BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ HỒNG YẾN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP TỈNH - THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Đắk Lắk - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ HỒNG YẾN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP TỈNH - THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐẮK LẮK

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 8 38 01 02

Người hướng dẫn: TS. Trần Thúy Vân

Đắk Lắk - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới

sự hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Thúy Vân. Các kết quả nghiên cứu của Luận

văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và

trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Ngoài ra, luận văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả

khác, cơ quan khác đều có trích dẫn và ghi rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ

Lê Thị Hồng Yến

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài Luận văn “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh - thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” ngoài sự cố gắng, nỗ

lực của bản thân, sự giúp đỡ của cơ quan nơi đang công tác, tôi luôn nhận

được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo Học viện Hành chính

Quốc gia, các cơ quan, ban, ngành của tỉnh Đắk Lắk.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Trần Thúy Vân - người đã

tận tình hướng dẫn tôi thực hiện Luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo Khoa Đào

tạo và Bồi dưỡng - Học viện Hành chính Quốc gia - Phân viện Tây Nguyên

đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập

và hoàn thành luận văn này.

Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi

trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Đắk Lắk, tháng 3 năm 2019

Tác giả luận văn

ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Chữ được viết tắt

HĐXX Hội đồng xét xử 1

HTND Hội thẩm nhân dân 2

TAND Tòa án nhân dân 3

TTHC Tố tụng hành chính 4

TTDS Tố tụng dân sự 5

TTHS Tố tụng hình sự 6

UBND Ủy ban nhân dân 7

VKSND Viện kiểm sát nhân dân 8

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................... iii

MỤC LỤC ............................................................................................................ iv

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài luận văn .......................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn ................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................... 5

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn .......................................................... 5

3.2. Nhiệm vụ của luận văn ............................................................................ 5

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................ 5

4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 5

4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 6

5.1. Phương pháp luận của luận văn ............................................................... 6

5.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6

6. Ý nghĩa và điểm mới của Luận văn ............................................................ 7

7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................. 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA

ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH .............................................................................. 8

1.1 Tòa án nhân dân cấp tỉnh .......................................................................... 8

1.1.1. Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân cấp tỉnh .................................... 8

1.1.2. Vai trò của Tòa án nhân dân cấp tỉnh .................................................. 10

1.1.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ........... 13

1.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh .............................. 19

iv

1.2.1. Khái niệm về Tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân cấp tỉnh ........... 19

1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ..................................... 20

1.2.3. Hoạt động của TAND cấp tỉnh ........................................................... 24

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh ............................................................................................................... 31

1.3.1. Pháp luật ............................................................................................. 31

1.3.2. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội ..................................................... 32

1.3.3. Số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân

cấp tỉnh......................................................................................................... 33

1.3.4. Kinh phí hoạt động và chế độ chính sách tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh ........... 35

Kết luận chương 1 ........................................................................................ 37

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ......................................................................... 38

2.1. Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk ............................................................................................................... 38

2.1.1. Thực trạng tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ....................... 38

2.1.2. Thực trạng hoạt động Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ......................... 44

2.2. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk ............................................................................................................... 53

2.2.1. Ưu điểm.............................................................................................. 53

2.2.2. Hạn chế: ............................................................................................. 59

2.2.3. Nguyên nhân hạn chế của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ................... 63

Kết luận chương 2 ........................................................................................ 71

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ

BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK72

3.1. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh .................................................................................................. 72

v

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................ 75

3.2.1. Giải pháp chung về hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh ..................................................................................... 76

3.2.2. Giải pháp riêng về hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk ................................................................................. 86

Kết luận chương 3 ........................................................................................ 98

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 102

vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1 Số liệu các vụ án hình sự sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết

được trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018: .................................. 44

Bảng 2.2 Số liệu các vụ án hình sự phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết được trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018: ........................ 46

Bảng 2.3 Số liệu các vụ án dân sự sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết

trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:........................................... 47

Bảng 2.4 Số liệu các vụ án dân sự phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018: ................................. 48

Bảng 2.5 Số liệu các vụ án hành chính sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018: ................................. 49

Bảng 2.6 Số liệu các vụ án hành chính phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018: ................................. 49

vii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Cải cách tư pháp là một trong những chiến lược quan trọng của đất

nước trong thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là

xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo

vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Để hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động

xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, đòi hỏi phải đổi mới tổ

chức và hoạt động của TAND. Đây là một trong những nội dung quan

trọng được thể hiện trong nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách

tư pháp và các văn bản pháp luật khác. Cụ thể:

Thứ nhất, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ

Chính trị [7] về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định

nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bao

gồm đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND, Nghị quyết nêu rõ Tòa án là

“Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, có nhiệm

vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và

quyền làm chủ của Nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo

vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự nhân phẩm của công dân. Ngoài ra, Nghị

quyết còn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và việc hoàn thiện tổ

chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức

và hoạt động của TAND.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [20, tr. 26]

và Luật tổ chức TAND năm 2014 một lần nữa khẳng định chức năng của Tòa án

được quy định tại Hiến pháp 2013. Qua đó củng cố thêm vị trí, vai trò quan

trọng của TAND trong thời kỳ mới nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và

1

xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.

Mô hình hệ thống TAND khi được tổ chức lại theo tinh thần cải cách tư

pháp có bốn cấp bao gồm: TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh,

TAND cấp huyện. Vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

và người tham gia tố tụng đã được xác định rõ hơn, đảm bảo tính công khai,

dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng xét xử, coi đây là khâu đột phá

của hoạt động cải cách tư pháp.

Chỉ TAND mới là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp là một trong ba

quyền hợp nhất tạo nên quyền lực nhà nước. Do đó, TAND đóng vai trò

quan trọng trong nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy,

việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND là nhiệm vụ trọng tâm trong

quá trình cải cách tư pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp

tỉnh có ý nghĩa quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả công tác xét xử

trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.

Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND nói chung

và TAND cấp tỉnh nói riêng trong thời gian qua cũng đặt ra nhiều vấn đề

cần giải quyết về cả lý luận và thực tiễn, cụ thể: Về thẩm quyền xét xử của

TAND cấp tỉnh, mở rộng thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện; đổi

mới việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật của Tòa án vv...

Với lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh - Thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm Luận

văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Đây là vấn đề

2

có tính chất quan trọng và cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn

Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học cấp nhà

nước, cấp bộ, các Luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống

tư pháp Việt Nam có liên quan đến cải cách tư pháp.

Trước hết phải kể đến các luận án tiến sĩ luật học:

- Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận

và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây

dựng Nhà nước pháp quyền" [32] của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005 là

công trình khoa học cung cấp kịp thời về mặt lý luận và thực tiễn cũng như

những giải pháp phù hợp cho việc cải cách hệ thống Tòa án trong mô hình nhà

nước pháp quyền. Đồng thời công trình phân tích cụ thể, đối chiếu với thực

tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án, làm cho các Điều luật được giải

thích rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu. Công trình phần nào đáp ứng yêu cầu nghiên

cứu, tìm hiểu, nâng cao nhận thức và triển khai có hiệu quả Luật tổ chức

TAND năm 2002 và chỉ ra những tồn tại và các giải pháp mới trong hoạt

động cải cách tư pháp.

- Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, “Cơ sở

khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay” [33] của

tác giả Đỗ Gia Thư, năm 2006 là công trình khoa học nghiên cứu đưa ra các

cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán cũng như

đưa ra các giải pháp hoàn thiện nâng cao chất lượng xét xử của thẩm phán.

Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên báo, tạp chí chuyên ngành luật

như:

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, tương

xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN

Việt Nam, thực hiện tư pháp” [2] của Trương Hòa Bình đăng trên tạp chí Tòa

án nhân dân, TANDTC, số 07/2014, tr. 01 – 12, làm rõ thực trạng tổ chức và

3

hoạt động của TAND, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế chủ yếu về tổ chức

và hoạt động của hệ thống TAND và đưa ra các định hướng cơ bản về việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND; Độc lập tư pháp trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn

quyền tư pháp [3] của Trương Hòa Bình đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân,

TANDTC, số 16/2014, tr. 01 – 14, bài viết cho cái nhìn tổng quát về xu

hướng độc lập của tư pháp trên thế giới và tại Việt Nam, qua đó chỉ ra các yếu

tổ để đảm bảo cho hoạt động tư pháp; Về quyền tư pháp và các nguyên tắc cải

cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

[10] của GS.TSKH Lê Văn Cảm đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân,

TANDTC, số 20/2014, tr. 01 – 05, số 21/2014, tr. 09 – 16, bài viết cung cấp

những thông tin về nhận thức khoa học mới về quyền tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay và cơ sở lý luận cho các nguyên tắc

cải cách tư pháp, trên cơ sở khoa học mới về quyền tư pháp trong giai đoạn

xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại

Tòa án, giải pháp đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm

vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân [4] của Trương Hòa Bình đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân,

TANDTC, số 21/2014, tr. 01 – 08, bài viết đã làm rõ được vị trí của tranh

tụng là khâu đột phá của cải cách tư pháp, từ đó chỉ ra bản chất của tranh tụng

tại Tòa án và những định hướng nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án;

Một số nội dung đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa

án nhân dân [5] của Trương Hòa Bình đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân,

TANDTC, số 01/2013, tr. 01 – 06, bài viết nêu sự cần thiết đổi mới thủ tục

hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân cũng như đưa ra các

quan điểm, định hướng về đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong giai đoạn

hiện nay và đưa ra các mục tiêu đổi mới cải cách hành chính tư pháp. Ngoài

ra còn một số công trình nghiên cứu khác như các báo cáo tổng kết, những bài

viết trên các tạp chí chuyên ngành có đề cập đến lĩnh vực tổ chức và hoạt

4

động của TAND.

Những công trình trên chủ yếu phân tích những nội dung cơ bản về tổ

chức và hoạt động của hệ thống TAND, phân tích tính ưu việt của pháp luật Việt

Nam về tổ chức, hoạt động của TAND, những điểm chưa hợp lý trong tổ chức

và hoạt động của hệ thống TAND hiện nay, góp phần giúp chúng ta nhìn nhận

và đánh giá đúng vị trí của TAND trong hoạt động cải cách tư pháp. Nhìn chung,

cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu một số lĩnh vực có liên quan

đến nhiều khía cạnh của tổ chức và hoạt động của TAND. Tuy nhiên, chưa có

bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, trực tiếp và có hệ thống về tổ

chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ

chức TAND năm 2014 được triển khai, thực hiện.

Mặc dù chưa nhiều nhưng những bài viết, luận văn, luận án nêu trên là

tài liệu quý báu, giúp tác giả có thêm những kiến thức quan trọng phục vụ cho

việc nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn thạc sĩ.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Luận văn có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt

động của TAND cấp tỉnh, đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của

TAND cấp tỉnh nói chung và TAND tỉnh Đắk Lắk nói riêng, từ đó đề xuất một số

giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND cấp tỉnh.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND

cấp tỉnh.

- Nghiên cứu thực trạng tổ chức bộ máy của TAND cấp tỉnh, hoạt động

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt

động của TAND tỉnh Đắk Lắk.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của

TAND cấp tỉnh, thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Đắk Lắk,

nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của

TAND tỉnh Đắk Lắk.

- Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.

- Về không gian: Tỉnh Đắk Lắk.

- Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ

chức và hoạt động của TAND mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động

của Tòa án quân sự.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận của luận văn

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp

luật; chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và về tổ chức và

hoạt động của TAND.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh và một số

phương pháp hỗ trợ có tính kỹ thuật khác.

Phương pháp phân tích được sử dụng để làm sáng rõ các vấn đề cụ thể

về tổ chức và hoạt động của TAND từ các góc độ khác nhau.

Phương pháp thống kê được sử dụng trong thu thập các dữ liệu về thực

tiễn tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Đắk Lắc.

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong đánh giá thực

trạng, đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND

6

tỉnh.

6. Ý nghĩa và điểm mới của Luận văn

Luận văn nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức

và họa động của TAND cấp tỉnh; vị trí của TAND cấp tỉnh trong hệ thống các

cơ quan nhà nước; vai trò của TAND cấp tỉnh trong bảo vệ pháp luật, bảo vệ

công lý; tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của nhân dân về tổ chức, hoạt động

của TAND cấp tỉnh nói riêng và của TAND nói chung.

Một trong các điểm mới mà Luận văn đạt được là: Từ quá trình phân

tích, đánh giá các mặt ưu điểm và khuyết điểm của hoạt động thực thi Luật Tổ

chức TAND năm 2014 trong tổ chức và hoạt động TAND cấp tỉnh trong 04

năm gần đây (từ khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được ban hành

cho đến nay), tác giả Luận văn kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi,

bổ sung, khắc phục những hạn chế để hoàn thiện Luật Tổ chức TAND năm

2014 nhằm đạt được thắng lợi về cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã

đề ra.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh;

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk;

Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt

7

động của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1 Tòa án nhân dân cấp tỉnh

1.1.1. Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

TAND có vị trí quan trọng trong hệ thống cơ quan nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên, Hiến pháp 2013 khẳng định Quốc

hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và

TAND thực hiện quyền tư pháp, bên cạnh đó còn quy định nguyên tắc kiểm

soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp quy định: “Quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [20, tr.4]. Như

vậy, TAND là một trong ba cơ quan tạo nên quyền lực nhà nước hay ngược

lại quyền lực nhà nước được tạo nên bởi ba cơ quan Quốc hội và Chính phủ

và Tòa án. Cả ba cơ quan này hoạt động theo nguyên tắc thống nhất, phân

công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau.

Tòa án có vị trí độc lập trong cơ quan nhà nước, sự độc lập của Tòa án

phản ánh vị trí của Tòa án. Montesquieu đã từng viết trong cuốn “Tinh thần

pháp luật có nội dụng như sau [17, tr 87]:

Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một

người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì

người ra sợ rằng chính ông ta hay viện nguyên lão ấy chỉ đặt ra luật

độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu

quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp.

Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc

đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ

8

có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của

quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba

thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.

Sự độc lập của Tòa án khỏi lập pháp và hành pháp là một trong

những yếu tố quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng, quyền tự nhiên của con

người, chống lại sự chuyên chế, tham nhũng, lạm dụng quyền lực của các

nhà cầm quyền. Trong các tổ chức quyền lực nhà nước hiện nay, nguyên

tắc độc lập của Tòa án là một nền tảng cơ bản. Ở Việt Nam, nguyên tắc độc

lập khi xét xử được quy định thành một nguyên tắc hiến định trong hoạt

động xét xử của Tòa án.

Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức

năng xét xử - Hiến pháp năm 2013 tại Điều 102 khẳng định: “TAND là cơ

quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền

tư pháp” [20, tr.26]. Theo các bản Hiến pháp trước đây, hoạt động “tư pháp”

không chỉ bao gồm hoạt động xét xử mà còn có nhiều hoạt động khác như

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan tư pháp khác

(cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án). Ví dụ: Theo quy định

tại Điều 126 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) TAND được quy

định chung với Viện Kiểm sát nhân dân “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát

nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức

năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm

chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính

mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” [19]. Việc điều

tra, truy tố, bảo vệ quyền lợi cho một đương sự nào đó, thi hành án không

phải là hoạt động “tư pháp” mà thực chất những hoạt động này chỉ để bảo

đảm hỗ trợ cho hoạt động xét xử (tư pháp) của Tòa án được diễn ra, thực hiện

đúng quy định của pháp luật, tuân theo lẽ công bằng. Hiến pháp 2013 đã quy

định lại vị trí, chức năng của TAND theo hướng mới xây dựng nhà nước pháp

9

quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước

thuộc về Nhân dân là phù hợp với xu hướng chung của thế giới về hoạt động

tư pháp của Tòa án.

Vị trí của TAND gắn liền với chức năng xét xử. TAND là cơ quan duy

nhất thực hiện quyền xét xử. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 2013,

Luật tổ chức TAND năm 2014 tại Điều 2 quy định rõ thẩm quyền xét xử của

Tòa án: “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử

các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật”

[21, tr.5]. Chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước xét

xử, kết luận một người có tội hay không có tội và áp dụng các hình phạt đối

với người phạm tội. Việc pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo các

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tránh tùy tiện trong việc kết tội một ai

đó vì việc kết tội một ai đó sẽ gây hậu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh

dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe, tính mạng, quyền và lợi ích hợp pháp

khác của cá nhân. Liên quan đến xét xử các vụ án hình sự, Hiến pháp năm

2013 tại Điều 31 quy định rõ ràng: “Người bị buộc tội được coi là không có

tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [20, tr.9]. Bên cạnh việc xét xử các vụ

án hình sự thì Tòa án còn xét xử các vụ án, giải quyết việc về dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết

các việc khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố

tụng hành chính.

1.1.2. Vai trò của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Vai trò của Tòa án được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ

chức TAND năm 2014. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND có

nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế

độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

10

của tổ chức, cá nhân” [20, tr.5].

- Bảo vệ công lý:

Lần đầu tiên, ngoài bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân, Hiến pháp còn quy định vai trò của TAND là bảo

vệ công lý. Không phải ngẫu nhiên Hiến pháp 2013 lại đặt bảo vệ công lý lên

đầu tiên trong các loại vai trò mà Tòa án phải bảo vệ. Công lý là lẽ phải. Mọi

quy định của Nhà nước cũng đều phải phù hợp lẽ phải. Công lý, lẽ phải được

bảo vệ thì người dân mới có lòng tin vào Nhà nước, pháp luật, cơ quan xét xử.

Công lý được bảo vệ thì mới bảo vệ được các vấn đề khác như quyền con

người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân:

Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền con người, quyền công dân từ

Điều 14 đến Điều 46 Hiến pháp 2013 [20, tr. 6-11]. Việc ghi nhận đó xác định

trách nhiệm của nhà nước trong việc tôn trọng các quyền con người, quyền

công dân, có nghĩa là tất cả các cơ quan nhà nước, cơ quan có thẩm quyền

không được xâm phạm các quyền hợp hiến, hợp pháp của người dân.

Tòa án đóng vai trò đặc biệt quan. Trong đó, Tòa án xét xử độc lập các

hành vi vi phạm các quyền con người, quyền công dân của các cơ quan nhà

nước, người có thẩm quyền. Tuyên ngôn nhân quyền và Công ước quốc tế về

các quyền dân sự, chính trị, kinh tế cũng đã nêu rõ: “Mọi người đều có quyền

được xét xử công khai, công bằng bởi một Tòa án độc lập, có thẩm quyền,

được thành lập theo quy định” [12]. Tinh thần này cũng đã được thể hiện rõ

trong Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 9 Luật tổ chức TAND năm 2014

Khi xét xử, “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật” [20], [21]. Chính vì lý do này, sự độc lập của tư pháp trong việc bảo vệ

quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cốt lõi của nhà

11

nước pháp quyền.

Trong quy định về quyền con người, quyền công dân có nhiều quy định

trực tiếp liên quan đến Tòa án được thể hiện rõ nét ở hoạt động xét xử các vụ

án hình sự. Cùng với yêu cầu được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật” [20, tr. 9], các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo không bỏ lọt tội

phạm và không làm oan người vô tội, trách nhiệm xác minh sự thật của vụ án

thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là nội dung cốt lõi của nguyên tắc

suy đoán vô tội, một trong những nguyên tắc được coi là thành tựu vĩ đại của

văn minh pháp lý nhằm bảo vệ quyền con người.

- Kiểm tra hoạt động quản lý của nhà nước:

Ở nước ta, Tòa án có thẩm quyền xét xử các quyết định hành chính,

hành vi hành chính xâm phạm quyền công dân trong hoạt động quản lý nhà

nước [25]. Đây là một bước tiến quan trọng của nền tư pháp trong quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền.

Việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân đối với các quyết định hành

chính, hành vi hành chính sai trái làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, gây bức xúc nhiều trong xã hội đặt ra đối với hệ thống Tòa án. Trước

tình hình đó, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Số 43-L/CTN ngày

28/10/1995 sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Tổ chức TAND 1993 quy định

thêm Tòa lao động, Tòa hành chính ở Tòa án trung ương, Tòa án tỉnh để xét xử

các tranh chấp lao động và hành chính. Cấp huyện có Thẩm phán chuyên trách

xét xử các tranh chấp về hành chính và lao động.

Kể từ khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án hành chính năm 1996 và sự ra đời của Tòa hành chính thuộc

TAND năm 1997, vai trò của TAND đối với việc giải quyết các tranh chấp

12

phát sinh từ hoạt động quản lý hành chính đã được khẳng định rõ ràng.

Sau nhiều lần sửa đổi, hiện nay chúng ta đã có Bộ luật TTHC năm

2015 quy định rõ các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính, nhiệm vụ

quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, quyền

hạn, trình tự, thủ tục khởi kiện, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

- Giáo dục, tuyên truyền pháp luật:

Bên cạnh các quy định của Hiến pháp năm 2013 về vai trò của TAND,

khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định thêm vai trò khác của

Tòa án: “Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung

thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc

của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm

pháp luật khác” [21]. Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh tổ chức xét xử lưu động để

tuyên truyền pháp luật thông qua phiên tòa, vừa mang tính trừng trị tội phạm,

vừa mang tính răn đe, cảnh báo. Qua việc theo dõi phiên tòa, người dân có thể

hiểu được hành vi của bị cáo là sai pháp luật và bị pháp luật trừng trị, từ đó

người dân biết tránh những hành vi tương tự, tránh vi phạm pháp luật. Những

người dự phiên tòa sẽ là các tuyên truyền viên truyền đạt kiến thức pháp luật,

thông tin vụ án mà họ tiếp nhận được đến với cộng đồng dân cư một cách hiệu

quả. Việc xét xử lưu động còn tạo điều kiện để người dân tiếp cận được với cơ

quan xét xử, củng cố niềm tin vào pháp luật, vào chính quyền và Tòa án.

Xét xử lưu động cũng thể hiện tính công khai, minh bạch, Nhân dân có

thể trực tiếp theo dõi, giám sát hoạt động tư pháp. Bên canh đó, quy định

HĐXX sơ thẩm phải có HTND tham gia, thông qua các phiên tòa sơ thẩm

tuyên truyền pháp luật đến các HTND và HTND sẽ tuyên truyền pháp luật

đến những người khác.

1.1.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Với tư cách là một trong các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để thực

13

hiện vai trò của cơ quan có chức năng xét xử, bảo đảm công lý, tổ chức và

hoạt động của Tòa án phải được tổ chức trên cơ sở những nguyên tắc chung

đã được Hiến pháp ghi nhận, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án

quan trọng nhất là:

- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân

tham gia trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn:

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp

năm 2013 và Điều 8 Luật tổ chức TAND năm 2014. Đây là một trong

những đặc trưng của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực

thuộc về Nhân dân. Bản thân chế định HTND là sự thể hiện tư tưởng

“lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của Nhân

dân trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Hội thẩm nhân dân bằng sự tham gia của mình vào HĐXX mà thực

hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để Nhân dân tham gia một cách

có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của

Tòa án nói riêng.

