BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM -------------------------------------------------------- LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009 - 2011
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THỊ QUẾ GIANG
HỌC VIÊN: TRẦN THỊ THÙY DUNG
LỚP: MPP2
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2012
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến tập thể giảng viên và nhân viên
Trường Fulbright, những người đã tạo điều kiện cho tôi về mọi mặt để có thể tiếp cận với một môi
trường học tập năng động và thú vị.
Đặc biệt, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sỹ Trần Thị Quế Giang và Tiến sỹ Vũ
Thành Tự Anh đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn tất luận văn.
Lời cuối, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… đã
luôn động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Trân trọng biết ơn!
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Bài luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên
cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn… dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Thị Quế
Giang.
Những quan điểm được thể hiện trong luận văn hoàn toàn mang tính cá nhân, không phải là quan
điểm của Trường Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh cũng như của Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 06 năm 2012
Người cam đoan
Trần Thị Thùy Dung
iii
TÓM TẮT
Đối với người dân Việt Nam, vàng không đơn thuần là một vật trang sức mà còn là một phương
tiện thanh toán, cất trữ và đầu tư hữu hiệu. Với 95% lượng vàng tiêu thụ trong nước từ nguồn
nhập khẩu, thị trường vàng Việt Nam có sự liên thông mật thiết đối với sự biến động giá cả trên
thị trường vàng thế giới. Tuy nhiên trong thời gian qua, sự biến thiên của giá vàng trong nước đôi
khi ngược chiều với xu hướng biến động của giá vàng thế giới và luôn tồn tại một khoảng chênh
lệch khá lớn vượt xa mức kỳ vọng của Ngân hàng Nhà nước. Sự tồn tại chênh lệch lớn giữa giá
vàng trong nước và thế giới đã gây ra những xáo trộn trên thị trường vàng và những tác động
không mong đợi đến đời sống kinh tế - xã hội.
Luận văn này đi tìm hiểu nguyên nhân của sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới,
đồng thời xem xét vai trò của các chính sách Nhà nước trong việc thu hẹp khoảng cách chênh lệch
giá vàng trong nước và thế giới thời gian qua.
Luận văn sử dụng lý thuyết cung – cầu và cân bằng thị trường cùng những lý thuyết về độc quyền
để tìm hiểu và phân tích cấu trúc thị trường vàng Việt Nam. Từ đó đánh giá cấu trúc thị trường
vàng có phải là nguyên nhân gây ra sự chênh lệch giá đã đề cập ở trên hay không.
Bên cạnh đó, dựa vào số liệu về giá vàng thu thập được trong giai đoạn 2009 – 2011 để xem xét
tác động của chính sách Nhà nước lên thị trường vàng có giúp thu hẹp khoảng cách chênh lệch
giữa giá vàng trong nước và thế giới.
Mặc dù chưa thể đánh giá được đầy đủ tác động của các chính sách cũng như do khó khăn về mặt
số liệu nên việc phân tích bên cung thị trường chưa được sâu sát nhưng luận văn cũng đã phác họa
một cách tổng thể thị trường vàng Việt Nam và những chính sách tác động của Nhà nước để làm
tiền đề cho những nghiên cứu sâu hơn.
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................................. ii
TÓM TẮT ........................................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ...................................................................................... vi
CHƯƠNG 1: ..................................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................................... 1
1.1. Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................................... 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp luận ........................................................................ 2 1.3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 2 CHƯƠNG 2: ..................................................................................................................................... 4
SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM VÀ .................................................................. 4
KHUNG PHÂN TÍCH ...................................................................................................................... 4
2.1. Sơ lược về thị trường vàng Việt Nam ................................................................................ 4 2.2. Lược khảo các nghiên cứu trước: ....................................................................................... 7 2.3. Khung phân tích ................................................................................................................. 8 2.3.1. Lý thuyết cung – cầu và cân bằng thị trường ............................................................. 8 2.3.2. Lý thuyết về độc quyền và độc quyền nhóm ................................................................ 9 CHƯƠNG 3: ................................................................................................................................... 11
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................................................................. 11
3.1. Cấu trúc thị trường vàng Việt Nam .................................................................................. 11 3.1.1. Nhà cung cấp trên thị trường vàng Việt Nam ........................................................... 11 3.1.2. Sự khác biệt của các sản phẩm vàng miếng. ............................................................ 13 3.1.3. Người mua và các yếu tố tác động đến cầu vàng miếng trên thị trường vàng Việt Nam 13
3.2. Tác động của chính sách lên thị trường vàng Việt Nam .................................................. 17 3.2.1. Nhóm chính sách tác động trực tiếp lên cung cầu vàng vật chất ............................. 17 3.2.2. Nhóm chính sách tác động lên sàn vàng ................................................................... 23 3.3. Nguyên nhân tồn tại chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới thời gian qua ...... 24 CHƯƠNG 4: ................................................................................................................................... 27
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................................. 27
4.1. Kết luận ............................................................................................................................ 27 4.2. Khuyến nghị ..................................................................................................................... 27 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... vi
PHỤ LỤC....................................................................................................................................... viii
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTW Ngân hàng trung ương
NHTM Ngân hàng Thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
TTV Thị trường vàng
GSO General Statistics Office Tổng Cục Thống kê
SBV State Bank of Vietnam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
WGC World Gold Council Hiệp hội vàng thế giới
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ Trang
Biểu đồ 2.1 Giá vàng thế giới từ năm 2002 đến nay 4
5 Biểu đồ 2.2 Nhu cầu vàng của thế giới giai đoạn 2001 – 2011
Cung – cầu và cân bằng thị trường… 9 Đồ thị 2.1
Thị phần vàng miếng SJC và phi SJC năm 2011 12 Biểu đồ 3.1
Cầu vàng của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011 14 Biểu đồ 3.2
Chỉ số Vnindex và khối lượng giao dịch từ 2008 đến nay 14 Biểu đồ 3.3
Tốc độ thay đổi của CPI, chỉ số giá vàng và USD giai đoạn Biểu đồ 3.4
2008 – 2011 15
Lãi suất thực của việc huy động VND, USD, vàng giai đoạn Bảng 3.1
2009 – 2011 16
Dư nợ cho vay bằng vàng và ngoại tệ trên địa bàn Tp. HCM giai Biểu đồ 3.5
đoạn 2009 – 2011 16
Giá vàng SJC và giá vàng thế giới (triệu đồng/lượng) tháng 10 và Biểu đồ 3.6
11 năm 2009 18
Giá vàng SJC và giá vàng thế giới (triệu đồng/lượng) tháng 10 và Biểu đồ 3.7
11 năm 2010 19
Tỷ trọng giá trị vàng nhập khẩu trong tổng kim ngạch nhập khẩu Bảng 3.2
hàng hóa 19
Tình hình xuất – nhập khẩu vàng của một số đơn vị năm 2009 20 Bảng 3.3
Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tháng 10 và 11 Biểu đồ 3.8
năm 2010 22
1
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Trong nhiều thế kỷ, vàng được dùng để cất trữ giá trị và là cơ sở của hệ thống tiền tệ, chính vì lẽ
đó mà các ngân hàng trung ương dự trữ một lượng lớn vàng để đảm bảo cho việc phát hành tiền
của mình. Khi Hiệp ước Bretton Woods kết thúc (1971), nhu cầu dự trữ vàng không còn quan
trọng như trước nữa nhưng không vì lẽ đó mà vàng mất đi giá trị của nó. Đặc biệt thời gian gần
đây, vàng còn thể hiện vai trò là một kênh đầu tư và là “vịnh tránh bão” trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế, bất ổn chính trị…
Đối với người Phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tích trữ vàng đã là thói quen cố hữu từ lâu. Với khối lượng từ 460 - 1.0001 tấn vàng dự trữ trong dân, Việt Nam được Hội đồng
Vàng thế giới đánh giá là 1 trong 5 quốc gia có lượng tích trữ vàng lớn nhất thế giới; dung lượng
thị trường vàng Việt Nam ở trong khoảng từ 21 - 45 tỷ USD, bằng khoảng 20 - 45% GDP năm 20102. Thêm vào đó, trong tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều
biến động (lạm phát gia tăng, nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng nợ công, những bất cập trong cơ cấu
kinh tế, mất niềm tin, các đồng tiền trên thế giới điều chỉnh và giảm giá…), dự trữ vàng được xem
như là một trong những phương thức cất trữ giá trị tối ưu để đối phó với những tình huống xấu có
thể xảy ra, làm cho nhu cầu về việc mua sắm và cất trữ vàng trong dân ngày càng gia tăng.
Với 95%3 lượng vàng tiêu thụ từ nguồn nhập khẩu, Việt Nam đóng vai trò là một quốc gia chấp
nhận giá đối với loại hàng hóa đặc biệt này. Tuy nhiên, từ đầu năm 2009 đến nay, giá vàng trong
nước không ngừng biến động mạnh bất chấp xu hướng biến động của giá vàng thế giới (Phụ lục 4
và 5) làm cho khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới ngày càng bị nới rộng (có khi
lên đến trên 4 triệu đồng/ lượng). Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy không mong đợi: Tình trạng
buôn lậu vàng không ngừng gia tăng; người dân bị thiệt hại khi chạy theo giá vàng; hiện tượng
đầu cơ và tích trữ vàng… ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế.
Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra rất
nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường vàng và giảm những tác động bất lợi nhưng dường như
cơn sốt vàng vẫn chưa có được pháp đồ điều trị phù hợp.
1 Theo kết quả khảo sát của WGC thực hiện năm 2011, VN hiện có 1.072 tấn vàng trong dân; số liệu của GFMS lại cho rằng lượng vàng trong dân của Việt Nam khoảng 460 tấn; theo ước tính của NHNN, con số này khoảng 500 tấn. 2 Hội thảo “Tác động của thị trường vàng đến thị trường tài chính”, Nha Trang, tháng 06/2011. 3 Reuteurs
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp luận Như đã đề cập ở trên, mặc dù Chính phủ và NHNN đã triển khai nhiều biện pháp khác nhau
nhưng luôn tồn tại chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới. Trong luận văn này, mục
tiêu của tác giả là tìm hiểu cấu trúc thị trường vàng (TTV) Việt Nam và những chính sách của
Nhà nước tác động lên TTV trong thời gian qua, đồng thời phân tích thất bại thị trường và thất bại
của nhà nước trong điều tiết TTV Việt Nam. Hai câu hỏi nghiên cứu của luận văn bao gồm:
(i) Nguyên nhân nào dẫn đến sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới?
