hải quan thực hiện xử phạt vi phạm hành
chính và thông quan hàng hóa theo quy định.
Việc khai bổ sung thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Thông tư này;
a.2) Nếu người khai hải quan không đồng ý với cơ sở bác bỏ trị giá khai báo
hoặc quá thời hạn 05 ngày kể từ ngày cơ quan hải quan thông báo mà không khai
bổ sung thì cơ quan hải quan thông quan theo trị giá khai báo và chuyển các cơ sở
bác bỏ trị giá khai báo để thực hiện kiểm tra sau thông quan”.
Đối với Cục hải quan địa phương để xác định trị giá hàng hóa từ nước ngoài
rất khó khăn, phần lớn các Cục Hải quan thông qua Tổng Cục Hải quan xác định
tính hợp lệ của C/O từ nước ngoài. Do đó, nếu DN cùng thống nhất với nhau trong
việc khai báo trị giá hàng hóa cùng một mức giá thấp hơn cơ sở dữ liệu của cơ quan
hải quan thì cơ quan hải quan gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý, nhất là
trong giai đoạn hiện nay các DN có xu hướng thực hiện việc chuyển giá để chuyển
47
lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc nâng cao chí phí như khấu hao, chi phí quản
lý…
Ví dụ:
Công ty Thép KGLA nhập khẩu mặt hàng thép không gỉ cán nguội dạng
cuộn chưa qua xử lý nhiệt, kích thước 0.58mm – 0.7mm x 650cm, giá khai báo
0,97USD/kg, tỷ giá 22.360đ/USD, trọng lượng 2.000 tấn; DN khai báo thuế NK
0%, thuế chống bán phá giá 3,8%, thuế GTGT: 10%; Tổng tiền thuế Công ty nộp:
6.151.057.120đ, nhập khẩu từ Trung Quốc. Công ty cung cấp C/O, Bill, Manifet,
chứng từ thanh toán, hợp đồng…Chi cục nhận thấy Công ty khai báo trị giá tính
thuế không đúng, mức thuế chống bán phá giá áp dụng cho Công ty là 6,58%, qua
kiểm tra dữ liệu hàng hóa NK của các DN khác cùng NK loại, cùng nhà sản xuất,
cùng nước NK, tại cơ sở dữ liệu và danh mục hàng hóa rủi ro…Chi cục đề nghị
Công ty xác định lại trị giá tính thuế, thuế chống bán phá giá, cung cấp chứng từ
thanh toán, cùng sổ sách kế toán. Qua làm việc Công ty thừa nhận có sự nhầm lẫn
trong việc cung cấp chứng từ thanh toán, Công ty đề nghị khai lại giá 1,645USD/kg.
Tổng số thuế tính lại Công ty phải nộp: 12.690.031.270đ. Như vậy, Công ty đã gian
lận thuế: 6.538.974.152đ.
2.4.3. Lợi dụng chính sách ân hạn thuế, miễn thuế hàng hóa nhập khẩu:
Các doanh nghiệp dựa vào quy định của pháp luật về ân hạn thuế đối với
doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật, hoặc chính sách miễn thuế đối với loại hình
GC, NSXXK…Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam sau đó bán ra
thị trường trong nước để tiêu thụ rồi bỏ trốn.
Có một số trường hợp DN lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư đối với loại hình
GC, NSXXK thuê giám đốc người nước ngoài, thiết lập các Công ty có quy mô
nhỏ; thường xuyên thay đổi tên và địa chỉ, mã số thuế khi làm thủ tục hải quan; khai
báo hàng hóa có thuế suất cao nhưng trị giá nhỏ để được hệ thống phân luồng xanh
hoặc vàng nhưng thực chất là hàng hóa khác có trị giá lớn, nếu không bị cơ quan hải
quan chuyển luồng để kiểm tra hàng hóa thì DN nhập khẩu hàng hóa về đem bán
vào nội địa; nếu cơ quan hải quan chuyển kiểm tra hàng hóa thì DN từ chối nhận
48
hàng do đối tác gởi nhầm hàng hóa và xin hủy tờ khai, xin tái xuất trả cho nước
ngoài.
Chính sách miễn thuế nhập khẩu chưa rõ ràng, lồng ghép vào chính sách
thương mại hàng hóa, tạo điều kiện để các DN lợi dụng chính sách để gian lận, trốn
thuế gây thất thu thuế nhập khẩu. Chẳng hạn như nguyên liệu nhập khẩu để gia
công, NSXXK thì được miễn thuế, ân hạn thuế nhập khẩu; hay khi DN chuyển đổi
mục đích sử dụng thì thời hạn nộp thuế tính từ khi mở tờ khai hải quan mới. Như
vậy, DN có một khoảng thời gian dài không phải nộp chậm nộp thuế nhập khẩu (đối
với loại hình gia công thường là 01 năm thì DN chuyển NVL, loại hình NSXXK là
275 ngày), trong khi đó đối với DN nhập khẩu hàng hóa về kinh doanh sản xuất
hoặc tiêu dùng thì phải nộp thuế ngay, nếu được tổ chức tín dụng bảo lãnh thì không
quá 30 ngày nhưng phải nộp chậm nộp thuế nhập khẩu kể từ khi thông quan hoặc
giải phóng hàng hóa.
Ví dụ: Công ty TNHH Sưởng Ức thực hiện gia công cho Công ty nước ngoài. Theo quy định của pháp luật thì Công ty được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị từ phía nước ngoài đặt gia công để phục vụ hợp đồng gia công thời hạn ít nhất 01 năm. Lợi dụng chính sách miễn thuế, Công ty TNHH Sưởng Ức khi thực hiện xong hợp đồng gia công thức nhất, Công ty xin chuyển NL, VT, MMTB sang hợp đồng gia công thứ 2. Cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra thực tế lượng NL, VT, MMTB xin chuyển sang hợp đồng thứ 2 đúng như Công ty khai báo hải quan và đồng ý cho Công ty chuyển NL, VT, MMTB. Theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 8 của Thông tư 117/2011/TT-BTC ngày 15/8/2011 của Bộ Tài chính: “Quá 03 tháng (hoặc quá chu kỳ sản xuất một sản phẩm đối với gia công sản phẩm đặc thù như đóng tàu, cơ khí…) kể từ khi hoàn thành thủ tục nhập khẩu lô nguyên liệu, vật tư lần đầu tiên của hợp đồng/phụ lục hợp đồng gia công nhưng không có sản phẩm xuất khẩu”. Sau đó, Công ty bán NL, VT, MMTB rồi về nước, khi cơ quan hải quan đến kiểm tra do Công ty không xuất khẩu sản phẩm trong vòng 3 tháng thì không còn tài sản để đảm bảo số thuế NK và T.GTGT là 203.878.248 đồng, dẫn đến nợ thuế cưỡng chế và không có khả năng thu hồi.
2.4.4. Gian lận định mức:
49
Định mức tiêu hao nguyên liệu, vật tư nhập khẩu do doanh nghiệp tự xây
dựng, kê khai, đăng ký định mức tiêu hao nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia
công; khai báo nhập nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu với cơ quan hải
quan nơi nhập khẩu nguyên liệu, vật tư trước khi xuất khẩu sản phẩm, nhiều doanh
nghiệp đã kê khai định mức cao hơn định mức tiêu hao thực tế. Phần chênh lệch
doanh nghiệp sử dụng để sản xuất hàng hóa tiêu thụ trong nước hoặc bán nguyên
liệu dư thừa vào nội địa.
Trước đây, doanh nghiệp thường gian lận định mức cho một sản phẩm nhưng
hiện nay doanh nghiệp gian lận định mức chung (định mức cho một sản phẩm + tỷ
lệ hao hụt)/sản phẩm. Theo quy định tại điểm c, khoản 5, Điều 34 của Nghị định
187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ thì: “Phế liệu, phế phẩm nằm
trong định mức sử dụng, tỷ lệ hao hụt nếu thuộc danh mục phế liệu được phép
nhập khẩu thì không phải làm thủ tục hải quan; được miễn thuế nhập khẩu; phải
nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp”. Doanh nghiệp sẽ xây dựng
định mức, tỷ lệ hao hụt cho một đơn vị sản phẩm cao vì cơ quan hải quan không đủ
thời gian để kiểm tra; mặt khác đây không phải là chuyên môn của cơ quan hải quan
nên phần lớn căn cứ trên kết luận của cơ quan giám định để xem xét việc xây dựng
định mức và tỷ lệ hao hụt cho một đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, lượng
nguyên liệu, vật tư dư thừa tích lũy dần sẽ rất lớn. Ngoài ra “Phế liệu, phế phẩm
nằm trong định mức sử dụng, tỷ lệ hao hụt… không phải làm thủ tục hải quan;
được miễn thuế nhập khẩu” nên việc cơ quan hải quan quản lý gặp nhiều khó khăn
và doanh nghiệp sẽ tiêu thụ nguyên liệu vào thị trường nội địa nhưng kê khai là phế
liệu, phế phẩm.
Hệ thống Vnaccs/Vcis và hệ thống thông tin nghiệp vụ hải quan (ecustoms)
không có chức năng để DN khai báo định mức, tỷ lệ hao hụt (định mức chung/sản
phẩm và theo quy định DN tự quản lý và tự chịu trách nhiệm đối với định mức, tỷ lệ
hao hụt do DN xây dựng) đối với loại hình GC, NSXXK của tất cả các DN trong cả
nước nên cơ quan hải quan không thể đối chiếu, so sánh định mức chung/sản phẩm
50
giữa các DN cùng sản xuất một loại hàng hóa, hoặc tương tự; hoặc cùng một DN
đầu tư tại các tỉnh khác nhau cùng sản xuất loại hàng hóa…
Ví dụ: Công ty KSP, khai định mức chung XK sản phẩm cao hơn định mức
chung thực tế đối với hàng hóa gia công tấm bạt nylon cho phía nước ngoài; số liệu
giữa cơ quan hải quan và số tồn kho thực tế của Công ty có sự chênh lệch bất
thường, Công ty không giải trình được nguyên nhân; cơ quan hải quan chứng minh
DN xây dựng định mức chung cao hơn thực tế dẫn đến lượng NL, VT tồn kho nhiều
hơn sổ sách kế toán và dữ liệu của cơ quan hải quan, nên đã truy thu thuế NK
819.170.000đ, phạt VPHC 10% số tiền truy thu 81.917.000đ.
Trong thời gian qua, cơ quan hải quan truy thu rất nhiều đối với trường hợp
này; tác giả chỉ giới thiệu một Công ty.
2.4.5. Thất thu thuế khác:
Hiện nay tại tỉnh Long An chưa có khu chế xuất, nhưng khi cơ quan chức
năng của Tỉnh ( Sở kế hoạch và đầu tư hoặc Ban quản lý khu kinh tế ) cấp giấy
chứng nhận đầu tư cho doanh nghiệp theo loại hình chế xuất nhưng hoạt động trong
khu công nghiệp. Theo quy định, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp
chế xuất phải khai báo cơ quan hải quan tại khu chế xuất, được cơ quan hải quan
giám sát tại cổng khu chế xuất đối với hàng hóa XNK của DN; không phải làm thủ
tục hải quan trong việc mua bán hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong cùng một
khu chế xuất…; và loại hình này không phải nộp thuế nhập khẩu đối với nguyên
liệu, vật tư, máy móc thiết bị...và thuế xuất khẩu khi hàng hóa xuất ra nước ngoài.