Khi xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại,

lao động, hành chính, trong thành phần HĐXX đều bắt buộc có sự tham gia

của các HTND. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử,

bởi việc tham gia của HTND giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp

luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân. HTND có đời sống

chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên HTND hiểu sâu hơn tâm

tư nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng Nhân dân.

Khi được cử hoặc bầu làm HTND, HTND không tách khỏi hoạt động lao

động sản xuất của cơ quan, đơn vị, cơ sở của mình với vốn hiểu biết thực tế,

kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa

phương, HTND sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết

trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội

14

đồng tình ủng hộ, góp phần bảo đảm việc xét xử có lý và có tình.

- Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử

của Thẩm phán, Hội thẩm:

Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp

2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

Xét xử độc lập trước hết xét xử phải tuân thủ các quy định của pháp

luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Sự độc lập của Thẩm phán và HTND còn

là tổng hợp các phương tiện, biện pháp về xã hội, pháp luật, kinh tế, tổ chức

nhằm hạn chế và ngăn chặn những tác động vào hoạt động xét xử. Sự độc lập

đó được xem là sự độc lập trên thực tế đối với các yếu tố bên ngoài và những

yếu tố chủ quan của HTND và Thẩm phán trong thực hiện nhiệm vụ xét xử.

Hiến pháp năm 2013 quy định về nguyên tắc xét xử độc lập có nội dung mới

là Thẩm phán, HTND độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định

của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho tới khi kết thúc phiên tòa chứ

không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử” như quy định của Hiến pháp năm 1992.

Việc quy định nghiên cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử

của Thẩm phán, HTND trong công tác xét xử là đảm bảo cho nguyên tắc này

phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và HTND. Mọi hành

vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm pháp luật

và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai:

Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103

và được Luật tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hóa tại Điều 11.

Nội dung của nguyên tắc Tòa án xét xử công khai này một mặt thể hiện

tính dân chủ, tạo điều kiện cho Nhân dân kiểm tra, giám sát được các hoạt

động của Tòa án, của các chủ thể tiến hành tố tụng, qua đó phát hiện những

thiếu sót hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi

15

ích của Nhà nước, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt khác qua

xét xử công khai còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng nhân

dân. Như vậy, có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và

giám sát của Nhân dân đối với hoạt động xét xử, mặt khác góp phần tuyên

truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân.

Tuy nhiên, Hiến pháp và các văn bản tố tụng khác như Điều 25 Bộ luật

TTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc ngoại lệ của việc xét xử công khai là

xử kín vì những trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong

mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo

yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải

tuyên án công khai.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể:

Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103

và được Luật tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hóa tại Điều 10. Tòa án xét xử

tập thể và quyết định theo đa số. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở việc

bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ, khách quan của việc nghiên cứu, thẩm vấn,

giải quyết các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, hôn nhân và gia

đình, lao động được bảo đảm tính đúng đắn, công bằng, khách quan của các

bản án, quyết định của Toà án, tránh được tính chủ quan, độc đoán và tùy tiện

trong hoạt động xét xử. Theo nguyên tắc này, việc xét xử các vụ án ở mọi cấp

đều do HĐXX được thành lập theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên,

để thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả của việc xét xử, bảo đảm cho

việc xét xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm, Hiến pháp năm 2013 và các văn

bản pháp luật khác quy định ngoại lệ cho phép Tòa án xét xử bởi một Thẩm

phán trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn.

- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử:

Được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 13 Luật

Tổ chức TAND năm 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc này. Đây là quy định

mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công

16

dân. Tranh tụng được xem là một nguyên tắc của TTHS, TTHC và TTDS.

Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho những chủ thể tranh tụng là

Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác

thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và hoạt động tranh tụng tiến hành

trên cơ sở dân chủ, bình đẳng.

Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng

tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai, bảo vệ các

quyền con người cơ bản của người bị buộc tội, nhanh chóng xác định sự thật

khách quan của vụ án. Tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động

xét xử của Tòa án lần đầu tiên được quy định. Điều này cho thấy quyết tâm

của Đảng và Nhà nước tiếp tục thực hiện tiến trình cải cách tư pháp với mục

tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,

bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa” [7].

- Nguyên tắc hai cấp xét xử (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm):

Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến

pháp 2013 và cụ thể hóa tại Điều 6 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Các bản

án, quyết định giải quyết vụ, việc về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương

mại, hành chính, hôn nhân và gia đình, lao động của Tòa án sơ thẩm khi ban

hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà được trù liệu một thời hạn nhất

định cho các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị. Hết thời hạn đó

mà các chủ thể không kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật, còn nếu bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì sẽ phải

được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết định của Tòa án cấp

phúc thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị mà có hiệu lực pháp luật ngay.

Nhằm bảo đảm cho tính nhanh chóng của tố tụng cũng như tránh tình trạng

lạm dụng quyền yêu cầu xét lại của đương sự để kéo dài vụ án, pháp luật quy

định chỉ cho phép đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị một lần mà

17

thôi.

Nội dung phúc thẩm là chỉ xét lại những nội dung do đương sự

kháng cáo và bị giới hạn bởi phạm vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết và

bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Giám đốc thẩm và tái

thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để xem

xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong những

trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định.

- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can,

bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:

Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại khoản 7 Điều 103

Hiến pháp 2013 và Điều 14 Luật Tổ chức TAND năm 2014. So với các bản

Hiến pháp trước đây, Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được

đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị cáo mới có quyền bào chữa, mà ngay

từ khi bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc

người khác bào chữa đối với họ: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác

bào chữa” [20, tr.9]. Quyền bào chữa, được bào chữa cho phép người bị buộc

tội có chỗ dựa về pháp lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra

bảo vệ mình, chống lại sự cáo buộc có tội của bên buộc tội.

Người bị buộc tội có quyền bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc

bắt buộc phải có người bào chữa kể từ khi bị tạm giữ, bị khởi tố về hình sự,

tức là từ khi có quyết định khởi tố bị can, trở thành bị can trong vụ án hình sự

đến khi bị đưa ra xét xử, trở thành bị cáo.

Mặt khác, ngoài bị can, bị cáo được Tòa án bảo đảm quyền bào chữa

thì đương sự khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, có quyền

nhờ người khác, luật sư hay chính mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình và Tòa án phải bảo đảm thực thi quyền này.

Ngoài những nguyên tắc nêu trên, trong hoạt động của Tòa án còn tuân

18

theo một số nguyên tắc khác như: Nguyên tắc về dùng tiếng nói, chữ viết

trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng

quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước TAND, trường hợp này

phải có phiên dịch; nguyên tắc bảo đảm xét xử kịp thời, công bằng để đảm

bảo quyền và lợi ích của công dân.

1.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

1.2.1. Khái niệm về tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Khái niệm tổ chức Tòa án nhân dân

Thuật ngữ “tổ chức” được nhiều ngành khoa học định nghĩa khác nhau:

Trong khoa học triết học, tổ chức được hiểu theo nghĩa rộng là cơ cấu

tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết

nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Điều này có nghĩa là sự vật luôn tồn tại

dưới dạng tổ chức nhất định [11, tr.28].

Theo khoa học về nhân loại học, tổ chức xã hội loài người xuất hiện từ

khi xuất hiện loài người. Tổ chức ấy không ngừng hoàn thiện và phát triển

cùng với sự phát triển của nhân loại [18, tr.25].

Khoa học luật dân sự phân biệt tổ chức với thể nhân (con người), theo

đó tổ chức được hiểu là tập hợp cá nhân, có cơ cấu nhất định [23, tr.42].

Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức theo nghĩa hẹp là tập

thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc

nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó. Theo nghĩa này, tổ chức là

tập thể, có mục tiêu, nhiệm vụ chung [18, tr.25].

Có thể đưa ra một định nghĩa về tổ chức nói chung như sau: Tổ chức là

tập hợp của con người trong xã hội, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ

cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định

nhằm đạt mục tiêu chung mà tổ chức đặt ra.

Tổ chức TAND là một tập hợp của con người, có chức năng, nhiệm vụ,

19

thẩm quyền, cơ cấu nhất định, có mục tiêu hoạt động nhất định.

Hơn thế nữa, tổ chức TAND thực hiện một loại quyền lực nhà nước đặc

biệt là quyền tư pháp, trọng tâm quyền này là xét xử. Để thực hiện chức năng,

nhiệm vụ vô cùng quan trọng này, đối với tổ chức TAND yêu cầu phải có

những nguyên tắc chung về cơ cấu.

Như vậy có thể hiểu, tổ chức TAND được cơ cấu theo những nguyên tắc

chung, có các quyền hạn, nhiệm vụ do pháp luật quy định để thực hiện quyền tư

pháp, trong đó trọng tâm là quyền xét xử.

Khái niệm hoạt động của TAND

Hoạt động theo từ điển Tiếng Việt: Là sự vận động nhằm một mục đích

nào đó [29].

Như vậy, hoạt động là hình thức đặc trưng của mối quan hệ của con

người đối với thế giới bên ngoài mà nội dung mối quan hệ là sự thay đổi và

cải tạo có chủ đích thế giới bên ngoài.

Như vậy có thể hiểu, Hoạt động của TAND là hoạt động được tuân theo

các nguyên tắc chung do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm công lý, bảo đảm

quyền con người, bảo vệ lợi ích quốc gia.

Khái niệm về tổ chức và hoạt động của TAND

Từ các nội dung trình bày trên, có thể đưa ra một định nghĩa chung về tổ

chức và hoạt động của TAND như sau: Tổ chức và hoạt động của TAND được

cơ cấu theo những nguyên tắc chung, có các quyền hạn, nhiệm vụ do pháp luật

quy định để thực hiện quyền tư pháp, trong đó trọng tâm là quyền xét xử nhằm

bảo đảm công lý, bảo đảm quyền con người, bảo vệ lợi ích quốc gia.

1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Tòa án nhân dân tỉnh có vị trí, vai trò, chức năng giống TAND và hoạt

động dựa trên các nguyên tắc Hiến pháp 2013 quy định. Tuy nhiên, về cơ cấu

tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh khác với TAND tối cao, TAND cấp cao

20

và TAND cấp huyện, cụ thể:

- Về cơ cấu tổ chức:

Cơ cấu tổ chức của TAND cấp tỉnh theo Điều 38 Luật Tổ chức TAND

năm 2014 quy định [21, tr.15, 16] gồm:

+ Ủy ban Thẩm phán:

Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh, gồm Chánh án, Phó Chánh án và một

số Thẩm phán. Số lượng thành viên của Ủy ban Thẩm phán do Chánh án

TAND tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương. Phiên họp Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương do Chánh án chủ trì.

Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh, có nhiệm vụ, quyền hạn:

Thảo luận về việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Thảo luận báo cáo công tác của Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương với TAND tối cao và Hội đồng nhân dân cùng cấp; Tổng

kết kinh nghiệm xét xử;

Thảo luận về kiến nghị của Chánh án TAND tỉnh đề nghị Chánh án TAND

cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo yêu cầu của Chánh án.

+ Các Tòa chuyên trách gồm có: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành

chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Có

nhiệm vụ sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật; Phúc thẩm

những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của

Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật

tố tụng.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập

Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao.

Căn cứ quy định hiện tại và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi TAND tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án TAND tối cao quyết định việc tổ

21

chức các Tòa chuyên trách.

+ Bộ máy giúp việc của Tòa án tỉnh [38] gồm có:

Văn phòng;

Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án;

Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng.

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án, các Phó

Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký

Tòa án, công chức khác và người lao động, ngoài ra còn có Hội thẩm nhân

dân. Các chức danh trên được pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ các điều

kiện, tiêu chuẩn và quy trình để được bổ nhiệm vào từng vị trí chức vụ, chức

danh tương ứng, cụ thể:

- Chánh án TAND tỉnh (Điều 42 Luật tổ chức TAND năm 2014):

+ Chánh án TAND tỉnh do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức.

+ Nhiệm kỳ của Chánh án TAND là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

+ Chánh án TAND có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ

chức TAND tối cao và các văn bản hướng dẫn của TAND tối cao.

+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải

quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.

- Phó Chánh án TAND tỉnh (Điều 43 Luật tổ chức TAND năm 2014):

Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tỉnh là 05 năm, kể từ ngày được

bổ nhiệm.

Phó Chánh án TAND tỉnh giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự

phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được

Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách

nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.

22

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng.

- Chánh tòa Tòa chuyên trách:

Gồm có Chánh tòa Tòa hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, gia

đình và người chưa thành niên vv… số lượng các Chánh tòa Tòa chuyên trách

phụ thuộc vào số lượng Tòa chuyên trách tỉnh đó thành lập. Về điều kiện, tiêu

chuẩn của Chánh tòa Tòa chuyên trách: Chánh án tỉnh trưc tiếp bổ nhiệm, có

nhiệm kỳ 05 năm, có nhiệm vụ quản lý hành chính và chuyên môn hoạt động

xét xử liên quan đến lĩnh vực của Tòa mình phụ trách.

- Phó Chánh tòa Tòa chuyên trách: Gồm có Phó Chánh tòa Tòa hình

sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, gia đình và người chưa thành niên

vv… số lượng các Chánh tòa Tòa chuyên trách phụ thuộc vào số lượng Tòa

chuyên trách tỉnh đó thành lập. Về điều kiện tiêu chuẩn của Phó Chánh tòa

Tòa chuyên trách: Do Chánh án tỉnh trưc tiếp bổ nhiệm, có nhiệm kỳ 05 năm,

có nhiệm vụ giúp Chánh tòa Tòa chuyên trách quản lý hành chính và chuyên

môn hoạt động xét xử liên quan đến lĩnh vực của Tòa mình phụ trách.

- Trưởng phòng nghiệp vụ: Gồm có Chánh Văn phòng, Trưởng phòng

Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng; Trưởng phòng Kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án. Về điều kiện tiêu chuẩn của các chức vụ trưởng

phòng nghiệp vụ: Do Chánh án tỉnh trực tiếp bổ nhiệm, nhiệm kỳ 05 năm, có

nhiệm vụ giúp Chánh án vận hành các hoạt động của cơ quan và thực hiện các

nhiệm vụ pháp luật quy định Chánh án phải thực hiện.

- Phó Trưởng phòng nghiệp vụ: Gồm có Phó Chánh Văn phòng,

Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng; Trưởng

phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Về điều kiện tiêu chuẩn của các

chức vụ Phó trưởng phòng nghiệp vụ: Do Chánh án tỉnh trưc tiếp bổ nhiệm,

nhiệm kỳ 05 năm và có nhiệm vụ giúp trưởng phòng triển khai thực hiện các

hoạt động của đơn vị mình phụ trách.

- Thẩm phán: Gồm có Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và

23

thẩm phán sơ cấp. Nhiệm kỳ đầu tiên của Thẩm phán là 05 năm và các nhiệm

kỳ tiếp theo là 10 năm. Chức danh Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm.

Thẩm phán có nhiệm vụ giải quyết, xét xử tất cả các vụ việc theo quy định

của pháp luật. Ngoài ra để được bổ nhiệm làm thẩm phán phải có đủ các điều

kiện tiêu chuẩn quy định tại Điều 67, 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014 [21,

tr. 24, 25, 27, 28, 29].

- Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên:

Lần đầu tiên trong Luật tổ chức TAND năm 2014 ghi nhận Thư ký Tòa

án và Thẩm tra viên là một chức danh tư pháp, đây là một bước tiến mới trong

quá trình cải cách tư pháp. Ngoài ra còn quy định rõ về điều kiện, tiêu chuẩn

để trở thành Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên. Bên cạnh đó, quy định nhiệm

vụ, quyền hạn cũng như chế độ chính sách của từng ngạch Thư ký Tòa án và

Thẩm tra viên (Điều 92, Điều 93 Luật Tổ chức TAND năm 2014).

- Ngoài ra, còn có các công chức khác và người lao động: Ví dụ: Kế

toán, Lưu trữ viên, Chuyên viên, Lái xe, Nhân viên bảo vệ, Nhân viên phục

vụ vv...

- Hội thẩm nhân dân không nằm trong Tổ chức của TAND cấp tỉnh

nhưng lại nằm trong Hoạt động của TAND cấp tỉnh đó là thành viên Hội đồng

xét xử sơ thẩm. HTND được bầu theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã

bầu ra Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của HTND là 05 năm.

1.2.3. Hoạt động của TAND cấp tỉnh

- Thẩm quyền của TAND tỉnh:

Với chức trách là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử các vụ án

hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết các việc

khác theo quy định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của

TAND tỉnh nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án.

Theo Hiến pháp 2013 và cụ thể hóa bằng Luật tổ chức TAND năm

24

2014 [20, tr. 15] TAND tỉnh có thẩm quyền:

- Về Thẩm quyền xét xử của TAND tỉnh nước ta cơ bản đã hoàn thiện

trong việc phân cấp, phân quyền. Quy định hiện nay đã tăng thẩm quyền cho

TAND cấp huyện trong việc xét xử sơ thẩm, không giống trước đây pháp luật

giới hạn thẩm quyền xét xử của sơ thẩm dẫn đến việc xét xử sơ thẩm chủ yếu

ở cấp tỉnh, kéo theo đó là TAND tối cao xét xử phúc thẩm đã bị ách tắc khi

mà lượng án giải quyết quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo

dài thời gian giải quyết) và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó

khăn cho người dân do đi lại đến Tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu

kiện, hao tốn tiền của, gây tâm lý bức xúc cho người dân.

- Mặt khác, pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Tổ chức

TAND năm 2014 TAND tỉnh có quyền “Sơ thẩm vụ việc theo quy định của

pháp luật”. Pháp luật quy định như trên để hạn chế những sai sót của cấp sơ

thẩm vì cấp sơ thẩm không đủ năng lực, điều kiện cơ sở vật chất xét xử sơ

thẩm tất cả các vụ án. Tuy nhiên, trong tương lai cải cách tư pháp sẽ theo

hướng mở rộng thẩm quyền xét xử thì chúng ta nên cân nhắc việc để TAND

cấp huyện được quyền xét xử sơ thẩm tất cả các loại vụ, việc, bỏ thẩm quyền

xét xử sơ thẩm của cấp tỉnh. Muốn thay đổi được như vậy, chúng ta cần có

một lộ trình chuẩn bị về con người và cơ sở vật chất khi đó mới đảm bảo

được TAND cấp huyện có đủ điều kiện để xét xử sơ thẩm tất cả các vụ, việc

và TAND cấp tỉnh chỉ được quyền xét xử phúc thẩm. Theo quy định của pháp

luật hiện hành TAND tỉnh được quyền sơ thẩm các vụ việc sau:

+ Tại khoản 2 Điều 268 Bộ luật TTHS quy định thẩm quyền xét xử sở

thẩm của TAND tỉnh gồm: Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm

quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương

sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; Vụ án hình

sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có nhiều

tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan

25

đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên,

Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc

trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.

+ Tại Điều 32 Bộ luật TTHC, quy định thẩm quyền xét xử sở thẩm của

TAND tỉnh gồm: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của

bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước,

Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của

người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi

làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường

hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh

thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có

thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính; Khiếu kiện

quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong các

cơ quan nhà nước quy định trên và quyết định hành chính, hành vi hành chính

của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú,

nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên

lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người

có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính; Khiếu kiện

quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền

trong cơ quan nhà nước đó; Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành

chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; Khiếu kiện quyết định

hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ

26

quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt

Nam thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc

Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Khiếu kiện quyết định kỷ luật

buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành

trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng

phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; Khiếu kiện quyết định giải quyết

khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi

cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với

Tòa án; Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ

án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy

định tại Điều 31 của Bộ luật TTHC.

+ Tại Điều 37 Bộ luật TTDS, quy đinh thẩm quyền Tòa án nhân dân

cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau:

Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh

chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định

tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này; Yêu cầu về dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29,

31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của Bộ

luật này; Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp

huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự

mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án

- Tại khoản 2 Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định cấp

nhân dân cấp huyện.

27

tỉnh được quyền “Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của

TAND huyện, quận, thị xã và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị

kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật” là phù hợp đảm bảo thực

hiện chế độ hai cấp xét xử. Đây là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền và tố

tụng hiện đại mà các Nhà nước tiến bộ đều phải tuân thủ. Công cuộc cải cách

tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tổ

chức thực hiện nguyên tắc trên sao cho đúng và hiệu quả về mặt tố tụng, cũng

như nội dung của vụ, việc khi được xét xử phúc thẩm.

+ Theo quy định tại Điều 203 Bộ luật TTHC, Điều 330 Bộ luật TTHS,

Điều 38 Bộ luật TTDS, TAND tỉnh xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên

trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết

định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc

kháng nghị. Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm

đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị

can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định

khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.

- Ngoài việc TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm các vụ việc được nêu trên thì TAND cấp tỉnh còn có thẩm quyền kiểm

tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện, quận,

thị xã, thành phố và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có

tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án TAND

cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem xét, kháng nghị. Đây là quy định mới

của Luật tổ chức TAND năm 2014. Trước đây TAND cấp tỉnh có quyền:

Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thì có những bất cập như: Có tới 63

TAND cấp tỉnh, 05 Tòa chuyên trách của TAND tối cao và Hội đồng Thẩm

phán TAND tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ dẫn tới việc

28

không có sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối

xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên

thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán

TAND cấp tỉnh hoặc thậm chí có trường hợp Quyết định giám đốc thẩm của

Tòa chuyên trách TAND tối cao bị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao tuyên

hủy. Để khắc phục vấn đề nêu trên, Luật tổ chức TAND năm 2014 đã bỏ đi

thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp tỉnh thay vào đó TAND

cấp tỉnh chỉ được quyền kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố và tương đương, khi phát hiện

có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì

kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem xét,

kháng nghị. Tuy nhiên, sau 03 năm thực hiện Luật tổ chức TAND năm 2014 lại

xảy ra bất cập đó là TAND cấp cao không có đủ con người để tiến hành xem

xét hết tất các bản án, quyết định của TAND cấp dưới bị khiếu nại theo hình

thức giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến tình trạng tồn đọng đơn kiến nghị. Hiện

nay, giải pháp biệt phái cán bộ TAND cấp tỉnh lên TAND cấp cao phối hợp

nghiên cứu, giải khuyết đơn kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn tồn đọng

chưa phải là giải pháp căn cơ để giải quyết vấn đề này. Vì vậy, cần đề nghị thay

đổi theo hướng giao thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm một số loại vụ

việc, quyết định của TAND cấp huyện có hiệu lực bị kháng nghị cho TAND

cấp tỉnh để giảm bớt tình trạng tồn đọng đơn kiến nghị giám đốc thẩm tại

TAND cấp cao, giải quyết nhanh chóng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

cho những người tham gia tố tụng và giảm tải cho TAND cấp cao.