(ii) Những chính sách của Nhà nước tác động đến thị trường vàng trong thời gian qua có
thực sự phát huy tác dụng trong việc bình ổn thị trường vàng mà cụ thể là thu hẹp
khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới cũng như đảm bảo mục tiêu bình
ổn kinh tế vĩ mô hay không?
Trên cơ sở trả lời hai câu hỏi này, luận văn đưa ra những khuyến nghị chính sách để góp phần
bình ổn TTV Việt Nam thời gian tới.
Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài
1.3. Đề tài nghiên cứu sự biến động của thị trường vàng Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2011 cùng
những chính sách tác động đến thị trường vàng trong giai đoạn này.Vì những giới hạn về mặt thời
gian thực hiện và kiến thức của người viết nên đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu thị trường vàng
miếng, lấy giá vàng SJC làm cơ sở tham chiếu. Số liệu về giá vàng SJC được tổng hợp từ trang
web của Công ty TNHH một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn.
Bố cục luận văn gồm 4 Chương:
Chương 1: Giới thiệu sơ lược về vai trò của vàng và những bất cập về giá vàng trên thị trường
vàng Việt Nam. Xác định mục tiêu của đề tài và đưa ra phạm vi nghiên cứu cũng như các giới hạn
của đề tài.
Chương 2: Giới thiệu sơ lược về thị trường vàng Việt Nam giai đoạn 2009 – 2011 cùng những
quy định hiện hành của Nhà nước chi phối hoạt động của thị trường vàng. Đồng thời tóm tắt quan
điểm của một số tác giả về thị trường vàng và tác động cũng như vai trò của Nhà nước trong thời
gian qua.
Chương 3: Xem xét cấu trúc TTV và tác động của các chính sách Nhà nước lên giá vàng cũng
như mục tiêu bình ổn kinh tế vĩ mô.
3
Chương 4: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số khuyến nghị để vừa có thể góp
phần thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới vừa góp phần bình ổn kinh tế vĩ
mô.
4
CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM VÀ KHUNG PHÂN TÍCH
Sơ lược về thị trường vàng Việt Nam
2.1. Hai yếu tố cơ bản của TTV bao gồm cung và cầu về vàng. Nguồn cung vàng chủ yếu đến từ sản
lượng khai thác mỏ, mang tính chất ổn định qua các năm. Nguồn cung thứ hai là vàng tái chế và
cuối cùng từ các NHTW. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các NHTW tham gia thị trường
vàng với tư cách là “người mua ròng”.
Cầu vàng xuất phát từ nhu cầu vàng trang sức (đặc biệt đối với các quốc gia: Ấn Độ, Trung Quốc,
Việt Nam,…), kế đó là nhu cầu đầu tư và cuối cùng là nhu cầu vàng phục vụ cho các ngành công
nghiệp. Cũng cần lưu ý rằng, phần lớn vàng trang sức bán ở Châu Á và Trung Đông được xem
như một khoản đầu tư hay một khoản tiết kiệm.
Biểu đồ 2.1: Giá vàng thế giới từ 2002 đến nay
USD/oz
Năm
Nguồn: http://www.goldprice.org/
Năm 2011 đánh dấu 11 năm giá vàng liên tục tăng và thiết lập những đỉnh giá mới. Sự gia tăng
của giá vàng thế giới trong thời gian qua được giải thích do bối cảnh tình hình kinh tế thế giới lạm
5
phát cao, những căng thẳng về mặt chính trị, khủng hoảng tài chính, tình hình nợ công… đẩy nhu
cầu vàng của thế giới tăng trong khi cung hầu như không đổi hoặc tăng rất chậm.
Thời gian gần đây, trong khi nhu vầu vàng trang sức ngày càng giảm, nhu cầu vàng để đầu tư
ngày càng tăng (Xem biểu đồ 2.2). Điều này phù hợp với những nghiên cứu trước đây khẳng định
vàng là vịnh tránh bão an toàn. Hay nói cách khác trong điều kiện lạm phát gia tăng và tình hình
kinh tế, chính trị biến động, nhu cầu cất trữ và đầu tư vàng sẽ càng cao.
Biểu đồ 2.2: Nhu cầu vàng của thế giới giai đoạn 2001 – 2011
Nguồn: Gold Survey 2011, GFMS
Ở Việt Nam, vàng không đơn thuần là một loại trang sức, một phương tiện cất trữ hay một kênh
đầu tư mà còn được sử dụng như một phương tiện thanh toán phổ biến bên cạnh Việt Nam đồng
(VND) và Đô la Mỹ (USD). Sở hữu vàng là một trong những quyền lợi hợp pháp của mọi công
dân. Không có bất kỳ một điều khoản nào ngăn cấm người dân và các tổ chức mua, bán loại hàng
hóa đặc biệt này. Khi có nhu cầu mua vàng, người mua có thể được đáp ứng bởi các công ty
chuyên doanh vàng, bạc, đá quý; các tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh vàng và vô số các
cửa hàng, cửa hiệu, tiệm kinh doanh vàng trên khắp cả nước, từ thành thị cho đến nông thôn, từ
các trung tâm thương mại lớn cho đến các cửa hiệu nhỏ nằm rải rác trong các chợ và trung tâm
hành chính của địa phương.
6
Cho đến trước khi có Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ, giá cả và chất lượng vàng, đặc
biệt đối với vàng trang sức, được thả nổi (không có quy chuẩn về giá cả và chất lượng).
Bên cạnh vàng vật chất, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản (kinh doanh trên sàn vàng) tại
Việt Nam cũng khá sôi động. Tháng 5 năm 2007 đánh dấu sự ra đời của sàn vàng đầu tiên tại VN.
Ngay sau đó, hàng loạt các sàn vàng được thành lập. Hoạt động kinh doanh khá mới mẻ này đã
tác động không nhỏ đến TTV Việt Nam, đẩy lượng vàng giao dịch trung bình ngày cao gấp gần
10 lần so với trước đó. Tuy nhiên do chưa có một hành lang pháp lý cụ thể và chặt chẽ nên hoạt
động này dần mang tính chất đỏ đen, tác động bất lợi đến nền kinh tế và xã hội. Trước tình hình
đó, Chính phủ yêu cầu chấm dứt hoạt động của các sàn vàng và giao dịch vàng trên tài khoản kể
từ ngày 30 tháng 03 năm 2010 nhưng cho đến nay, hoạt động của các sàn vàng chui vẫn diễn ra
một cách phổ biến.
Tính đến trước ngày 25 tháng 5 năm 2012, hoạt động kinh doanh vàng ở Việt Nam được chia làm
hai loại: (i) hoạt động kinh doanh vàng trang sức, vàng mỹ nghệ, vàng miếng, vàng nguyên liệu
chịu sự chi phối bởi những quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP (09/12/1999) về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP (11/06/2003) sửa đổi, bổ sung Nghị
định 174; và (ii) hoạt động kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế được thực hiện theo quy định tại
Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
Theo những nghị định này có thể thấy, hoạt động kinh doanh vàng ở Việt Nam không phải là một
hoạt động kinh doanh có điều kiện ngoại trừ việc nhập khẩu vàng phải được sự chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nước và thực hiện theo đúng hạn ngạch được cấp. Tuy nhiên cơ chế này đã gây rất nhiều tổn thất cho nền kinh tế4, đặc biệt trong giai đoạn 2009 – 2011, khi giá vàng trong nước
và thế giới có sự biến động mạnh, qua việc nhập khẩu vàng giá cao, xuất khẩu vàng giá thấp…
Thêm vào đó, những quy định về việc chấm dứt hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản, cấm và
sau đó cho phép nhưng hạn chế trong việc kinh doanh vàng miếng… cũng tạo nên những áp lực
không nhỏ đến thị trường vàng nước ta.
Gần đây, Nghị định mới về quản lý và kinh doanh vàng đã được ban hành (Nghị định 24/2012/
NĐ-CP, ban hành ngày 03 tháng 04 năm 2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 05 năm
2012) . Mục đích của nghị định này nhằm đưa ra những quy định cụ thể để quản lý hiệu quả thị 4 Thy Thơ, “Bất ổn quản lý thị trường vàng”, http://nld.com.vn/20110810101731738p0c1014/bat-on-quan-ly-thi- truong-vang.htm
7
trường vàng; đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư; và huy động nguồn vốn khổng lồ đang “nằm
chết” trong dân nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện tại, chưa có bất cứ kết quả khả quan, rõ rệt nào được đem lại từ việc triển khai thực hiện
Nghị định này.
2.2. Lược khảo các nghiên cứu trước: Theo PGS. TS. Lê Hoàng Nga và Hoàng Phương Linh (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), việc gia
tăng giá vàng trong thời gian qua tác động không mong đợi như: (i) làm xấu đi khả năng huy động
vốn của khu vực tài chính; (ii) làm giảm tư cách hàng hóa của vàng; (iii) kênh tín dụng bằng vàng
bị tắc nghẽn đối với các ngân hàng huy động vàng sẽ gây ra lãng phí và tổn thất vô ích; (iv) tâm lý
đầu cơ, tích trữ vàng tăng lên; (v) ảnh hưởng đến giá cả trong nước.
Cũng theo hai tác giả này, nguyên nhân giá vàng trong nước tăng trong thời gian vừa qua do: (i)
tác động từ sự tăng giá vàng thế giới; (ii) nguồn cung trong nước hạn chế; (iii) lạm phát; (iv) lợi
nhuận cao từ kinh doanh vàng do chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước (do chênh lệch về tỷ
giá USD và VND trên thị trường tự do và thị trường chính thức); (v) niềm tin vào VND bị suy
giảm trong thời gian gần đây.