Do đó, công tác quản lý của cơ quan hải quan gặp nhiều khó khăn, thực tế doanh
nghiệp đã gian lận thuế nhập khẩu và bị cơ quan hải quan xử lý vi phạm hành chính,
truy thu thuế nhập khẩu.
Ví dụ: Công ty TNHH 1TV KaiYo, loại hình DNCX; việc xuất nhập khẩu
hàng hóa ra, vào Công ty đều phải khai báo hải quan. Tại Khu công nghiệp, không
có khu chế xuất riêng để dành cho DNCX nên khi cơ quan Hải quan kiểm tra hàng
tồn kho thì Công ty không có hàng hóa và Công ty báo là gởi NL, nhưng không
cung cấp được chứng từ về việc gởi NL và cũng không xuất trình được hàng hóa;
51
Công ty bị cơ quan hải quan truy thu thuế NK: 10.169.390.739đ, phạt VPHC 01 lần
số thuế NK truy thu: 10.169.390.739đ. Nguyên nhân là do tỉnh Long An chưa thành
lập khu chế xuất nên cơ quan hải quan không giám sát tại cổng khu chế xuất khi DN
xuất nhập khẩu hàng hóa, nên Công ty lợi dụng kẽ hở này.
Nhìn chung, việc thực hiện chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian qua đã
phát huy tác dụng tích cực trong việc bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm
nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại
và góp phần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt
được thì tình trạng gian lận, trốn lậu thuế nhập khẩu vẫn diễn ra hết sức phức tạp.
Việc tìm ra các nguyên nhân gây nên thất thu thuế để đề xuất các giải pháp chống
thất thu thuế nhập khẩu là việc làm cấp bách, cần thiết cho nhà nước cũng như tạo
ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
2.5. Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu:
Thất thu thuế nhập khẩu có nhiều nguyên nhân gây ra, có thể nguyên nhân
mang tính khách quan, nguyên nhân mang tính chủ quan. Tuy nhiên, việc xác định
rõ nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là một vấn đề rất quan trọng vì
giúp cho Nhà nước đề xuất các giải pháp quản lý thuế một cách hữu hiệu.
2.5.1. Nguyên nhân khách quan:
- Chính sách pháp luật về thuế: Có tác dụng rất lớn đến công tác thu thuế
nhập khẩu. Bên cạnh đó, chính sách thuế trong từng giai đoạn, trong từng thời kỳ có
vai trò phát huy tích cực đối với sự phát triển kinh tế; ngược lại nó cũng có thể là
một trong những nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp nợ thuế, không có khả
năng thu hồi dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu. Cục thể:
+ Trước ngày 01/7/2013, áp dụng Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày
29/11/2006 tại điểm đ, khoản 3, Điều 42 có quy định: “Đối với hàng hoá khác là ba
mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan”. Như vậy, cơ quan hải quan xác
nhận thủ tục thông quan hàng hóa và Doanh nghiệp được phép nhận hàng hóa, từ
đây doanh nghiệp được quyền quyết định toàn bộ số hàng hóa của mình nhập khẩu,
52
còn cơ quan hải quan phải theo dõi nợ thuế của doanh nghiệp và có trách nhiệm đôn
đôc, nhắc nhỡ thu hồi nợ thuế của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp kinh
doanh thuận lợi thì nộp thuế nhập khẩu cho nhà nước đúng hạn, ngược lại thì doanh
nghiệp nợ thuế chây ỳ thậm chí không có khả năng chi trả; hoặc có trường hợp DN
lợi dụng chính sách ân hạn thuế của Nhà nước thì doanh nghiệp sau khi nắm tình
hình nhu cầu hàng hóa trong nước tiến hành nhập khẩu ổ ạt sau đó bỏ trốn, chiếm
đoạt tiền thuế nhập khẩu của Nhà nước, nợ thuế phát sinh dẫn đến thất thu thuế
nhập khẩu.
+ Sau ngày 01/7/2013, thực hiện Luật quản lý thuế số: 21/2012/QH13 ngày
20/11/2012 sửa đổi, bổ sung Luật thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 và có
hiệu lực từ ngày 01/7/2013 tại khoản 11, Điều 11 quy định: “Hàng hóa không thuộc
điểm a (Hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu)
và điểm b (Hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất phải nộp thuế trước khi hoàn
thành thủ tục hải quan tạm nhập khẩu hàng hóa) khoản này thì phải nộp thuế trước
khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa.
Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì được thông
quan hoặc giải phóng hàng hóa nhưng phải nộp tiền chậm nộp kể từ ngày được
thông quan hoặc giải phóng hàng hóa đến ngày nộp thuế theo quy định tại Điều
106 của Luật này. Thời hạn bảo lãnh tối đa là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ
khai hải quan”. Theo quy định này, thì hàng hóa nhập khẩu loại hình nhập kinh
doanh, kinh doanh sản xuất phải nộp thuế nhập khẩu hoặc được tổ chức tín dụng
bảo lãnh tiền thuế nhập khẩu trước khi thông quan hàng hóa, hoặc giải phòng hàng.
Do đó, cơ quan hải quan không phải mất nhiều thời gian để quản lý nợ thuế doanh
nghiệp; không tồn động nợ thuế; trường hợp DN không nộp thuế NK được ngân
hàng bảo lãnh thì ngân hàng có trách nhiệm nộp thuế cho cơ quan hải quan.
- Áp dụng hệ thống thông quan điện tử, thông quan tự động Vnaccs/Vcis
trong công tác quản lý thuế nhập khẩu:
Trước đây, thực hiện khai báo thủ công (tờ khai giấy) để làm thủ tục hải
quan tốn kém nhiều thời gian và chi phí cho cơ quan hải quan và doanh nghiệp.
53
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính tiến tới thực hiện khai báo hải quan điện tử
bước đầu đã giải quyết tình trạng ách tắc trong việc thông quan hàng hóa cho doanh
nghiệp nhưng hệ thống thông quan này chưa tích hợp cơ sở dữ liệu thông tin về
doanh nghiệp, về giá tính thuế đặc biệt là chưa kết nối giữa các Bộ, Ngành nên gây
khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát các chứng từ liên quan đến hồ sơ hải quan
(chứng từ giả). Hiện nay, Ngành hải quan thực hiện hệ thống thông quan hàng hóa
tự động Việt Nam (VNACCS) và hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tình báo (VCIS)
do Nhật Bản tài trợ cho Hải quan Việt Nam có nhiều điểm mới và thay đổi so với hệ
thống thông quan điện tử trước đây. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp không chấp
hành tốt pháp luật lợi dụng sự phân luồng tự động của hệ thống (có mục lục giải
thích việc phân luồng xanh, vàng, đỏ) để khai sai tên hàng, mã số, thuế suất để gian
lận trốn thuế gây thất thu thuế nhập khẩu; hoặc doanh nghiệp nghi ngờ cơ quan hải
quan kiểm tra thì thực hiện khai báo bổ sung theo đúng tên hàng, mã số, thuế
suất…của hóa nhập khẩu với lý do khai báo nhầm lẫn; hoặc doanh nghiệp khai báo
tại Chi cục hải quan khác nhằm trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát… Đây là một
trong những hành vi khá phổ biến vì nếu cơ quan hải quan không có sự phối hợp
tốt, kiểm tra chặt chẽ đối với các doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được
của hệ thống, chính sách hàng hóa…thì doanh nghiệp sẽ trốn thuế nhập khẩu gây
thất thu thuế nhập khẩu cho ngân sách Nhà nước.
- Chính sách miễn thuế xuất nhập khẩu (XNK) chưa rõ ràng, gây khó khăn
cho công tác quản lý thuế. Các trường hợp được miễn thuế theo tiêu chuẩn quy định
gồm: hàng tạm nhập, tái xuất và hàng hóa quá cảnh; hàng hóa được hưởng ưu đãi
thuế theo chính sách ưu đài đầu tư nước ngoài của Chính Phủ…Theo quy định này,
cho phép nhiều nguyên liệu thô và bán thành phẩm được miễn thuế tùy từng trường
hợp sử dụng cho thấy cùng một loại hàng hóa, nhưng được đối xử về thuế rất khác
nhau bởi nó tùy thuộc vào mục đích sử dụng cuối cùng và các đặc điểm khác không
xuất phát từ tính chất của hàng hóa. Bên cạnh đó, chính sách ưu đài thuế XNK chưa
rõ ràng, lồng ghép các chính sách thương mại hàng hóa, khiến các DN lợi dụng
chính sách để trốn lậu thuế. Theo quy định, có nhiều trường hợp miễn thuế, ưu đãi
54
thuế XNK tạo sự phức tạp về các trường hợp miễn thuế, ưu đãi thuế XNK dẫn tới
tình trạng không rõ ràng trong chính sách ưu tiên, miễn giảm thuế XNK, gây thất
thu thuế, cản trở đàm phán trong ký kết hiệp định quốc tế.
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Công chức Hải quan trong công tác quản lý thuế nhập khẩu:
Hiện nay, toàn Ngành hải quan áp dụng tiêu chí quản lý rủi ro trong việc
kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu; tạo điều kiện thông thoáng khâu đầu
vào và tập trung kiểm soát các khâu trong và sau thông quan hàng hóa nhằm rút
ngắn thời gian thông quan hàng hóa, giảm hao phí cho doanh nghiệp nhưng việc
quản lý của cơ quan hải quan phải hết sức chặt chẽ. Do đó, trong quá trình kiểm tra
hồ sơ hải quan thì công chức phải đối chiếu các văn bản quy định của các Bộ,
Ngành có liên quan đặc biệt Biểu thuế có nhiều dòng hàng, có tên gọi tương tự
nhau, có mã số gần giống nhau nhưng thuế suất nhập khẩu lại khác nhau… và với
sự áp lực thông quan hàng hóa nhanh chóng thì việc xãy ra sai sót, dẫn đến thất thu
thu thuế nhập khẩu là có thể xãy ra. Mặc khác, đạo đức công vụ của công chức hải
quan cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến gây thất thu thuế nhập khẩu.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị trong nội bộ Cục Hải quan:
Trong giai đoạn hiện nay, việc trao đổi, thu thập, cung cấp thông tin giữa các
bộ phận trong Cục Hải quan là vấn đề hết sức cần thiết bởi vì việc quyết định kiểm
tra hàng hóa do Chi cục trưởng hải quan hoặc Cục trưởng. Nếu thông tin đầy đủ,
chính xác, kịp thời, sự phối hợp chặt chẽ trong nội bộ và ngoài ngành thì sẽ mang
lại hiệu quả trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu; ngược lại, gây phiền hà
cho doanh nghiệp, uy tín của cơ quan hải quan… thậm chí thiệt hại cho doanh
nghiệp thì người ra quyết định chịu trách nhiệm. Do đó, các đơn vị trong cùng một
Cục Hải quan phải kết hợp chặt chẽ; và tốt nhất là có sự phối hợp, thu thập thông tin
giữa các Cục Hải quan địa phương, các đơn vị chức năng trong công tác chống
buôn lậu, gian lận thương mại thì công tác chống thất thu thuế có hiệu quả cao.