- TAND cấp tỉnh còn có thẩm quyền giải quyết việc khác theo quy

định của pháp luật. Đây là một quy định mở về thẩm quyền giải quyết của

TAND cấp tỉnh. Chiếu theo các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về

thẩm quyền giải quyết các việc khác của TAND cấp tỉnh ví dụ như:

+ Ra quyết định thi hành án; quyết định thành lập Hội đồng thi hành án

29

tử hình; ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án phạt tù;

miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn trục xuất; rút ngắn thời

gian thử thách đối với người được hưởng án treo; xem xét, giải quyết việc cho

nhận tử thi của người chấp hành án tử hình; gửi bản án, quyết định được thi

hành và quyết định, tài liệu có liên quan cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; thực

hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành án hình sự theo thẩm quyền và

+ Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi

nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật thi hành án hình sư.

hành án dân sự trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn

phát sinh trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong thi hành án

dân sự; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có

ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề

nghị của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh; có ý kiến bằng văn

bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi

hành án dân sự cấp tỉnh; yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh báo cáo

công tác thi hành án dân sự ở địa phương; cho ý kiến đối với báo cáo của cơ

quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh trước khi trình Hội đồng nhân dân cùng cấp;

yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành án ở

địa phương; đề nghị cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp

kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương; quyết định khen thưởng

hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành

tích trong công tác thi hành án dân sự; kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải

quyết tranh chấp thương mại theo Trọng tài trong Luật trọng tài thương mại vv…

- Hội thẩm nhân dân:

Hội thẩm nhân dân không nằm trong tổ chức của Tòa án vì HTND chỉ

tham gia xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND theo phân

30

công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân. HTND được

bầu theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra Hội thẩm nhân dân.

Nhiệm kỳ của HTND là 05 năm.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh

1.3.1. Pháp luật

Trong thực tiễn quản lý xã hội, pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng và

mang ý nghĩa rất lớn. Pháp luật là một trong những công cụ, phương tiện có

hiệu lực và hiệu quả nhất bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của

xã hội. Tuy nhiên, pháp luật chỉ thực sự phát huy vai trò to lớn của nó khi nó

được áp dụng vào đời sống và được cụ thể hóa bằng những hành động của

con người, đó chính là áp dụng pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử

sự mang tính ràng buộc chung do nhà nước quy định để định hướng điều

chỉnh những mối quan hệ xã hội theo mục tiêu cụ thể. Pháp luật quy định về

các chức năng và nhiệm vụ, vị trí, vai trò và các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của Tòa án. Pháp luật quy định về các cách thức tổ chức và hoạt động

của hệ thống Tòa án nhân dân các cấp, các Tòa chuyên trách, ngoài ra pháp

luật còn quy định về còn quyền và nghĩa vụ, chức năng, nhiệm vụ, vị trí và

vai trò của các chức vụ, chức danh tư pháp trong hệ thống Tòa án nên pháp

luật là yếu tố hạt nhân chi phối trực tiếp đối với địa vị pháp lý của hệ thống

Tòa án nhân dân. Do đó, việc hoàn thiện thể chế và các quy định của pháp

luật sẽ quyết định đến sự hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Đây chính là cơ sở pháp lý, xác lập cơ chế thuận tiện cho Tòa án thực thi

nhiệm vụ, phát huy đúng vị trí, chức năng, vai trò là cơ quan tư pháp trong

nhà nước pháp quyền. Ở trường hợp ngược lại, nếu các quy định của pháp

luật về nội dung không rõ ràng, có bất cập không phản ánh nhu cầu chính

đáng trong đời sống thực tiễn thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng

31

hiệu quả tổ chức và hoạt động của Tòa án.

1.3.2. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội

Kinh tế đất nước ta các năm qua phát triển nhanh, hội nhập quốc tế

ngày càng mở rộng, công nghệ thông tin ngày càng hiện đại bên cạnh những

thành tựu đạt được thì vẫn tồn tại những hệ lụy kéo theo đó là tội phạm có

chiều hướng gia tăng, phức tạp. Tội phạm về kinh tế ngày càng nhiều, với

nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi. Công nghệ thông tin ngày càng phát triển

cùng với sự hội nhập quốc tế mở rộng dẫn đến các tội phạm về công nghệ cao

ngày càng phổ biến và có sự liên kết với các tổ chức ở nước ngoài gây khó

khăn cho cơ quan điều tra, đặc biệt là Tòa án. Điển hình, năm 2018 Tòa án đã

xét xử các “đại án” như: Vụ án Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng

công ty xây lắp Dầu khí (PVC), vụ án Ngân hàng Ocean Bank, vụ án đánh

bạc nghìn tỷ qua mạng, vụ án ngân hàng Đông Á (DAB) liên quan đến Phan

Văn Anh Vũ, vụ án Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (VNCB), vụ án lừa đảo

ở Housing Group vv…

Kinh tế phát triển nhanh ồ ạt, việc xây dựng các khu trung tâm công

nghệ cao, khu công nghiệp, khu đô thị ngày càng nhiều. Sự mâu thuẫn trong

quyền lợi của người bị thu hồi đất với bên đền bù và tình trạng sai phạm của

chính quyền địa phương trong việc thu hồi đất của người dân để phục vụ hoạt

động phát triển kinh tế của địa phương dẫn đến tình trạng khiếu kiện hành

chính ngày càng nhiều ở các địa phương trên cả nước. Điều này tạo nên áp

lực lớn cho các Tòa án địa phương trong quá trình thụ lý và giải quyết vì số

lượng vụ án ngày càng tăng lên, đội ngũ cán bộ, biên chế không tăng mà còn

phải tinh giảm biên chế. Thêm vào đó, tình trạng bất hợp tác với Tòa án của

một số UBND và Chủ tịch UBND vẫn còn.

Nền kinh tế nước ta hiện nay với nhiều loại hình kinh tế khác nhau đặc

biệt là kinh tế tư nhân đã được nhà nước công nhận và ngày càng phát triển vì

vậy các hoạt động giao dịch dân sự ngày càng nhiều, ồ ạt dẫn đến tình các

32

tranh chấp dân sự nhiều hơn nên số lượng các vụ án dân sự tăng nhanh số

lượng và tính chất phức tạp ngày càng tăng gây khó khăn cho Tòa án trong

việc giải quyết các vụ, việc dân sự.

Mặt khác, tình hình kinh tế còn khó khăn, số doanh nghiệp giải thể,

ngừng hoạt động tiếp tục gia tăng kéo theo nhiều người lao động mất việc làm

dẫn đến các tội phạm về tệ nạn xã hội kéo theo như: Ma túy, mại dâm, cướp

giật, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, đánh bạc vv… ngày càng tăng

nhanh về số lượng cũng như tính chất phức tạp của vụ án. Kinh tế phát triển,

xã hội phát triển nhưng bị phụ thuộc vào kinh tế nhiều hơn, con người chạy

theo các giá trị vật chất, bỏ qua các giá trị truyền thống, hội nhập quốc tế ngày

càng mở rộng nên quan niệm, tư tưởng cũng ảnh hưởng phần nào của nước

ngoài. Bên cạnh những giá trị tinh thần tốt đẹp thì những điều tiêu cực, các

văn hóa phẩm đồ trụy xuất hiện trên mạng internet, các phim về bạo lực, tình

dục trên mạng xã hội đã phần nào ảnh hưởng đến giới trẻ về mặt tâm lý, tư

tưởng nên các loại tội phạm về hiếp dâm, cố ý gây thương tích ngày một gia

tăng, đối tượng phạm tội ngày một trẻ hóa đã ảnh hưởng đến việc tổ chức xét

xử của Tòa án, đòi hỏi các quy định của pháp luật về việc thay đổi các mô

hình Tòa chuyên trách sao cho phù hợp với tình hình tội phạm thực tế tại địa

phương như thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên.

1.3.3. Số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án

nhân dân cấp tỉnh

- Số lượng cán bộ, công chức: Căn cứ vào tổng biên chế, số lượng, cơ

cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm phán đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết

định, Chánh án TAND tối cao sẽ phân bổ biên chế, số lượng Thẩm phán,

công chức, viên chức và người lao động của các đơn vị trực thuộc các TAND.

Dựa vào số lượng án giải quyết hằng năm Chánh án TAND tối cao sẽ phân bổ

biên chế Thẩm phán cho TAND tỉnh đó tương ứng với số lượng án giải quyết.

Tuy nhiên hiện nay, số lượng Thẩm phán còn thiếu so với nhu cầu thực thế.

33

Theo quy định của Tòa án tối cao [47] , 01 Thẩm phán 01 tháng chỉ giải quyết

08 vụ. Tuy nhiên, thực tế số lượng án 01 Thẩm phán phải giải quyết gấp đôi,

trung bình 16 đến 18 vụ/tháng. Thẩm phán giải quyết quá nhiều án sẽ dẫn đến

chất lượng án xét xử giảm. Hiện nay, việc phân bổ biên chế Thẩm phán ở các

TAND tỉnh nói riêng và TAND huyện nói chung đều thiếu biên chế Thẩm phán.

Thực hiện Nghị quyết 39 của Trung ương về tinh giản biên chế mỗi năm phải

giảm 10%/ tổng số biên chế được giao đã tăng thêm những khó khăn cho hoạt

động của Tòa án về công tác xét xử, thiếu về nhân lực. Hiện nay, để vừa thực

hiện việc tinh giảm biên chế lại vừa đảm bảo công tác xét xử thì TAND tối cao

đã có giải pháp lấy nguồn từ Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên, do đó số lượng

Thẩm phán tăng lên nhưng số lượng Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên lại giảm

đi không được bù vào dẫn đến thiếu hụt Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên. Vì

vậy, bài toán về biên chế của Hệ thống Tòa án nước ta nói chung và TAND

tỉnh nói riêng đang là một bài toán khó về việc thiếu biên chế, biên chế phân bổ

không đủ đáp ứng nhu cầu thực tế, trong khi số lượng án năm sau cao hơn năm

trước, các vụ án án có tính chất phức tạp ngày càng nhiều.

Bên cạnh việc phân bổ số lượng Thẩm phán, TAND tối cao còn phân

bổ số biên chế Thư ký, Thẩm tra viên, các chức danh khác như Kế toán,

chuyên viên về công nghệ thông tin, Văn thư - Lưu trữ cho TAND tỉnh để tổ

chức và hoạt động của TAND tỉnh được đảm bảo.

- Chất lượng cán bộ, công chức: Chất lượng cán bộ, công chức Tòa án

nhân cấp tỉnh ngày càng được nâng cao. Số lượng cán bộ có chức danh tư

pháp như Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên đều đạt trình độ cử nhân luật trở

lên. Trong những năm gần đây, nguồn cán bộ tuyển dụng đầu vào đều là cử

nhân chính quy. Trước yêu cầu và nhiệm vụ chính trị, hằng tháng TAND tối

cao tổ chức các buổi tập huấn trực tuyến theo từng chuyên đề và giải đáp thắc

mắc cho toàn thể các Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên trong hệ thống

TAND được tham gia để nâng cao năng lực chuyên môn và chất lượng xét xử,

34

đẩy lùi tình trạng án oan, sai.

1.3.4. Kinh phí hoạt động và chế độ chính sách tại Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

- Kinh phí hoạt động của TAND tỉnh: Kinh phí hoạt động của TAND

tỉnh do Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống nhất với TAND tối

cao. Việc quản lý, phân bổ, cấp và sử dụng kinh phí được thực hiện theo quy

định của Luật ngân sách nhà nước và các luật khác có liên quan. TAND tỉnh

sử dụng kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên và không thường xuyên của

Tòa án như: Kinh phí đào tạo, mua sắm vật dụng thường xuyên, máy móc

phục vụ công tác, tiền bồi dưỡng phiên tòa vv…. TAND tối cao sử dụng kinh

phí vào việc phát triển công nghệ thông tin cho TAND như: Thành lập cổng

thông tin điện tử TAND tối cao, cổng thông tin điện tử Tòa án nhân tỉnh; lắp

đặt mạng LAN để tổ chức các chương trình hội nghị, tập trực tuyến từ TAND

tối cao đến TAND cấp cao, TAND tỉnh, TAND huyện.

Kinh phí hoạt động của TAND nhân dân đang được cấp định mức như

định mức của cơ quan hành chính sự nghiệp là chưa thực sự phù hợp với tính

chất đặc thù, đặc biệt của công tác xét xử, của cơ quan đặc biệt thực hiện

quyền tư pháp từ đó hạn chế đến hiệu quả công tác của Tòa án.

- Các chế độ chính sách tại TAND tỉnh: Quan niện xem Tòa án chỉ là cơ

quan xét xử như một “ngành” chuyên môn nên các chế độ chính sách cho các

chức danh tư pháp trong Tòa án cũng đều được áp dụng như những nhân viên

hành chính sự nghiệp. Cụ thể: Các chức danh tư pháp trong Tòa án được

hưởng lương theo Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ Tòa án, Kiểm sát [63].

Theo đó, bảng lương hiện nay không có sự phân biệt về thang lương, bậc

lương và hệ số lương giữa Thẩm phán sơ cấp và Thẩm tra viên, Thư ký Tòa

án. Chỉ khác nhau về phụ cấp trách nhiệm như: Thẩm phán sơ cấp và Thẩm

tra viên chính phụ cấp 30%; Thẩm phán trung cấp và Thẩm tra viên hưởng

phụ cấp 25%; Thư ký Tòa án hưởng phụ cấp trách nhiệm 20%. Bảng lương

35

này tuy là danh riêng cho Tòa án và Kiểm sát nhưng thực tế lại giống với

bảng lương của các chuyên viên hành chính sự nghiệp. Nếu đánh giá đúng,

bảng lương của Tòa án và Kiểm sát phải tương tự như bảng lương của lực

lượng vũ trang hoặc của các doanh nghiệp.

Với chức năng nhiệm vụ là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

quyền và lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân thì các chế độ chính sách về tiền

lương, chế độ đãi ngộ cho các chức danh tư pháp trong Tòa án phải tương xứng

với tính chất công việc đặc thù. Như vậy, mới tạo điều kiện để những con người

làm việc trong Tòa án mới tâm công tác, gắn bó lâu dài với Tòa án, đặc biệt hơn là

36

thu hút được các nguồn nhân lực chất lượng cao.

Kết luận chương 1

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của

TAND nói chung và TAND tỉnh nói riêng trong điều kiện cải cách tư pháp và

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở

nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau: Quyền Tư pháp là một trong 3

quyền quan trọng trong tổ chức quyền lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ

thể được giao thực hiện quyền này. Tòa án là cơ quan được thành lập để thực

hiện chức năng xét xử.

Ở nước ta, hệ thống TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh

thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia

đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết các việc

khác theo quy định của pháp luật. Luật tổ chức TAND 2014 quy định rõ điều

kiện, tiêu chuẩn về các chức danh tư pháp và thẩm quyền xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm của TAND tỉnh.

Tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh phải tuân thủ các nguyên tắc

chung được Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định.

Tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh chịu sự tác động của nhiều

yếu tố như: Pháp luật, kinh tế - xã hội, số lượng, chất lượng đội ngũ công

chức, điều kiện vật chất, chế độ, chính sách đối với công chức, người lao

37

động.

Chương 2:

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân tỉnh Đắk Lắk

2.1.1. Thực trạng tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Về lịch sử hình thành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk:

TAND tỉnh Đắk Lắk (TAND tỉnh) được thành lập ngay sau khi giải

phóng tỉnh Đắk Lắk vào tháng 03 năm 1975 để xét xử các vụ án chống đối

chính quyền cách mạng, các vụ án về kinh tế, trật tự và an toàn xã hội góp

phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

tỉnh. Đến cuối năm 1976, TAND tỉnh chính thức thành lập [62]. Ngày

01/01/2004 tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành 02 tỉnh là Đắk Lắk và Đắk

Nông theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội khóa

XI - kỳ họp thứ 4. Hiện nay, hệ thống TAND của tỉnh Đắk Lắk có TAND cấp

tỉnh và 15 TAND cấp huyện.

Căn cứ Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014,

TANDTC đã ban hành một số văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của

TAND tỉnh Đăk Lắk như: Quyết định số 345/QĐ-CA, ngày 07/4/2016 Chánh

án TAND tối cao [38] ban hành về việc tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn

của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (QĐ 345/QĐ-

CA); Quyết định số 1865/QĐ-TANDTC ngày 15/10/2018 của TAND tối cao

về việc tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND các cấp tỉnh Đắk Lắk [48] ;

Quyết định số 2228/QĐ-TCCB ngày 27/12/2018 của TAND tối cao về tổng

38

biên chế và số lượng Thẩm phán TAND các cấp tỉnh Đắk Lắk với tổng biên

chế của TAND tỉnh Đắk Lắk [49] gồm 82 người, trong đó có 01 Thẩm phán

cao cấp và 28 Thẩm phán trung cấp. Biên chế hiện có tính đến ngày

01/02/2019 TAND tỉnh Đắk Lắk có 78 biên chế, trong đó có 01 Thẩm phán

cao cấp; 20 Thẩm phán trung cấp; 38 Thư ký Tòa án; 01 Thẩm tra viên chính;

08 Thẩm tra viên; 02 Kế toán, 01 Chuyên viên và 03 Lái xe, 02 Nhân viên phục

vụ, 02 Nhân viên bảo vệ. So sánh biên chế được giao với số biên chế hiện có thì

TAND tỉnh Đắk Lắk thiếu 08 Thẩm phán trung cấp, do đó trong quá trình xét

xử, giải quyết các vụ việc vẫn còn nhiều khó khăn trở ngại khi số lượng án ngày

càng nhiều, vụ việc có tính chất phức tạp ngày càng tăng. Tuy nhiên, với tinh

thần là Thẩm phán nhân dân mẫu mực, các cán bộ, công chức TAND tỉnh Đắk

Lắk luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, hạn chế tình trạng án bị hủy sửa,

không để xảy ra tình trạng oan sai.

Về trình độ chuyên môn: Có 01 Tiến sĩ đồng thời là Chánh án; 16 Thạc

sĩ gồm các Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên; 53 Cử nhân Luật và

Cử nhân Kinh tế, trong đó có có 19 trường hợp đã và đang bảo vệ luận văn

Thạc sỹ tại các trường Đại học Kinh tế luật, Học viện Hành chính Quốc gia;

01 Cao đẳng. Nhìn chung, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức TAND

tỉnh Đắk Lắk đều đạt Cử nhân Luật trở lên, đáp ứng các điều kiện về vị trí

việc làm, không có tình trạng cán bộ, công chức được bố trí sắp xếp công việc

không đúng với vị trí việc làm.

Cơ cấu Tổ chức TAND tỉnh Đắk Lắk hiện có: Ủy ban Thẩm phán, Chánh

án, các Phó Chánh án, các Tòa chuyên trách và bộ máy giúp việc. Các công việc

tại TAND tỉnh Đắk Lắk do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án, Phó Chánh

án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ chịu

trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được phân công.

- Về Ủy ban Thẩm phán:

Chánh án TAND tối cao quy định, TAND tỉnh Đắk Lắk có 07 thành

39

viên Ủy ban Thẩm phán dựa trên đề nghị của Chánh án TAND tỉnh. Phiên

họp Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh do Chánh án chủ trì. Ủy ban Thẩm phán

hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Về bộ máy lãnh đạo:

TAND tỉnh đã hoàn thiện về bộ máy lãnh đạo theo Quyết định số

663/QĐ-TANDTC ngày 12/4/2017 của Chánh án TAND tối cao [43] quy

định về số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó đối với TAND tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương và TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương. Lãnh đạo TAND tỉnh gồm có Chánh án và 04 Phó Chánh án,

theo quy định chung TAND tỉnh có số lượng Phó Chánh án không quá 03

người, tuy nhiên vì Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk đang là đại biểu Quốc hội

khóa XIV nên TAND tỉnh có 04 Phó Chánh án.

Nhìn chung, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án

TAND tỉnh đã đảm bảo cho mọi hoạt động của Tòa án được triển khai thực

hiện, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu trong cơ quan

tư pháp. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án trong Bộ luật tố tụng dân sự

gần giống với Bộ luật tố tụng hành chính, khác với Bộ luật tố tụng hình sự,

việc pháp luật quy định như vậy vì đặc thù tính chất của vụ việc (hình sự gắn

với quyền con người phải được đảm bảo).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Chánh án TAND tỉnh pháp luật đã được

quy định đầy đủ. Về bản chất, Phó Chánh án là người giúp việc cho Chánh án

trong quá trình thực hiện công vụ về công tác quản lý cũng như công tác

chuyên môn, ngoài ra Phó Chánh án còn đóng vai trò thay mặt Chánh án thực

hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án khi Chánh án đi vắng, trừ một

số trường hợp pháp luật quy định Phó Chánh án không được thực hiện thay.

- Lãnh đạo các tòa, phòng:

Gồm có Chánh tòa, các phó Chánh tòa; Chánh Văn phòng, Phó Văn

phòng; Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng,

40

Phó trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng;

Trưởng phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, Phó trưởng phòng Kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án.

Đội ngũ làm công tác lãnh đạo của TAND tỉnh Đắk Lắk là những có

tinh thần tổ chức kỷ luật cao, có ý thức tự chủ, năng động và sáng tạo trong

công việc, có kiến thức trình độ năng lực thực tiễn, có tinh thần khắc phục

khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có tinh thần cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu, tham nhũng, lãng

phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng

tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm; có khả năng quy tụ và đoàn

kết. Giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức có mối quan hệ công tác tốt, bảo

đảm phục vụ tốt các nhiệm vụ của cơ quan. Lãnh đạo có bản lĩnh chính trị

vững vàng, là người đi đầu là tấm gương để mọi công chức noi theo.

- Về Tòa chuyên trách:

Thực hiện theo Quyết định số 1865/QĐ-TANDTC ngày 15/10/2018

của TAND tối cao [48] về việc tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND các cấp

tỉnh Đắk Lắk, TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay có 05 Tòa chuyên trách gồm:

+ Tòa Hình sự có 09 biên chế gồm: Chánh tòa; 01 Thẩm phán trung cấp

và 07 Thư ký (hiện nay đang khuyết 01 Phó Chánh tòa).

+ Tòa Dân sự có 10 biên chế gồm: Chánh tòa; 02 Phó Chánh tòa và 07

Thư ký.

+ Tòa Hành chính có 08 biên chế gồm: Chánh tòa; 01 Phó Chánh tòa;

01 Thẩm phán trung cấp và 05 Thư ký.

+ Tòa Kinh tế có 04 biên chế gồm: Chánh tòa; 01 Phó Chánh tòa và 02

Thư ký.