Bên cạnh đó, các tác giả cũng nhấn mạnh đến tác động của hiện tượng “vàng hóa” đã xuất hiện tại
Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị về chính sách trong việc quản lý thị trường hàng hóa đặc
biệt này: (i) cần coi trọng tính chất tiền tệ của vàng; (ii) có chiến lược hình thành thị trường vàng
theo đúng nghĩa của nó. Theo đó nên soạn thảo nghị định quản lý vàng theo hướng nhà nước tập
trung thống nhất quản lý; nghiên cứu thành lập trung tâm giao dịch vàng quốc gia; chưa nên áp
dụng các công cụ phái sinh trên thị trường vàng trong điều kiện hiện nay và nên cho xuất nhập
khẩu vàng như một loại hàng hóa thông thường…
Trong một bài viết đăng trên mục nghiên cứu trao đổi, trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, TS. Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh tác động của sự biến động giá vàng lên thị
trường ngoại hối và khẳng định yếu tố tâm lý là một trong những tác nhân quan trọng làm cho giá
vàng Việt Nam tăng mạnh trong thời gian qua. Khuyến nghị TS. Nguyễn Thị Thanh Hương đưa
ra: (i) tôn trọng tập quán, quyền lợi của người dân khi sử dụng vàng làm phương tiện cất trữ giá
trị, nhưng tuyệt đối không khuyến khích người dân đầu cơ vàng, đặc biệt là tình trạng đầu cơ vàng
từ nguồn vốn huy động ngoài xã hội; (ii) cần có tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng để phân biệt vàng với
tư cách hàng hóa (vàng trang sức) và vàng có tính chất tiền tệ đồng thời có quy chế quản lý riêng
8
biệt; (iii) tôn trọng quy luật thị trường có sự quản lý, định hướng của nhà nước; (iv) có cơ chế linh
hoạt để thị trường vàng trong nước và thế giới liên thông; (v) có cơ chế phù hợp để nguồn vốn tiết
kiệm trong nước không bị điều chuyển vào hoạt động kinh doanh vàng; (vi) loại bỏ vàng khỏi
chức năng thước đo giá trị, phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, không để thị trường vàng tác
động lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo TS. Phạm Huy Hùng – Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt
Nam (Vietinbank), TTV trong nước đang đứng trước những vấn đề như: (i) mức tăng giá vàng
trong nước lớn hơn đáng kể mức tăng giá vàng trên thế giới; (ii) thời điểm giá vàng trong nước
lập kỷ lục sớm hơn so với thế giới gần 1 tháng; (iii) xu hướng tăng giá vàng trong nước mạnh hơn
so với xu hướng tăng giá vàng thế giới nói chung và các nước hấp thụ vàng lớn trên thế giới nói
riêng; (iv) sự phát triển của TTV trong nước đôi khi trái chiều với sự phát triển của TTV thế giới.
Với những vấn đề mà TTV Việt Nam phải đối mặt sẽ gây khó khăn cho việc quản lý tiền tệ của
các cơ quan chức năng; khó khơi thông nguồn lực từ trữ lượng vàng trong dân phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội và chưa đựng những động cơ, những hành vi không đúng đắn…
Trên cơ sở những phân tích và nhận định của mình, TS. Phạm Huy Hùng đưa ra một số khuyến
nghị trong việc cải cách thị trường vàng: (i) quản lý vàng với tính chất là công cụ tiền tệ; (ii) hoàn
thiện khung pháp lý đảm bảo TTV phát triển lành mạnh _ NHNN đóng vai trò quản lý cuối cùng
trên TTV; (iii) nới lỏng có kiểm soát hoạt động xuất – nhập khẩu vàng nhằm liên thông TTV
trong nước và thế giới.
2.3. Khung phân tích Luận văn áp dụng lý thuyết cung – cầu và cân bằng thị trường cùng các lý thuyết về độc quyền để
phân tích cấu trúc thị trường nhằm tìm ra nguyên nhân tồn tại chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và thế giới thời gian qua.
2.3.1. Lý thuyết cung – cầu và cân bằng thị trường Cung của một hàng hóa, dịch vụ là số lượng của hàng hóa, dịch vụ đó mà những người bán sẳn
lòng bán tương ứng với các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian xác định.
Cầu của một hàng hóa, dịch vụ là số lượng của hàng hóa, dịch vụ đó mà những người tiêu dùng
sẳn lòng mua tương ứng với các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian xác định.
9
Trạng thái cân bằng thị trường là trạng thái cung và cầu gặp nhau. Tại điểm cân bằng, lượng cung
bằng với lượng cầu tại một mức giá xác định gọi là giá cân bằng (lượng cung bằng lượng cầu, giá
cung bằng giá cầu).
Trạng thái cân bằng thị trường khi có sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách thuế nhập
khẩu và hạn ngạch:
Đồ thị 2.1: Cung – cầu, cân bằng thị trường và tác động của chính sách thuế và
hạn ngạch nhập khẩu
P Sd P Sd
A
D
B
CS P1
C quota
Pw Pw S S PS QNK
D D
Q Qd Q0 Qd Q1 Q0 Q
Khi không có sự can thiệp của nhà nước, nhà nhập khẩu sẽ nhập hàng hóa, dịch vụ khi giá trong
nước cao hơn giá thế giới. Lúc này, thặng dư của nhà sản xuất (PS) và thặng dư người tiêu dùng
(CS) được thể hiện ở đồ thị trên.
Khi nhà nước can thiệp bằng hạn ngạch và thuế quan sẽ đẩy giá trong nước cao hơn giá thế giới,
lượng nhập khẩu giảm, lượng sản xuất trong nước tăng. Lúc này thặng dư của người tiêu dùng
giảm ( CS = - (A+B+C+D)); Thặng dư của người sản xuất tăng ( PS = A); Lợi ích của nhà
nhập khẩu và nhà nước là D. Vậy tổn thất ròng cho toàn xã hội DWL = -(B+C).
2.3.2. Lý thuyết về độc quyền và độc quyền nhóm Trong các hình thái cấu trúc của thị trường (thị trường cạnh tranh hoàn hảo; thị trường độc quyền;
thị trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền nhóm), thị trường cạnh tranh hoàn hảo
được xem là cấu trúc thị trường tốt nhất, ít gây ra tổn thất cho xã hội nhất. Tuy nhiên trong thực
tế, không phải lúc nào cũng có thể thiết lập được một thị trường cạnh tranh hoàn hảo vì nhiều lý
do khác nhau. Và đôi khi, trong một số thời kỳ nhất định, buộc phải chấp nhận những hình thái
cấu trúc thị trường mang lại những tổn thất cho xã hội và đặc biệt là người tiêu dùng.
10
Độc quyền hoàn toàn
2.3.2.1. Một thị trường được xem là độc quyền hoàn toàn khi thị trường đó có những đặc điểm sau:
(i) Chỉ có một người bán duy nhất và rất nhiều người mua;
(ii) Sản phẩm của nhà độc quyền không có sản phẩm thay thế;
(iii)Trong thị trường độc quyền, lối xâm nhập vào ngành hoàn toàn bị phong tỏa (Có thể do
nguồn lực để sản xuất sản phẩm thuộc quyền sở hữu của một doanh nghiệp duy nhất; độc
quyền do chính phủ tạo ra; hoặc do độc quyền tự nhiên);
Với một thị trường độc quyền hoàn toàn, lượng hàng hóa được sản xuất ít hơn và người tiêu dùng
phải mua với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều này gây tổn thất cho nên
kinh tế và cho xã hội.
Độc quyền nhóm
2.3.2.2. Một thị trường được xem là độc quyền hoàn toàn khi thị trường đó có những đặc điểm sau:
(iv) Có một số ít người bán trên thị trường;
(v) Sản phẩm có thể thay thế lẫn nhau;
(vi) Các doanh nghiệp mới khó có thể thâm nhập ngành.
Một thị trường độc quyền nhóm mặc dù tạo ra lượng hàng hóa nhiều hơn với giá thấp hơn so với
thị trường độc quyền hoàn toàn, nhưng cũng sẽ làm cho sản lượng hàng hóa được sản xuất ít hơn,
người tiêu dùng phải mua với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo và tất yếu dẫn
đến tổn thất cho nền kinh tế và cho xã hội.
11
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Cấu trúc thị trường vàng Việt Nam Việc phân tích cấu trúc TTV Việt Nam nhằm xem xét, đánh giá những thất bại thị trường có thể
có làm căn cứ cho việc xây dựng chính sách tác động sau này.
Có nhiều yếu tố tác động đến cấu trúc của TTV. Trong phạm vi bài viết, vì giới hạn về số liệu nên
tác giả chỉ đề cập đến các yếu tố: (i) Số lượng đơn vị hoạt động trong lĩnh vực chế tác và kinh
doanh vàng; (ii) thị phần của các thương hiệu vàng miếng phổ biến hiện đang lưu hành trên thị
trường Việt Nam; (iii) sự khác biệt của các sản phẩm vàng miếng trên thị trường và (iv) người mua cùng quyền lực của người mua trên thị trường.5
3.1.1. Nhà cung cấp trên thị trường vàng Việt Nam Như đã đề cập ở chương trước, cho đến trước khi Nghị định số 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực,
không có bất cứ một rào cản nào về mặt chính sách được thiết lập để ngăn chặn sự tham gia của
các tổ chức và cá nhân vào TTV. Như vậy, tổ chức/ cá nhân nào có vốn và quan tâm đến lĩnh vực
chế tác và kinh doanh kim hoàn đều có thể gia nhập và trở thành nhà cung cấp trên TTV Việt
Nam.
Tuy nhiên, số lượng nhà cung cấp vàng trang sức và vàng miếng trên thị trường có sự chênh lệch
một cách rõ rệt. Đối với vàng trang sức, mỹ nghệ, hầu hết các đơn vị chế tác và kinh doanh vàng
đều cung ứng sản phẩm này, từ các thương hiệu của các công ty có uy tín đến các cửa hiệu kim
hoàn nhỏ đều là các nhà cung ứng vàng trang sức. Đối với vàng miếng, chỉ có các công ty chuyên
doanh vàng, bạc, đá quý lớn sản xuất các thương hiệu vàng miếng của công ty mình (Thương hiệu
vàng miếng SJC của Công ty TNHH Một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn; vàng miếng AAA
của Tổng công ty vàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; vàng miếng
ACB của Ngân hàng Á Châu; vàng miếng Phượng Hoàng của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý
Phú Nhuận PNJ; vàng miếng Thần Tài của Công ty vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương
Tín – SBJ và Rồng vàng Thăng Long của Bảo Tín Minh Châu) và thông qua các chi nhánh, các
cửa hàng của công ty cũng như thông qua phần lớn các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình kinh doanh
vàng, bạc, đá quý để đến tay người tiêu dùng.
5 Bên cạnh 4 yếu tố trên thì còn có hai yếu tố quan trọng khác bao gồm chi phí (kể cả chi phí tiềm năng) trong việc khai thác lợi thế kinh tế theo quy mô và mức độ hội nhập theo chiều dọc của kênh phân phối.
12
Hiện chưa có một số liệu thống kê chính thức về số lượng các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực
kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Tuy nhiên, theo ước tính sơ bộ của NHNN, tính đến đầu năm 2012,
ngoài các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý lớn, cả nước có khoảng trên dưới 10.000 cửa hàng
kinh doanh vàng.