- Ý thức chấp hành pháp luật của DN: Bên cạnh những DN chấp hành tốt
pháp luật, góp phần thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ngày càng phát triển
55
mang lại lợi ích cho đất nước, giải quyết việc làm cho người dân, nâng cao đời sống
xã hội, cùng Nhà nước và công đồng chăm lo đời sống cho những người dân còn
khó khăn. Tuy nhiên, một số DN không chấp hành tốt pháp luật luôn tìm cách vận
dụng tối đa kẽ hở của pháp luật để gian lận, trốn thuế… hoặc dùng các thủ đoạn
khai báo gian dối để hạ thấp trị giá khai báo, khai không đúng tên hàng…để nhập
khẩu hàng hóa, bán giá thấp gây bất ổn nền kinh tế hoặc bán hàng hóa ra thị trường
để thu lợi do được miễn thuế, ân hạn thuế và bỏ trốn.
2.6. Hậu quả của thất thu thuế nhập khẩu:
Thuế là nguồn thu quan trọng của Nhà nước, cho nên thất thu thuế nhập khẩu
ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của quốc gia, đến đời sống của người dân, tình
hình an ninh trật tự xã hội…
2.6.1. Về mặt kinh tế:
Thất thu thuế làm cho nguồn thu của NSNN bị giảm sút, không đảm bảo
thực hiện cán cân thanh toán, cân đối thu –chi làm ảnh hưởng đến kế hoạch thu
NSNN, quá trình phát triển kinh tế của đất nước, làm cho việc điều hành của Nhà
nước đối với nền kinh tế và xã hội bị giảm sút, không đúng theo kế hoạch. Cụ thể:
- Không tạo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế dẫn đến cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Gây bội chi ngân sách, ảnh hưởng đến chi tiêu công nhất là các công trình
trọng điểm của quốc gia.
- Chính sách kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng, không tập trung sức lực và vốn vào
các mục đích xã hội, phúc lợi công cộng.
2.6.2. Về mặt xã hội:
Thất thu thuế sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện công bằng xã hội và gây
ra những tiêu cực khác trong xã hội. Các DN cùng sản xuất một loại hàng hóa
nhưng giá bán lại khác nhau, sản xuất hàng hóa không đảm bảo chất lượng, cạnh
tranh không lành mạnh…không thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, chính sách
thu hút đầu tư của Nhà nước bị tác động rất lớn; chính sách thuế của Nhà nước chưa
đảm bảo sự nghiêm minh. Điều quan trọng nhất là làm cho đời sống của người dân
56
gặp rất nhiều khó khăn nhất là người nghèo, tạo sự gia tăng cách biệt giàu – nghèo
ngày càng phân hóa rõ rêt.
2.7. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An.
2.7.1. Áp dụng quản lý rủi ro trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, quản lý rủi ro (QLRR)
trở thành một công cụ chủ chốt, được nêu tại Công ước Kyoto sửa đổi của Tổ chức
Hải quan thế giới (WCO). Công ước yêu cầu tất cả các bên tham gia áp dụng
phương pháp quản lý rủi ro (QLRR) khi tiến hành các hoạt động kiểm soát hải
quan. Đây là bước tiến quan trọng theo hướng áp dụng các kỹ năng quản lý hiện đại
của các nước trên thế giới để phù hợp với tình hình mới.
Trên thực tế, hải quan các nước đã và đang áp dụng cách tiếp cận hệ thống
và nguyên tắc QLRR nhằm tăng hiệu quả trong hoạt động và hợp lý hoá quy trình
thủ tục theo hướng cho phép áp dụng các nguyên tắc kiểm tra tối thiểu, tránh can
thiệp vào giao dịch thương mại bình thường của doanh nghiệp. Cụ thể là lựa chọn
và lập mục tiêu các lần kiểm tra, kiểm toán thông qua phân tích thông tin dựa trên
các cơ sở dữ liệu. Một số công cụ để phân tích dữ liệu cụ thể, gồm:
- Phân tích tỷ số: Là nghiên cứu và so sánh về quan hệ giữa dữ liệu trong quá
khứ và dữ liệu tại thời điểm được lựa chọn. Các thống kê về các số liệu lịch sử hoặc
các phép toán được thực hiện theo chu kỳ thời gian, việc tính toán dựa trên các số
liệu thống kê thu thập cũ và mới trong mối tương quan với tổng thể chung của các
loại hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) tương tự trong thời điểm kiểm tra, qua đó phát
hiện những dấu hiệu doanh nghiệp có gian lận thuế.
- Phân tích chuỗi thời gian: Để lập chỉ số được sử dụng rộng rãi trong thông
tin công, chẳng hạn như chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số chứng khoán để tất cả các dữ
liệu được so sánh theo cùng một cơ sở chung và số liệu đó có thể được kết hợp lại
trong so sánh hải quan một cách dễ dàng. Việc sử dụng các biểu đồ đặc biệt hữu ích
khi khối lượng số liệu lớn và độ dốc của các đường tuyến tính chỉ ra dấu hiệu về tỷ
lệ thay đổi.
57
- Phân tích hồi quy: Sử dụng để dự báo về các giao dịch tương lai của doanh
nghiệp khi có đủ thông tin phù hợp trong cơ sở dữ liệu hiện tại của Tổng cục Hải
quan hoặc để ước tính tác động của một sự thay đổi chính sách nào đó đối với các
giao dịch trong tương lai.
- Phân tích tương quan: Tương quan giữa hai biến số chẳng hạn như trị giá
hải quan và số thuế đã thanh toán nhằm để xác định mức độ quan hệ trực tiếp giữa
chúng. Việc đối chiếu thường được thể hiện dưới dạng một “hệ số” đo sức mạnh
của quan hệ tuyến tính giữa các biến số với số 1 là tương quan hoàn hảo. Đây là một
công cụ hữu ích đối với hải quan trong hai lĩnh vực về miễn trừ và trốn thuế.
Việc xác định hàng hóa phải kiểm tra thực tế được dựa trên quản lý rủi ro,
thu thập thông tin doanh nghiệp, cảnh báo từ hệ thống đối với chính sách hàng hóa,
thông qua phân luồng tờ khai của hệ thống. Cơ quan hải quan xem xét, đánh giá
hàng hóa có khả năng gian lận, trốn thuế hoặc quá trình tuân thủ pháp luật của
doanh nghiệp để quyết định kiểm tra tên hàng, thuế suất, mã số hàng hóa thông qua
việc kiểm tra hồ sơ hải quan; hay kết hợp giữa kiểm tra hồ sơ hải quan với kiểm tra
thực tế hàng hóa của doanh nghiệp.
2.7.2. Chống thất thu thuế từ công tác kiểm tra sau thông quan.
Hệ thống thông quan hàng hóa tự động Việt Nam (VNACCS) và hệ thống cơ
sở dữ liệu thông tin tình báo (gọi tắt là hệ thống VNACCS/VCIS) do Nhật Bản tài
trợ cho Hải quan Việt Nam có nhiều điểm mới và thay đổi so với hệ thống thông
quan điện tử hiện đang áp dụng như: Chức năng tính thuế tự động được hoàn thiện.
Rút ngắn thời gian làm thủ tục bằng cơ chế phân luồng tự động do hệ thống thông
quan điện tử được áp dụng ở nhiều khâu (quản lý hàng đi/ đến tại cảng, chỉ tiêu
nhập dữ liệu ở VNACCS/ VCIS được tích hợp nhiều hơn các tiêu chí trên vận đơn,
bản lược khai vào chỉ tiêu khai báo trên tờ khai); Tăng cường kết nối giữa các Bộ,
Ngành thông qua cơ chế một cửa quốc gia; Lấy thông tin của dữ liệu đã đăng ký để
khai báo xuất nhập khẩu, thực hiện đăng ký khai báo trước; Quản lý hàng tạm nhập
tái xuất…
58
Việc vận hành hệ thống VNACCS/VCIS dẫn tới những thay đổi lớn về thủ
tục và tổ chức thực hiện nghiệp vụ hải quan: thay đổi quy trình, thủ tục hải quan;
thay đổi liên quan đến nội dung thuế, thanh toán. Trong giai đoạn đầu triển khai hệ
thống này, chắc chắn có những sở hở mà doanh nghiệp không chấp hành tốt pháp
luật sẽ lợi dụng để gian lận, trốn thuế gây thất thu thuế nhập khẩu. Do đó, Cục Hải
quan Long An tập trung công tác thu thập thông tin doanh nghiệp; phân tích các
thông tin liên quan hàng hóa, doanh nghiệp, đối tác, vận đơn… phối hợp chặt chẽ
giữa Chi cục hải quan, Đội kiểm soát, Chi cục kiểm tra sau thông quan để thông tin
kịp thời đối với những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật để tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
2.7.3. Chống thất thu thuế từ công tác thanh tra thuế của Hải quan.
Căn cứ tính chấp hành pháp luật của doanh nghiệp; loại hàng hóa, thuế suất,
chủng loại và đánh giá những kẽ hở của chính sách pháp luật mà doanh nghiệp có
thể lợi dụng để gian lân, trốn thuế gây thất thu nhập khẩu và cơ quan hải quan tiến
hành kiểm tra.
Công tác chống thất thu thuế do công tác thanh tra phần lớn thực hiện công
việc như: Dữ liệu về tờ khai hải quan, về trị giá hàng hóa XK, NK; Hệ thống thông
tin về quản lý rủi ro; Thông tin và danh sách các đối tượng trọng điểm thanh tra do
cơ sở dữ liệu từ hệ thống quản lý rủi ro cung cấp; Cơ sở dữ liệu kế toán thuế; Cơ sở
dữ liệu về vi phạm pháp luật hải quan, pháp luật về thuế; Lược khai hàng hóa (e-
manifest); Cơ sở dữ liệu về Danh mục, biểu thuế và phân loại mức thuế, mã HS;
Các kết quả phân tích phân loại hàng hóa… chủ yếu tập trung kiểm tra hồ sơ hải
quan trên cơ sở áp dụng phương pháp thu thập thông tin, phân tích rủi ro trong quy
trình kiểm tra giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu tại các Chi cục hải quan; kết hợp
thông tin từ bộ phận chống buôn lậu hoặc các cơ quan khác có liên quan.
Công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện nhiều doanh nghiệp lợi dụng cơ
chế, chính sách ưu đãi để trốn thuế, nợ đọng thuế, gian lận thương mại lớn, gây thất
thu thuế với số lượng lớn. Qua đó, đã chấn chỉnh khắc phục kịp thời, đồng thời kiến
nghị với các Bộ, Ngành có liên quan sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù
59
hợp với các quy định của pháp luật cũng như khẳng định được vị thế của công tác
thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao của toàn ngành.
2.7.4. Thu hồi nợ đọng và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế nhập khẩu.
Từ ngày 01/7/2013, các doanh nghiệp nhập khẩu thuộc loại hình kinh doanh
thì phải nộp thuế ngay trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa. Các loại
hình nhập khẩu còn lại như nhập sản xuất xuất khẩu, gia công, tạm nhập- tái xuất,
tạm xuất – tái nhập…vẫn còn áp dụng thời gian ân hạn thuế, miễn thuế nhập khẩu…
nên sẽ phát sinh nợ thuế nhập khẩu hoặc gây thất thu thuế nhập khẩu.
Đối với các DN nợ thuế mà còn khả năng thu hồi thì thực hiện biện pháp
cưỡng chế, theo dõi chặt chẽ tình hình hoạt động của các DN thực hiện loại hình gia
công, NSXXK vì hai loại hình này không có sự ràng buộc DN một cách chắc chắn.