+ Tòa Gia đình và người chưa thành niên có 07 biên chế gồm: Chánh

tòa; 01 Phó Chánh tòa; 01 Thẩm phán trung cấp và 04 Thư ký.

Trước ngày 15/10/2018 TAND tỉnh Đắk Lắk cũng có 05 tòa chuyên

trách, trong đó có Tòa Lao động nhưng do số lượng án thụ lý và giải quyết từ

41

năm 2012 đến 2015 trung bình từ 03 đến 04 vụ việc/năm nên TAND tỉnh Đắk

Lắk đã trình, được Chánh án TAND tối cao phê duyệt chuyển sát nhập Tòa

Lao động vào Tòa Kinh tế và thành lập thêm Tòa gia đình và người chưa

thành niên như hiện nay. Nhìn chung, TAND tối cao thành lập 05 tòa chuyên

trách tại TAND tỉnh Đắk Lắk là đã bám sát với tình hình thực tế số lượng vụ

án của từng loại vụ việc để thành lập nên các tòa chuyên trách phù hợp với

tình hình tại địa phương.

Các tòa chuyên trách đã kiện toàn về tổ chức và hoạt động xét xử. Có

đầy đủ các chức danh quản lý và các chức danh tố tụng như: Chánh tòa, các

Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Các tòa chuyên trách thực hiện

đầy đủ và đúng các nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật quy định, luôn hoàn thành

tốt nhiệm vụ được giao.

- Bộ máy giúp việc gồm có:

Phòng Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án; Phòng Tổ chức cán

bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng; Văn phòng là bộ máy giúp việc cho

TAND tỉnh Đắk Lắk thực hiện theo quy định Luật tổ chức TAND [21] và

Quyết định 345/QĐ-CA [38].

+ Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng có 05 biên

chế gồm: Trưởng phòng (Thẩm phán trung cấp); 01 Phó trưởng phòng (Thẩm tra

viên); 01 Thẩm tra viên làm công tác Thi đua khen thưởng và 02 Thư ký giúp

việc cho phòng.

+ Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án có 08 biên chế gồm:

Trưởng phòng (Thẩm phán trung cấp); 02 Phó trưởng phòng (01 Thẩm tra

viên chính và 01 Thẩm tra viên); 01 Thẩm phán trung cấp; 01 Thẩm tra viên

và 03 Thư ký giúp việc.

+ Văn phòng TAND tỉnh Đắk Lắk có 14 biên chế và 08 Hợp đồng lao

động gồm: Chánh Văn phòng (Thẩm phán trung cấp); 01 Phó Chánh Văn

42

phòng (Thẩm tra viên); 02 Thẩm tra viên; 07 Thư ký giúp việc; 02 Kế toán;

01 Lưu trữ viên; 01 Chuyên viên; 03 Lái xe cơ quan, 02 Nhân viên Bảo vệ, 02

Nhân viên Phục vụ.

Về nhiệm vụ của Văn phòng hiện nay có một số điểm khác với chức

năng, nhiệm vụ Văn phòng trước kia, cụ thể: Trước tháng 6 năm 2015 việc

thụ lý tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm

quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh do các Tòa chuyên trách đảm nhận thụ

lý, giải quyết, đơn khởi kiện, hồ sơ vụ án thuộc về lĩnh vực gì thì tòa chuyên

trách đó thụ lý và giải quyết. Đến ngày 11/6/2015 TAND tỉnh Đắk Lắk ban

hành Quyết định số 125/QĐ-TAND của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về

việc thành lập Tổ Hành chính Tư pháp và ban hành kèm theo quyết định là

Quy chế hoạt động của Tổ Hành chính Tư pháp. Việc TAND tỉnh Đắk Lắk

thành lập Tổ Hành chính Tư pháp - bộ phận một cửa là thực hiện theo chủ

trương cải cách tư pháp, đơn giản hóa thủ tục hành chính tại Tòa án, mọi hoạt

động hành chính quy về một mối để người dân thuận tiện trong quá trình làm

việc tại Tòa án, TAND tỉnh Đắk Lắk là một trong những Tòa án đi đầu trong

việc cải cách thủ tục hành chính tại Tòa án, hướng đến cải cách tư pháp.

Tổ Hành chính tư pháp hoạt động như một bộ phân chuyên trách của

TAND tỉnh Đắk Lắk, có Tổ trưởng (Thẩm phán) và các Tổ viên (Thẩm tra viên,

Thư ký Tòa án, chuyên viên) cơ chế hoạt động do Chánh án trực tiếp quản lý,

chỉ đạo hoặc ủy quyền cho một Phó Chánh án phụ trách quản lý, chỉ đạo.

Nhiệm vụ của Tổ Hành chính tư pháp gồm: 1) Thực hiện tiếp công dân

định kỳ và tham mưu cho lãnh đạo trong công tác tiếp công dân định kỳ; 2)

Xử lý và giải quyết các loại đơn khởi kiện và công văn hành chính tư pháp

trong các lĩnh vực án Dân sự, Hình sự, Hành chính, Kinh tế, Lao động, Hôn

nhân gia đình; 3) Nhận và thụ lý hồ sơ các loại vụ việc Dân sự, Kinh tế, Lao

động, Hành chính, Hình sự, Hôn nhân gia đình; 4) Đề xuất tham mưu cho

lãnh đạo TAND cấp tỉnh trong việc phân công các Thẩm phán giải quyết các

43

vụ án thuộc thẩm quyền và lên lịch xét xử các loại vụ án.

Đến khi Quyết định số 345/QĐ-CA ban hành, thì Tổ Hành chính tư

pháp sát nhập vào Văn phòng và thực hiện nhiệm vụ quyền hạn như trên.

2.1.2. Thực trạng hoạt động Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

a) Thực trạng xét xử các vụ án tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

Thẩm quyền, nhiệm vụ của Tòa án các cấp đã được quy định rõ trong

các Bộ luật tố tụng hình sự, dân sự, hành chính. Thông qua báo cáo tổng

kết công tác năm của TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến năm 2018 số

lượng các vụ án mà TAND tỉnh Đắk Lắk phải thụ lý và giải quyết cụ thể

như sau:

Năm 2014: Thụ lý 1.101 vụ án; giải quyết 1.095 vụ án. Đạt tỷ lệ 99,4% [55].

Năm 2015: Thụ lý 1.033 vụ án; giải quyết 1.031 vụ án. Đạt tỷ lệ 99,8% [56].

Năm 2016: Thụ lý 1.043 vụ án; giải quyết 1.032 vụ án. Đạt tỷ lệ 98,9% [57].

Năm 2017: Thụ lý 1.049 vụ án; giải quyết 996 vụ án. Đạt tỷ lệ 94,9% [58].

Năm 2018: Thụ lý 1.194 vụ án; giải quyết 1.159 vụ án. Đạt tỷ lệ 97,1% [59].

Trung bình mỗi năm TAND tỉnh Đắk Lắk thụ lý 1.084 vụ án, tỷ lệ giải

quyết đạt 98% vượt qua mức chỉ tiêu mà TAND tối cao đã đề ra. TAND tỉnh

Đắk Lắk có số lượng án thụ lý và giải quyết mỗi năm từ 1.000 vụ án trở lên,

là một trong số những Tòa án trong cả nước có số lượng án thụ lý và giải

quyết cao. Số vụ án còn lại chưa giải quyết đều là những vụ án còn trong thời

hạn giải quyết theo quy định của pháp luật và đang được tiếp tục xem xét, giải

quyết. Cụ thể:

- Về xét xử án hình sự

Bảng 2.1 Số liệu các vụ án hình sự sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết được trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

44

Cũ còn lại Tổng phải Đã giải Tỷ lệ Mới thụ lý Còn lại Năm (vụ/bị giải quyết quyết giải (vụ/bị cáo) (vụ/bị cáo) cáo) (vụ/bị cáo) (vụ/bị cáo) quyết

2014 6/45 98/366 104/411 103/409 1/2 99%

2015 1/2 84/160 85/162 85/161 0/1 99,9%

2016 0/1 71/160 71/161 68/139 3/22 95,7%

2017 3/22 78/147 81/169 79/166 2/3 97,5%

2018 2/3 82/286 84/289 80/271 4/18 95,2%

45

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.2 Số liệu các vụ án hình sự phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã

giải quyết được trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

Cũ còn Mới thụ Đã giải Tỷ lệ lại lý Tổng phải giải Còn lại Năm quyết giải (vụ/bị (vụ/bị quyết (vụ/bị cáo) (vụ/bị cáo) (vụ/bị cáo) quyết cáo) cáo)

2014 7/7 531/903 538/910 538/910 0 100%

2015 0/0 548/923 548/923 548/923 0 100%

2016 0/0 542/848 542/848 539/844 3/4 99,4%

2017 3/4 441/710 444/714 442/712 2/2 99,5%

2018 2/2 555/952 557/954 556/953 1/1 99,8%

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Qua bảng số liệu về số lượng án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm mà

TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong 05 năm vừa qua, số lượng vụ án và

số lượng bị cáo năm sau nhiều hơn năm trước, tính chất phức tạp của từng vụ

án ngày càng tăng nên việc xét xử còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình này

xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm của vùng Tây nguyên, có diện tích tự nhiên là: 13.125 km2, dân số hơn 1,9

triệu người gồm 44 dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh chiếm trên

70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, Mnông, Thái, Tày, Nùng, người Chăm,

Xê Đăng... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh. Ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ,

còn có số đông khác là dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến Đắk

Lắk sinh cơ lập nghiệp. Địa hình tỉnh Đắk Lắk hiểm trở, rừng núi hẻo lánh,

nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với nhiều phong tục tập quán khác nhau. Tình

hình an ninh chính trị và di cư tự do đã và đang diễn biến phức tạp; công tác

quản lý địa bàn dân cư rất khó khăn. Địa bàn rộng lớn, nhiều dân tộc cùng sinh

sống, trình độ dân trí chưa cao nên các tội phạm chủ yếu xảy ra là xâm phạm sở

46

hữu; tính mạng, nhân phẩm, danh dự của con người; an toàn công cộng, trật tự

công cộng; tội phạm về ma túy có nhiều diễn biến phức tạp. Các vụ án lớn, đặc

biệt nghiêm trọng về kinh tế, tham nhũng hoặc các vụ án được dư luận xã hội

quan tâm đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng trong quá trình

giải quyết trên cơ sở quy định của pháp luật và được giải quyết kịp thời,

nghiêm minh. Trung bình 01 năm TAND tỉnh Đắk Lắk phải giải quyết trên

1.000 vụ việc các loại, chỉ có 21 Thẩm phán thực hiện công tác xét xử. Như

vậy, bình quân mỗi Thẩm phán phải giải quyết 51 vụ việc/năm và trung bình

4,25 vụ/01 tháng, Thẩm phán chỉ có 06 ngày làm việc để nghiên cứu và đem

ra xét xử giải quyết xong một vụ án, trong khi đó có những vụ án phức tạp

điển hình như: vụ án Y Tuyến Ksơr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với

số tiền bị chiếm đoạt lên tới 24 tỷ đồng; Vụ lừa đảo MB24 chi nhánh Đắk Lắk

hơn 10 tỷ đồng với 04 bị cáo, 192 người liên quan và 500 bị hại; vụ án “Đánh

bạc” gồm 50 bị cáo xảy ra ở huyện Cư M’gar nhưng kết quả xét xử là đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không xử oan

người vô tội, thời gian giải quyết nằm trong hạn luật định, đảm bảo được

quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.

- Về xử án dân sự, (bao gồm các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, phá sản, lao động):

Bảng 2.3 Số liệu các vụ án dân sự sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

Mới Tổng phải Đã giải Tỷ lệ giải Năm Cũ còn lại Còn lại thụ lý giải quyết quyết quyết

2014 18 21 34 5 87,1 39

2015 5 21 24 2 92,3% 26

2016 2 34 32 4 88,8% 36

2017 4 59 43 20 68,3% 63

2018 20 80 62 17 78,5% 79

47

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.4 Số liệu các vụ án dân sự phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải

quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

Tỷ lệ Cũ còn Tổng phải Đã giải Năm Mới thụ lý Còn lại giải lại giải quyết quyết quyết

35 2014 322 357 356 1 99,7%

1 2015 301 302 292 10 96,7%

10 2016 330 340 334 6 98,2%

6 2017 304 310 303 7 97,4%

7 2018 334 341 338 3 99,1%

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Qua bảng số liệu thống kê số lượng án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm của

TAND tỉnh Đắk Lắk trong 05 năm gần đây, số lượng án dân sự sơ thẩm thụ lý

và giải quyết năm sau cao hơn năm trước, thậm chí số lượng vụ án dân sự sơ

thẩm năm 2017 nhiều gần gấp đôi so với năm 2016, tính chất phức tạp của từng

vụ án ngày một tăng. Qua thống kê cho thấy, các vụ án dân sự mà TAND tỉnh

Đắk Lắk giải quyết chủ yếu là các vụ án ly hôn, tranh chấp về hợp đồng dân sự,

tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp về quyền sở hữu. Riêng các tranh

chấp liên quan đến đất đai ngày càng nhiều và phức tạp. TAND tỉnh Đắk Lắk đã

thường xuyên rà soát các trường hợp án đang tạm đình chỉ để tiếp tục xem xét,

giải quyết nếu căn cứ tạm đình chỉ đã hết; hạn chế việc để các vụ việc dân sự quá

48

thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về xét xử án hành chính

Bảng 2.5 Số liệu các vụ án hành chính sơ thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã

giải quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

Tỷ lệ Cũ còn Mới thụ Tổng phải Đã giải Còn lại giải Năm giải quyết quyết lại lý quyết

100% 0 3 2014 5 8 13

100% 0 10 2015 1 9 10

87,1% 4 27 2016 0 31 31

83,1% 21 103 2017 0 120 124

92,7% 9 115 2018 21 141 124

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.6 Số liệu các vụ án hành chính phúc thẩm TAND tỉnh Đắk Lắk đã

giải quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018:

Tỷ lệ Cũ còn Mới thụ Tổng phải Đã giải Còn lại giải Năm giải quyết quyết lại lý quyết

100% 0 33 2014 4 29 33

96,4% 1 27 2015 0 28 28

100% 0 18 2016 1 17 18

100% 0 24 2017 0 24 24

87,5% 1 7 2018 0 8 8

Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk

Theo bảng số liệu thống kê, các vụ án hành chính sơ thẩm mà TAND

tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018 có

49

xu hướng tăng. Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/01/2017 thay đổi về thẩm quyền xét xử án hành chính sơ thẩm nên

số lượng vụ án thụ lý và xét xử sơ thẩm tăng gấp 04 lần so với năm 2016.

Hầu hết các vụ án hành chính đều liên quan đến kiện quyết định hành

chính và hành vi hành chính về quản lý đất đai, tính chất rất phức tạp, nhiều

loại việc còn khá mới nên trong quá trình giải quyết còn gặp phải những khó

khăn nhất định. Tuy nhiên, Tòa án đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp

với các cơ quan, tổ chức xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần

thiết để đảm bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật về nội dung và

thời hạn xét xử.

Trong năm 2014, 2015 khi Luật tổ chức TAND 2002 còn hiệu lực

pháp luật, TAND tỉnh Đắk Lắk vẫn thực hiện giám đốc thẩm, tái thẩm các

vụ việc dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình,

hành chính, lao động.

Để chất lượng xét xử được nâng cao, lãnh đạo TAND tỉnh đã quán triệt,

chấn chỉnh việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị cho phiên xét xử. HĐXX đã chú

trọng xây dựng kế hoạch xét hỏi và tranh luận, đảm bảo cho các bên tham gia

tố tụng bình đẳng trong việc trình bày toàn bộ ý kiến liên quan đến việc giải

quyết vụ án, đưa ra các chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.

Phán quyết của HĐXX đều căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng và

trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án được

thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, chất lượng xét xử các loại án của TAND Đắk

Lắk ngày càng được nâng cao, không để xảy ra tình trạng oan sai, hạn chế

tình trạng án bị hủy, sửa nghiêm trọng. Về cơ bản các phán quyết của

TAND tỉnh Đắk Lắk đúng pháp luật; bảo vệ công lý, các quyền con người,

quyền công dân. Các phán quyết của được ban hành trong thời hạn luật

định, không có án bị quá hạn.

Tỷ lệ giải quyết các vụ án cao, vượt trên mức chỉ tiêu do TAND tối cao

50

đề ra. Đã tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công

tác xét xử. Điển hình năm 2018 TAND và VKSND dân hai cấp đã phối hợp tổ

chức 184 phiên tòa rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư pháp. Trên cơ

sở tổng hợp các ý kiến nhận xét, đánh giá của các thành viên tham gia Chánh

án TAND tỉnh đã ban hành văn bản chấn chỉnh việc tổ chức xét xử của từng

phiên tòa đến từng đơn vị trực thuộc để thực hiện đảm bảo đúng pháp luật,

góp phần thực hiện tốt yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Đã công khai các bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của

TAND tối cao tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét

xử, có ý kiến phản hồi tích cực cũng như ý kiến xây dựng các bản án, quyết

định của Tòa án.

- Về Hội thẩm nhân dân

Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk bầu chọn được 24 HTND tham gia

công tác xét xử của Tòa án. Trong đó có các HTND là người dân tộc thiểu số,

đại diện ngành giáo dục, đoàn thanh niên đảm bảo cho việc xét xử những vụ

án có bị cáo là người chưa thành niên. Đa số các HTND đều là trưởng, phó

các cơ quan, đơn vị, các tổ chức hội hoặc cán bộ về hưu có trình độ, nhận

thức về xã hội và pháp luật đảm bảo cho quá trình xét xử được đánh giá khách

quan, toàn diện hơn.

b) Thực trạng giải quyết các việc khác tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Về thi hành án hình sự:

Năm 2014, TAND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án đối với

2.762 người bị kết án, uỷ thác thi hành án đối với 211 người. Đã xét giảm án,

tha tù trước thời hạn cho 1.459 phạm nhân. Đã thi hành án tử hình đối với 03

người bị kết án tử hình, hiện còn 05 người bị kết án chưa được thi hành do

chưa đủ điều kiện thi hành án [55].

Năm 2015, TAND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án đối với

2.645 người bị kết án, uỷ thác thi hành án đối với 206 người. Đã xét giảm án,

51

tha tù trước thời hạn cho 1.734 phạm nhân; xét miễn, giảm thời gian thử thách

của án treo đối với 56 trường hợp. Đã thi hành án tử hình đối với 02 người bị

kết án tử hình, hiện còn 06 người bị kết án chưa được thi hành do chưa đủ

điều kiện thi hành án [56].

Năm 2016, TAND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án đối với

2.383 người bị kết án, uỷ thác thi hành án 191 trường hợp; quyết định giảm

một phần thời hạn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn cho 1.670

phạm nhân cải tạo tốt; thi hành án tử hình đối với 02 người bị kết án (hiện còn

04 người bị kết án chưa được thi hành do chưa đủ điều kiện thi hành án) [57].

Năm 2017, TAND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án đối với

2.010 người bị kết án, uỷ thác thi hành án 204 trường hợp; quyết định giảm

một phần thời hạn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn cho 1.861

phạm nhân cải tạo tốt; thành lập Hội đồng thi hành án tử hình đối với 01

trường hợp nhưng phát sinh tình tiết mới nên công tác thi hành án tạm dừng

(hiện còn 03 người bị kết án chưa được thi hành do chưa đủ điều kiện thi

hành án) [58].

Năm 2018, TAND tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án đối với

với 2.209 người bị kết án, uỷ thác thi hành án 204 trường hợp; quyết định

giảm một phần thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với 1.783 phạm nhân; tha

tù trước thời hạn đối với 198 phạm nhân, tha tù trước thời hạn có điều kiện

đối với 89 phạm nhân cải tạo tốt tại trại giam và trại tạm giam đóng trên địa

bàn tỉnh; thành lập Hội đồng thi hành án tử hình đối với 02 trường hợp [59].

Nhìn chung, công tác thi hành án hình sự được thực hiện theo đúng các

quy định của pháp luật; đảm bảo ban hành quyết định thi hành án hình sự và

ủy thác thi hành án hình sự đúng trình tự, thời hạn đối với 100% số người bị

kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Việc cho hoãn chấp

hành án, tạm đình chỉ chấp hành án, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt

tù và thời gian thử thách của án treo đảm bảo chính xác và được theo dõi chặt

chẽ. Đồng thời phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc quản lý

52

các đối tượng thi hành hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ ở địa phương.

- Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:

Công tác trực tiếp dân được chú trọng, có các quy trình, quy định liên

quan đến hoạt động tiếp dân, lịch tiếp công dân, nội quy phiên tòa; lịch xét xử

vv... đều được niêm yết công khai trên bảng tin cơ quan để người dân dễ dàng

tiếp cận, tra cứu khi có công việc liên quan đến Tòa án.

Trong 05 năm qua, hầu hết đơn khiếu nại, tố cáo mà TAND tỉnh Đắk

Lắk nhận được chủ yếu đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc khiếu nại đối

với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án,

Thẩm phán, Thư ký Toà án liên quan đến hành vi không kịp thời giải quyết

các yêu cầu của đương sự. Các đơn khiếu nại được giải quyết đúng quy trình,

kịp thời không để xảy ra tình trạng khiếu nại kéo dài, khiếu nại vượt cấp, đảm

bảo được quyền của người khiếu nại theo quy định của pháp luật.

2.2. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động tại Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk

2.2.1. Ưu điểm

a) Ưu điểm về tổ chức TAND tỉnh Đắk Lắk

- Về đội ngũ cán bộ, công chức:

Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần đoàn kết tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có ý thức tự chủ, năng động

và sáng tạo trong công việc, có kiến thức trình độ năng lực thực tiễn, luôn có

tinh thần học tập, nghiên cứu nâng cao kiến thức, trình độ về lý luận chính trị,

chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao, đội ngũ công chức trẻ, khỏe, năng động thích nghi nhanh

với cơ chế quản lý mới. Trình độ chuyên môn cán bộ, công chức TAND tỉnh

ngày càng được nâng cao, cơ quan đã và đang tạo mọi điều kiện cho cán bộ,

53

công chức trau dồi chuyên môn nghiệp vụ.

Về biên chế, TAND tỉnh Đắk Lắk đã đầy đủ các vị trí việc làm, trình độ

chuyên môn cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm được đảm nhận và

phân công.

Hàng năm, công chức, người lao động được đánh giá xếp loại hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ được giao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, hoàn thành

nhiệm vụ được giao không có công chức, người lao động không hoàn thành

nhiệm vụ.

- Về đội ngũ lãnh đạo:

Về cơ bản đội ngũ lãnh đạo TAND tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thiện. Hoạt

đông trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do

Chánh án trực tiếp điều hành. Sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn dựa trên

từng chức danh rất rõ ràng, cụ thể.

- Về Ủy ban Thẩm phán:

Đã kiện toàn được Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Đắk Lắk. Nhân sự

của Ủy ban Thẩm phán là những Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao,

nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong công tác pháp luât, có bản lĩnh chính

trị vững vàng.