Với 6 thương hiệu vàng miếng trên TTV Việt Nam, qua sự phân phối của hàng ngàn cửa hàng
kinh doanh vàng trên khắp cả nước, tạo ra được nhiều sự lựa chọn trong việc nắm giữ các thương
hiệu vàng miếng khác nhau cho người mua.
Số liệu thống kê cho thấy, trong 6 thương hiệu vàng miếng đang lưu hành, thị phần của Công ty
TNHH Một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC là lớn nhất.
Biểu đồ 3.1: Thị phần vàng miếng SJC và phi SJC năm 2011
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Với 90% thị phần vàng miếng thuộc về SJC, thêm vào đó, kế hoạch lựa chọn SJC làm thương
hiệu vàng miếng quốc gia vô hình trung tạo nên quyền lực thị trường cho thương hiệu vàng miếng
của Công ty TNHH Một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn. Quyền lực thị trường này ắt hẳn tác
động không nhỏ đến sự tồn tại độ vênh giữa giá vàng trong nước và thế giới thời gian qua.
Khi chưa có thông tin SJC sẽ được chọn làm thương hiệu vàng miếng quốc gia, giá cả của các
thương hiệu vàng miếng trên thị trường hầu như không có khác biệt. Việc SJC nắm giữ phần lớn
thị phần vàng miếng làm cho giá niêm yết SJC trở thành cơ sở tham chiếu cho các thương hiệu
vàng miếng phi SJC.
13
3.1.2. Sự khác biệt của các sản phẩm vàng miếng. Qua tìm hiểu, giữa các thương hiệu vàng miếng khác nhau, sự khác biệt ở đây chỉ tồn tại ở
phương diện thương hiệu, còn về chất lượng và mẫu mã thì hầu như không có sự khác biệt: chất
lượng vàng 99,99%; loại vàng miếng chủ yếu 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ, 1 lượng cho tất cả các thương
hiệu vàng miếng, từ SJC cho đến Rồng Vàng Thăng Long của Bảo Tín Minh Châu (Phụ lục 2).
Thêm vào đó, thông tin về giá cả (giá mua và giá bán), chất lượng, thương hiệu, mẫu mã… vàng
miếng đều được công khai. Do đó, rõ ràng tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường vàng
miếng gần như không tồn tại.
Với mục đích của người mua vàng miếng là cất trữ và đầu tư thì sự đồng nhất về mẫu mã và chất
lượng của vàng miếng giúp cho loại hàng hóa này mang tính thay thế được. Điều này đồng nghĩa
với việc, loại trừ yếu tố thương hiệu, vàng miếng của các công ty vàng bạc đá quý khác nhau có
thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Như vậy việc người mua lựa chọn thương hiệu vàng miếng nào
là do sự yêu thích của họ và sự thuận tiện trong quá trình giao dịch.
3.1.3. Người mua và các yếu tố tác động đến cầu vàng miếng trên thị trường vàng Việt Nam Đối với người Việt Nam, tích trữ vàng là một thói quen đã có từ lâu. Vàng không đơn thuần là
một vật phẩm trang sức mà còn là một trong những kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm cất trữ , bảo
tồn giá trị và sinh lợi. Ngoài ra, vàng còn được sử dụng như một phương tiện thanh toán được
chấp nhận một cách rộng rãi bên cạnh Việt Nam đồng (VND) và Đô la Mỹ (USD).
Đối tượng có nhu cầu nắm giữ vàng cũng rất phong phú và đa dạng (đủ mọi lứa tuổi, giới tính,
ngành nghề, thu nhập…).
Từ 2007 trở về trước, nhìn chung TTV Việt Nam ít biến động, lúc này mức độ đầu tư hoặc/ và
đầu cơ vào vàng rất thấp. Tuy nhiên từ năm 2008 đến nay, dưới tác động của khủng hoảng tài
chính, kinh tế, cùng những bất ổn vĩ mô… đẩy giá vàng lên cao, cùng với đó, nhu cầu đầu tư/ đầu
cơ vàng nhằm mục đích sinh lợi cũng không ngừng gia tăng.
Số liệu thống kê của LBMA, GFMS và WGC cho thấy, tương tự các quốc gia khác, nhu cầu vàng
miếng cho mục đích đầu tư hoặc đầu cơ và cất trữ của Việt Nam không ngừng gia tăng, đặc biệt
từ sau khủng hoảng tài chính cho đến nay (Xem biểu đồ 3.2). Trong điều kiện giá vàng biến động
theo xu hướng đi lên cùng lượng cầu tăng qua các năm, đồng nghĩa với việc thời gian qua, người
Việt Nam đã chuyển một lượng lớn vốn từ các kênh đầu tư khác sang vàng. Hoạt động này sẽ tác
động lớn đến cầu ngoại tệ để nhập khẩu vàng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước (95% lượng vàng
14
tiêu thụ trên thị trường từ nguồn nhập khẩu) và tác động đến vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh khác nhằm tạo giá trị gia tăng cho xã hội.
Biểu đồ 3.2: Cầu vàng của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011
Nguồn: LBMA, Thomson Reuters GFMS, World Gold Council
Có thể điểm qua một số yếu tố tác động làm gia tăng cầu vàng trên TTV Việt Nam thời gian qua:
- Thị trường chứng khoán đi xuống (xem biểu đồ 3.3) cùng với sự đóng băng của thị trường
bất động sản là một trong những tác nhân làm cho vàng trở thành kênh đầu tư chính.
Biểu đồ 3.3: Chỉ số Vnindex và khối lượng giao dịch từ 2008 đến nay
Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh HOSE
- Tỷ lệ lạm phát tăng trong thời gian qua làm cho lãi suất thực giảm trong khi tốc độ tăng
giá vàng cao làm cho vàng trở thành kênh đầu tư hấp dẫn, thúc đẩy sự gia tăng cầu vàng
trên thị trường.
15
Biểu đồ 3.4: Tốc độ thay đổi của CPI, chỉ số giá vàng và USD giai đoạn 2008 - 2011
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Chi tiết CPI, chỉ số giá vàng, chỉ số USD và chênh lệch giá vàng theo tháng:
Nguồn: GSO và tính toán của tác giả
Tốc độ tăng giá vàng cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát và chỉ số giá đồng đô la Mỹ làm cho
việc đầu tư vào vàng có lợi hơn nhiều so với gửi tiết kiệm bằng VND hay USD.
16
Bảng 3.1: Lãi suất thực của việc huy động VND, USD, vàng giai đoạn 2009 - 2011
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Chỉ tiêu Thực Thực Thực
Danh nghĩa 0,25% 12,00% 4,00% 1,63% 1,00% 24,25%
Danh nghĩa 10,50% 3,62% 3,50% 5,79% 3,05% 15,33% 6,88% 19,16% 9,17% 11,75% 35,00% 9,38% Danh nghĩa 14,00% -4,58% 3,00% -7,11% 0,50% 20,92% 18,58% 39,00% 8,47% Lãi suất huy động VND Lãi suất huy động USD Lãi suất huy động vàng Tỷ lệ lạm phát Chỉ số giá vàng Chỉ số USD
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bên cạnh người mua là các cá nhân, tổ chức có nhu cầu đầu tư, tích trữ vàng, một bộ phận khác
tạo nên sự gia tăng lượng cầu chính là các ngân hàng thương mại. Chỉ tính riêng trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến đầu năm 2012, dư nợ cho vay bằng vàng trên địa bàn khoảng
trên 600.000 lượng; trong khi đó số dư vàng huy động nằm vào khoảng 2.300.000 lượng.
Một điều chắc chắn, số vàng huy động kể trên đã được chuyển đổi một phần lớn sang VND để
ngân hàng sử dụng vào các mục đích khác nhau trong đó có cấp tín dụng (Xem biểu đồ 3.5). Khi
đến hạn, các NHTM buộc phải mua vàng để hoàn trả cho khách hàng. Thêm vào đó, một số chính
sách của Nhà nước vào cuối năm 2010, 2011, đầu 2012 không cho phép NHTM chuyển đổi vàng
huy động thành tiền; đối với số vàng huy động đã chuyển đổi thành tiền cần phải giảm dần và tất
toán vào một thời điểm do NHNN ấn định (sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau) càng đẩy nhu cầu
mua vàng của các NHTM tăng cao.
Biểu đồ 3.5: Dư nợ cho vay bằng vàng và ngoại tệ trên địa bàn Tp. HCM
giai đoạn 2009 - 2011
Nguồn: SBV - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
17
Cầu vàng tăng rất nhanh trong khi cung vàng tăng chậm, làm cho tình trạng mất cân bằng giữa
cung và cầu càng trầm trọng, đẩy giá vàng trong nước tăng cao, làm chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và thế giới ngày càng rộng.
Kết quả phân tích ở trên cho thấy, cấu trúc của thị trường vàng Việt Nam tạo nên thế độc quyền tự
nhiên cho thương hiệu vàng miếng SJC. Thêm vào đó thị trường vàng không hoàn hảo do sự thiếu
vắng những quy định liên quan đến hoạt động của sàn vàng dẫn đến việc đóng cửa các sàn vàng
và chưa có các công cụ phái sinh liên quan đến loại hàng hóa này đã góp phần tạo nên khoảng
cách lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới trong thời gian qua.
3.2. Tác động của chính sách lên thị trường vàng Việt Nam Diễn biến trên TTV Việt Nam cho thấy chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới bắt đầu
biến động phức tạp kể từ năm 2008. Cùng với sự biến động mạnh của giá vàng thế giới, giá vàng
trong nước cũng không ngừng gia tăng. Trước tình hình khủng hoảng tài chính, vàng được xem là
một vịnh tránh bão an toàn, dẫn đến nhu cầu đầu tư vào vàng không ngừng gia tăng.
3.2.1. Nhóm chính sách tác động trực tiếp lên cung cầu vàng vật chất
Cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng, thay đổi thuế suất nhập khẩu và xuất khẩu vàng
3.2.1.1. Trong năm 2009, giá vàng thế giới theo xu hướng tăng mạnh (từ trên 870USD/ounce vào thời
điểm đầu năm 2009 và kết thúc năm 2009 với mức giá trên dưới 1.100USD/ounce).
Theo đà tăng của giá vàng thế giới, giá vàng trên thị trường Việt Nam cũng có sự biến động cùng
chiều với giá vàng thế giới và liên tục thiết lập nên những mốc giá cao chưa từng có trong lịch sử.
Có những thời điểm giá vàng tăng gần gấp đôi so với mức giá được giao dịch vào đầu năm 2009.
Kết thúc năm 2009, giá vàng tăng 19,16% so với năm 2008.