Nếu DN chuyển nguyên liệu và cơ quan hải quan phát hiện những bất thường trong
việc nhập nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa thì tiến hành kiểm tra hàng hóa tồn
kho, trường hợp DN có chênh lệch nguyên vật liệu tồn kho trên số sách với dữ liệu
của cơ quan hải quan thì tiến hành truy thu, DN cố tình né tránh thì ra quyết định
cưỡng chế, dừng làm thủ tục hải quan; hoặc DN thay đổi mục đích sử dụng nguyên
liệu thì phải kiểm tra các chứng từ có liên quan để xác định chính xác số thuế phải
nộp vào NSNN.
2.8. Đánh giá chung về thực trạng chống thất thu thuế của Cục Hải quan Long
An giai đoạn 2010 - 2014.
2.8.1. Kết quả:
Bảng 2.5 Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu
tại Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
60
STT
Kiểm tra Sau thông quan
Tỷ lệ(+/-)%
Số vụ
Số tiền truy thu, phạt VPHC
ĐVT: triệu đồng
2010 10 7.820 +45,62
2011 27 6.358 -18,69
2012 33 18.548 +191,73
2013 32 26.303 +41,81
(Trích nguồn báo cáo năm 2010-2014 của Cục Hải quan Long An)
2014 22 7.855 -70,13
Thực hiện công tác chống thất thuế nhập khẩu, Cục Hải quan Long An đề ra
nhiều giải pháp như: kiểm tra tờ khai phân luồng xanh có thuế suất cao, mặt hàng
nhạy cảm; doanh nghiệp thường xuyên hủy tờ khai có thuế do hệ thống phân luồng
vàng hoặc đỏ; thu thập thông tin doanh nghiệp để đánh giá việc chấp hành pháp luật
của doanh nghiệp, trên cơ sở đó thực hiện công tác kiểm tra sau thông quan tại
doanh nghiệp; các Chi cục kiểm tra chặt chẽ hồ sơ ngay từ khâu đầu vào, tạo điều
kiện thuận lợi nhất để thông quan hàng hóa nhanh chóng cho doanh nghiệp, cung
cấp thông tin kịp thời cho Chi cục kiểm tra sau thông quan, Đội kiểm soát những
dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp mà tại khâu tiếp nhận tờ khai chưa thực hiện
được…
Công tác kiểm tra sau thông quan đang trong giai đoạn ổn định (bắt đầu thực
hiện công tác kiểm tra sau thông quan năm 2008), Lãnh đạo và công chức hải quan
đã có kinh nghiệm trong công tác kiểm tra hồ sơ hải quan, chứng từ kế toán, sổ sách
kế toán… Tuy nhiên, biên chế không tăng qua 5 năm nhưng nhiệm vụ ngày càng
nặng nề bởi vì tốc độ phát triển kinh tế của Tỉnh tăng do Tỉnh thành lập nhiều khu –
cụm công nghiệp, số lượng doanh nghiệp đến làm thủ tục ngày càng nhiều, số tờ
khai tăng lên cùng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa…Bên cạnh đó, việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong việc khai báo hải quan ngày càng thay đổi nhanh
chóng từ khai báo hải quan thủ công sang khai báo từ xa, khai báo điện tử và tiến
61
đến thực hiện khai báo điện tử và hệ thống tự động thông quan. Do đó, về phía
doanh nghiệp ngày càng thuận lợi, thủ tục hành chính ngày càng giảm nhiều nhưng
phía cơ quan hải quan thực hiện nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp và đầy rủi
ro; nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu trước – trong thông quan với khâu
sau thông quan thì khả năng xãy ra thất thu thuế nhập khẩu rất lớn.
Trong giai đoạn từ năm 2010 – 2014, qua bảng thống kê 2.5 cho thấy số vụ
kiểm tra sau thông quan có xu hướng tăng, mức độ sai phạm của doanh nghiệp ngày
càng phức tạp như khai sai định mức hoặc khai tăng định mức và tỷ lệ hao hụt thực
tế; số lượng tồn kho của doanh nghiệp không phù hợp với số liệu tồn của cơ quan
hải quan do doanh nghiệp gian lận trong khai báo hải quan, tiêu thụ nội địa nguyên
liệu, vật tư dư thừa không khai báo hải quan…Cục Hải quan Long An đã tiến hành
làm rõ những hanh vi vi phạm pháp luật và truy thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng
với số thuế truy thu ngày càng tăng (bình quân 13,3768 tỷ đồng/năm), mức độ vi
phạm bình quân là 38,07%. Qua phân tích số liệu, cho thấy một số doanh nghiệp
không chấp hành tốt pháp luật đã lợi dụng sự thông thoáng trong việc cải cách thủ
tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thông quan hàng hóa, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu thì việc
doanh nghiệp lợi dụng vấn đề này để gian lận, trốn thuế, thất thu thuế nhập khẩu
ngày càng gia tăng. So với số lượng doanh nghiệp làm thủ tục hải quan tại Cục Hải
quan Long An với số doanh nghiệp đã thực hiện kiểm tra sau thông quan thì còn rất
thấp, trong khi đó mức độ vi phạm tương đối cao. Hiện nay, đối với các doanh
nghiệp đã được kiểm tra sau thông quan thì họ sẽ cũng cố những sơ hở đã bị phát
hiện và tiếp tục có những phát sinh mới hết sức tinh vi như họ dựa vào kẽ hở pháp
luật để thực hiện hành vi gian lận, trốn thuế, gây thất thu thuế nhập khẩu, cụ thể:
hiện nay đối với loại hình NSXXK đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về
hải quan được hưởng ân hạn thuế nhập khẩu 275 ngày, nếu doanh nghiệp tìm được
thị trường nội địa tiêu thụ thì doanh nghiệp được mở tờ khai chuyển tiêu thụ nội địa
và nộp thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng kể từ ngày mở tờ khai mới. Đây là một
trong những kẽ hở của pháp luật vì doanh nghiệp không phải nộp chậm nộp thuế kể
62
từ ngày mở tờ khai loại hình NSXXK; trong khi đó đối với doanh nghiệp mở tờ
khai thuộc loại hình nhập kinh doanh thì doanh nghiệp phải nộp thuế ngay trước khi
cơ quan hải quan thông quan hoặc giải phóng hàng hóa; trường hợp doanh nghiệp
được cơ quan tín dụng bảo lãnh thì phải nộp chậm nộp thuế kể từ ngày cơ quan hải
quan thông quan hoặc giải phóng hàng hóa. Mặt khác, một số doanh nghiệp thông
tin với nhau về cách kiểm tra sau thông quan của cơ quan hải quan để doanh nghiệp
có bước chuẩn bị, đối phó khi cơ quan hải quan kiểm tra. Đây là một vấn đề hết sức
khó khăn đối với cơ quan hải quan; nếu Lãnh đạo và công chức hải quan không tự
nghiên cứu, thu thập thông tin từ nội bộ và ngoài ngành, đạo đức trong nghề nghiệp
thì công tác kiểm tra sau thông quan sẽ không đạt hiệu quả trong thời gian tới.
2.8.2. Hạn chế:
Công tác xây dựng kế hoạch chống thất thu thuế chưa đồng bộ thống nhất, sự
phối hợp chưa cao giữa các Chi cục, các Phòng trong nội bộ Cục Hải quan. Công
tác KTSTQ tại các Chi cục chỉ thực hiện đối với các tờ khai trong vòng 60 ngày,
nên khi kiểm tra các hồ sơ hải quan có liên quan đến các tờ khai vi phạm về thuế
ngoài thời hạn này thì Chi cục phải báo cáo Cục Trưởng để ra quyết định và tiến
hành kiểm tra tại DN. Bên cạnh đó, công tác KTSTQ do Cục Hải quan thực hiện tất
cả các DN thuộc địa bàn quản lý, việc trao đổi thông tin về tình hình kiểm tra DN
cũng chưa được kịp thời nên các Chi cục gặp khó khăn trong công tác theo dõi, điều
chỉnh số liệu KTSTQ giữa hải quan và DN cho phù hợp với các hợp đồng GC,
NSXXK, tránh tình trạng xử phạt nhiều lần cho một hành vi vi phạm.
Tình trạng gian lận định mức chung, trốn thuế, gây thất thu thuế nhập khẩu
vẫn xãy ra, nợ thuế mới còn phát sinh. Một số DN không chấp hành tốt pháp luật
khai định mức chung cao hơn định mức thực tế, lượng nguyên liệu nhập khẩu nhiều
nhưng xuất khẩu sản phẩm ít, phần còn lại để tiêu thu nội địa nhưng không nộp thuế
nhập khẩu, GTGT; DN khai sai tính chất, tên hàng, thành phần cấu tạo… hàng hóa
khi cơ quan hải quan lấy mẫu phân tích, phân loại để xác định mã số, mức thuế suất
thì DN cho rằng đã tính vào giá thành khi bán sản phẩm hoặc xuất khẩu sản phẩm
63
nên phần thuế bị truy thu DN sẽ nợ, hoặc tìm cách kéo dài thời gian nộp thuế truy
thu, cũng có một số trường hợp DN bỏ trốn…
Trình độ năng lực của công chức Hải quan chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
đặt ra. Việc bố trí công chức làm công tác KTSTQ quá ít so với yêu cầu khối lượng
công việc, công chức KTSTQ kiêm nhiệm với công việc khác dẫn đến không đủ
nguồn lực thực hiện công tác KTSTQ; chưa thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
các bước công việc KTSTQ theo quy định của pháp luật và quy trình KTSTQ như:
rà soát, kiểm tra các lô hàng có dấu hiệu rủi ro, giá, mã số, thuế suất, C/O…; chưa
phân tích rủi ro để đánh giá, KTSTQ các lô hàng luồng xanh có thuế suất NK.
Hệ thống thông quan tự động Vnaccs/Vcis và hệ thống thông tin nghiệp vụ
hải quan chưa tích hợp dữ liệu về định mức chung (định mức/sản phẩm + tỷ lệ hao
hụt NVL/sản phẩm) nên cơ quan Hải quan không có cơ sở so sánh định mức chung
của các DN cùng sản xuất một loại hàng hóa, cùng một ngành nghề…, việc cập nhật
dữ liệu của công chức hải quan chưa kịp thời, độ tin cậy chưa cao; cơ sở dữ liệu giá
chưa hoàn chỉnh, dễ bị DN lợi dụng và cấu kết để khai giá hàng hóa NK thấp. Một
số DN không chấp hành tốt pháp luật lợi dụng phân luồng của hệ thống để khai báo
hàng hóa không thuộc danh mục quản lý rủi ro của cơ quan hải quan, khai báo hàng
hóa có thuế suất cao nhưng trị giá thấp, khai báo không đúng thực tế hàng hóa khi
hệ thống phân luồng xanh, sự kiểm tra của cơ quan hải quan không chặt chẽ…thì sẽ
gian lận thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Công tác xử phạt vi phạm hành chính chưa đủ mức độ răn đe, còn nhẹ đối
với một số hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Trước đây, đối với loại hình NSXXK
khi DN chuyển đổi mục đích NL, VT để sử dụng thì phải nộp chậm nộp kể từ ngày
thông quan hoặc giải phóng hàng hóa; nhưng từ khi Thông tư số 38/2015/TT-BTC
có hiệu lực từ ngày 01/4/2015 thì DN không phải nộp phạt chậm nộp khi chuyển
đổi mục đích sử dụng NL, VT (trong khi đó hàng hóa nhập kinh doanh phải nộp
thuế ngay trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa); hoặc DN khai báo định
mức cao thì ngoài việc bị truy thu thuế NK, chỉ phạt vi phạm hành chính 20% số
tiền thuế truy thu thuế NK.