- Về các Tòa chuyên trách:

TAND tỉnh Đắk Lắk đã thành lập đầy đủ các Tòa chuyên trách theo

quy định pháp luật, phù hợp, bám sát thực tế về số lượng cũng như các loại vụ

án phải thụ lý, giải quyết. Số lượng Thẩm phán hiện có ở từng đơn vị đảm bảo

theo đúng kế hoạch của TAND tối cao đã đề ra.

- Về bộ máy giúp việc:

Nhìn chung bộ máy giúp việc của TAND tỉnh Đắk Lắk đã kiện toàn về

tổ chức và hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ giúp việc cho TAND

54

tỉnh hoạt động độc lập và có hiệu quả.

b) Ưu điểm về hoạt động TAND tỉnh Đắk Lắk

- Về hoạt động xét xử:

Công tác xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện đúng theo quy

định pháp luật, khẳng định Tòa án giữ vị trí trung tâm của hoạt động tư

pháp thể hiện qua: HĐXX độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng

quyền con người; thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng, nâng cao chất lượng

tranh tụng tại Tòa án được triển khai sâu rộng, đảm bảo cho người tham gia

tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của họ, đặc biệt trong việc

đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước

Tòa án; người bào chữa được tạo điều kiện thuận lợi trong tham gia tố tụng

tại Tòa án đặc biệt là đủ điều kiện để chuẩn bị và tham gia phiên tòa; thực

hiện việc khởi tố tội phạm, người phạm tội ngay tại phiên tòa; quyết định

thay đổi các biện pháp ngăn chặn tạm giam sang biện pháp cấm đi khỏi nơi

cư trú ngay tại phiên tòa; thay đổi diện mạo mới của HĐXX thông qua đổi

mới phòng xét xử, trang phục xét xử.

+ Về hình sự:

Trong việc xét xử án hình sự, TAND tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng đúng

các quy định của pháp luật, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa được chú

trọng và đảm bảo tính dân chủ, khách quan. Kết quả xét xử là đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không xử oan người vô

tội, thời gian giải quyết đều trong hạn luật định, đảm bảo được quyền lợi và

nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.

Hình phạt mà TAND tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt đối với các bị cáo đảm

bảo đúng chính sách hình sự của Nhà nước là nghiêm trị những kẻ chủ mưu,

cầm đầu và khoan hồng đối với những người nhất thời phạm tội, thành khẩn

khai báo, ăn năn hối cải, không bỏ lọt tội phạm, áp dụng các biện pháp ngăn

chặn đúng quy định. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa đã

55

được triển khai sâu rộng, các Luật sư được tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia

tố tụng tại Tòa án. Trong các phiên tòa, HĐXX đã thực hiện đúng tinh thần cải

cách tư pháp theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị [7] [51], đảm bảo quyền

tự bào chữa, tranh tụng của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố

tụng khác, thể hiện được tính dân chủ, khách quan, đúng pháp luật.

Đối với công tác xét xử các vụ án tham nhũng, trong quá trình giải quyết,

Tòa án đã chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng theo đúng các quy

định của pháp luật tố tụng và Quy chế phối hợp số 01/QCPH/VPBCDDTW-

TTCP-KTNN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/01/2009 của Văn phòng

Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung ương, Thanh tra Chính phủ,

Kiểm toán Nhà nước, Bộ Công an, VKSND tối cao và TAND tối cao, nhằm

đảm bảo giải quyết vụ án kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã áp

dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu;

lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài

sản của Nhà nước, nhưng đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng đối với

những người phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam

giữ, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cơ bản đúng quy định của pháp luật.

Đối với các bị cáo phạm các tội kinh tế, tham nhũng thì việc áp dụng hình

phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ tuyệt đối tuân thủ

đúng các quy đinh của pháp luật.

+ Về dân sự:

Việc giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự của Tòa án cơ bản đảm bảo

đúng quy định của pháp luật, bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích chính đáng

của các bên đương sự. Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố

tụng dân sự: Tích cực hướng dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp

chứng cứ, tài liệu của vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong

những trường hợp quy định nhằm đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải

56

quyết vụ án.

Công tác hòa giải được chú trọng, góp phần giải quyết tốt, triệt để vụ

án, tỷ lệ hòa giải thành ngày càng tăng. TAND tỉnh Đắk Lắk cũng chủ động

tăng cường sự phối hợp với Viện kiểm sát và Cơ quan Thi hành án dân sự

cùng cấp rà soát các bản án dân sự chưa thi hành để xử lý những vấn đề thuộc

thẩm quyền của Tòa án theo đúng Quy chế phối hợp liên ngành trong lĩnh vực

này. Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, về cơ

bản, TAND tỉnh Đắk Lắk thực hiện đúng các quy định theo Thông tư liên tịch

số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp,

Bộ Ngoại giao và TAND tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư

pháp trong lĩnh vực dân sự.

+ Về hành chính:

Các phán quyết đều dựa trên các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ

án và quá trình tranh luận tại phiên tòa. Trong quá trình giải quyết, TAND

tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng việc tổ chức đối thoại giữa người khởi kiện và

người bị kiện; tích cực phân tích, giải thích pháp luật để các bên tự thống

nhất hướng giải quyết vụ án, thông qua đó giúp giải quyết nhanh chóng và

triệt để nhiều vụ án.

Tòa án đã có nhiều cố gắng làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan

có liên quan xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết để đảm

bảo giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.

Mặc dù án hành chính là loại án nhạy cảm, phức tạp nhưng nhìn chung

việc giải quyết, xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua đã có những

chuyển biến tích cực, góp phần bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp

của tổ chức, công dân, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành

chính nhà nước. Hàng năm, tỷ lệ giải quyết án hành chính của TAND tỉnh

Đắk Lắk chiếm tỷ lệ cao, trung bình là 88%, vượt qua chỉ tiêu của TAND tối

57

cao đưa ra là 70% và đứng đầu cả nước về tỷ lệ giải quyết án hành chính [47].

- Hội thẩm nhân dân:

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các HTND đã nêu cao tinh thần

trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm rõ nội

dung vụ án, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, đúng tinh thần cải cách tư

pháp, các phán quyết của HĐXX khách quan, trung thực, đảm bảo quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân và đúng quy định của pháp luật.

- Công tác thi hành án hình sự:

Nhìn chung, công tác thi hành án hình sự được thực hiện theo đúng các

quy định của pháp luật. Đảm bảo ban hành quyết định thi hành án hình sự và

ủy thác thi hành án hình sự đúng trình tự, thời hạn đối với 100% số người bị

kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Việc cho hoãn chấp

hành án, tạm đình chỉ chấp hành án, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt

tù và thời gian thử thách của án treo đảm bảo chính xác và được theo dõi chặt

chẽ. Đồng thời phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc quản lý các

đối tượng thi hành hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ ở địa phương.

- Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:

Công tác trực, tiếp dân được chú trọng, quy trình, quy định có liên quan

đến hoạt động tiếp dân, lịch tiếp công dân, nội quy phiên tòa; lịch xét xử...

đều được niêm yết công khai trên bảng tin cơ quan để người dân dễ dàng tiếp

cận, tra cứu khi có công việc liên quan đến Tòa án.

Toà án nhân dân tỉnh bố trí 01 phòng tiếp dân, phân công tổ Thẩm phán

tiếp công dân. Việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được

thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật. Công tác này thường

xuyên được kiểm tra, đôn đốc và xử lý kịp thời không để xảy ra tình trạng tồn

58

đọng đơn thư, không để khiếu nại, tố cáo kéo dài.

2.2.2. Hạn chế:

a) Hạn chế về tổ chức Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Về đội ngũ cán bộ, công chức:

Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được lãnh đạo TAND tỉnh Đắk Lắk

chú trọng nhưng nhìn chung chất lượng đội ngũ Thẩm phán vẫn còn hạn chế.

Một số Thẩm phán chưa nắm vững các quy định của pháp luật trong quá trình

giải quyết án; năng lực nghiên cứu, phân tích đánh giá chứng cứ còn hạn chế;

việc đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện dẫn đến việc giải quyết án

không đúng như: Xác định tội danh không chính xác, trả hồ sơ cho Viện kiểm

sát để điều tra bổ sung thiếu căn cứ, xác định sai quan hệ pháp luật có tranh

chấp, sai đối tượng khởi kiện hoặc xác định sai tư cách đương sự; năng lực

lựa chọn các quy phạm pháp luật và năng lực ban hành bản án, quyết định của

một số Thẩm phán còn yếu; một số trường hợp áp dụng thay đổi biện pháp

ngăn chặn thiếu căn cứ, nhất là việc áp dụng, thay đổi biện pháp tạm giam;

quyết định xử lý vật chứng còn thiếu chính xác, không kịp thời.

Một số ít Thẩm phán có biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị

và đạo đức lối sống như: Nhạt phai lý tưởng cách mạng, không kiên định con

đường xã hội chủ nghĩa, sa sút ý chí chiến đấu, không làm tròn bộn phận chức

trách được giao, quan liêu, hách dịch, tham nhũng, cửa quyền, thiếu trách

nhiệm tinh thần phục vụ, “vô cảm” trước những yêu cầu bức xúc chính đáng

của nhân dân. Một số ít người chưa chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ được giao;

thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu tự học tập. Nhiều công chức không tiếp thu phê

bình và tự phê bình, tính chiến đấu không cao, tình trạng nể nang, né tránh,

ngại nói thẳng, nói thật.

Nguồn Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao như Thẩm phán trung

cấp vẫn còn thiếu vì nguồn Thẩm phán sơ cấp có đủ điều kiện về năng lực xét

xử, bản lĩnh chính trị cũng như thời gian công tác để thi nâng ngạch Thẩm

phán trung cấp còn thiếu, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức còn mất cân đối,

thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, tình trạng hẫng hụt

59

giữa các thế hệ cán bộ, công chức còn phổ biến.

- Về đội ngũ lãnh đạo:

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, năng lực đội ngũ lãnh đạo TAND

tỉnh Đắk Lắk vẫn còn hạn chế nhất định ở một số lĩnh vực như: Khả năng ứng

dụng công nghệ tin học trong hoạt động công vụ, kỹ năng dân vận, kiến thức

về quản lý hành chính nhà nước.

- Về Ủy ban Thẩm phán:

Ủy ban Thẩm phán hoạt động không chuyên trách nên trong quá trình

hoạt động chưa thật sự phát huy được hiệu quả tốt nhất.

- Về các tòa chuyên trách:

Bên cạnh những kết quả đạt được, các tòa chuyên trách vẫn còn một số

hạn chế nhất định như: Tình trạng án quá hạn, án bị hủy, bị sửa lỗi chủ quan.

- Về bộ máy giúp việc:

+ Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng: Hiện nay,

chức năng Thanh tra của phòng vẫn chưa được thực hiện được. Mặt khác,

công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ nguồn vẫn chưa thực hiện được như

ý, việc bổ nhiệm các chức danh Thẩm phán vẫn còn tình trạng kéo dài bởi

nhiều yếu tố khách quan.

+ Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án:

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế như: Chưa

kiểm tra hết được toàn bộ hoạt động xét xử của cấp huyện mà chỉ mới tập trung

ở một số loại án nhất định.

+ Văn phòng TAND tỉnh:

Bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn tồn tại một số khuyết điểm như:

Công tác thống kê, tổng hợp số liệu báo cáo hàng quý vẫn còn chậm trễ, đôi

khi có sai sót phải điều chỉnh lại. Công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư

khiếu nại vẫn chưa nhanh chóng, kịp thời giải tỏa được những bức xúc của

người dân.

60

b) Hạn chế về hoạt động TAND tỉnh Đắk Lắk

- Về hoạt động xét xử:

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình trạng án bị hủy, sửa vẫn còn

cụ thể:

Năm 2015: Trong 1.031 vụ án đã giải quyết có 5.5 vụ bị hủy theo thủ

tục phúc thẩm và giám đốc thẩm, chiếm tỷ lệ 0,53%; số bản án, quyết định bị

sửa là 0 vụ, chiếm tỷ lệ 0% [56].

Năm 2016, Trong 1.032 vụ án đã giải quyết có 10 vụ bị hủy theo trình

tự phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm do lỗi chủ quan chiếm tỷ lệ 0.97%; số

bản án, quyết định bị sửa do lỗi chủ quan 2 vụ, chiếm tỷ lệ 0.19% [57].

Năm 2017, Trong 996 vụ án đã giải quyết có 09 vụ bị hủy theo thủ tục

phúc thẩm và giám đốc thẩm do lỗi chủ quan là 0.9%; số bản án, quyết định

bị sửa do lỗi chủ quan là 0,6% [58].

Năm 2018, Trong 1.159 vụ án đã giải quyết giải quyết có 10 vụ bị hủy

theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm do lỗi chủ quan là 0.86%; số bản án,

quyết định bị sửa do lỗi chủ quan là 17 vụ chiếm tỷ lệ 1,46% [59].

+ Lĩnh vực hình sự:

Vẫn còn tình trạng án bị sửa, bỏ lọt tội phạm, bỏ sót người tham gia tố

tụng, áp dụng không đúng điều, điểm, khoản của Bộ luật hình sự cũng như

các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, không áp dụng những quy định

của pháp luật hình sự mới có lợi cho bị cáo hoặc áp dụng điều luật của Bộ luật

hình sự mới gây bất lợi cho bị cáo. Một số vụ án xử cho hưởng án treo, cải tạo

không giam giữ không đúng với Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06

tháng 11 năm 2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Có

những vụ án bị định tội danh, áp dụng tình tiết giảm nhẹ không đúng (nộp tiền

thu lợi bất chính nhưng lại được xem là tình tiết bồi thường thiệt hại, khắc

phục hậu quả để xác định tình tiết giảm nhẹ). Có trường hợp bỏ qua tình tiết

tăng nặng, mặc dù bị cáo có tình tiết tăng nặng nhưng chỉ quan tâm áp dụng

tình tiết giảm nhẹ.

61

+ Lĩnh vực dân sự:

Việc giải quyết án dân sự tại TAND tỉnh Đắk Lắk còn hạn chế như: Xác

minh thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, xác định không đúng tư cách, bỏ sót

người tham gia tố tụng, giải quyết vụ án vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện

của đương sự, xác định sai quan hệ tranh chấp, việc thu thập chứng cứ chưa

đầy đủ và đánh giá chứng cứ không đúng theo quy định của pháp luật về tố

tụng dân sự, không tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho đương sự ở nước

ngoài, còn có trường hợp xác định người đại diện theo ủy quyền của đương sự

không đúng dẫn đến tống đạt giấy triệu tập phiên tòa không hợp lệ nhưng Tòa

án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Ví dụ: “Tranh chấp hôn nhân gia đình” giữa nguyên đơn là chị Hoàng

Thị Thu và bị đơn là anh Nguyễn Minh Hoàng do TAND Đắk Lắk xét xử sơ

thẩm tại bản án số 04/2016/HNGĐ-ST ngày 17/8/2016. Tại Bản án hôn nhân

gia đình phúc thẩm số 03/2017/HNGĐ-PT ngày 26/4/2017, Tòa án nhân dân

cấp cao tại Đà Nẵng đã xử hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo

trình tự sơ thẩm. Trong vụ án này, cần rút kinh nghiệm là phải xác định đầy

đủ người tham gia tố tụng và phải xem xét toàn diện các yêu cầu của người

tham gia tố tụng [54].

+ Lĩnh vực hành chính:

Khuyết điểm của việc giải quyết án hành chính là TAND tỉnh Đắk Lắk

là còn vi phạm một số thủ tục tố tụng hành chính như: Chứng cứ, thu thập,

xác minh chứng cứ chưa đầy đủ, xác định sai quan hệ tranh chấp và tư cách

người tham gia tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ

nên cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

- Về Hội thẩm nhân dân:

Bên canh những HTND tham gia nhiệt tình và có trách nhiệm trong

công tác xét xử thì vẫn còn những HTND tham gia xét xử còn ít, có HTND cả

một nhiệm kỳ chỉ tham gia HĐXX sơ thẩm được 04 vụ. Trong các đợt tập

huấn nghiệp vụ xét xử do TAND tỉnh tổ chức, vẫn còn một số ít các HTND

chưa tham gia đầy đủ.

62

- Về công tác thi hành án hình sự:

Công tác thi hành án hình sự vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập như:

Việc phối hợp giữa Tòa án với chính quyền địa phương, các cơ quan đoàn

thể, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp

vẫn còn nhiều điểm chưa ăn khớp trong việc chuyển giao bản án cũng như

phối hợp thi hành án. Tình trạng gửi quyết định thi hành án cho Viện kiểm

sát cùng cấp, người bị kết án, nhà tạm giữ, trại tạm giam quản lý người bị

kết án, cơ quan thi hành án hình sự và chính quyền địa phương nơi cư trú

của người bị kết án còn chậm so với quy định. Vẫn còn việc phải đính chính

quyết định thi hành án do bản án, quyết định có hiệu lực phải đính chính sửa

đổi, bổ sung bản án, quyết định.

- Về công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:

Vẫn còn tình trạng người dân đến trụ sở Tòa án để khiếu nại, đã được

cán bộ Tòa án giải thích theo quy định của pháp luật nhưng do sự am hiểu

pháp luật còn hạn chế nên đã có những hành động quá khích như: la hét, trải

chiếu trước cổng trụ sở Tòa án.

2.2.3. Nguyên nhân hạn chế của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

a) Nguyên nhân hạn chế của tổ chức Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Về đội ngũ cán bộ, công chức:

Thứ nhất, tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác của một số công

chức còn yếu và chậm đổi mới. Vẫn còn có những Thẩm phán thiếu tích cực

rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, còn tư tưởng cơ hội, vụ lợi;

có những Thẩm phán chưa tích cực, chủ động trong việc tự học, tự bồi dưỡng

để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; vẫn còn hiện tượng Thẩm phán

có tư tưởng chán nản, không yên tâm công tác muốn được chuyển sang những

công việc có thu nhập cao hơn. Công tác đào tạo về trình độ lý luận chính trị

vẫn còn hạn chế, hàng nằm chỉ cử từ 01 đến 02 đồng chí đi học Cao cấp lý

luận chính trị vì phải phụ thuộc vào biên chế phân bổ từ cấp Ủy địa phương,

63

trong khi đó nhu cầu cán bộ lãnh đạo đương nhiệm và cán bộ quy hoạch cần

được đào tạo lý luận chính trị còn nhiều. Đây là một trong những hạn chế lớn

trong công tác đào tạo, bồi dưỡng của TAND tỉnh Đắk Lắk dẫn đến tình trạng

đội ngũ chưa nâng cao được bản lĩnh chính trị, dễ sa ngã.

Thứ hai, công tác đánh giá cán bộ, công chức nói chung và Thẩm phán

nói riêng vẫn dung phương pháp truyền thống là bình bầu. Do đó rất dễ chi

phối bởi nể nang, tình cảm cá nhân, thiếu khách quan công bằng gây hậu quả

xấu cho công tác lựa chọn bố trí sắp xếp bổ nhiệm, quy hoạch chức danh,

chức vụ.

Thứ ba, nguyên tắc thẩm Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật được thực hiện nhưng chưa tuyệt đối, cụ thể:

+ HTND là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét

xử của mỗi vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế các quy định của pháp luật về địa vị

pháp lý của HTND, cơ chế bầu, cử HTND và thực trạng hoạt động của HTND

còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc HTND tham gia hoạt động

xét xử của Tòa án còn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí,

vai trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Qua công tác xét

xử cho thấy, HTND chưa phát huy được hết quyền năng của mình, có những

HTND chỉ đến nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc có trường hợp

không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tòa án, vì

vậy, HTND sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình

chứng minh tội phạm cũng như quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho

công chúng nhìn nhận về sự tham gia của HTND chỉ là hình thức, tham gia

cho đủ thành phần.

+ Thẩm phán bị áp lực khác tác động, bị lúng túng khi tham gia giải

quyết vụ án như: Vẫn còn tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của lãnh

đạo Tòa án. Việc trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ án” vẫn

chiếm một tỷ lệ lớn trong các Thẩm phán. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị

64

án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt

động Tòa án, như “nguyên tắc Thẩm phán, HTND xét xử độc lập”, “nguyên

tắc xét xử tập thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không

được tôn trọng, làm giảm vai trò của HTND, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện

của nhân dân trong xét xử. Thẩm phán, HTND đôi khi còn chịu áp lực của

công luận là đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử; chịu ảnh hưởng

và tác động của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi nghiên cứu hồ sơ nên

có thể không độc lập trong quá trình xem xét và đánh giá chứng cứ.

+ Vẫn còn tình trạng Thẩm phán và HTND lệ thuộc vào kết quả điều

tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp,

HĐXX tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà không coi trọng tới

những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi trọng nguyên tắc tranh

tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên

tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của HĐXX còn mang tính áp đặt, nên

vẫn còn tình trạng bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên

hủy, sửa nhiều.

+ Chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán vẫn còn nhiều bất hợp lý. Mức

lương của Thẩm phán chưa tương xứng với mức độ cống hiến, không bảo

đảm bù đắp cho những hao tổn về sức lao động, kiến thức, trí tuệ mà Thẩm

phán đã bỏ ra, chưa đảm bảo sự công bằng. Đây là một trọng những nguyên

nhân quan trọng có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập, công minh của Thẩm

phán trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Bên cạnh đó, một trong những yếu

tố tác động đến năng lực độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán đó là

cơ chế bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đối với

Thẩm phán và gia đình họ. Trong những năm gần đây xuất hiện khá nhiều

trường hợp Thẩm phán bị hành hung. Đây là vấn đề đáng báo động vì trên

thực tế đã xảy ra những việc Thẩm phán bị hành hung, bị giết để trả thù vì lý

do công vụ. Điều này khiến cho Thẩm phán không thể yên tâm trong khi thực

hiện nhiệm vụ xét xử. Vấn đề này cần được sớm quan tâm giải quyết để góp

65

phần vào việc nâng cao năng lực độc lập của Thẩm phán.

- Về đội ngũ lãnh đạo:

Nguyên nhân, đa số lãnh đạo là những người gần về hưu, tuổi cao nên

việc tiếp cận ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, có một số lãnh đạo

chưa được cử đi đào tạo về quản lý hành chính nhà nước nên trong công tác

quản lý vẫn còn nhiều khó khăn. Đội ngũ lãnh đạo chưa phát huy hết tinh thần

trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo.

- Về Ủy ban Thẩm phán:

Thành viên Ủy ban Thẩm phán là những người kiêm nhiệm nên trong

quá trình hoạt động vẫn còn những hạn chế nhất định.