Cùng với việc tạo lập nên những đỉnh giá mới, thị trường vàng Việt Nam còn ghi nhận thêm
những kỷ lục về khoảng chênh lệch ngày càng lớn giữa giá vàng Việt Nam và giá vàng thế giới.
Theo số liệu về giá vàng thu thập được trong năm 2009 có thể thấy, giá vàng bắt đầu đà tăng từ
cuối quý 1 và tiếp tục tăng trong các quý kế tiếp. Đáng lưu ý, ngày 11/11/2009, giá vàng trong
nước đạt mức kỷ lục 27,7 triệu đồng/lượng và nới rộng khoảng cách chênh lệch giữa giá trong
nước và thế giới lên trên 3,8 triệu đồng/lượng. Cũng trong ngày này, NHNN cho phép nhập khẩu
vàng sau hơn 1,5 năm ngừng cho phép nhập khẩu vàng bổ sung vào nguồn cung nhằm đáp ứng
cầu vàng không ngừng gia tăng trong nước (Từ tháng 05/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu
vàng nhằm kiềm chế lạm phát, điều chỉnh kinh tế vĩ mô).
18
NHNN cho phép tái NK vàng
Biểu đồ 3.6: Giá vàng SJC và giá vàng thế giới (triệu đồng/lượng) tháng 10 và 11 năm 2009
Nguồn: SBV
Mặc dù NHNN cho phép tái nhập khẩu vàng nhằm gia tăng nguồn cung trong nước giúp hạ nhiệt
giá vàng nhưng dường như vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu đang tăng cao. Giá vàng sau đó
vẫn tiếp tục tăng, tiếp tục thiết lập những đỉnh mới và độ vênh giữa giá vàng trong nước và thế
giới (đã quy đổi sang VND có cộng thêm thuế và phí) vẫn không ngừng gia tăng.
Trong năm 2010, giá vàng thế giới tăng 29%6 (chủ yếu do tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công
ở Châu Âu và nhu cầu tích trữ vàng của các NHTW không ngừng tăng cao). Trong khi đó, giá
vàng trên thị trường Việt Nam tăng đến 35%.
Thị trường vàng năm 2010 chứng kiến hai cú sốc lớn vào tháng 2 và tháng 11. Sau một đêm, giá
vàng trong nước giảm 1,5 triệu đồng/ lượng vào ngày 5 tháng 2 năm 2010 (do giá thế giới giảm và
NHNN buộc các doanh nghiệp lớn gia tăng nguồn cung đáp ứng nhu cầu thị trường). Tuy nhiên
đà giảm này cũng không duy trì được lâu (chỉ kéo dài cho đến hết ngày 10 tháng 2). Sang tháng
11, sau gần 1 năm kể từ “ngày thứ tư đen tối” (11/11/2009), giá vàng trong nước lại tiếp tục có
những biến động bất thường. Trong khi giá thế giới giảm, giá vàng trong nước lại không ngừng
gia tăng (có những thời điểm, tốc độ tăng giá vàng trong nước gấp nhiều lần so với thế giới).
6 Số liệu trên do Hội đồng vàng Thế giới công bố
19
Biểu đồ 3.7: Giá vàng SJC và giá vàng thế giới (triệu đồng/lượng) tháng 10 và 11/2010
Nguồn: SBV
Việc giá vàng trong nước “nhảy múa” liên tục đã gây ra những hệ lụy không hề nhỏ: người dân đổ
xô theo giá vàng, khi giá vàng tăng cao và thiết lập những đỉnh mới, cầu vàng trong nước không
những không giảm mà còn không ngừng gia tăng; kéo theo đó giá cả hàng hóa cũng tăng theo giá
vàng… Để giảm nhiệt cho thị trường vàng, ngày 9/11/2011, NHNN tuyên bố cho phép nhập khẩu
vàng. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên trong năm 2010, NHNN cho phép nhập khẩu
vàng. Trong năm 2010, NHNN đã nhiều lần cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng cho các đầu mối nhằm bình ổn giá nhưng dường như lượng vàng nhập khẩu (17.550kg, trị giá 712.524.000USD)7
vẫn chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu ngày càng tăng mà một trong những lý do làm cầu vàng
trong nước tăng mạnh: nhu cầu đầu cơ.
Bảng 3.2: Tỷ trọng giá trị vàng nhập khẩu trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
2008 62,9 80,4 17,5 1,2
Chỉ tiêu Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tỷ USD) Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (tỷ USD) Nhập siêu (tỷ USD) Vàng nhập khẩu (tỷ USD) Tỷ trọng vàng NK trong tổng kim ngạch NK 2009 56,6 68,8 12,2 0,3 1,49% 0,44% 2010 64,5 84 19,5 0,71252 0,85% 2011 96,3 105,8 9,5 1,9 1,80% Nguồn: GSO, SBV và tính toán của tác giả
7 Nguồn: SBV Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh
20
Việc NHNN liên tục cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng đã giúp gia tăng lượng cung trên thị trường,
thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu, rút ngắn chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới.
Tuy nhiên, tác động của loại chính sách này không kéo dài được lâu. Bằng chứng là độ vênh giữa
giá trong nước và thế giới thu hẹp không được là bao và nhanh chóng tái lập tình trạng cũ. Thêm
vào đó, việc cho phép tái nhập vàng làm tăng cầu ngoại tệ, gây áp lực lên tỷ giá theo chiều hướng
bất lợi và gia tăng thâm hụt thương mại (xem bảng 3.2).
Tình trạng kiểm soát chặt ở khâu nhập khẩu vàng nhưng lại buông lỏng ở khâu xuất khẩu dẫn đến
việc các đơn vị kinh doanh vàng tận dụng cơ hội nhập khẩu vàng giá cao trong điều kiện giá trong
nước đang tăng cao hơn giá thế giới để bán nhằm thu lợi. Sau đó, khi giá vàng trong nước giảm
thấp hơn giá thế giới lại tranh thủ mua vào để xuất.
Số liệu thống kê ở bảng dưới cho thấy trong năm 2009, các đơn vị nhập khẩu vàng với giá cao
trong khi xuất khẩu với giá thấp. Xét cho cùng, hành động này mặc dù đem lại lợi nhuận cho các
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu vàng nhưng lại gây tổn thất cho nền kinh tế, cho xã hội, đặc
biệt ảnh hưởng lớn đến người dân và tác động đến tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng xấu đến mục tiêu
bình ổn kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Bảng 3.3: Tình hình xuất – nhập khẩu vàng của một số đơn vị năm 2009
2009
Nhập khẩu Xuất khẩu Đơn vị
Trị giá (USD) Trị giá (USD) Đơn giá (USD/kg) Đơn giá (USD/kg) Khối lượng (kg) Khối lượng (kg)
Sacombank 35.882.793,90 35.882,79 3.400 101.310.246,93 29.797,13
SJC 18.126.746,24 36.253,49 3.900 116.483.773,43 29.867,63
PNJ 1.000 500 775 29.022.571,44 203.711.242,03 37.448,48 6.750 30.179,44 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài việc cho phép nhập khẩu vàng và yêu cầu các đơn vị bán vàng để tăng cung nhằm bình ổn
thị trường, Nhà nước còn tác động đến chính sách thuế xuất khẩu và nhập khẩu vàng thông qua
thuế suất thuế xuất khẩu và nhập khẩu.
Đầu năm 2011, thuế nhập khẩu vàng giảm từ 1% xuống còn 0% trong khi thuế xuất khẩu vàng
tăng từ 0% lên 10%. Mục đích của chính sách này giúp giảm giá vàng nhập khẩu (vì lượng nhập
21
bị chi phối hoàn toàn bởi hạn ngạch được cấp) và tăng giá vàng xuất khẩu để hạn chế tình trạng
xuất khẩu vàng, góp phần làm giảm tình trạng bất cân xứng giữa cung và cầu vàng.
Với việc đưa ra các giải pháp, các chính sách liên tục can thiệp vào thị trường vàng đã phần nào
kiểm soát được tình trạng tăng cao bất thường của giá vàng trong nước nhưng khoảng cách giữa
giá vàng trong nước và thế giới vẫn còn khá rộng (từ 1,5 – 1,7 triệu đồng/lượng), vượt xa kỳ vọng
của Thống đốc NHNN (0,4 triệu đồng/lượng).
Cho phép chuyển đổi vàng tồn quỹ thành tiền
3.2.1.2. Ngày 6 tháng 10 năm 2011, NHNN ban hành Thông tư số 32/2011/TT-NHNN cho phép chuyển
đổi vàng tồn quỹ thành tiền. Điều này có nghĩa là NHNN cho phép các NHTM bán vàng tồn quỹ
(là lượng vàng mà các NHTM huy động và giữ hộ trong thời gian trước) để góp phần bình ổn thị
trường vàng. Đồng thời tái cho phép mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro biến
động giá vàng. Thông tư này ngay lập tức tác động đến thị trường vàng Việt Nam. Giá vàng trong
nước giảm mạnh, thu hẹp khoảng cách với giá vàng thế giới. Tuy nhiên trạng thái trên không duy
trì được lâu.
Nguyên nhân của việc không duy trì được tác dụng ban đầu mà Thông tư 32 mang lại có thể kể
đến như: (i) Hạn chế số NHTM được phép tham gia bán vàng (Chỉ có 05 NHTM và 01 công ty, nhóm G5+18, đủ điều kiện để thực hiện việc “bán vàng bình ổn”) và tỷ lệ được bán ra không cao
(tối đa 40% lượng vàng tồn quỹ); (ii) NHNN chỉ cho phép bán vàng mà vẫn chưa cho phép huy
động vàng dẫn đến nguồn cung vàng bị đứt quãng, nên nhóm G5+1 không có nguồn để duy trì
việc bán vàng để bình ổn thị trường.
3.2.1.3. Nhóm chính sách tác động đến huy động và cho vay vốn bằng vàng tại các NHTM
Quyết định 432/2000/QĐ-NHNN ban hành ngày 03 tháng 10 năm 2000, quy định về nghiệp vụ
huy động và sử dụng vốn bằng vàng của các TCTD, cho phép các NHTM huy động và cho vay
vốn bằng vàng. Đồng thời được phép chuyển đổi vàng huy động sang VND để kinh doanh (số
vàng chuyển đổi sang VND không quá 30% số vàng huy động). Giả định nếu NHTM huy động
được 1000 lượng vàng với thời gian huy động là 1 năm, họ sẽ được chuyển đổi tối đa 300 lượng
vàng sang VND để kinh doanh. Đến thời điểm hoàn trả, họ buộc phải mua vàng để trả cho người
gửi. Mức tăng giá của vàng bình quân trong giai đoạn 2008 – 2011 là 31,27%/năm, trong khi hiệu
quả sử dụng vốn chuyển đổi từ vàng sang VND thấp hơn so với mức tăng của giá vàng (chưa kể
8 Donga Bank, ACB, Techcombank, Eximbank, Sacombank và Công ty TNHH MTV Vàng Bạc Đá quý Sài Gòn.
22
chi phí huy động mà NHTM phải trả cho khách hàng) dẫn đến hiệu quả kinh doanh của NHTM
kém (lỗ) và rủi ro thanh khoản sẽ tăng cao, đặc biệt đối với những NHTM có tỷ trọng huy động
vốn bằng vàng trong tổng vốn huy động cao.