64
Công tác phối hợp giữa Hải quan – Thuế - Kho Bạc, các Ngân hàng và các
Bộ ngành trong công tác thu thuế, quản lý thuế còn chậm; chồng chéo và chưa đồng
bộ. Trước đây, chưa thực hiện nộp thuế điện tử thì khi DN nộp thuế xong phải xuất
trình bản chính để cơ quan hải quan đối chiếu số tiền nộp thuế và quyết định thông
quan hoặc giải phòng hàng hóa cho DN; giữa cơ quan hải quan, ngân hàng và kho
bạc chưa liên kết được với nhau nên dữ liệu nộp thuế của DN cũng không truyền
đến được cơ quan hải quan; có một số trường hợp DN là giả chứng từ nộp thuế hoặc
hủy ngang chứng từ nộp thuế nhưng ngân hàng chưa cập nhật hoặc chưa thu hồi lại
giấy nộp tiền… thì sẽ dẫn đến nợ thuế (đến tháng 10/2015 dữ liệu nộp thuế giữa
ngân hàng – hải quan – kho bạc đã kết nối với nhau, bước đầu phát huy tác dụng
tốt).
Kết luận Chương 2:
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu là một trong những nhiệm vụ rất
quan trọng của Cục Hải quan Long An, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh
giữa các DN, ổn định và đảm bảo an ninh trật tự xã hội, tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước đẩy mạnh phát triển sản xuất tạo ra giá trị gia tăng cho DN và xã hội.
Cục Hải quan Long An đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế chủ yếu tập trung
vào khâu sau thông quan đối với loại hình gia công và NSXXK, phần lớn các DN
lợi dụng chính sách thông thoáng, ưu đãi của nhà nước về miễn thuế, ân hạn thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu; mặc khác DN được phép xây dựng định mức, kê khai
miễn thuế nhập khẩu…và lợi dụng công chức hải quan không am hiểu trong lĩnh
vực kỹ thuật để xây dựng định mức cao hơn thực tế; nhập khẩu nguyên liệu nhiều,
xuất khẩu hàng hóa ít…Trong Chương 3, trên cơ sở tìm ra nguyên nhân gây nên
thất thu thuế nhập khẩu tác giả đề ra các giải pháp chống thất thu thuế nhằm mang
lại hiệu quả cao nhất.
65
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP
KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LONG AN.
3.1. Mục tiêu chống thất thu thuế nhập khẩu:
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tiến tới cắt giảm nhiều dòng thuế
nhập khẩu, cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt việc kiểm tra, kiểm soát trước khi
thông quan hàng hóa, chủ yếu tập trung tại các khâu trong và sau thông quan để hội
nhập kinh tế quốc tế thì việc chống thất thu thuế nhập khẩu là việc làm cấp bách,
quan trọng không những của Ngành Hải quan mà còn các Bộ, Ngành liên quan.
Mục tiêu của Chính phủ, của Ngành hải quan trong việc chống thất thu thuế nhập
khẩu là:
- Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, đúng pháp luật: Chính sách về
thuế nhập khẩu phải vửa đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, đồng thời phải
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế. Muốn đạt được yêu cầu trên thì các chính sách về
thuế nhập khẩu phải đảm bảo tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thông
thoáng, tiến tới hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới; hiệu quả, minh bạch để
khuyến khích mọi đối tượng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, đồng thời có
thế ngăn chặn được các hiện tượng gian lận, trốn thuế nhập khẩu gây ảnh hưởng
không tốt đến môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn nước ngoài, tạo lập môi trường
kinh doanh bình đẳng. Để thực hiện tốt vấn đề này thì đòi hỏi chính sách pháp luật
phải chặt chẽ, luôn điều chỉnh phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước, chính
sách thuế xuất nhập khẩu phải hoàn chỉnh, hệ thống biểu thuế phải đơn giản nhưng
dễ thực hiện, dễ áp mã, áp thuế suất.
- Góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thuế xuất nhập
khẩu đóng góp rất lớn vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước, thuế xuất nhập khẩu
của Ngành hải quan chiếm tỷ trọng 30%-35% trong tổng nguồn thu ngân sách nhà
nước giai đoạn 2004-2014, trong đó thu từ thuế nhập khẩu chiếm trung bình khoảng
25%-30%, thuế tiêu thụ đặc biệt chiểm khoảng 5%-6%, thuế GTGT hàng nhập khẩu
chiếm 50%-60%, còn lại thuế môi trường và các loại thuế khác. Tuy nhiên, với xu
66
hướng hội nhập kinh tế quốc tế, dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan, xu hướng giảm thuế
suất thuế xuất nhập khẩu theo cam kết quốc tế sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách vì giá sản xuất. Đặc biệt giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến giảm giá, điều
này là hợp lý vì Việt Nam sử dụng rất nhiều nguyên liệu nhập khẩu làm đầu vào cho
sản xuất, khi thuế nhập khẩu giảm, đầu vào cho sản xuất cũng giảm và giá thành sản
xuất giảm. Mặc khác, về tổng thể có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế do
nền kinh tế được lợi từ việc chi phí đầu vào cho sản xuất giảm. Vì vậy, để giảm ảnh
hưởng tiêu cực của việc giảm thuế nhập khẩu tới thu ngân sách nên việc hoạch định
chính sách thuế cần tính toán đến việc tăng thu từ nội địa. Điều này phù hợp với xu
hướng phát triển kinh tế của nước ta và thu nội địa sẽ trở thành nguồn thu chủ yếu
cho ngân sách.
- Đảm bảo công khai, minh bạch: để tăng tính công khai, minh bạch trong
chính sách thuế XNK cần công khai cơ sở hoạch định chính sách, cần trình bày lý
do hay mục tiêu của chính sách thuế, đặc biệt khi có sự thay đổi chính sách thuế thì
giải thích rõ lý do thay đổi nên cần được xem là yếu tố cốt lõi trong việc phổ biến
chính sách pháp luật. Xây dựng và công bố các chỉ tiêu đánh giá kinh tế - hiệu quả
trong việc đạt được các mục tiêu, phân tích lợi ích – chi phí khi ban hành chính sách
thuế XNK. Khi Việt Nam gia nhập WTO cũng phải được minh bạch hóa, theo đó
luật và các quy định của các nước ảnh hưởng đến ngoại thương và đầu tư nước
ngoài phải được công bố và cung cấp cho tất cả các bên, các thủ tục có liên quan.
Bên cạnh đó, nguyên tắc chỉ áp dụng thuế quan để kiểm soát thương mại tạo điều
kiện mở của thị trường và đảm bảo khả năng có thể dự đoán được của thương mại
hàng hóa. Do đó, minh bạch và công khai chính sách thuế XNK là vấn đề hết sức
cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu.
Trước khi tác giả đưa ra các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu, Tác giả
đã nghiên cứu các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long
An đang thực hiện gồm:
- Áp dụng quản lý rủi ro trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu.
67
- Công tác kiểm tra sau thông quan.
- Chống thất thu thuế từ công tác thanh tra thuế của Hải quan.
- Thu hồi nợ đọng và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế nhập khẩu.
Thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An như đã nêu.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu áp dụng quản lý rủi ro trong công tác quản lý
thuế nhập khẩu, Cục Hải quan Long An thực hiện công tác kiểm tra sau thông quan
chưa đạt kết quả cao, chủ yếu tập trung kiểm tra loại hình GC, N.SXXK, CX.
Trong thời gian tới, để công tác chống thất thu thuế nhập khẩu đạt hiệu quả
đạt kết quả cao thì Ngành Hải quan phải tiếp tục thực hiện công tác KTSTQ trên cơ
sở quy định của luật pháp quốc tế, kết hợp đồng bộ với các giải pháp do Tác giả đề
ra như sau:
3.2.1. Áp mã, xác định thuế suất hàng hóa nhập khẩu:
Hoàn thiện Biểu thuế nhập khẩu hiện hành cần phải dựa vào danh mục hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Tổ chức hải quan thể giới; phải chi tiết, cụ thể với
từng nhóm mặt hàng, và mang tính ổn định cao; không thiết lập các mức thuế suất
giữa các dòng hàng có sự chênh lệch cao nhưng hàng hóa có tính năng công dụng
như nhau hoặc tương tự nhau vì rất dễ dẫn đến tình trạng lợi dụng hoặc tranh chấp
mã số thuế giữa cơ quan hải quan và đối tượng nộp thuế. Theo lộ trình cắt giảm
thuế nên cần điều chỉnh giảm mức thuế để đảm bảo tính đơn giản của biểu thuế,
đồng thời hạn chế tình trạng trốn thuế thông qua lợi dụng chính sách phân loại hàng
hóa của Nhà nước. Do việc thiết kế thuế suất được quy định dựa trên nước xuất xứ
của hàng hóa, sau đó dựa trên phân loại hàng hóa đối với từng nước (Việt Nam có
khoảng 20 mức thuế suất khác nhau). Nhằm đơn giản Biểu thuế suất nhưng vẫn
đảm bảo dựa trên cơ sở Hệ thống hải hòa (HS) của tổ chức hải quan thế giới (WCO)
chỉ nên quy định 2 đến 3 mức thuế suất nhập khẩu căn cứ trên phân loại hàng hóa,
xuất xứ hàng hóa. Đối với hàng hóa cơ bản có thể duy trì ba mức thuế suất nhập
khẩu dựa trên phân loại hàng hóa; mức thấp nhất có thể áp dụng cho yếu tố đầu vào,
mức cao hơn áp dụng cho hàng hóa trung gian, mức cao nhất áp dụng cho hàng hóa
tiêu dùng. Đối với những hàng hóa không khuyến khích nhập khẩu có thể quy định
68
mức thuế suất cao hoặc quy định phải có giấy phép nhập khẩu cho loại hàng hóa
này.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu; quy
định về miễn thuế xuất nhập khẩu để đảm bảo thực hiện các cam kết của hội nhập
và thể hiện tính công bằng: Chính sách miễn thuế, giảm thuế XNK đã được sửa đổi,
bổ sung nhưng vẫn tồn tại những điểm không rõ ràng hoặc thiếu công bằng. Quy
định chính sách miễn thuế theo chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài cho phép
nguyên liệu thô và bán thành phẩm được miễn thuế NK do mục đích sử dụng khác
nhau. Đối với NL, VT NK để gia công hàng hóa XK thì được miễn thuế NK trong
khi đó NL, VT NK để sản xuất hàng XK thì được ân hạn thuế đối với DN chấp
hành tốt pháp luật (nếu không thì phải nộp thuế ngay). Vì vậy, cần có quy định cụ
thể, rõ ràng hơn nhằm phát hiện tình trạng gian lận, trốn thuế, gây thất thu thuế NK;
hướng tới cần bãi bỏ những ưu đãi về thuế XNK theo thông lệ quốc tế.