- Về các tòa chuyên trách:

Nguyên nhân các tòa chuyên trách để xảy ra tình trạng án quán hạn, bị

hủy, bị sửa do số lượng Thẩm phán vẫn còn thiếu so với thực tế. Quy trình bổ

nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán còn chậm. Quy định của pháp luật thay đổi mà

chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng kịp thời. Số lượng các vụ án hàng năm thụ

lý và giải quyết năm sau cao hơn năm trước, độ phức tạp của từng vụ việc ngày

càng nhiều, trong khi số lượng Thẩm phán không được đảm bảo. Có Thẩm phán

phải xét xử 18 vụ việc trong một tháng gây nên áp lực cho Thẩm phán. Theo

TAND tối cao nếu 01 Thẩm phán giải quyết trên 12 vụ án trong một tháng thì

nguy cơ rủi ro rất cao vì không có nhiều thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ. Áp lực

về án quá hạn, áp lực chất lượng xét xử, giải quyết các vụ án, thời gian để nghiên

cứu hồ sơ chuẩn bị xét xử quá ít. Một số Thẩm phán chưa tích cực, tự giác trong

việc học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, năng lực của một số Thẩm phán

vẫn còn chế. Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên dẫn đến

tình trạng vẫn còn một số bản án bị hủy, sửa.

- Về bộ máy giúp việc

+ Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng: Chức

năng thanh tra của phòng vẫn chưa được thực hiện vì TAND tối cao chưa có

66

các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động này nên TAND tỉnh Đắk Lắk vẫn

chưa triển khai. Công tác bổ nhiệm vẫn còn chậm trễ vì phải đợi kết luận tiêu

chuẩn chính trị từ cấp Ủy cùng cấp. Nhân sự làm công tác tổ chức, cán bộ

không được đào tạo về nghiệp vụ tổ chức, cán bộ nên trong quá trình triển

khai, thực hiện công việc còn lúng túng, bị động.

+ Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án: Công tác kiểm tra nghiệp

vụ TAND cấp huyện vẫn còn hạn chế vì cán bộ chuyên trách làm công tác

kiểm tra án chỉ có 02 Thẩm phán, 03 Thẩm tra viên, 03 Thư ký theo dõi một

lĩnh vực quá rộng lớn từ khâu ra các loại quyết định đến việc xét giảm án, xoá

án tích và theo dõi, kiểm tra chuyên môn công tác thi hành án của 15 Tòa án

cấp huyện nên không thể bao quát hết được.

+ Văn phòng TAND tỉnh: Số liệu báo cáo đôi khi vẫn còn chậm trễ, sai

sót là do văn phòng TAND tỉnh là nơi tổng hợp báo cáo số liệu của TAND hai

cấp tỉnh Đắk Lắk nên trong quá trình báo cáo vẫn còn một số TAND cấp

huyện báo cáo số liệu vẫn còn chậm trễ và có sai sót.

Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại chưa nhanh chóng là do pháp luật

quy định Văn phòng là nơi giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cao song việc quy

định như vậy đã ảnh hưởng đến chất lượng trả lời đơn thư vì Văn phòng

không có đủ con người và cũng không nắm rõ từng vụ việc một nên cần phải

chuyển cho các Tòa chuyên trách nghiên cứu, tham mưu cho ý kiến rồi mới

chuyển lại về Văn phòng để trả lời đơn, như vậy sẽ tốn nhiều thời gian để giải

quyết.

b) Nguyên nhân hạn chế của hoạt động Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Về hoạt động xét xử

+ Lĩnh vực hình sự: Một trong những nguyên nhân chủ yếu của những

khuyết điểm khi xét xử các vụ án hình sự là do địa bàn tỉnh Đắk Lắk khá

rộng, mật độ dân số thấp, tập trung hơn 40 dân tộc cùng sinh sống trên 01 địa

bàn nên tình hình tội phạm diễn ra phức tạp. Đặc biệt, tỉnh Đắk Lắk là vùng

67

kinh tế trọng điểm, trung tâm của khu vực Tây nguyên nên trên địa bàn có

xuất hiện một số tổ chức, cá nhân chống phá chính quyền, xúi dục đồng bào

dân tộc thiểu số trên địa bàn như người: Êđê, M’Nông, vv... tham gia, nên

việc giải quyết án hình sự ngày một phức tạp hơn, dễ dẫn đến những sai sót.

Mặt khác, cơ quan điều tra chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ đầy đủ nên dẫn

đến việc sai sót trong việc định tội, bỏ lọt tội phạm. Vẫn còn tình trạng án bị

sửa, phần lớn các sai sót chủ yếu là do việc điều tra không đầy đủ. Trong quá

trình nghiên cứu hồ sơ, các Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa chưa nghiên cứu kỹ

hồ sơ, chưa chú trọng việc đánh giá chứng cứ, đánh giá không đúng tính chất,

mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

+ Lĩnh vực dân sự: Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xét xử,

giải quyết án dân sự là kinh tế ngày càng phát triển nhanh chóng nên phát sinh

nhiều hoạt động giao dịch mới, thậm chí có những giao dịch pháp luật chưa

có quy định cụ thể dẫn đến có nhiều tranh chấp và tính chất trở nên phức tạp.

Phần lớn các tranh chấp dân sự trên địa bàn tỉnh là tranh chấp liên quan đến

đất đai có tính chất rất phức tạp, khó giải quyết, thời gian giải quyết kéo dài,

địa bàn rộng lớn dẫn đến việc tống đạt, xác minh thu thập chứng cứ, đi lại

giữa những người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng khó khăn. Khó

khăn lớn nhất của việc giải quyết án dân sự là sự thiếu hợp tác giữa các đương

sự như bị đơn, người liên quan vì tâm lý lo sợ, e ngại khi đến Tòa án để giải

quyết nên dẫn đến dễ vi phạm thủ tục tố tụng liên quan đến tống đạt văn bản

cho đương sự. Mặt khác, hiện nay hệ thống pháp luật về dân sự, đất đai còn

nhiều vướng mắc chưa được giải đáp.

+ Lĩnh vực hành chính: Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, tồn tại

trong việc giải quyết các vụ việc hành chính là do các khiếu kiện quyết định

hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND hay UBND thuộc thẩm

quyền giải quyết của TAND tỉnh ngày càng tăng, các vụ án có tình tiết phức

tạp ngày một nhiều nên Thẩm phán gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết

68

vụ án. Các cơ quan hành chính nhà nước chưa tích cực trong công tác phối

hợp giải quyết vụ án hành chính, chưa thực hiện nghiêm túc quy định tại Điều

60 Bộ luật tố tụng hành chính về ủy quyền tham gia tố tụng ví dụ như: Người bị

kiện Chủ tịch UBND hoặc UBND chưa chấp hành nghiêm các quyết định của

Tòa án; một số trường hợp “người bị kiện” không có phản hồi kịp thời đối với

nội dung vấn đề bị kiện; việc cung cấp hồ sơ, tài liệu ở cấp sơ thẩm không đầy

đủ, dẫn tới thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài, tỷ lệ giải quyết thấp.

- Về Hội thẩm nhân dân: Nguyên nhân do một số HTND còn đương

nhiệm công tác ở các cơ quan khác nên chưa có nhiều thời gian để tham gia

nghiên cứu, xét xử các vụ án.

- Về công tác thi hành án hình sự: Do các quy định pháp luật về Thi

hành án hình sự vẫn chưa hoàn toàn hoàn thiện, trong quá trình thực hiện còn

nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến hoạt động trong công tác phối hợp giữa Tòa

án và các cơ quan có thẩm quyền sự chưa thống nhất trong nhận thức về thi

hành án hình sự. Quy chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan còn chưa được

thực hiện đầy đủ, đặc biệt giữa các cơ quan y tế với các cơ quan tiến hành tố

tụng nên đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Mặt khác, đội ngũ

cán bộ làm thi hành án hình sự tại TAND tỉnh gồm có 07 người, chức danh

chuyên môn là Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên theo dõi một lĩnh vực quá

rộng lớn từ khâu ra các loại quyết định đến việc xét giảm án, xoá án tích và

theo dõi, kiểm tra chuyên môn công tác thi hành án của 15 Toà án cấp huyện

nên không thể bao quát hết được.

- Về công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:

Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa chặt chẽ. Do công tác

tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp là hoạt động phức

tạp, đòi hỏi vừa linh hoạt, mềm dẻo vừa đúng nguyên tắc, đúng quy định pháp

luật; trong khi đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân và tham mưu giải

quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm, củng cố đúng mức nên phần nào

69

chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Chính sách pháp luật còn bất cập, chưa

phù hợp với thực tế. Mặt khác, nhiều vấn đề do lịch sử để lại hoặc chính sách,

pháp luật về các lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở, đất đai, đền bù, giải phóng mặt

bằng vv… còn nhiều bất cập nên việc giải thích, trả lời cho công dân gặp

70

nhiều vướng mắc.

Kết luận chương 2

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, TAND cấp tỉnh

giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm, phúc

thẩm theo thẩm quyền. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thiện về mặt

tổ chức, cán bộ công chức có bằng cấp và năng lực phù hợp với từng vị trí

việc làm. Chất lượng xét xử ngày càng nâng lên. Việc giải quyết các vụ án

đạt tỷ lệ cao với chất lượng được đảm bảo; tỷ lệ án bị hủy, sửa giảm trong

phạm vi cho phép. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế,

bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm

phán, HTND không đồng đều, các chế độ chính sách đãi ngỗ Thẩm phán vẫn

chưa tương xứng phần nào ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm

phán trong hoạt động xét xử. Nguyên nhân khách quan và chủ quan của

những hạn chế trên là do một số ít cán bộ, công chức không chịu học tập

nâng cao rèn luyện kiến thức; công tác đào tạo bồi dưỡng chưa đáp ứng

được nhu cầu; việc phối hợp thực hiện giữa các cơ quan liên quan chưa được

thống nhất, nhịp nhàng; tình hình an ninh, chính trị, kinh tế xã hội trên địa

bàn tỉnh ngày càng phức tạp. Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng đến tổ

71

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3:

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ

BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh

Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để ngày một hoàn thiện hơn về tổ

chức và bảo đảm hoạt động của TAND cấp tỉnh, cần tiếp tục triển khai thực

hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng [6], các Nghị quyết, Kết luận

của Đảng [6], [7], [8], [9] và Nghị quyết của Quốc hội về cải cách tư pháp

[26]. Không cải cách, không đổi mới sẽ không đáp ứng được yêu cầu mới

đặt ra.

Sắp xếp, xây dựng bộ máy tổ chức TAND cấp tỉnh tinh gọn, xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,

hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực thi

nhiệm vụ, nâng cao chất lượng xét xử, năng lực Tòa án đáp ứng yêu cầu của

xã hội và đòi hỏi của Nhân dân. Để đạt được những yêu cầu trên, Tòa án

nhân dân cấp tỉnh cần kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, chuyên môn hóa

từng chức danh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Tòa án trong thời kỳ hội nhập

đất nước; bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân sự đúng

người đúng việc, đúng sở trường; đồng thời có chế độ, chính sách, tiền lương

và các trang thiết bị, điều kiện môi trường làm việc đầy đủ, hiện đại phù hợp

để thu hút đội ngũ những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt phục vụ

cho sự phát triển của Hệ thống Tòa án; đổi mới đào tạo, bồi dưỡng để cập

nhật kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ Thẩm phán, công

72

chức Tòa án tiến tới xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững vàng về bản

lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn; đề cao kỷ luật, kỷ cương, nghĩa vụ và

trách nhiệm của cán bộ, công chức có chức danh tư pháp, bảo đảm sự vô tư,

khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử; đổi mới công tác cán bộ theo

hướng bảo đảm minh bạch, dân chủ, công khai, bảo đảm sự gắn kết giữa các

khâu trong công tác cán bộ.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bảo đảm

Tòa án là chỗ dựa của Nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người,

quyền công dân. Xem nâng cao chất lượng xét xử là nhiệm vụ trọng tâm, cốt

lõi của Tòa án cấp tỉnh thông qua các việc như:

+ Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, nghiên cứu xây dựng và

phát triển tiến tới xây dựng Tòa án nhân dân cấp tỉnh thành Tòa án điện tử

(số hóa và trực tuyến) [5], [51]. Đây là xu hướng chung của thế giới “thời

đại số” là: Xây dựng nền hành chính tư pháp và quản lý Tòa án không giấy

tờ; nhận đơn, giải quyết và trả lời đơn của người dân qua mạng; chuyển

giao, xuất trình, kiểm tra, lưu giữ chứng cứ qua mạng; lấy lời khai, xét xử

qua mạng trong một số trường hợp như bảo vệ nhân chứng, vị thành niên,

bệnh nhân ở xa, tội phạm đặc biệt nguy hiểm, trong thời điểm xảy ra dịch

bệnh; công khai các bản án và quyết định của Tòa án trên cổng thông tin

điện tử TAND tối cao; cung cấp các chương trình tìm kiếm pháp luật, án lệ

và các bản án tương tự cho công chúng; kết nối và phát huy tác dụng của

Chương trình quản lý công dân của quốc gia để quản lý đối tượng (bị can, bị

cáo…); tổ chức hội nghị, hội thảo trực tuyến; thực hiện việc lưu trữ hồ sơ số

hóa. Đây là xu hướng phát triển chung của thời đại công nghiệp lần thứ 4.

Dựa vào những kết quả ban đầu đạt được trong việc xây dựng hạ tầng công

nghệ thông tin, thúc đẩy văn hóa sử dụng công nghệ thông tin trong hệ thống

Tòa án, xây dựng những chiến lược toàn diện, tổng hợp và dài hạn trong lĩnh

vực phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Tòa án điện tử tiến

73

tới Tòa án thông minh. Hiệu quả hoạt động của Tòa án ngày một tăng cường

thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin để tăng cường công khai, minh

bạch của hoạt động tư pháp, thuận lợi cho người dân tiếp cận, tăng mức độ

hài lòng của người dân khi có việc tiếp xúc với Tòa án, tăng cường năng lực

cho Tòa án. Qua đó, tạo cơ chế hữu hiệu để giám sát hoạt động của Tòa án,

kiểm soát quyền lực, giúp đánh giá năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ

của Thẩm phán.

+ Bảo đảm Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật. Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động xét xử và chuẩn

mực buộc mỗi Thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ khi thực thi nhiệm vụ. Do đó,

Nhà nước và xã hội có trách nhiệm đảm bảo cho môi trường xét xử Tòa án

không chịu sự tác động bởi các yếu tố từ bên ngoài cũng như từ bên trong,

đồng thời độc lập với các chủ thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố

tụng. Sự chỉ đạo duy nhất của Thẩm phán chỉ là tuân theo pháp luật [3]. Vì vậy,

mỗi Thẩm phán phải không ngừng trau dồi cho mình kiến thức, kỹ năng, kinh

nghiệm, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp để hoàn thành xuất sắc trọng

trách được giao. “Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [20] phải trở thành

đạo đức, tác phong, yêu cầu tối thượng của mỗi Thẩm phán. Thẩm phán phải

luôn giữ gìn bản lĩnh nghề nghiệp để không thể bị tác động từ bên trong nội bộ

Tòa án cũng như từ bên ngoài Tòa án, với các thành viên Hội đồng xét xử và

những người tiến hành tố tụng khác.

+ Tiếp tục thực hiện những nội dung tích cực trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW [7] yêu cầu thúc đẩy hòa giải, đối thoại trong tố tụng dân sự, tố tụng

hành chính và Chị thị của Chánh án TANDTC về tăng cường công tác Hòa

giải tại TAND [40]. Do đó, cần đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong

quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đáp ứng

yêu cầu của cải cách tư pháp. Đây là một hướng đi đúng đắn trong việc giải

quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính. Hòa giải là giải quyết,

74

hàn gắn những tranh chấp của người dân và các xung đột trong xã hội bằng

con đường không phải xét xử, tiết kiệm chi phí, thời gian cho Nhà nước và

Nhân dân, người dân không phải theo đuổi vụ kiện có thể phải trải qua nhiều

giai đoạn tố tụng tốn kém thời gian, tiền bạc và công sức. Mặt khác, sẽ giúp

giảm tải áp lực công việc cho Tòa án, hạn chế đáng kể các vụ việc Tòa án

phải giải quyết, Tòa án sẽ tập trung thời gian và nguồn lực để nâng cao chất

lượng xét xử, hạn chế được tình trạng án bị hủy, sửa. Qua công tác hòa giải,

nếu hòa giải không thành nhưng trong quá trình tiến hành hòa giải giúp cho

Thẩm phán khi tiếp cận hồ sơ sẽ đánh giá được đầy đủ bản chất, nắm rõ các

tình tiết của vụ việc, mấu chốt của các vấn đề tranh chấp, tâm tư nguyện

vọng, vướng mắc của các bên để từ đó có phương hướng giải quyết đúng

đắn khi đưa ra xét xử. Bên cạnh đó, hòa giải trong các khiếu kiện hành

chính, tăng cường đối thoại còn góp phần xây dựng mối quan hệ tin cậy giữa

người dân với chính quyền. Thông qua đối thoại, trao đổi, giải thích, Tòa án

tạo điều kiện cho chính quyền (người bị kiện) xem xét lại tính hợp pháp

trong hành vi và quyết định của mình; đồng thời, tạo điều kiện cho người

dân (người khởi kiện) xem xét lại tính có căn cứ trong yêu cầu khởi kiện qua

đó tạo điều kiện ổn định tình hình tại địa phương, tránh khiếu kiện bức xúc

kéo dài, tập trung đông người trở thành điểm nóng. Xu hướng xử lý những

xung đột, bất hòa trong xã hội bằng các phương pháp giải quyết tranh chấp

một cách chia sẻ, ôn hòa, hỗ trợ cho phương thức xét xử truyền thống ngày

càng phát triển trên thế giới.

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa

75

án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

3.2.1. Giải pháp chung về hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

a) Giải pháp chung về hoàn thiện tổ chức Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Các giải pháp chung về hoàn thiện tổ chức TAND cấp tỉnh là:

Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu [9] vì vai trò của người đứng

đầu rất quan trọng trong việc chỉ đạo, lãnh đạo đơn vị. Do đó người đứng đầu

phải nâng cao năng lực, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu

gương. Mặt khác, cần phân định rõ thẩm quyền giữa Chánh án và Thẩm phán

ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa: Thẩm phán được tiến hành hầu hết các

biện pháp có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án; Chánh án có

các thẩm quyền liên quan đến tính chất quyết định việc “đóng mở” tố tụng và

các thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Việc thành lập các tòa chuyên trách nhằm đảm bảo tính chuyên môn hóa

cao trong công tác xét xử, do đó cần tổ chức lại các tòa chuyên trách tại các

TAND cấp tỉnh: Hiện nay, tại các TAND cấp tỉnh đều có các Tòa chuyên trách

là Tòa Dân sư, Tòa Hình sự, Tòa Hành chính, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa

Gia đình và người chưa thành niên. Tuy nhiên, việc phân bổ các tòa chuyên

trách, tỉnh nào cũng giống tỉnh nào là chưa phù hợp vì có những đơn vị mỗi

năm chỉ thụ lý từ 04 đến 05 vụ án kinh tế/năm hoặc 09 đến 10 vụ án lao

động/năm nhưng vẫn có những tòa chuyên trách này. Trong khi có những địa

phương có loại án và số lượng lớn vụ việc giải quyết nhưng không có tòa

chuyên trách, ví dụ án hôn nhân gia đình. Vì vậy, cần tổ chức các tòa chuyên

trách cấp tỉnh dựa trên số lượng án giải quyết (tổng số và từng lĩnh vực) và biên

chế Thẩm phán từng đơn vị sẽ giải quyết được những bất cập tồn tại nêu trên.

Cần mở rộng thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TAND tỉnh:

Luật tổ chức TAND năm 2014 [21] quy định TAND cấp tỉnh không có thẩm

quyền tái thẩm, giám đốc thẩm bản án, quyết định có hiệu lực của TAND cấp

76

huyện mà thẩm quyền đó giao cho TAND cấp cao. Quy định này làm giảm

đầu mối Tòa án giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm tăng cường tính thống nhất và

nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tái thẩm theo định hướng cải cách tư

pháp. Tuy nhiên, TAND tỉnh trực tiếp thực hiện kiểm tra nghiệp vụ của

TAND cấp huyện và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của

TAND cấp huyện, mặt khác TAND tỉnh có Ủy ban Thẩm phán, khi phát hiện

có căn cứ cần phải kháng nghị thì TAND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền kiến

nghị dẫn đến không bảo đảm kịp thời. Việc bỏ chức năng giám đốc thẩm, tái

thẩm của TAND cấp tỉnh đã tạo thêm khối lượng công việc cho TAND cấp

cao. Hiện nay, giải pháp biệt phái cán bộ TAND cấp tỉnh lên TAND cấp cao

phối hợp nghiên cứu, giải khuyết đơn kiến nghị giám đốc thẩm còn tồn đọng

chưa phải là giải pháp căn cơ để giải quyết vấn đề này. Vì vậy, cần đề nghị

thay đổi theo hướng giao thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm một số

loại vụ việc, quyết định của TAND cấp huyện có hiệu lực cho TAND cấp tỉnh

để giảm bớt tình trạng tồn đọng và giải quyết nhanh chóng đơn kiến nghị

giám đốc thẩm tại TAND cấp cao. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho

những người tham gia tố tụng và giảm tải cho TAND cấp cao.

Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên [33],

[35], [44], [50] [51] như: TAND cấp tỉnh phải thường xuyên rà soát đội ngũ

cán bộ, công chức phân loại để kịp thời đào tạo, đào tạo lại theo kế hoạch

hàng năm hoặc tự tổ chức đào tạo tại cơ quan, đơn vị; tăng cường công tác

đào tạo lại qua hoạt động thực tiễn như tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm, các

buổi tập huấn, hội thảo, tọa đàm về những vẫn đề còn vướng mắc có nhiều

cách hiểu khác nhau hoặc thường sai sót trong áp dụng pháp luật. Tăng cường

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quán lý, giám sát đội ngũ cán bộ, Thẩm

phán và công chức Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ đó là mỗi Thẩm phán, Thư ký,

Thẩm tra viên phải là tấm gương trong việc chấp hành chủ trương, đường lối

77

của Đảng, pháp luật của nhà nước, là biểu tượng công lý. Nếu Thẩm phán do

nhận thức, năng lực yếu ra bản án, quyết định oan sai thì cần đào tạo, bồi

dưỡng lại, Thẩm phán phải tự kiểm điểm, nhìn ra sai lầm để khắc phục, nâng

cao trình độ. Nếu Thẩm phán cố ý ra bản án, quyết định trái pháp luật, không

có căn cứ không đem lại công bằng công lý thì phải xử lý nghiêm minh.

Bảo đảm chế độ, chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ,

công chức nhất là Thẩm phán theo chế độ đặc thù của Tòa án. Bởi chế độ,

chính sách, tiền lương là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo tính độc

lập của đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán trong khi thực thi công vụ.