Ngày 29 tháng 10 năm 2010, NHNN cho ra đời Thông tư số 22/2010/TT-NHNN. Mục đích để
hạn chế tình trạng đầu cơ trên TTV và kiểm soát việc huy động cũng như sử dụng vốn bằng vàng
của các TCTD. Theo đó (1) Các TCTD chỉ được huy động vốn bằng vàng dưới hình thức phát
hành giấy tờ có giá; (2) không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng; (3) không
được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác.
Điều đáng lưu ý trong thông tư này là không cho phép các TCTD chuyển đổi vàng huy động
thành VND và các hình thức bằng tiền khác; đối với số vốn bằng vàng đã chuyển đổi thành tiền
trước đây cần phải giảm dần số vốn được chuyển đổi thành tiền này và tất toán chậm nhất vào
ngày 30 tháng 06 năm 2011. Như vậy Thông tư này đã góp phần làm tăng nhu cầu vàng miếng
trên thị trường của các NHTM có huy động vốn bằng vàng, tiếp tục làm căng thẳng thêm tình
trạng mất cân bằng cung – cầu trên TTV, đẩy chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới lên
cao.
TT 22/2010 của NHNN
Biểu đồ 3.8: Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tháng 10 và 11 năm 2010
Nguồn: Tính toán của tác giả
23
Ngày 29 tháng 4 năm 2011, NHNN ban hành Thông tư số 11/2011/TT-NHNN về việc chấm dứt
huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD. Theo đó Thông tư này đã chấm dứt hiệu lực
thi hành của Thông tư số 22/2010/TT-NHNN (29/10/2010) của Thống đốc NHNN, quy định về
việc huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD, kể từ ngày 01/05/2011. Như vậy, kể từ
01/05/2011, các TCTD chỉ được phép phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng để đáp ứng nhu
cầu chi trả vàng khi thiếu hụt và việc phát hành chứng chỉ này sẽ chấm dứt vào ngày 01/05/2012.
Tuy nhiên, cũng như các chính sách khác, tác động của Thông tư này cũng không mấy rõ ràng và
hiệu quả duy trì không lâu.
Gần đây, ngày 27 tháng 4 năm 2012, SBV ban hành Thông tư số 12/2012/TT-NHNN quy định
chấm dứt phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng và hiệu lực thi hành của Thông tư số
32/2011/TT-NHNN. Thông tin về sự ra đời của thông tư này tác động không nhiều đến TTV
nhưng dẫn đến một “biến tướng” trong hoạt động huy động vốn bằng vàng của các TCTD. Đó là
việc các NHTM nhận giữ hộ vàng cho khách hàng, khách hàng không những không phải trả phí
mà còn được Ngân hàng nhận giữ hộ trả tiền.
3.2.2. Nhóm chính sách tác động lên sàn vàng Năm 2008 là năm đánh dấu sự bùng nổ của các sàn vàng và hoạt động kinh doanh vàng qua tài
khoản. các sàn vàng được tổ chức theo các dạng sau: (i) sàn vàng do các NHTM thành lập; (ii) sàn
vàng do các tổ chức, cá nhân thành lập; (iii) do các tổ chức cùng với NHTM tham gia góp vốn
thành lập qua hình thức công ty; (iv) sàn vàng do các công ty tổ chức. Nhưng do chưa có những
quy định cụ thể để quản lý và quy chế thực hiện nên hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro. Theo
NHNN Việt Nam, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản và các sàn vàng không những không
tạo ra giá trị gia tăng mà còn gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Chính vì thế, thực hiện chỉ thị
của Chính phủ, từ ngày 30 tháng 03 năm 2010 chấm dứt hoạt động của các sàn vàng và không cho
phép các NHTM kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
Như vậy, thay vì thiết lập hành lang pháp lý để đưa hoạt động này vào khuôn khổ thì Nhà nước lại
dùng mệnh lệnh hành chính để cấm đoán. Điều này không những không tạo được những hiệu ứng
tích cực mà còn giúp hình thành và phát triển các sàn vàng chui gây ra nhiều tổn thất và bất ổn
cho kinh tế vĩ mô.
24
3.3. Nguyên nhân tồn tại chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới thời gian qua Dựa trên kết quả phân tích cấu trúc TTV Việt Nam và xem xét tác động của các chính sách lên
TTV có thể nhận thấy nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và
thế giới chính là tình trạng mất cân bằng cung – cầu một cách nghiêm trọng. Nguyên nhân của
tình trạng này xuất phát từ một số lý do cơ bản:
Trước tiên là do cấu trúc TTV, cụ thể là trong TTV miếng có dấu hiệu tồn tại thế lực độc quyền:
Việc SJC chiếm đến 90% thị phần vàng miếng cả nước tạo nên sức mạnh và quyền lực thị trường
cho doanh nghiệp này. Thêm vào đó kế hoạch chọn SJC làm thương hiệu vàng miếng quốc gia
cũng dần đưa TTV miếng của Việt Nam sang hình thái độc quyền Nhà nước. Với vị thế độc
quyền của mình, nếu cơ chế và biện pháp can thiệp của Nhà nước không phù hợp, SJC có thể
quyết định lượng vàng miếng và giá vàng miếng bán ra trên thị trường vào từng thời điểm khác
nhau nhằm gia tăng lợi ích cho doanh nghiệp mình và đi kèm đó là tổn thất cho người mua và cho
xã hội mà biểu hiện rõ ràng nhất là làm căng thẳng thêm quan hệ cung cầu, dẫn đến chênh lệch
giữa giá vàng trong nước và thế giới thường xuyên vượt mức kỳ vọng của NHNN.
Ngoài ra, sự thiếu vắng của các công cụ phái sinh trên thị trường vàng cũng như hoạt động của
các sàn vàng chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc tạo nên một kênh đầu tư mới cũng như
góp phần liên thông TTV trong nước và thế giới, do đó càng làm tăng áp lực lên thị trường vàng
vật chất.
Bên cạnh cấu trúc thị trường, chính sách của nhà nước tác động lên TTV trong thời gian qua còn
nhiều bất cập. Chính những bất cậy này đã làm cho các chính sách hoặc không thể duy trì tác
động của mình đến TTV, hoặc làm gia tăng thêm tình trạng căng thẳng cung cầu trên thị trường.
Có thể kể đến ba bất cập điển hình sau:
(i) Cơ chế xuất – nhập khẩu vàng: Nhập khẩu “nhỏ giọt” theo hạn ngạch mà NHNN cho
phép; trong khi đó có thể xuất khẩu không hạn chế. Cơ chế này làm cho sự mất cân bằng
cung – cầu trên thị trường vàng ngày càng trở nên trầm trọng. Thêm vào đó, việc xem xét,
cấp hạn ngạch cho các đơn vị nhập khẩu vàng cần có thời gian và phải mất thêm một
khoảng thời gian nữa để nhập vàng bổ sung nguồn cung trong nước làm căng thẳng thêm
tình trạng thiếu cung. Không những thế, với cơ chế xuất – nhập khẩu kể trên, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp được phép xuất, nhập khẩu vàng tận dụng cơ hội để “gom” vàng
trong nước xuất khẩu khi giá vàng thế giới xuống thấp hơn giá vàng trong nước làm cho
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới không thể thu hẹp.
25
(ii) Dùng mệnh lệnh hành chính buộc các đơn vị kinh doanh vàng tăng cung ra thị trường (yêu
cầu các doanh nghiệp kinh doanh vàng bán vàng “bình ổn”) nhưng lại không có chính sách
kèm theo để các đơn vị này duy trì và tạo thêm nguồn cung cho thị trường dẫn đến nguồn
cung bị đứt quãng, không đáp ứng kịp thời cầu vàng trên thị trường. Nên nhìn chung các
chính sách nhà nước ban hành để tác động lên TTV thời gian qua chỉ có tác dụng tại thời
điểm ban hành và sau đó thì chết yểu.
(iii)Các chính sách tác động lên TTV thay đổi chóng vánh gây ra tâm lý bất an cho cả người
dân lẫn các đơn vị kinh doanh vàng, tác động tiêu cực lên cả phía cung và phía cầu vàng
trên thị trường: Cấm kinh doanh vàng miếng, sau đó lại tiếp tục cho phép kinh doanh vàng
miếng; cấm kinh doanh vàng trên tài khoản và không lâu sau đó lại cho phép các NHTM
mở tài khoản vàng ở nước ngoài để giảm thiểu rủi ro tỷ giá… Ngay cả việc chọn SJC làm
thương hiệu vàng miếng quốc gia nhưng lại không có lộ trình cụ thể cũng như hướng giải
quyết nhất quán cho các thương hiệu còn lại đã và đang tác động không nhỏ đến các
thương hiệu vàng miếng phi SJC và cả những người đang nắm giữ vàng miếng phi SJC.
Nhân tố thứ ba tác động đến tình trạng mất cân bằng cung cầu trên TTV thời gian qua chính là sự
tồn tại của các nhóm lợi ích chi phối đến các chính sách liên quan đến TTV. Trong một thời gian
dài, ai cũng nhận thấy nguyên nhân chính của sự chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới là do
tình trạng mất cân bằng cung cầu, nhưng dường như chính sách nhà nước tác động trong khoảng
thời gian này không những không làm suy giảm mà còn trầm trọng thêm tình trạng trên. Việc các
công ty kinh doanh vàng miếng “nhìn nhau” để niêm yết giá cũng như để xác định lượng cung ra
thị trường đã tạo nên một nhóm lợi ích tác động không nhỏ đến TTV Việt Nam thời gian qua.