CBCC hải quan phải xác định đúng tính năng, công dụng, thành phần, cấu
tạo… của hàng hóa bởi vì Biểu thuế xuất nhập khẩu hàng hóa có nhiều dòng hàng,
tên gọi tương tự như nhau nhưng mức thuế suất lại khác nhau. Trên thực tế các
tranh chấp về áp mã hàng hóa xuất nhập khẩu đều xuất phát từ thuế vì vậy việc áp
mã số cần gắn với chính sách thuế, chính sách mặt hàng; cần phải thống nhất tên
hàng và mã số hàng hóa ở cấp độ 10 chữ số; chuẩn hóa sáu quy tắc phân loại, các
chú giải pháp lý đồng thời cần tiến hành sửa đổi mức thuế suất của biểu thuế một
cách cụ thể, rõ ràng phù hợp với tên gọi, tính năng, cộng dụng của hàng hóa; quy
định phân loại hàng hóa đảm bảo công khai, minh bạch, dễ thực hiện.
3.2.2. Xác định trị giá tính thuế:
Hoàn thiện cơ chế kiểm tra xác định giá tính thuế, việc kiểm tra trị giá hải
quan phải được bắt đầu từ khâu khai báo hải quan đến các khẩu tính thuế và kết
thúc ở kiểm tra sau thông quan. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trị giá tính
thuế ở khâu nhập khẩu, không để dồn công việc vào khâu kiểm tra sau thông quan.
Về phía Chi cục Hải quan cũng tăng cường công tác thu thập, khai thác
thông tin về xuất nhập khẩu để xác định trị giá hải quan chống gian lận thương mại
69
qua giá, cải tiến các quy trình thủ tục và áp dụng các chương trình phần mềm quản
lý hải quan. Danh mục dữ liệu quản lý rủi ro về giá được cơ quan hải quan sử dụng
như một công cụ để phân tích, đánh giá độ tin cậy của trị giá khai báo, phân loại các
hồ sơ hàng hóa nhập khẩu có nghi ngờ về trị giá hải quan để thực hiện công tác xác
định trị giá và các bước tiếp theo trong quy trình xác định trị giá khai báo hải quan.
Một điều cần chú ý là không được sử dụng mức giá đã khai báo trong cơ sở dữ liệu
giá để làm cơ sở áp đặt giá tính thuế cho các hàng hóa nhập khẩu, mà phải căn cứ
vào dữ liệu thu thập, cập nhật, phân tích, đánh giá thông tin từ nguồn các nước nhập
khẩu, nhà sản xuất, chủng loại hàng hóa… để làm cơ sở xác trị giá khai báo bải
quan.
Đối với trường hợp giảm giá theo hợp đồng, nhập khẩu hàng hóa theo nhiều
chuyến khác nhau thì khoản giảm giá chỉ được xem xét và chấp nhận sau khi doanh
nghiệp nộp các tài liệu hồ sơ chứng minh hàng hóa đã hoàn thành việc nhập khẩu và
thanh toán toàn bộ hợp đồng, đồng thời xác định trị giá hải quan khi làm rõ những
nghi ngờ về khoản giảm giá, đối chiếu với các quy định hiện hành và các thông lệ
quốc tế rồi mới quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận khoản giảm giá.
Trong quá trình kiểm tra xác minh, nếu vụ việc phức tạp hay vượt quá thẩm
quyền thì cơ quan hải quan có văn bản đề nghị các cơ quan chức năng có liên quan
như thuế nội địa, cơ quan công an, cơ quan chức năng thẩm định giá, phối hợp thực
hiện công tác chống buộn lậu, gian lận qua giá tính thuế nhập khẩu.
3.2.3. Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu:
Theo quy định Luật quản lý thuế số: 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 sửa
đổi, bổ sung Luật quản thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ
ngày 01/7/2013 thì đối với hàng hóa nhập nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất
khẩu được ân hạn thuế 275 ngày (thuế NK, không phải nộp thuế GTGT khâu nhập
khẩu) đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật; miễn thuế nhập khẩu đối với
MMTB, NL, VT nhập khẩu để thực hiện hiện đồng gia công. Đây là một trong
những nguyên nhân gây nên nợ thuế dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu, bởi vì doanh
nghiệp nhập khẩu MMTB, NV, VT không sản xuất (theo quy định trước khi tiếp
70
nhận hợp đồng gia công, xét ân hạn thuế 275 ngày thì cơ quan hải quan phải kiểm
tra cơ sở sản xuất đối với doanh nghiệp lần đầu thực hiện hợp đồng gia công, xem
xét ân hạn thuế 275 ngày) sau đó bán vào thị trường nội địa và bỏ trốn; cũng có
trường hợp doanh nghiệp không được ân hạn thuế 275 ngày khi nhập khẩu nguyên
liệu để SXXK nên phải nộp ngay thuế nhập khẩu, nhưng miễn thuế GTGT ( Khoản
20, Điều 4, Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ tài chính). Doanh
nghiệp nhập khẩu NL, VT có thuế suất nhập khẩu thấp và tiến hành sản xuất, xuất
khẩu hàng hóa nhưng với số lượng ít với mục đích né tránh sự kiểm tra, kiểm soát
của cơ quan hải quan; lượng NL, VT còn lại doanh nghiệp bán trong nước và không
phải nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu rồi bỏ trốn.
Để khắc phục tình trạng trên đối với loại hình nhập nguyên liệu để sản xuất
hàng hóa xuất khẩu thực hiện miễn thuế khâu nhập khẩu đối với DN chấp hành tốt
pháp luật; nếu xuất khẩu sản phẩm tương ứng với nguyên liệu nhập khẩu, đúng chu
kỳ sản xuất đã đăng ký với cơ quan hải quan thì được miễn thuế nhập khẩu. Do đó,
khi thực hiện miễn thuế khâu nhập khẩu đối với loại hình NSXXK sẽ tiết kiệm rất
nhiều chi phí cho doanh nghiệp và tiết kiệm nguồn lực của cơ quan hải quan vì công
tác thanh khoản hoàn thuế, không thu thuế hàng hóa nhập khẩu rất phức tạp có thể
dẫn đến gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước; tiêu cực phát sinh trong đội ngũ công
chức hải quan.
Đối với nguyên liệu NSXXK được hưởng ân hạn thuế, nhưng khi DN
chuyển đổi mục đích sử dụng thì thời hạn nộp thuế kể từ khi mở tờ khai mới (Điều
21 của Thông tư 38/2015/TT-BTC) trong khi đó loại hình nhập kinh doanh thì phải
nộp thuế ngay trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa. Đây là một trong
những vấn đề nghịch lý, dễ bị DN lợi dụng (quy định DN được hưởng ân hạn thuế
275 ngày tại Điều 42 của Thông tư 38/2015/TT-BTC) bởi vì DN nhập khẩu NL, VT
theo loại hình NSXXK cố gắng tìm kiếm thị trường tiêu thụ thì DN sẽ kê khai, nộp
thuế và tiến hành bán nguyên liệu; trường hợp cơ quan hải quan quản lý nhận thấy
viêc nhập – xuất bất thường của DN và tiến hành kiểm tra và DN vẫn còn NL, VT
tồn kho thì không thể thu thuế NK, thuế GTGT. Do đó, đối với trường hợp chuyển
71
mục đích sử dụng NL, VT thì ngoài việc nộp đủ thuế NK, thuế GTGT còn phải nộp
chậm nộp thì mới hạn chế thất thu ngân sách nhà nước; tạo sự công bằng trong kinh
doanh.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan:
Thực hiện công tác kiểm tra sau thông quan là một biện pháp nghiệp vụ hải
quan góp phần thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm áp lực tại các khâu trước
và trong thông quan, đồng thời kiểm tra chặt chẽ quá trình kinh doanh, sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để thực hiện nghiệp vụ này theo đúng thông lệ
quốc tế, trước hết cơ quan hải quan và các đối tượng nộp thuế phải có cách nhìn
nhận thật đúng về công tác kiểm tra sau thông quan như một hoạt động nghiệp vụ
thường xuyên của cơ quan hải quan, thay vì chỉ kiểm tra đối tượng có dấu hiệu vi
phạm pháp luật như hiện nay. Phân tích, rà soát hồ sơ XNK, chú trọng hồ sơ các lô
hàng được phân luồng xanh có thuế NK; các trường hợp giá thấp hơn giá trong
danh mục quản lý rủi ro, giá hàng hóa do DN khai báo thấp dần, áp mã không thống
nhất…
Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra sau thông quan đủ năng lực, phẩm chất,
đạo đức nghề nghiệp phải và coi đó là chìa khóa chính đi đến sự thành công. Mô
hình kiểm tra sau thông quan phải được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực cần
thiết và tuân theo một quy trình chặt chẽ. Công tác sau thông quan căn cứ vào cơ sở
dữ liệu thu thập được, hàng hóa có thuế suất cao, nhạy cảm, áp mã hàng hóa chưa
cơ sự thống nhất giữa các Chi cục hoặc giữa Chi cục với doanh nghiệp…; đánh giá
các tiêu chí quản lý doanh nghiệp dựa trên tiêu chí quản lý rủi ro theo phương pháp
quản lý hiện đại, nhằm hướng doanh nghiệp đến việc tuân thủ, chấp hành pháp luật
đồng thời có chế tài mạnh đối với các doanh nghiệp cố tình trốn thuế, gian lận gây
thất thu thuế nhập khẩu.
3.2.5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý vi phạm thuế của
đối tượng nộp thuế:
- Hoàn thiện Luật quản lý thuế: Quy định về thời hạn nộp thuế nhập khẩu cần
được quy định cụ thể trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu bởi vì toàn bộ Luật quản
72
lý thuế hầu như tập trung cho công tác quản lý thuế nội địa. Luật quản lý thuế quy
định quá chi tiết, cụ thể những vấn đề lẽ ra thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn
bản dưới luật, của các Luật chuyên ngành, Luật Hải quan. Đối với trường hợp phạt
chậm nộp thuế của các doanh nghiệp nhà nước là chưa phù hợp vì tiền nộp thuế là
tiền cấp từ ngân sách nhà nước nhưng ngân sách chậm cấp tiền làm ảnh hưởng đến
tiến độ nộp thuế dẫn đến việc doanh nghiệp bị phạt chậm nộp thuế, đây là vấn đề
cần phải xem xét.
- Sửa đổi Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Góp phần khuyến khích phát triển
và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước phù hợp định hướng phát triển của
Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết. Trên cơ sở đó, Luật cần bổ sung
các quy định về thuế tự vệ để xây dựng môi trường kinh tế lành mạnh; bảo vệ,
khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển các dự án đầu
tư có tính sâu rộng và tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động XNK khuyến khích sản
xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản
tài nguyên chưa qua chế biến, giảm hàng hóa gia công giá trị gia tăng thấp. Luật
thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải phù hợp với các quy định quốc tế về thuế suất thuế
xuất nhập khẩu, điều ước quốc tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và thế
giới.
- Có biện pháp chế tài mạnh đối với các doanh nghiệp gian lận, trốn thuế,
thất thu thuế nhập khẩu:
Việc xử lý vi phạm về thuế cần phải xây dựng xuất phát trên cơ sở mang tính
răn đe, sau đó là bù đắp chi phí, vì công tác thanh kiểm tra, điều tra hành vi vi phạm
thuế cần huy động nhiều người với sự hỗ trợ nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân và tốn
chi phí. Nếu mức xử phạt hành vi trốn thuế, gian lận thuế từ 1-3 lần số tiền thuế trốn
thì quá nhẹ, nên chăng nâng mức xử phạt lên tối thiểu 5 lần, và một phần khoản tiền
phạt này sẽ được dùng cho hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. Mức xử phạt phải đủ
mạnh để người nộp thuế luôn phải nghĩ đến việc có bị vi phạm hay không, từ đó ý
thức được lợi ích tuân thủ pháp luật thuế.