Nếu chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ phù hợp thì sẽ bảo đảm cho cán

bộ, công chức, Thẩm phán không lo mưu sinh vì họ và gia đình có thể sống

đủ bằng chính đồng lương của mình từ đó sẽ không bị chi phối bởi giá trị vật

chất từ các cá nhân, tổ chức liên quan đảm bảo được sự độc lập trong xét xử.

Chế độ tiền lương hiện nay của Thẩm phán còn nhiều bất cập, chưa tính toán

đầy đủ tới đặc thù hoạt động, phức tạp của Tòa án. Có thể thấy khối lượng

công việc trong tình trạng quá tải, môi trường công tác của Thẩm phán phải

chịu trách nhiệm rất cao trước hành vi tố tụng của mình. Ngoài ra, pháp luật

quy định cán bộ, công chức trong ngành Tòa án không được tham gia kinh

doanh, làm thêm trong lĩnh vực pháp luật nên đời sống cán bộ, công chức gặp

nhiều khó khăn. Tình trạng cán bộ, Thẩm phán xin nghỉ việc hoặc chuyển

công tác khác ngày càng gia tăng. Nếu không có chính sách phù hợp sẽ ảnh

hưởng tiêu cực đến việc thu hút cán bộ có năng lực vào làm việc trong cơ

quan Tòa án nói chung và TAND cấp tỉnh nói riêng. Do đó, Nhà nước cần

sớm có bảng lương mới đối với các chức danh tư pháp Tòa án, xây dựng bảng

lương theo hướng các chức danh Thẩm phán các cấp cao hơn các ngạch công

chức, viên chức cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với khoảng cách hệ số

chênh lệch phù hợp dựa trên đặc thù hoạt động của Tòa án. Giải quyết vấn đề

tiền lương cho cán bộ, công chức, Thẩm phán Tòa án là một trong những giải

pháp mang tính tiên quyết, quyết định sự thành công của các giải pháp khác

78

nhằm nâng cao năng lực cán bộ, công chức và Thẩm phán trong TAND cấp

tỉnh. Ngoài ra, cần có các chính sách bản đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng,

danh dự cho Thẩm phán và các thành viên trong gia đình của họ vì những

năm gần đây càng gia tăng tình trạng Thẩm phán bị đe dọa tính mạng, bị tạt

axit, bị gây thương tích. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động

của Tòa án. Do đó, cần có các chính sách đãi ngộ, chế độ tiền lương và các cơ

chế bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự cho Thẩm phán thì những con người

làm công tác xét xử mới an tâm công tác.

Đổi mới công tác đánh giá phân loại cán bộ, công chức, Thẩm phán vì

hiện nay vẫn dùng phương pháp truyền thống là bình bầu [53]. Cách đánh giá

này rất dễ bị chi phối bởi sự nể nang, tình cảm cá nhân, thiếu khách quan

công bằng gây hậu quả xấu cho công tác lựa chọn, bố trí, sắp xếp Thẩm phán.

Dó đó, công tác kiểm tra đánh giá cần dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực

nhất định, đồng thời cần căn cứ vào các tiêu chuẩn Thẩm phán đối chiếu với

kết quả kiểm tra, tự kiểm điểm của Thẩm phán với ý kiến tập thể, dư luận,

quần chúng, bảo đảm thực sự công khai, minh bạch, dân chủ trong công tác

đánh giá. Đánh giá phải lấy hiệu quả công việc và thực tế đóng góp làm thước

đo năng lực của từng cán bộ, công chức, Thẩm phán. Để bảo đảm khách quan

công bằng trong đánh giá cần tuân thủ nguyên tắc tập trung, dân chủ. Người

được đánh giá được trình bày ý kiến của mình và kết luận đánh giá cần phải

kết hợp hài hòa giữa ý kiến đánh giá của tập thể, người quản lý trực tiếp và tự

đánh giá của chính bản thân người đánh giá. Qua đánh giá mới xác định được

phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết

quả thực hiện nhiệm vụ được giao cho từng Thẩm phán. Vì vậy, cần phải xây

dựng các tiêu chuẩn công thức, nhiệm vụ, mối tương quan của từng ngạch

công chức được đánh giá, đặc biệt là ngạch Thẩm phán.

Xây dựng kế hoạch tập hợp, thu hút và đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu

ngành, những người có khả năng dự báo và tham mưu xử lý tốt những vẫn đề

phức tạp nảy sinh qua thực tiễn xét xử. Chú trọng, quan tâm công tác quy

79

hoạch nhằm khắc phục những hụt hẫng về đội ngũ cán bộ kế cận, xây dựng

quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên mộn,

đội ngũ chuyên gia. Đặc biệt, phải gắn nội dung này với công tác đào tạo,

luân chuyển, bố trí, điều động, sử dụng cán bộ. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho

việc luân chuyển, điều động tạo thử thách thực tế cho đội ngũ cán bộ thuộc

diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo quản lý.

Phải kiện toàn đội ngũ, bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ TAND cấp

tỉnh. Vì đây là lĩnh vực rất khó và nhảy cảm là khoa học về tổ chức, nhân sự.

Do đó, đòi hỏi đội ngũ làm công tác này phải được đào tạo cơ bản về chuyên

môn, nghiệp vụ; có khả năng nắm bắt tổng thể những vấn đề của ngành; có

tầm nhìn trong xây dựng đội ngũ cán bộ; công tâm; khách quan; tác phong,

phương pháp làm việc cụ thể sâu sát, trên cơ sở đó tham mưu cho lãnh đạo bố

trí, sử dụng đúng người, đúng việc, xây dựng bộ máy khoa học, hiệu quả.

Trong thời gian tới, đề nghị cần có các chiến lược, giải pháp về việc phát triển

đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ.

Cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán so với hiện nay tiến tới

việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, để các Thẩm phán độc lập và an tâm trong

công tác xét xử. Bởi vì quy định nhiệm kỳ Thẩm phán quá ngắn (Nhiệm kỳ

đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được

bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì bổ nhiệm 10 năm).

Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân. Có nhiều ý kiến về việc bỏ chế

độ Hội thẩm hoặc thay chế độ HTND bằng hình thức khác mà vẫn bảo đảm tính

nhân dân trong xét xử. Tuy nhiên, với đặc điểm chính trị, xã hội của Việt Nam,

cần tiếp tục duy trì chế độ HTND tham gia xét xử nhưng với thành phần ở cấp sơ

thẩm không phải đa số như hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng việc HĐXX sơ thẩm

gồm 02 Thẩm phán và 01 HTND (hoặc 3 Thẩm phán, 2 HTND) sẽ vừa bảo đảm

tính chuyên nghiệp, vừa bảo đảm có đại diện của nhân dân tham gia xét xử, thể

hiện và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; vẫn có thể sử dụng được kinh

80

nghiệm xã hội và khả năng phán quyết các vấn đề của những người xét xử

"không chuyên nghiệp", những người đại diện cho mức hiểu biết pháp luật ở

mức "phổ thông" của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, cải cách tư pháp sẽ

không đi theo hướng "chuyên môn hoá", "Thẩm phán hoá" HTND mà trái lại,

tiếp tục duy trì và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người có đủ

khả năng, kiến thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết để tham gia xét xử. HTND

cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ cơ bản nhất để có thể

tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử.

Trên đây là những giải pháp chung để hoàn thiện bộ máy tổ chức

TAND cấp tỉnh ngày một tinh gọn, có hiệu quả hơn.

b) Giải pháp chung về hoàn thiện hoạt động Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Nhiệm vụ chính của hoạt động TAND cấp tỉnh là hoạt động xét xử, do

đó các giải pháp hoàn thiện hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là nhằm

nâng cao chất lượng của công tác xét xử đây là nhiệm vụ trọng tâm của việc

cải cách tư pháp. Các giải pháp cụ thể như sau:

Đảm bảo nguyên tắc Tòa án độc lập và có hiệu lực trên thực tế đó là:

Thẩm phán với lãnh đạo cơ quan Tòa án phải bảo đảm sự độc lập; độc lập của

Tòa án cấp dưới với Tòa án cấp trên; độc lập của Tòa án với Viện kiểm sát và

cơ quan điều tra; độc lập giữa Thẩm phán và HTND vv… [3]. Điều này đặt ra

yêu cầu: Thẩm phán phải đủ năng lực và điều kiện làm việc; Thẩm phán có

lợi ích liên quan tới vụ án thì không được xét xử; Thẩm phán phải chịu trách

nhiệm về phán quyết của mình.

Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp [5], [15]: Hiện nay TAND tối cao

chưa xây dựng quy trình xử lý công việc của bộ phận Hành chính tư pháp. Do

đó cần sớn ban hành quy trình xử lý công việc của bộ phận Hành chính tư

pháp bảo đảm đơn giản hóa các bước, thủ tục để đưa hồ sơ vụ việc tới đơn vị,

cá nhân có thẩm quyền giải quyết nhanh chóng, khách quan đảm bảo được sự

tách biệt giữa hoạt động quản lý hành chính và hoạt động nghiệp vụ của Tòa

81

án. Thực hiện việc phân công án cho Thẩm phán đảm bảo ngẫu nhiên và

khách quan khắc phục tình trạng có Thẩm phán giải quyết toàn án khó, phức

tạp, có Thẩm phán giải quyết toàn án dễ.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Tòa án [5], [52]: Cần

tạo ra các phần mềm hỗ trợ cho hoạt động của Tòa án, như phần mềm phân

loại án ngẫu nhiên, thụ lý đơn qua mạng, thông báo văn bản tố tụng của Tòa

án bằng phương tiện điện tử. Xây dựng các phòng xét xử điện tử, thực hiện

việc tự động ghi âm, ghi hình, chụp chiếu các tài liệu, chứng cứ trực tiếp tại

phiên tòa tiến tới tổ chức các phiên tòa xét xử trực tuyến. Số hóa và thực hiện

việc quản lý, lưu trữ, khai thác, tiếp cận các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ

vụ án; trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án và thực hiện việc

chuyển các hồ sơ, tài liệu chủ yếu được thực hiện bằng bản điện tử giữa các

Tòa án với nhau. Ứng dụng triệt để các phần mềm quản lý các loại vụ án hình

sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính. Đây là

những công cụ hỗ trỡ đắc lực trong việc thực hiện cải cách hành chính tư

pháp giúp cho lãnh đạo quản lý, theo dõi, điều hành các hoạt động giải quyết

xét xử của từng Thẩm phán nhằm đưa ra các chỉ đạo kịp thời đảm bảo đúng tố

tụng và báo cáo, thống kê kịp thời, đầy đủ.

Công khai các bản án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối

cao [50]. Việc công khai bản án là một kênh để người dân giám sát hoạt động

của Tòa án cấp tỉnh, qua đó đề cao trách nhiệm của Thẩm phán nói riêng và

của Tòa án nói chung. Bản án là sản phẩm thể hiện kết quả của suốt quá trình

tố tụng, phản ánh sự tuân thủ pháp luật, trách nhiệm và trình độ thẩm phán.

Thuyết phục được xã hội hay không cũng chính ở nhận định và phán quyết

của bản án. Uy tín của Tòa án tăng lên hay giảm đi cũng liên quan đến chất

lượng bản án. Do đó, việc nâng cao chất lượng bản án là nhiệm vụ quan trọng.

Thẩm phán sẽ phải nâng cao ý thức trách nhiệm. Bởi khi công khai những bản

án trên mạng sẽ có rất nhiều người đọc, nghiên cứu bản án như: Nguyên đơn,

82

bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo chí, Luật sư vv…, họ sẽ

bình luận, khen, chê năng lực của Thẩm phán. Qua đó, giúp các Thẩm phán

phải tự rèn luyện để nâng cao trình độ và đây cũng là con đường để đảo thải

những Thẩm phán thiếu trách nhiệm với công việc.

Tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp [2], [4], [7], [10],

[16], [51] là: Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong suốt quá trình xét xử. Đây

là con đường tìm ra sự thật vụ án một cách công minh, công bằng, tôn trọng

quyền con người, quyền công dân. Chủ tọa phiên tòa thực hiện đúng nguyên

tắc chỉ giải thích pháp luật, giải thích quyền và nghĩa vụ người tham gia tố

tụng, tuyệt đối không đưa ra những đánh giá, phê phán hay chỉ trích để bảo

đảm đúng tinh thần của nguyên tắc tranh tụng và tôn trọng quyền được suy

đoán vô tội của bị cáo. Tinh thần đổi mới là không được hạn chế thời gian

dành cho tranh tụng, bảo đảm các bị cáo và những người tham gia tố tụng sử

dụng tối đa quyền tranh tụng, quyền đưa ra chứng cứ và trình bày hết ý kiến

của mình, nếu còn vấn đề tranh tụng thì không được cắt khi đương sự, bị cáo,

luật sư yêu cầu. Tất cả những vẫn đề tranh tụng cần được xem xét, đánh giá

và nhận định trong bản án. Nếu không chấp nhận ý kiến của Luật sư hoặc các

bên nêu ra thì Thẩm phán cần đưa ra những lý lẽ thuyết phục.

Tăng cường công tác kiểm tra trong hệ thống TAND cấp tỉnh là [52]:

TAND tối cao cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với TAND cấp

tỉnh định kỳ một năm phải tổ chức ít nhất 02 đợt kiểm tra chung đối với công

tác xét xử của các Tòa án. Trong lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ chuyên môn,

cần tập trung kiểm tra các nội dung liên quan đến những hạn chế, thiếu sót

trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, như: Chậm thụ lý yêu cầu

khởi kiện của công dân; trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ, không đúng

pháp luật; tạm đình chỉ giải quyết các vụ án không có căn cứ pháp luật; trả hồ

sơ điều tra bổ sung thiếu căn cứ; để án quá hạn luật định; cho hưởng án treo

không đúng quy định của pháp luật; tỷ lệ án hủy, sửa do lỗi chủ quan cao; có

83

nhiều bản án tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân

sự vv.... Thông qua các đoàn kiểm tra và các đợt kiểm tra chỉ ra và tổng hợp

những khuyết điểm, hạn chế trong công tác xét xử của các Tòa án địa phương

từ đó các Tòa án địa phương sẽ xem đơn vị mình có mắc phải những khuyết

điểm hạn chế đó không để tự sửa chữa và khắc phục ngay. Mặt khác, qua các

đợt kiểm tra sẽ tổng hợp những sai sót, vướng mắc của các Tòa án địa

phương, sau đó TAND tối cao sẽ ban hành những giải đáp nghiệp vụ như

hướng dẫn chung để TAND cấp tỉnh áp dụng thống nhất, hạn chế được sai

sót. Ngoài ra, thông qua các buổi họp giao ban của cơ quan tổ chức rút kinh

nghiệm công tác xét xử để cán bộ, công chức thảo luận xem mình có mắc các

sai sót tương tự không, nếu Thẩm phán nào, đơn vị nào đã được chỉ rõ sai

phạm nhưng vẫn lặp lại lỗi sai cũ thì bị áp dụng xử lý rất nghiêm, bên cạnh đó

còn cho những cá nhân, đơn vị khác học tập, khắc phục triệt để những sai sót.

Tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm [44], vì đây là một

trong những hình thức tự học, tự đào tạo mang lại hiệu quả, thiết thực và tiết

kiệm nhất. Mỗi một phiên tòa rút kinh nghiệm là một bài học cho chính mỗi

bản thân Thẩm phán chủ tọa và những người tiến hành tố tụng cùng các đồng

nghiệp tham dự. Mỗi nhận xét là một bài học, giúp các Thẩm phán nâng cao

năng lực, kinh nghiệm, kiến thức rất hiệu quả và thuận tiện mà không cần

phải đến trường lớp. Các TAND tỉnh sẽ đưa ra chỉ tiêu thi đua như mỗi Thẩm

phán trong 01 năm công tác phải có ít nhất 01 phiên tòa rút kinh nghiệm. Vì

những Thẩm phán nào cầu thị, muốn nâng cao năng lực sẽ đăng ký nhiều vụ

án rút kinh nghiệm còn Thẩm phán nào sợ phán xét sẽ không giám thi đua,

đây chính là “thi đua”. Cùng với thời gian sẽ có nhiều kinh nghiệm tổ chức

phiên tòa tốt hơn.

Tăng cường các biện pháp áp dụng thống nhất pháp [50], [52] luật bằng

cách Tòa án nhân dân tối cao nên ban hành các nghị quyết hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, giải đáp pháp luật, án lệ, thông tư qua các năm, sau đó

84

tập hợp lại, xuất bản thành sách để các Thẩm phán TAND cấp tỉnh nói riêng

và trong toàn hệ thống TAND nói chung thuận tiện nghiên cứu, áp dụng. Tòa

án nhân dân tối cao nên tổ chức các buổi tập huấn trực nghiệp vụ tuyến theo

chuyên đề, giải đáp thắc mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, mỗi tháng 01

chuyên đề do các thành viên trong Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao trực

tiếp giảng dạy, giải đáp hướng dẫn cho TAND cấp tỉnh thực hiện, trong quá

trình áp dụng sau một thời gian không có vướng mắc sẽ nâng cao thành Nghị

quyết của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, sẽ

khắc phục được những tồn tại như có những vụ án tình tiết giống nhau nhưng

các Tòa án lại xét xử khác nhau. Qua đó tạo được sự áp dụng thống nhất pháp

luật trên toàn hệ thống TAND và củng cố niềm tin cho người dân trong quá

trình tham gia tố tụng.

Cần mở rộng phạm vi xét xử các vụ án hành chính cho TAND cấp

huyện giải quyết vì:

+ Theo các chính sách, đường lối của Đảng cũng như chủ trương của

việc cải cách tư pháp là ngày một mở rộng thẩm quyền xét xử của cấp sơ

thẩm [7]. Nhưng theo quy định của Luật TTHC 2015 đã thu hẹp thẩm quyền

xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện vì lý do UBND huyện, Chủ tịch UBND

huyện là người bị kiện trong vụ án hành chính sẽ không đảm bảo tính độc lập

trong xét xử khi án hành chính và để cho TAND cấp huyện đỡ khó xử hơn

trong quá trình giải quyết vụ án, tránh tình trạng Thẩm phán ngại va chạm

không giám xử. Nếu thay đổi quản lý Đảng, khắc phục được việc Thẩm phán,

TAND ở địa phương lệ thuộc vào các chức vụ trên địa bàn sẽ khắc phục được

hạn chế về việc giải quyết án hành chính trả lại thẩm quyền vốn có này cho

TAND cấp huyện vì bản chất phần lớn những vụ án hành chính sơ thẩm không

phải quá phức tạp để TAND tỉnh mới đủ khả năng giải quyết được.

+ Nếu để TAND cấp huyện giải quyết sơ thẩm các vụ án hành chính, sẽ

giảm tải cho TAND tỉnh về số lượng án giải quyết hàng năm, tăng tỷ lệ án

85

giải quyết đảm bảo đúng thời hạn, khắc phục tình trạng án bị quá hạn vì thiếu

Thẩm phán giải quyết, giải áp lực cho Thẩm phán cấp tỉnh vì phải giải quyết

quá nhiều án, nâng cao được chất lượng xét xử, tăng thẩm quyền cho TAND

cấp huyện và giảm bớt khó khăn, chi phí đi lại cho những người tham gia tố

tụng cũng như người tiến hành tố tụng.

+ Đa phần các vụ án hành chính tại tỉnh đều là khiếu kiện về các quyết

định giao đất, thu hồi đất của UBND huyện. Nên số lượng vụ án hành chính

sơ thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh là chiếm phần lớn số

lượng án hành chính mà Tòa án tỉnh giải quyết.

+ Người dân khi khiếu kiện ở các huyện khác nhau phải đi lên tỉnh dẫn

đến những khó khăn trong quá trình đi lại cho những người tham gia tố tụng.

Khi cán bộ TAND cấp tỉnh đi xuống địa phương để xác minh, thẩm định cũng

tốn kém chi phí và thời gian đi lại giữa các huyện ví dụ như: Địa bàn tỉnh Đắk

Lắk khá rộng lớn, có huyện khoảng cách từ tỉnh tới huyện là từ 80 đến 100

km, đi xe ô tô đi mất gần 2h đồng hồ, còn đi xe máy hay phương tiện công

cộng thì đi gần cả nửa ngày để đến nơi, đường xá đi lại giữa các huyện cũng

chưa được hoàn thiện, vẫn còn đường đất, đá. Trong khi đó, TAND cấp huyện

ở địa phương dễ đi lại và nắm rõ tình hình tại địa bàn hơn là TAND cấp tỉnh.

+ Khi người bị kiện kháng cáo thì phải kháng cáo lên TAND cấp cao

để xét xử phúc thẩm. Khi đó việc đi lại tham gia tố tụng của người khởi kiện,

người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng lại còn

khó khăn hơn so với kháng cáo từ huyện lên tỉnh, vì phải đến TAND cấp cao

tại Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội tùy thuộc vào khu vực địa lý

mà các Tòa án cấp cao phụ trách theo luật tố tụng quy định. Chi phí đi lại tốn

kém hơn nhiều, gây mệt mỏi cho người tham gia tố tụng.

Vì vây, trong tương lai pháp luật cần quy định lại thẩm quyền giải

quyết án hành chính để giảm tải cho TAND cấp tỉnh và tạo thuận lợi cho

người dân khi tham gia khiếu kiện hành chính.

86

3.2.2. Giải pháp riêng về hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động

của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

a) Giải pháp riêng về hoàn thiện tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk

Tỉnh Đắk Lắk là một trong các tỉnh nằm tại khu vực Tây Nguyên nên

có những đặc thù riêng về vị trí địa lý, trình độ dân trí, đặc điểm dân cư xã

hội, văn hóa phong tục tập quán của người đồng bào dân tộc Tây Nguyên vv...

Vì vậy, bên cạnh những giải pháp chung về hoàn thiện tổ chức TAND cấp

tỉnh, thì TAND tỉnh Đắk Lắk cần có giải pháp riêng chi tiết hơn dựa trên các

giải pháp chung để phù hợp đặc thù của tỉnh nhằm hoàn thiện tổ chức TAND

Đắk Lắk ngày càng hoạt động hiệu quả hơn.