Nhân tố thứ tư tác động đến sự chênh lệch giá trên TTV Việt Nam thời gian qua là tình trạng đầu
cơ trên TTV. Theo Tiến sỹ Nguyễn Minh Phong (Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội Hà
Nội) có ba dấu hiệu giúp nhận biết có hay không có đầu cơ/ làm giá trên TTV: (i) Giá vàng biến
thiên chóng mặt nhiều lần hơn và với mức vượt xa động thái chung của vàng thế giới; (ii) Chênh
lệch giá vàng trong và ngoài nước vượt xa khoảng cách 15USD/lượng (chi phí trung gian); (iii) sự
giãn cách lớn giữa giá niêm yết mua và bán của doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Số liệu về giá vàng trong giai đoạn 2009 – 2011 cho thấy rõ TTV Việt Nam có đầy đủ ba dấu hiệu
trên. Như vậy, có thể kết luận có tình trạng đầu cơ vàng trên TTV Việt Nam trong thời gian qua.
Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy hai trạng thái đầu cơ vàng phổ biến trên TTV Việt Nam:
(i) Đầu cơ giá lên: Vay tiền mua vàng, chờ giá lên để bán kiếm lời và trả nợ vay. Hoặc
mua vàng, tạo sự khan hiếm, đẩy giá lên sau đó bán ra nhằm thu lợi.
26
(ii) Đầu cơ giá xuống: Vay vàng bán thu lợi, chờ giá vàng xuống sẽ mua vàng trả nợ
vay. Hoặc tung bán vàng để đẩy giá xuống sau đó mua lại nhằm thu lợi
Chính tình trạng đầu cơ vàng đã góp phần không nhỏ đẩy giá vàng trong nước biến động liên tục
không theo bất cứ một quy luật nào.
Yếu tố tâm lý cũng là một trong những nhân tố không kém phần quan trọng góp phần làm gia tăng
cầu vàng trên thị trường. Như đã đề cập ở phần đầu luận văn, tích trữ vàng đã là một thói quen cố
hữu của người Việt. Trong điều kiện bất ổn kinh tế như giai đoạn vừa qua các kênh đầu tư khác
tiềm ẩn nhiều rủi ro và hiệu quả thấp trong khi vàng có xu hướng tăng giá trong một thời gian dài
và chưa có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy giá vàng sẽ giảm đã làm cho vàng trở thành kênh tiết
kiệm và đầu tư hấp dẫn. Với người dân Việt, tâm lý bầy đàn trên TTV vẫn đang tiếp diễn. Dễ
dàng nhận thấy tình trạng người dân đổ xô đi mua vàng khi giá cao và lại rồng rắn đi bán vàng khi
giá giảm. Hành động này còn tiếp diễn thì điều chắc chắn chênh lệch giữa giá vàng trong nước và
thế giới vẫn tiếp tục tồn tại và khó có thể thu hẹp.
Ngoài những nguyên nhân được đề cập ở trên, những bất cập trong điều hành kinh tế vĩ mô, lạm
phát kỳ vọng vẫn ở mức cao dẫn đến niềm tin vào tiền đồng giảm sút. Điều này càng góp phần
làm tăng nhu cầu nắm giữ vàng trong dân hơn bao giờ hết.
27
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận Theo Reuteurs, lượng vàng nhập khẩu của Việt Nam chiếm 95% lượng tiêu thụ. Điều này đồng
nghĩa với việc giá vàng trong nước sẽ biến động theo giá vàng thế giới. Hay nói cách khác, với
vàng, Việt Nam là nước chấp nhận giá.
Xét về phương diện lý thuyết, là một quốc gia chấp nhận giá có nghĩa là giá vàng trong nước sẽ
biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Sự chênh lệch nếu có giữa giá vàng trong nước và thế
giới là do các loại thuế, chi phí chế tác và lợi nhuận của các đơn vị kinh doanh. Theo ước tính của
NHNN, khoảng chênh lệch hợp lý nằm trong khoảng 400.000 đồng/lượng.
Tuy nhiên diễn biến giá vàng trong nước và thế giới thời gian qua đôi khi có những xu hướng biến
động trái chiều hoặc giá vàng trong nước thường có xu hướng tăng mạnh hơn so với đà tăng của
giá vàng thế giới hoặc giảm chậm hơn so với đà giảm thế giới làm cho khảng cách giữa giá trong
nước và giá thế giới ngày càng nới rộng.
Bức tranh tổng thể TTV Việt Nam giai đoạn 2009 – 2011 là tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng
giữa cung và cầu tạo ra những cú sốc trên TTV, đẩy chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế
giới ngày càng cao kéo theo những hệ lụy không mong đợi cho đời sống kinh tế - xã hội: đầu cơ
vàng, nhập lậu vàng, tác động xấu đến thị trường ngoại hối…. gây ra tổn thất không nhỏ cho nền
kinh tế và cho xã hội.
Góp phần cho sự mất cân bằng giữa cung và cầu vàng trên thị trường có thể kể đến: Bất ổn vĩ mô;
kỳ vọng vào sự gia tăng của giá vàng trong tương lai; cấu trúc thị trường; tâm lý; đầu cơ… và một
phần không nhỏ từ “tác động ngược” của các chính sách của Nhà nước do đó không những không
thể thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới mà còn ảnh hưởng đến mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô.
Khuyến nghị
4.2. Theo Tiến sỹ Julian D.W. Phillips, trong bối tình hình kinh tế và chính trị hiện tại, rất có thể sẽ
hình thành một hệ thống tiền tệ trong tương lai của các thị trường mới nổi. Điều này có thể nhận
thấy qua việc các quốc gia đang không ngừng gia tăng dự trữ vàng trong thời gian qua. Và khi đó,
vàng sẽ là một bộ phận trong hệ thống tiền tệ mới này.
Như vậy có thể thấy, vai trò tiền tệ của vàng không hề mất đi mà ngày càng được khẳng định
trong bối cảnh bất ổn như hiện nay.
28
Chính vì thế, việc đầu tiên Nhà nước cần nhìn nhận lại vai trò của vàng trong nền kinh tế Việt
Nam và quản lý thị trường vàng theo quan điểm đó. Ở các nước, việc kiểm soát vàng và ngoại tệ
được thực hiện một cách chặt chẽ, hầu hết các quốc gia trên thế giới chỉ chấp nhận sử dụng một
đồng tiền duy nhất trong lưu thông nội địa. Nhưng với Việt Nam thì ngược lại. Mặc dù đã có quy
định không sử dụng ngoại tệ trong thanh toán nội địa nhưng USD vẫn được sử dụng phổ biến và
vàng được sử dụng rộng rãi trong các quan hệ mua bán tài sản có giá trị lớn như nhà đất, phương
tiện vận tại suốt một thời gian dài. Như vậy có thể thấy có đến 3 loại tiền tệ trong lưu thông nội
địa tại Việt Nam. Với sự tồn tại của ba loại tiền tệ trong lưu thông, Nhà nước sẽ không thể can
thiệp, quản lý, điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.
Để góp phần bình ổn thị trường vàng và thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế
giới, thiết nghĩ Nhà nước cần thực hiện những biện pháp: (i) tăng dự trữ bằng vàng để vừa đa
dạng hóa các tài sản dự trữ vừa tạo nên nguồn cung lớn để nhà nước có thể can thiệp kịp thời lên
TTV; (ii) xây dựng cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động giúp liên thông
thị trường vàng trong nước và thế giới; (iii) hạn chế và dần xóa bỏ tình trạng lợi ích nhóm trên
TTV… Cụ thể:
Trước tiên cần gia tăng dự trữ bằng vàng của quốc gia. Với xu hướng các quốc gia đang dần đa
dạng hóa và tăng dự trữ vàng trong điều kiện bất ổn kinh tế, chính trị thế giới, Việt Nam cũng cần
phải đa dạng hóa các nguồn dự trữ trong đó có dự trữ vàng. Với quỹ dự trữ này cộng với lượng
vàng “khổng lồ” được huy động trong dân, Nhà nước có thể can thiệp vào TTV bất cứ lúc nào để
bình ổn giá cả và thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới.
Đồng thời cần bỏ quy định về hạn ngạch nhập khẩu, thay vào đó nên dùng các biện pháp ít mang
tính mệnh lệnh hành chính để khai thông nguồn cung vàng vật chất, từ đó sẽ hạn chế được tình
trạng đầu cơ cũng như nhập lậu vàng qua biên giới.
Bên cạnh việc tạo nguồn cung dồi dào để tác động lên thị trường và xóa bỏ hạn ngạch cần xây
dựng một hệ thống tiêu chuẩn chất lượng vàng. Căn cứ vào đó, nếu đơn vị nào đáp ứng được
những hệ thống tiêu chuẩn chất lượng thì vàng của đơn vị đó được phép thừa nhận và lưu thông.
Theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP (03/04/2012), Nhà nước toàn quyền trong việc nhập khẩu, kinh
doanh và xuất khẩu vàng miếng. Nhưng xét về lâu dài, dựa trên kinh nghiệm của Ấn Độ, dễ dẫn
đến tình trạng độc quyền Nhà nước và nếu kiểm soát không khéo sẽ gây ra tổn thất vô ích.
Nghị định 24/2012/NĐ-CP (03/04/2012) đã thừa nhận quyền sở hữu vàng hợp pháp của người
dân. Như vậy, thay vì việc hạn chế đơn vị được phép giao dịch, kinh doanh vàng để giảm tình
trạng vàng hóa, Nhà nước có thể áp dụng kinh nghiệm của Nhật Bản bằng cách đánh thuế đối với
29
việc nắm giữ vàng của người dân tương tự như việc đánh thuế lên quyền nắm giữ và sở hữu các
tài sản khác.
Ngoài ra cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác vàng và xử lý nghiêm minh hành vi khai thác
vàng trái phép. Theo WGC, trung bình để sản xuất ra được 1 ounce vàng cần đến 3 tấn quặng,
chưa kể chi phí khai thác vàng cao, dễ dẫn đến những tác động xấu cho môi trường. Việt Nam lại
không phải là một quốc gia giàu tài nguyên này do đó càng không nên chạy đua hay tập trung vào
việc khai thác vàng để bổ sung cho nguồn cung trong nước.
Kế đến cần tái lập sàn vàng và cho phép kinh doanh vàng qua tài khoản để có thể liên thông thị
trường vàng trong nước và thế giới. Tuy nhiên, đi kèm với hành động này cần xây dựng một quy
chế hoạt động của sàn vàng cũng như các quy định liên quan đến kinh doanh vàng qua tài khoản
một cách chặt chẽ. Mặc dù Nghị định 24/2012/NĐ-CP ban hành ngày 03 tháng 04 năm 2012 đã
có đề cập đến kinh doanh vàng qua tài khoản nhưng những quy định đi kèm chưa rõ ràng, chưa cụ
thể sẽ dễ dẫn đến những hành vi sai lệch mang hơi hướng đầu cơ trong loại hình kinh doanh này.