73
3.2.6. Tăng cường điều kiện vật chất – kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông
tin:
Hiện nay toàn ngành hải quan thực hiện hệ thống thông quan tự động
Vnaccs/Vcis đã giải quyết thông quan hàng hóa nhanh chóng cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện thuận trong công tác quản lý, kết nối hệ thống với một số Bộ như: Bộ giao
thông vận tải, Bộ Công thương, Bộ Tài Chính, các bến cảng nội địa và quốc tế…đã
rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, giảm chi phí lao động xã hội, được
xã hội đồng thuận. Tuy nhiên, trong qua trình thực hiện cần giải quyết một số vấn
đề sau:
- Về con người: Phải đạo tạo lại công chức hải quan từ cách phục vụ đến
trình độ sử dụng, khai thác hệ thống Vnaccs/ Vcis để phục vụ cho công tác quản lý
nhà nước về hải quan. Phải có sự thay đổi thật sự về nhận thức của công chức hải
quan là “ phục vụ, cung cấp dịch vụ công cho xã hội” thì mới mang lại kết quả tốt
cho xã hội.
- Hệ thống Vnaccs/Vcis: Ngoài những ưu việc của hệ thống còn có những
hạn chế cần khắc phục để đảm bảo cho việc quản lý ngày càng tốt hơn, nên Tôi đề
xuất xây dựng bộ tiêu chí để quản lý chất lượng dữ liệu thống kê hàng hóa XNK
bao gồm: chi tiết, cụ thể và hoàn chỉnh hơn về phương pháp luận thống kê; xây
dựng các tiêu chí để kiểm soát dữ liệu thu thập từ tờ khai XNK; xây dựng các tiêu
chí để kiểm soát các sản phẩm thống kê trước khi công bố. Các quy tắc được thiết
lập phù hợp với các bước của quy trình nghiệp vụ thống kê hàng hóa XNK. Để nâng
cao chất lượng thống kê, và thực hiện tốt công tác quản lý dữ liệu thống kê thì công
tác thống kê của hải quan cần phải kết hợp giữa việc ứng dụng công nghệ thông tin,
phát triển nguồn lực để xây dựng quy trình quản lý và đảm bảo chất lượng dữ liệu.
Hoàn thiện hệ thống Vnaccs/Vcis và hệ thống thông tin nghiệp vụ hải quan
trong đó xây dựng chức năng kết nối với DN và yêu cầu DN truyền dữ liệu về định
mức chung (định mức một sản phẩm + tỷ lệ hao hụt/sản phẩm) đối với loại hình
GC, NSXXK để làm cơ sở cho cơ quan hải quan thực hiện việc chống thất thu thuế
74
nhập khẩu do DN đăng ký định mức chung cao, NVL dư thừa tiêu thụ trong nội địa
nhưng không nộp thuế NK.
Việc phân luồng tờ khai của hệ thống (luồng xanh: hệ thống tự động thông
quan hàng hóa nếu hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; luồng vàng: kiểm tra chi tiết hồ
sơ hải quan; luồng đỏ: kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hóa):
Các DN mong muốn việc khai báo hàng hóa được phân luồng xanh vì DN tiết kiệm
được nhiều chi phí; có những trường hợp DN khai báo hàng hóa không đúng thực
tế, trị giá thấp… nếu hệ thống phân luồng ngẫu nhiên luồng vàng hoặc luồng đỏ, lúc
đó DN tiếp tục khai báo đến khi phân luồng xanh thì dừng lại và nhận hàng hóa, còn
các tờ khai này DN đề nghị hủy do khai nhầm nhiều tờ khai cho một loại hàng hóa.
Do đó, để khắc phục tình trạng này thì hệ thống xử lý dữ liệu điện tử cần thiết kế
tính năng nhận biết và từ chối tờ khai trùng, hệ thống không phản hồi việc phân
luồng tờ khai đến DN trước khi cơ quan hải quan chưa ra quyết định thông quan
hoặc giải phóng hàng hóa.
3.2.7. Công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại:
Lực lượng chống buôn lậu(CBL), gian lận thương mại (GLTM) kiểm tra tất
cả các hoạt động xuất nhập khẩu tại đơn vị quản lý, theo dõi các tờ khai luồng xanh
có thuế hoặc DN khai báo hàng hóa trị giá thấp nhưng thuế suất nhập khẩu cao, có
giá thấp hơn cơ sở dữ liệu giá, chính sách hàng hóa của Nhà nước trong từng thời
kỳ, các thông tin do Chi cục hải quan, Chi cục kiểm tra sau thông quan cung cấp
hoặc thông tin từ Ngành hải quan và các đơn vị CBL, GLTM cung cấp.
Hoàn thiện nâng cấp hệ thống CI02 đảm bảo yêu cầu phục vụ cho hệ thống
thông quan tự động Vnaccs/Vcis và cung cấp thông tin kịp thời tho lực lượng CBL
tại đơn vị.
Đẩy mạnh công tác thu thập thông tin, nắm vững diễn biến tình hình địa bàn,
tăng cường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan, tập trung đấu
tranh vào các lĩnh vực bị lợi dụng để vi phạm như hoàn thuế VAT đối với hàng hóa
xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan, chính sách ưu đãi đầu tư, thuế đối với
khu kinh tế cửa khẩu…Kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng trọng điểm ảnh hưởng đến
75
an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng…góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, chống thất thu thuế, gian lận thuế…
Xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền rộng rãi tại các địa bàn, trên
phương tiện thông tin đại chúng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hải
quan và mối nguy hại của hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới, GLTM và hàng giả để người dân không tham gia, không tiếp tay, không
bao che… đối với hoạt động này.
3.2.8. Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế:
Hiện tại cơ quan Hải quan chỉ dừng lại tại bước kiểm tra xác định trị giá hải
quan; cơ quan Hải quan căn cứ vào cơ sở dữ liệu giá của Ngành Hải quan do DN
khai báo, các chứng từ liên quan đến bộ hồ sơ hải quan, C/O, chứng từ thanh
toán…để đấu tranh làm rõ hành vi gian lận về trị giá hải quan của DN, trong đó
chống thất thu thuế nhập khẩu là chủ yếu, còn chống chuyển giá hàng hóa nhập
khẩu của các Công ty đa quốc gia, Công ty Mẹ - Công ty con chưa được pháp luật
quy định (Thông tư số 201/2013/TT-BTC ngày 20/12/2013 của Bộ Tài Chính về
Hướng dẫn việc áp dụng Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế
(APA) trong quản lý thuế). Đối với việc tham vấn để xác định trị giá hải quan do
DN đề nghị với cơ quan Hải quan, thẩm quyền thực hiện tham vấn do Cục trưởng
Cục Hải quan địa phương hoặc Chi cục trưởng Chi cục Hải quan được Cục Trưởng
Hải quan ủy quyền (trình tự thủ tục thực hiện tại Khoản 3, Điều 25 của Thông tư
38/2013/TT-BTC). Đây là một rào cản lớn đối với cơ quan Hải quan trong công tác
chống thất thu thuế NK do DN khai báo thấp giá hàng hóa hoặc NL nhập khẩu; và
khai giá cao đối với MMTB NK tạo tài sản cố định và NL để sản xuất hàng hóa GC
cho thương nhân nước ngoài.
Sau ngày 31/12/2015, khi cơ chế một cửa Asean đi vào hoạt động Hải quan
Việt Nam có điều kiện kiểm tra trước thông tin về lô hàng sẽ nhập khẩu như: tuyến
đường vận chuyển, nơi cấp C/O, tên hàng hóa…được kết nối một cách thông suốt từ
Hải quan nước ngoài với Tổng Cục Hải quan, từ đó các Cục Hải quan địa phương
76
khai thác một cách rộng rãi để nắm thông tin chính xác về hàng hóa NK nhằm tránh
thất thu thuế, chống CBL và GLTM đạt hiệu quả.
3.2.9. Các giải pháp khác:
- Nâng cao trình độ và nhận thức cho cả cán bộ Hải quan và đối tượng nộp
thuế; thu thập thông tin Doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu và tình hình sử
dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu: Cùng với cải cách thể chế, cải cách thủ tục
hành chính và hiện đại hóa, công tác cán bộ cũng phải có những chuyển biến kịp
thời theo yêu cầu đổi mới phương thức quản lý từ tiền kiểm sau hậu kiểm. Yêu cầu
cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan, đặt ra yêu cầu đòi hỏi công chức hải
quan phải thật sự thay đổi trong cách quản lý, cách làm việc nhất là việc bảo mật
thông tin cơ sở dữ liệu giá tính thuế, tự nâng cao nghiệp vụ để đáp ứng ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới. Bên cạnh đó, công chức hải quan tăng cường công
tác thu thập thông tin đối với DN nhập khẩu hàng hóa có thuế suất cao, hàng hóa dễ
gian lận, DN khai sửa hoặc điều chỉnh về giá của hàng hóa, C/O...để có biện pháp
quản lý và kiểm tra kịp thời nhằm ngăn chặn hành vi gian lận, trốn thuế, gây thất
thu thuế cho ngân sách nhà nước.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các Ngành, các cấp trong việc tổ chức thu
thuế nhập khẩu, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế: Phối hợp chặt chẽ
với Ngân hàng – Kho bạc trong công tác thu thuế nhập khẩu; cập nhập, kiểm tra
thường xuyên dữ liệu nộp thuế của DN giữa các đơn vị trong phối hợp thu thuế,
không để tình trạng DN hũy ngang chứng từ nộp thuế nhưng không phát hiện kịp
thời, dẫn đến thông quan hàng hóa, gây thất thu thuế nhập khẩu hoặc tạo ra nợ khó
đòi cho Chi cục.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp của công chức hải quan trong việc theo dõi,
quản lý và thu hồi nợ đọng thuế: Hiên nay, đối với loại hình kinh doanh khả năng
nợ thuế là rất khó xãy ra bởi vì DN phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải
phóng hàng hóa; đối với loại hình gia công, NSXXK thì rủi ro về thất thu thuế NK
rất cao bởi vì hai loại hình này pháp luật chưa có tính ràng buộc DN cao; công chức
hải quan phải theo dõi tình hình nhập – xuất hàng hóa, NL, VT bất thường của DN
77
để kiểm tra hàng hóa tồn kho; hoặc thông qua thu thập thông tin, áp dụng biện pháp
quản lý rủi ro (chuyển luồng kiểm tra hoặc cập nhật chương trình quản lý rủi ro để
kiểm tra DN trong một giai đoạn nhất định để kiểm tra hàng hóa, NL, VT…).
- Tăng cường hợp tác với các Hải quan địa phương, các lực lượng chức năng
ngoài ngành trong đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế và thất
thu thuế nhập khẩu: Việc phối hợp với các Cục Hải quan địa phương là việc làm
cần thiết, tạo thêm sức mạnh tổng hợp; qua đó cơ quan hải quan thu thập được
thông tin về tình hình hoạt động của DN để quyết định việc quản lý DN bằng biện
pháp thích hợp, đạt hiệu quả, không gây thất thu thuế nhập khẩu cho nhà nước.
3.3. Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu:
Bất kỳ các giải pháp quản lý nhà nước đề ra có hoàn chỉnh đến đâu cũng
không phát huy hết tác dụng của nó, nếu không có các điều kiện cụ thể để đảm bảo
cho nó thực hiện thì sẽ không mang lại kết quả tốt. Theo Tôi, cần đề ra các điều
kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu nêu trên như: con
người, phương tiện khoa học kỹ thuật, sự phối hợp hải quan.
3.3.1. Về con người:
Con người là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Thực hiện công tác quản lý nhà nước về hải quan, nếu công chức
không tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức trong điều kiện làm việc đầy phức tạp, cám dỗ, thường xuyên tiếp xúc với
đối tượng có hành vi buôn lậu, gian lận thuế… nếu công chức hải quan không
nghiêm khắc với chính bản thân mình thì rất khó hoàn thành tốt nhiệm vụ và các
giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu đề ra.
Đối với doanh nghiệp: để thực hiện tốt công tác chống thất thu thuế, tạo ra
môi trường kinh doanh bình đẳng…thì không những xuất phát từ đội ngũ công chức
hải quan mà phải có sự phối hợp từ doanh nghiệp, nhất là những DN chấp hành tốt
pháp luật. Bởi vì, doanh nghiệp là người am hiểu hàng hóa mình nhập khẩu với mục
đích sử dụng như thế nào, thuế suất bao nhiêu? Có bao nhiêu doanh nghiệp nhập
khẩu cùng một loại hàng hóa nhưng khai báo thuế suất khác nhau…thì khi đó công
78
tác chống thất thu thuế nhập mới đạt kết quả tốt, tạo sự cạnh tranh công bằng giữa
các doanh nghiệp.
3.3.2. Về khoa học kỹ thuật:
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã đi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc nắm giữ nhiều thông tin sớm, chính xác sẽ mang lại thành công trong công
việc. Khi thực hiện hệ thống thông quan tự động Vnaccs/Vcis đòi hỏi công chức hải
quan phải khai thác được các phần mềm của hệ thống, qua đó sẽ thu thập được
thông tin về doanh nghiệp trong và ngoài nước, trên cơ sở đó ra quyết định để xử lý
công việc. Để thực hiện được vấn đề này, công chức hải quan phải tự học tập ngay
trong đơn vị, đồng nghiệp trong và ngoài ngành thì mới rút ngắn thời gian giải
quyết công việc cho bản thân, giảm thiểu rủi ro trong công tác quản lý, thực hiện
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu mới đạt kết quả; đảm bảo phục vụ cho nhân
dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Hệ thống Vnaccs/Vcis bước đầu đã giải quyết được những khó khăn về thời
gian thông quan hàng hóa; công chức hải quan thuận lợi trong việc khai thác thông
tin trong nội bộ ngành hải quan, kiểm tra các giấy phép do các Bộ, Ngành cấp; việc
thông quan hàng hóa được kết nối từ Chi cục đến các Cảng trong cả nước. Tuy
nhiên, hệ thống thông quan tự động Vnaccs/ Vcis cũng còn nhiều hạn chế cần có sự
quản lý chặt chẽ từ công chức hải quan, nếu không sẽ dẫn đến buôn lậu, trốn thuế,
gây thất thu thuế nhập khẩu rất lớn.
3.3.3. Về công tác phối hợp Hải quan:
- Phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài ngành thực hiện công tác chống
thất thu thuế nhập khẩu:
Thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, Cục Hải quan và công chức thu thập
thông tin từ cơ sở dữ liệu của Ngành, từ các Bộ đã kết nối thông suốt để trao đổi
thông tin về chính sách hàng hóa, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, điều tra đối với hành vi gian lận, trốn thuế, hoàn thuế GTGT; phối
hợp với ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại trong việc thu thuế nhập
khẩu, bảo lãnh thuế hoặc cưỡng chế nợ thuế từ các doanh nghiệp… Nếu có sự phối
79
hợp, hỗ trợ chặt chẽ giữa các đơn vị có liên quan thì công tác chống thất thu thuế
nhập khẩu sẽ đạt kết quả tốt.
- Hợp tác hải quan trong khu vực:
+ Nghiên cứu kỹ Công ước Kyoto, đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ được
quy định để tiến hành kế hoạch phối hợp với hải quan các nước láng giềng, có
chung biên giới; tham khảo kinh nghiệm về công tác chống thất thu thuế nhập khẩu
để vận dụng vào điều kiện thực tế của đơn vị.
+ Thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin với hải quan nước tiếp giáp
biên giới đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro về gian lận thuế nhập khẩu
hàng hóa; đồng thời kết hợp với cơ sở dữ liệu của các đơn vị hải quan thu thập
thông tin từ doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu của ngành hải quan và thông tin từ các
doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành hàng cung cấp…để có quyết định chính xác
trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu và hiệu quả trong công tác quản lý.
Kết luận chương 3:
Xuất phát từ những nguyên tắc, quan điểm và yêu cầu cụ thể trong việc
chống thất thu thuế nhập khẩu, đề tài đã đề xuất các giải pháp từ tổng quát đến cụ
thể để hạn chế thấp nhất tình trạng gian lận, trốn lậu thuế, tạo điều kiện để doanh
nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế nhập khẩu và đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của thực tiễn nền kinh tế.
80
KẾT LUẬN:
Trong những năm gần đây, Nhà nước ban hành nhiều chính sách ưu đãi thuế,
miễn thuễ, giảm thuế, ân hạn thuế; chính sách ưu đãi đầu tư trong và nước ngoài…
bước đầu đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giải quyết phần lớn việc làm cho người
lao động, nâng cao đời sống cho người dân, diện mạo đất nước ngày càng thay
đổi…
Nhà nước đang thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, áp dụng
công nghệ thông tin vào trong công tác thông quan hàng hóa, nhằm rút ngắn thời
gian thông quan hàng hóa, giảm tối đa chi phí cho DN về thời gian và tiền bạc.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng
lớn mạnh, đa dạng, phong phú, số tiền thu từ thuế nhập khẩu hàng năm đóng góp rất
lớn vào số thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển về số lượng
và đa dạng về chủng loại hàng hóa xuất nhập khẩu, chính sách pháp luật về thuế
chưa thay đổi kịp với tình hình thực tế nên tình trạng trốn thuế, gian lận thuế nhập
khẩu xãy ra là một tất yếu với các thủ đoạn phức tạp và ngày càng tinh vi, khó
lường. Để khắc phục tình trạng này, Cục Hải quan Long An phải xác định được
những nguyên nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu, trên cơ sở đó đề ra các giải
pháp phù hợp nhằm ngăn chặn DN có hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Bên cạnh đó,
đòi hỏi công chức hải quan cần phải có sự thay đổi về nhận thức cũng như hành
động trong công tác quản lý nhà nước về hải quan cụ thể là công chức hải quan phải
có trình độ, chuyên môn cao; am hiểu các quy định của nhà nước trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu; vận dụng một cách nhuần nhuyển trong việc sử dụng hệ thống
thông quan tự động Vnaccs/Vcis, khai thác được tất cả các phần mềm ứng dụng để
thu thập, phân tích, xử lý thông tin, tìm ra các thủ đoạn mà DN thường khai thác
những kẽ hở của pháp luật để gian lận trốn thuế nhập khẩu nhằm thu lợi bất chính,
gây bất ổn cho nền kinh tế, cạnh tranh không lành mạnh trong môi trường sản xuất
kinh doanh.
Với mục tiêu của Ngành hải quan tạo mọi điều kiện thông thoáng cho hoạt
động xuất nhập khẩu, đẩy mạnh thông quan hàng hóa khâu đầu vào và quản lý chặt
81
chẽ khâu trong và sau thông quan theo hướng cải cách thủ tục hành chính, đơn giản,
công khai, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế thì việc ban hành các chính
sách pháp luật để quản lý chặt chẽ công tác thu thuế nhập khẩu, chống thất thu và có
biện pháp xử lý mạnh đối với các DN cố tình gian lận, gây thất thu thuế cho ngân
sách nhà nước là một vấn đề hết sức cấp bách, cần thiết. Để thực hiện vấn đề này
đòi hỏi phải có sự đồng bộ trong ban hành chính sách thuế đối với việc miễn thuế,
ân hạn thuế, hoàn thuế, không thu thuế NK; sự phối hợp chặt chẽ trong nội bộ Cục
Hải quan Long An, các Cục Hải quan địa phương và các lực lượng chức năng chống
BL, GLTM thì công tác chống thất thu thuế nhập khẩu mới đạt kết quả tốt./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Thị Vân Anh, 2015, giải pháp chống thất thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn
tiến sĩ, Học viện tài chính, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2010, 2013, 2015), Thông tư số 194/2010/TT-BTC ngày
06/12/2010, Thông tư số 128/2013/TT-BTC ngày 10/09/2013, Thông
tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015, quy định về thủ tục hải quan;
kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý
thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2010), Quyết định số 1027/QĐ - BTC ngày 11/5/2010 quy
định nhiệm vụ quyền hạn của Cục Hải quan, Hà Nội.
4. Chính phủ (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 Quy
định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu, Hà Nội.
5. Chính phủ (2007), Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, Hà Nội.
6. Chính phủ (2013), Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính, Hà Nội.
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 87/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết một số
điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu thương mại, Hà Nội.
8. Chính phủ (2007), Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, Hà Nội.
9. Chính phủ (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 Quy
định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu, Hà Nội.
10. Chi cục Kiểm tra sau thông quan ( 2010, 2011, 2012, 2013, 2014), Báo
cáo tổng kết công tác năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014.
11. Cục Hải quan tỉnh Long An (2010, 2011, 2012, 2013, 2014), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014.
12. http://www.trungtamwto.vn/fta.
13. http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/.
14. http://www.customs.gov.vn.
15. http://www.bmi.edu.vn/.
16. http://tapchithue.com.vn/dien-dan-nghiep-vu/.
17. http://www.trungtamwto.vn/node/4353.
18. https://vi.wikipedia.org/wiki/.
19. https://vi.wikipedia.org/wiki/.
20. Phan Thị Kiều Lê, 2009, Nâng cao hiệu quả quản lý thuế nhập khẩu tại
Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Đại Học Kinh Tế
TP.HCM.
21. Quốc hội (2013), Luật Hải quan số 54/2014/QH13 ngày 23/06/2014, Hà
Nội.
22. Quốc Hội (2006), Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006,
Hà Nội.
23. Quốc Hội (2012), Luật quản lý thuế số 21/2012/QHH13 ngày
20/11/2012 sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật quản lý thuế số
78/2006/QH11 ngày 29/11/2006, Hà Nội.
24. Trần Hồ Quốc Thiện, 2011, Quản lý hải quan đối với hoạt động nhập
khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên cứu tại tỉnh
Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP.HCM.
25. Nguyễn Thị Thùy Trang, 2009, Gian lận thương mại qua trị giá tính thuế
đối với hàng nhập khẩu tại Cục Hải quan TPHCM nghiên cứu thực
trạng vả giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP.HCM.
26. Hoàng Thị Huyền Trang, 2005, Thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất
thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ, Trường
Đại học Kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Nguyễn Bích Thủy, 2015, Thất thu thuế qua mã số hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học
kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội.
28. Tổng cục Hải quan (2010, 2011, 2012, 2013, 2014), Báo cáo tổng kết
công tác năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, Hà Nội.
29. Tạp chí nghiên cứu hải quan số 10.2015, trang 19+20+21, Hà Nội.
30. Tổng cục Hải quan (2015), Công văn 10355/TCHQ-TXNK của Tổng
Cục Hải quan ngày 05/11/2015, Hà Nội.
31. www. longancustoms.gov.vn.