Để có thể bình ổn thị trường vàng, Nhà nước cần phải kiên quyết và nhất quán trong việc triển
khai và thực thi các chính sách có liên quan, tránh tối đa sự chi phối của các nhóm lợi ích. Tuy
nhiên điều quan trọng nhất là Nhà nước cần phải tập trung các nguồn lực cho phát triển kinh tế,
cải thiện các chỉ tiêu vĩ mô, tạo điều kiện phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nếu làm
được điều đó, niềm tin của người dân dần được cải thiện, tự động các nguồn vốn sẽ đổ vào các
kênh đầu tư khác có tính hiệu quả cao hơn và lúc đó TTV sẽ dần tuân theo đúng quy luật thị
trường, giá vàng trong nước sẽ dần tiệm cận với giá vàng thế giới.
vi
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Robert S. Pindyck và Daniel L. Rubinfeld, Kinh tế học vi mô, Nhà xuất bản Prentice-Hall.
2. N. Gregory Mankiw (2000) , Nguyên lý kinh tế học, Nhà xuất bản South-Western.
3. Anne C. Steinemann, William C. Apgar, và H. James Brown (2005), Kinh tế học vi mô
dành cho quyết định công, Nhà xuất bản South-Western.
4. TS. Nguyễn Đại Lai, “Dự báo TTV năm 2012”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3 (2/2012).
5. PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, “Huy động vàng trong dân để ổn định và phát triển kinh tế”,
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 5 (05/2012).
6. TS. Phạm Huy Hùng (2011), “Thị trường vàng Việt Nam: Những bất cập và yêu cầu cải
cách”, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập ngày 15/02/2012 tại địa chỉ:
http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=9799&Itemid=1
34
7. TS. Nguyễn Thị Thanh Hương (2011), “ Quản lý hoạt động kinh doanh vàng bằng các giải
pháp đồng bộ”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập ngày 15/01/2012 tại địa chị:
http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gDFx
NLczdTEwMLQ1dLA09_X--
AYNcAQwNzA_2CbEdFAFjmS9E!/?WCM_PORTLET=PC_7_0D497F540O8A70IOV
KL3FS1GE5_WCM&WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/
vn.sbv.research/vn.sbv.research.research/d67a350045315773a5c9bd9c7efaecbb
8. Duy Linh (2012), “Dòng vốn chảy vào việt Nam vượt nhiều lần 500 tấn vàng”, Diễn đàn
kinh tế Việt Nam, truy cập ngày 09/02/2012 tại địa chỉ: vef.vn/2012-02-02-trang-page-5
9. Lê Hoàng Nga và Hoàng Phương Linh (2011), “Quản lý thị trường vàng ở Việt Nam”,
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập ngày 20/11/2011 tại địa chỉ:
http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=9658&Itemid=1
34
B. Tài liệu tham khảo tiếng Anh
10. Anssi Lampinen (2007), “Gold investments and short – and long – run price determinants
of the price of gold”, truy cập tại địa chỉ:
https://www.doria.fi/bitstream/handle/10024/30680/TMP.objres.688.pdf?sequence=1
11. GFMS (2011), Gold Servey 2011, GFMS Limited.
vii
12. Julian D.W. Phillips (2010), “Who controls the gold market?”, truy cập ngày 10/11/2011
tại địa chỉ: http://www.safehaven.com/article/17055/who-controls-the-gold-market
13. Julian D.W. Phillips (2010), “Have central banks lost control of the gold market?”, truy
cập ngày 10/11/2011 tại địa chỉ: http://www.financialsense.com/contributors/julian-
phillips/have-central-banks-lost-control-of-the-gold-market
14. Julian D.W. Phillips (2012), “Will Gold be Part of the Emerging World’s Future Monetary
System?”, truy cập ngày 18/04/2012 tại địa chỉ:
http://www.financialsense.com/contributors/julian-phillips/will-gold-be-part-of-the-
emerging-worlds-future-monetary-system
15. WGC (2012), Gold Demand Trends, truy cập ngày 26/03/2012 tại địa chỉ:
http://www.gold.org/media/press_releases/archive/2012/02/gold_demand_trends_q4_2011
_pr/
16. WGC (2007), Gold market knowledge, supply and demand, truy cập ngày 26/3/2012 tại
địa chỉ: http://www.gold.org/media/publications/start/110
17. WGC (2012), Gold Demand Trends First Quarter 2012, tại địa chỉ:
http://www.gold.org/investment/research/regular_reports/gold_demand_trends/
C. Các website tham khảo chủ yếu
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn/
19. Tổng cục Thống kê Việt Nam: www.gso.gov.vn/
20. Hội đồng vàng Thế giới: http://www.gold.org/
21. GFMS World Gold: http://www.gfmsworldgold.com/
22. Công ty TNHH MTV vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC: http://www.sjc.com.vn/
viii
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thị phần của các thương hiệu vàng miếng trên Thị trường vàng Việt Nam Thương hiệu SJC Thị phần Doanh số năm 2011 90%
Phượng Hoàng – PNJ Thần Tài ; AAA và RVTL 7% 3% 111.000 tỷ đồng (trên 20 triệu lượng vàng) 8.639 tỷ đồng 3.694 tỷ đồng Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Phụ lục 2: Các thương hiệu vàng miếng phổ biến tại Việt Nam
1. Vàng SJC
- Sản phẩm của Công
ty TNHH một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn - Ra đời: Tháng 03/1989 - Chất lượng vàng: 99,99% - Các loại vàng miếng: 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng, 10 lượng, 1kg.
2. Vàng AJC hay AAA
- Sản phẩm của Tổng Công ty vàng Agribank Việt Nam
- Ra đời: 12/11/2004 - Chất lượng vàng: 99,99%
- Các loại vàng miếng: 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng.
3. Vàng Rồng Thăng Long
- Sản phẩm của Công ty TNHH vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu
- Ra đời: năm 2009 - Chất lượng vàng: 99,99%
- Các loại vàng miếng: 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng.
ix
4. Vàng Phượng hoàng PNJ-DAB
- Sản phẩm của Công ty CP vàng bạc đá quý Phú Nhuận và NH Đông Á
- Ra đời: 23/04/2008 - Chất lượng vàng: 99,99%
- Các loại vàng miếng: 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng.
5. Vàng ACB - Sản phẩm của Ngân hàng Á Châu
- Ra đời: 12/08/2008 - Chất lượng vàng: 99,99%
- Các loại vàng miếng: 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng.
6. Vàng thần tài Sacombank – SBJ
- Công ty vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn thương tín - SBJ - Ra đời: 28/11/2008 - Chất lượng vàng: 99,99%
- Các loại vàng miếng: 0,5 chỉ, 1 chỉ, 2chỉ, 5 chỉ, 1 lượng.
x
Phụ lục 3: Giá vàng SJC và giá vàng thế giới giai đoạn 2009 - 2011 (triệu đồng/lượng)
Nguồn: SBV
Phụ lục 4: Chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới giai đoạn 2009 - 2011
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
xi
Phụ lục 5: Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia có truyền thống sử dụng vàng. Với mục đích kiểm soát thị trường này, vào
năm 1962, chính phủ Ấn Độ đã ban hành một đạo luật hạn chế dân chúng sử dụng vàng và tập
trung vàng vào ngân hàng trung ương. Các qui định gồm: cấm các cơ sở vàng sản xuất đồ trang
sức bằng vàng có hàm lượng trên 14 carat; các cơ sở sản xuất và kinh doanh trang sức phải ghi
đầy đủ các thông tin về mua, sản xuất, và bán vàng; các cá nhân/hộ gia đình chỉ được giữ vàng
trang sức; NHNN độc quyền trong việc xuất và nhập khẩu vàng v.v.
Trong những năm đầu, chính phủ Ấn Độ đã kiểm soát khá thành công thị trường vàng. Thông qua
việc phát hành trái phiếu vàng, chỉ trong vòng 3 năm 1962 - 1965, chính phủ đã huy động được
19,8 tấn vàng. Tuy nhiên, chính sách này sau đó đã bộc lộ những khiếm khuyết. Dân chúng tiếp
tục giữ vàng như là tài sản tiết kiệm, còn nhà nước sau đó huy động được rất ít. Việc xuất - nhập
lậu vàng trên qui mô lớn liên tục diễn ra và không thể kiểm soát. Chính sách ngoại hối liên tục bị
ảnh hưởng bởi vàng. Trước tình hình đó, vào đầu thập niên 1990 của thế kỷ 20, Ấn Độ bãi bỏ đạo
luật kiểm soát vàng trước đó. Vàng được ngân hàng trung ương Ấn Độ đối xử như là một loại
ngoại tệ. Đạo luật về quản lý ngoại hối đã bao gồm cả vàng, bạc và đối xử với các loại hàng hóa
này như là ngoại tệ.
Vào năm 1997, Ủy ban về tài khoản vốn của chính phủ Ấn Độ xây dựng một chính sách toàn diện
để "giải phóng" thị trường vàng. Các mục tiêu của chính sách này bao gồm: dỡ bỏ các rào cản đối
với việc xuất và nhập khẩu vàng nhằm chống các hoạt động buôn lậu và tích trữ vàng; phát triển
các công cụ tài chính phái sinh gắn với vàng; phát triển các thị trường đối với vàng vật chất và
vàng phái sinh; khuyến khích các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tham gia vào thị
trường vàng. Chính sách này đã nhanh chóng được đưa vào thực tế.
Tháng 7 năm 1997, các NHTM Ấn Độ được cấp giấy phép tham gia hoạt động xuất – nhập khẩu
vàng. Đầu năm 1999, ngân hàng trung ương Ấn Độ (RBI) cho phép các NHTM được phép huy
động tiền gửi đảm bảo bằng vàng; các sổ tiết kiệm vàng này được phép giao dịch trên thị trường
thứ cấp. Sau năm 2000, Ấn Độ đã phát triển các thị trường phái sinh và kỳ hạn liên quan đến
vàng. Nhờ những chính sách giải phóng thị trường vàng này, Ấn Độ không những đáp ứng được
nhu cầu sử dụng vàng của dân chúng, ngăn cản được hoạt động buôn lậu mà còn giải phóng được
một nguồn vốn khổng lồ dưới dạng vàng vào phát triển kinh tế. Tỷ giá USD/INR được duy trì ổn
định ở mức trên dưới 45 suốt từ năm 2000 đến nay.