Hiện nay, sự phát triển của hệ thống pháp luật, tình hình hội nhập quốc

tế và diễn biến phức tạp của các quan hệ xã hội, các tranh chấp xảy ra ở mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội, các vụ án hình sự với quy mô, tính chất, thủ

đoạn ngày càng nguy hiểm đã đặt thêm nhiều thử thách cho các Thẩm phán

TAND tỉnh Đắk Lắk trong quá trình xét xử. Đòi hỏi các Thẩm phán phải có

nhiều hiểu biết về các lĩnh vực chuyên ngành như: Kế toán, tài chính ngân

hàng, môi trường, đất đai, xây dựng, nghe nói và hiểu tiếng đồng bào Êđê,

văn hóa và phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số của vùng vv…,

đồng thời phải biết và sử dụng nhiều kỹ năng nghiệp vụ khác nhau như: Thẩm

vấn, hòa giải, thuyết phục, phân tích, tổng hợp, viết bản án vv…Thẩm phán

phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp

vụ với những kinh nghiệm, hiểu biết về xã hội để có những phán quyết thuyết

phục. Trước những thách thức trên, TAND tỉnh Đắk Lắk cần phải đổi mới

chiến lược đào tạo, bồi dưỡng theo từng giai đoạn, nội dung chương trình đào

tạo phải được xây dựng để phát triển toàn diện năng lực chuyên môn và kỹ

năng công tác của mỗi Thẩm phán. Ngoài ra, cần mở rộng đối tượng được đào

tạo như Hội Thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, tổ chức các khóa

87

đào tạo, bồi dưỡng theo từng đối tượng để phát huy hiệu quả. Ví dụ: Đối với

Thẩm phán sẽ tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao cao kiến thức của Thẩm

phán liên quan đến các lĩnh vực xét xử án hình sự, dân sự, hành chính, kinh

tế, lao động vv… và cũng như các vấn đề đặc thù như xét xử người chưa

thành niên phạm tội, thủ đoạn phạm tội trong tình hình mới, bảo vệ quyền trẻ

em. Ngoài ra, các Thẩm phán còn được đào tạo các kỹ năng cơ bản liên quan

đến nghề nghiệp như kỹ năng điều hành phiên tòa một cách khoa học chặt

chẽ, xây dựng kế hoạch tổ chức phiên tòa, kế hoạch xét hỏi, dự kiến những

tính huống có thể xảy ra và phương án xử lý phù hợp; kỹ năng tập huấn viết

bản án; kỹ năng làm việc độc lập, quản lý hồ sơ, ứng dụng công nghệ thông

tin trong xét xử; bồi dưỡng thêm trình độ ngoại ngữ, tiếng Êđê, tin học. Bên

cạnh việc được cơ quan đào tạo, các Thẩm phán phải nâng cao ý thức tự trau

dồi và cũng cố, thường xuyên cập nhật, nghiên cứu sự thay đổi của hệ thống

pháp luật để áp dụng chính xác, thống nhất pháp luật.

Tình trạng hụt giữa các thế hệ cán bộ, công chức đang diễn ra tại

TAND tỉnh Đắk Lắk, thời gian tới khi thế hệ trước về hưu cùng một lúc sẽ

dẫn đến thiếu cán bộ, công chức nòng cốt kế cận có trình độ chuyên môn cao,

nhiều kinh nghiệm giải quyết những vấn đề pháp lý phức tạp. Do đó, phải xây

dựng đội ngũ cán bộ công chức phát triển bền vững, có cơ cấu đồng bộ, trọng

tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, có sự kế thừa những thành tựu

đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các thế hệ đi trước.

Cần chú trọng công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán bộ

công chức, Thẩm phán. Bên cạnh những cán bộ, công chức, Thẩm phán luôn

giữ vững tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, tôn trọng pháp luật, kỷ luật

công vụ và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì vẫn còn một số ít cán

bộ, Thẩm phán có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

như suy sụt ý chí chiến đấu nên có những Thẩm phán bị cám giỗ trước những

lợi ích vật chất tầm thường, không giữ được sự liêm chính và bản lĩnh dẫn

đến có những sai phạm phải bị kỷ luật, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.

88

Ví dụ: Thẩm phán - Phó Chánh án TAND huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk bị kết

án về tội nhận hối lộ (năm 2019). Do đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,

Thẩm phán, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, phẩm chất đạo đức, bản

lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ này có ý nghĩa quan trọng. Lãnh đạo TAND

tỉnh Đắk Lắk cần có các chương trình, kế hoạch cụ thể hàng năm về việc bồi

dưỡng chính trị - tư tưởng. Nội dung giảng dạy phải thiết thực đối với từng

chức vụ, chức danh, phương pháp bồi dưỡng cần thường xuyên thay đổi,

thường xuyên cập nhật để có thể thực hiện được mục tiêu định hướng hành

động trong tình hình mới và phải mang tính thống nhất. Đạt mục tiêu xây

dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về

chuyên môn là một yêu cầu quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp.

Bên cạnh việc nâng cao chất lượng xét xử qua từng vụ án, để nâng cao

uy tín của Thẩm phán xây dựng TAND tỉnh Đắk Lắk nói riêng và hệ thống

TAND nói chung là biểu tượng của công lý thì nhân tố quan trọng nữa là

phẩm chất, nhân cách, niềm tin và sự tôn trọng của người dân đối với Thẩm

phán và Tòa án. Điều này đặt ra yêu cầu cho TAND tỉnh Đắk Lắk là: Trong

mọi hoạt động của mình, Thẩm phán hay các cán bộ, công chức giữ chức

danh tư pháp trong Tòa án phải luôn thể hiện sự đúng mực, liêm chính, hành

xử văn hóa và khiêm tốn. Phải chấp nhận mọi sự hạn chế của bản thân để ứng

xử văn minh trong mọi hoàn cảnh. Thẩm phán phải duy trì sự trật tự và tôn

nghiêm trong quá trình tố tụng tại Tòa án; luôn thể hiện sự kiên nhẫn, nghiêm

túc và nhân ái đối với các bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng. Khi thực

hiện công vụ tại cơ quan; giao tiếp với các cơ quan, tổ chức có quan hệ công

tác và truyền thông, báo chí; các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài; các

hoạt động ngoài nhiệm vụ xét xử; trong cuộc sống hàng ngày tại nơi cư trú,

nơi công cộng. Cán bộ, công chức, Thẩm phán TAND tỉnh Đắk Lắk phải xử

sự phù hợp với các chuẩn mực chung của xã hội, tuân thủ tuyệt đối các

nguyên tắc nghề nghiệp, không lợi dụng vị trí công tác để vụ lợi khi tham gia

các hoạt động xã hội, phải nêu gương về đạo đức, giáo dục ý thức tôn trọng

89

và chấp hành Hiến pháp, pháp luật.

Công tác đánh giá cán bộ, công chức hàng năm cần bổ sung thêm nhiều

tiêu chí, vì việc đánh giá Thẩm phán hiện nay được thực hiện [53] chưa phản

ánh đúng năng lực của từng người. Do đó, cần mở rộng các tiêu chí như:

Đánh giá nội dung các bản án, quyết định là việc giải quyết yêu cầu của

đương sự phù hợp với phần nhận định, quyết định của bản án, quyết định với

các quy định pháp luật, kỹ thuật trình bày các văn bản ngắn gọn, đủ ý, rõ

ràng, dễ hiểu, trang trọng, lịch sự về văn phong; đúng mẫu và quy định của tố

tụng về thể thức trình bày. Thẩm phán phải bảo đảm tính độc lập, khách quan

trong xét xử, bởi Thẩm phán dù có trình độ năng lực giỏi, nhưng nếu thiếu

khách quan, độc lập, dễ bị tác động bới yếu tố bên ngoài thì cũng nhanh

chóng thay đổi phán quyết cuối cùng.

Cần xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có trình độ, sinh viên tốt nghiệp

đại học chuyên ngành Luật, chuyên ngành Tòa án loại giỏi về công tác tại

TAND tỉnh Đắk Lắk. Có chính sách đặc thù ưu tiên cho cán bộ, công chức

làm việc tại Tòa án tỉnh Đắk Lắk bởi đặc điểm địa lý tỉnh Đắk Lắk là nơi khó

thu hút nguồn nhân lực có chất lượng trong công tác tuyển dụng và đào tạo.

Đổi mới công tác chỉ đạo điều hành. Lãnh đạo phải xây dựng chương

trình kế hoạch công tác, chỉ đạo và có biện pháp kiểm tra đôn đốc thường

xuyên. Đề cao trách nhiệm người lãnh đạo trong công tác cán bộ. Lãnh đạo

TAND tỉnh Đắk Lắk phải có các kế hoạch cụ thể trong giao công việc, phân

công người hướng dẫn, giúp đỡ kiểm tra cán bộ. Ở đâu cán bộ kém, ở đó có

trách nhiệm của người lãnh đạo. Chú trọng đào tạo kỹ năng quản lý, chỉ đạo,

điều hành cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Quan tâm chỉ đạo và

thực hiện nghiêm túc công tác quy hoạch nhằm khắc phục những hụt hẫng về

đội ngũ kế cận. Việc xây dựng quy hoạch không chỉ đối với vị trí cán bộ lãnh

đạo quản lý mà cần chú ý đến quy hoạch cán bộ làm công tác chuyên môn.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ. Công tác thanh tra,

kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên, kịp thời nhằm chấn chỉnh những

90

yếu kém trong công tác xét xử; phát hiện sớm và khắc phục, xử lý kịp thời các

trường hợp vi phạm quy chế nghiệp vụ trong hoạt động của Tòa án, vi phạm

pháp luật và kiên quyết xử lý nghiêm hoặc thanh lọc những cán bộ, công

chức, Thẩm phán có vi phạm, thoái hóa, biến chất.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, triển khai thực thi “Bộ quy tắc

đạo đức và ứng xử của Thẩm phám” [27] “Quy định xử lý trách nhiệm người

giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân” [46], xây dựng Quy chế làm

việc cơ quan, thường xuyên kiểm tra kịp thời để phát hiện và khắc phục

những yếu kém trong công việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, kiên quyết xử

lý nghiêm cán bộ vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống và kỷ luật công tác,

gắn với trách nhiệm người đứng đầu để xây dựng Tòa án trong sạch, vững

mạnh, cũng cố niềm tin của Nhân dân đối với cơ quan xét xử.

b) Giải pháp riêng bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk

Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong những năm gần đây đã đạt được

những thành quả nhất định trong hoạt động xét xử như: Chất lượng giải quyết

án ngày càng cao, số lượng án bị hủy, sửa trong giới hạn cho phép vv... Tuy

nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế như: Án bị hủy, sửa do lỗi

chủ quan vẫn còn. Do đó, các giải pháp đưa ra để bảo đảm hoạt động xét xử

của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk hướng đến bản án tuyên đúng quy định

pháp luật, hợp tình, hợp lý, đúng người, đúng tội không còn án bị hủy, sửa do

lỗi chủ quan. Thông qua hoạt động xét xử Tòa án còn giáo dục người dân

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Vì vậy, cần đưa ra các giải pháp để bảo

đảm hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk như sau:

Thực hiện nghiêm việc tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư

pháp gồm [3], [4], [51]:

+ Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là trong quá trình

xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập từ việc nhận định vụ án, diễn giải

pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và ra bản án. Ngoài ra, khi nghiên

91

cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm không bị phụ thuộc vào

kết luận của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện

kiểm sát, không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của Tòa án

cấp trên. Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của

mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan, không bị

ảnh hưởng, bị ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án. Hội

đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác

của vụ án một cách thận trọng, khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ

sơ vụ án và tại phiên tòa. Quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ vào những

chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Khi xét xử, Thẩm phán độc lập với

Hội thẩm trong việc xem xét và đánh giá chứng cứ để đưa ra các kết luận của

mình mà không lệ thuộc vào quan điểm, chính kiến của các thành viên khác

trong Hội đồng xét xử.

+ Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là: Trong quá trình tranh

tụng phải đảm bảo cho các chủ thể đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra

chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu làm rõ sự thực khách quan của

vụ án; mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội và các tình tiết

khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh

luận, làm rõ tại phiên tòa. Không được hạn chế thời gian tranh tụng, nếu còn

vấn đề phải tranh tụng thì không được cắt khi đương sự, bị cáo yêu cầu. Phải

đổi mới trình tự xét hỏi, trước đây Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi

mới đến các Hội thẩm (nếu có), sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa,

người bảo vệ quyền lợi của đương sự nay chúng ta tổ chức phiên tòa theo kiểu

mới Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi trước, sau đó quyết định hỏi ai, ai là

người hỏi trước, ai là người hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Kiểm sát viên phải đưa

ra chứng cứ, tài liệu, lập luận để tranh tụng đến cùng với từng ý kiến của

người tham gia tố tụng. Nội dung bản án phải phân tích lý do mà Hội đồng

xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, gỡ tội, yêu cầu đề nghị của

92

Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng. Trên

cơ sở kết quả tranh tụng, HĐXX đưa ra các phán quyết đúng pháp luật, được

dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.

+ Tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong quá trình xét xử tại

Tòa án đặc biệt là trong các vụ án hình sự. Thẩm phán phải tôn trọng và bảo

vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, phải thường

xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp áp dụng, kịp

thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp

luật hoặc không cần thiết nữa. Trong quá trình tố tụng phải bảo đảm nguyên

tắc suy đoán vô tội, nếu trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu đã áp dụng đầy

đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để chứng minh tội phạm

thì phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Phải bảm đảm

quyền bào chữa của bị cáo, tạo điều kiện cho có người bào chữa nhanh chóng.

+ Hội đồng xét xử phải thực hiện hết thẩm quyền của mình theo quy

định của pháp luật là hiện nay luật tố tụng mới quy định quyền năng của

Thẩm phán và Hội đồng xét xử rất nhiều, trước đây các Thẩm phán và Hội

đồng xét xử chú trọng việc ra phán quyết, tuyên phạt bị cáo bao nhiêu năm tù,

trách nhiệm dân sự bồi thường bao nhiêu vv…, còn những quyền năng khác

chưa chú trọng. Trong đó có các quyền năng rất quan trọng như: Triệu tập

Điều tra viên, Kiểm sát viên ra phiên tòa để xác minh khi cần thiết, thay đổi

biện pháp ngăn chặn tạm giam ngay tại phiên tòa; khởi tố hoặc kiến nghị khởi

tố tại phiên tòa; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Để

làm tốt và phát huy hết quyền năng này, các Thẩm phán cần có bản lĩnh, trách

nhiệm và các kỹ năng nghề nghiệp khi áp dụng giải quyết, trong đó bản lĩnh

là yếu tố quan trọng.

Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những kết quả ban đầu về

việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động Tòa án là thành lập được

Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, với mục

93

tiêu xây dựng Tòa án điện tử trong thời gian tới thì TAND tỉnh Đắk Lắk cần

phải tăng cường hơn nữa ứng dụng công nghệ thông vào các hoạt động để đáp

ứng nhu cầu đổi mới mạnh mẽ thủ tục hành chính tư pháp và thủ tục giải

quyết các vụ việc tại Tòa án [5], [15] giúp người dân tiết kiệm được chi phí,

công sức đi lại khi có việc tại Tòa án đó là: Cần xây dựng các phần mềm gửi

đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

của Tòa án bằng phương tiện điện tử; đăng ký sao bản án, tài liệu trong hồ sơ

vụ án qua mạng nhằm tăng cường minh bạch, công khai trong các hoạt động

tố tụng của Tòa án. Việc đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án, xác

định công tác hành chính tư pháp có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho

hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của Tòa án thông suốt và

trôi chảy nên công tác cải cách hành chính tư pháp cần được đẩy mạnh. Hiện

nay, TAND Đắk Lắk là một trong số những Tòa án cả nước đi đầu về đổi mới

thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án. Tuy nhiên, do đi đầu tiên nên trong quá

trình triển khai thực hiện vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục,

sửa đổi để ngày một tiên tiến, hiện đại, nhanh gọn, kip thời hơn. Vì vậy,

TAND tỉnh cần xây dựng và triển khai quy chế hành chính tư pháp một cửa

liên thông, công khai hóa các thủ tục trên cổng thông tin điện tử, công khai

lịch xét xử, lịch tiếp công dân, đơn giản hóa việc tiếp nhận, hướng dẫn giải

quyết các yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trước và sau phiên tòa

nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, kiến

nghị, phản ánh hoặc yêu cầu giải quyết công việc của họ liên quan đến hoạt

động của Tòa án.

Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk cần quản lý, kiểm tra chặt

chẽ việc Công khai bản án, Quyết định trên mạng của các Thẩm phán. Bởi,

bản án là kết quả lao động trí tuệ của Thẩm phán qua đó thể hiện trình độ

hiểu biết pháp luật của mỗi Thẩm phán. Do đó, qua việc công khai bản án

trên mạng giúp mỗi Thẩm phán tự học để nâng cao trình độ, rèn luyện ý

94

thức tuân thủ pháp luật, thận trọng trong công tác xét xử; cân nhắc từng

câu, từng chữ khi bắt tay viết bản án, không chỉ bảo đảm chặt chẽ trong lập

luận nội dung mà cả văn phong, câu chữ diễn đạt. Sẽ có những bản án được

đánh giá tốt nhưng cũng sẽ có những bản án còn sai sót. Thẩm phán sẽ tiếp

thu những ý kiến đánh giá và rút ra kinh nghiệm cho mình. Việc công khai

bản án tạo ra một diễn đàn giúp các Thẩm phán trao đổi kinh nghiệm, chia

sẻ thông tin, học tập lẫn nhau tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật.

Đồng thời để người dân tiếp cận được thông tin, tạo điều kiện để người dân

giám sát hoạt động của Tòa án. Qua đó ngày càng nâng cao chất lượng các

bản án và quyết định của Tòa án.

Nâng cao hiệu quả công tác hòa giải trong giải quyết các vụ án dân sự

và khiếu kiện hành chính. Trước tình hình hiện nay, số lượng vụ việc dân sự,

hành chính mà TAND tỉnh Đắk Lắk phải thụ lý và giải quyết ngày một gia

tăng [55], [56], [57], [58], [59] và tính chất phức tạp ngày càng cao. Do đó,

nếu làm tốt công tác hòa giải [40] sẽ giảm tải công việc cho các Thẩm phán,

họ sẽ có nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, học hỏi trau dồi kiến thức để

đưa ra các phán quyết chính xác, số lượng vụ việc Thẩm phán phải xét xử hàng

tháng sẽ giảm như vậy sẽ hạn chế được nguy cơ xét xử sai dẫn đến án bị hủy,

sửa. Đối với các đương sự khi giải quyết theo con đường hòa giải đối thoại sẽ

giúp giải quyết vấn đề mạng tính hiệu quả, triệt để, hài hòa được lợi ích của các

bên, tiết kiệm được chi phí tố tụng và chi phí đi lại bởi địa bàn tỉnh Đắk Lắk

rộng lớn, đường xá đi lại còn khó khăn, vất vả; thời gian giải quyết nhanh

chóng; tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài; không gây xung đột. Qua đó, sẽ

giảm bớt đơn thư khiếu nại, tố cao của các đương sự, giảm tải cho Văn phòng

TAND Đắk Lắk tỉnh trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, số lượng đơn thư

khiếu nại tố cáo giảm sẽ giúp giải quyết, trả lời các đơn thư một cách nhanh

chóng, kịp thời, sớm xoa dịu những bức xúc của người dân. Vì vậy, việc tăng

95

cường nâng cao công tác hòa giải tại TAND tỉnh Đắk Lắk được xem như một

giải pháp đột phá khắc phục những hạn chế mà TAND tỉnh Đắk Lắk tồn tại lâu

nay.

Tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm [44] vì đây là con đường tự học,

tiết kiệm và hiểu quả nhất. Chánh án giao chỉ tiêu mỗi Thẩm phán mỗi tháng

phải có ít nhất 01 phiên tòa rút kinh nghiệm, đưa điều kiện này vào tiêu chí thi

đua và đánh giá xếp loại cuối năm. Sau khi kết thúc phiên tòa rút kinh nghiệm

phải tổ chức ngay phiên họp có sự tham gia của Thẩm phán, Kiểm sát viên và

Hội Thẩm nhân dân (nếu có) tránh việc thực hiện mang tính hình thức, đối

phó để lấy chỉ tiêu báo cáo. Việc góp ý, rút kinh nghiệm sau mỗi phiên tòa sẽ

làm cho Thẩm phán nâng cao được kỹ năng điều hành phiên tòa cũng như

kiến thức chuyên môn. Phiên tòa rút kinh nghiệm phải có kinh nghiệm, kinh

nghiệm cho cá nhân, kinh nghiệm cho tập thể, kinh nghiệm thành công và

kinh nghiệm chưa thành công để có các giải pháp hoàn thiện hơn.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan

liên quan trong quá trình giải quyết các loại vụ án. Trong những năm gần

đây TAND tỉnh Đắk Lắk phải thường xuyên giải quyết những vụ án lớn,

phức tạp như vụ MB24, các vụ án đánh bạc trực tuyến quy mô lớn, chặt

phá rừng của những người đồng bào dân tộc thiểu số, số lượng bị cáo

nhiều, tình tiết vụ án phức tạp. Bài học kinh nghiệm của các vụ án lớn được

giải quyết thành công là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố

tụng và các cơ quan liên quan. Do đó, TAND tỉnh Đắk Lắk cần tăng cường

phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc phối hợp phải dựa trên

cơ sở quy định của pháp luật, bảo đảm tính độc lập và kiểm soát lẫn nhau

giữa các giai đoạn tố tụng. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được phối

hợp ngay từ đầu để Tòa án có điều kiện tiếp cận hồ sơ sớm nắm chắc tình

tiết của vụ án để giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.

Cần tăng cường hơn nữa việc tổ chức xét xử lưu động. Bởi đặc điểm

96

địa lý của tỉnh Đắk Lắk khá đặc thù: Địa bàn rộng lớn, mật độ dân số thấp,

kinh tế một số huyện còn nghèo, khó khăn, nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh

sống trên địa bàn như: Êđê; M’nông, Tày, Nùng vv…, trình độ dân trí còn

thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật mang tính trực quan, sinh động thông qua các phiên tòa xét xử lưu

động là cần thiết. Thông qua việc giải quyết, xét xử từng vụ án, các quy phạm

pháp luật đến với cộng đồng dân cư một cách cụ thể và hết sức dễ hiểu, qua

đó nhận thức, hiểu biết về pháp luật của người dân nâng lên cao, tạo sự

chuyển biến cơ bản về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật

trong quần chúng nhân dân, nên đây là một hình thức tuyên truyền có ý nghĩa

97

thiết thực và dễ dàng đi vào đời sống nhân dân.

Kết luận chương 3

Để hoàn thiện về tổ chức và bảo đảm hoạt động của Hệ thống TAND cấp tỉnh

nói chung và TAND tỉnh Đắk Lắk nói riêng cần bám sát các quan điểm của

Đảng và nhà nước về mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp theo hướng tinh gọn

bộ máy hoạt động có hiệu quả, nâng cao năng lực xét xử, từ đó đưa ra các giải

pháp mang tính đột phá, có hiệu lực hiệu quả như: Tăng cường trách nhiệm

người đứng đầu; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giữ chức danh tư pháp

đặc biệt là Thẩm phán thông qua việc đổi mới phương thức đào tạo và giáo

dục chính trị tư tương; có các chế độ, chính sách bảo vệ người Thẩm phán;

ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động Tòa án; nâng cao chất lượng xét

xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính; tổ chức phiên tòa theo tình thần cải

cách tư pháp; đẩy mạnh quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Ngoài các giải

pháp chung nêu trên thì còn có những giải pháp cụ thể dành riêng cho TAND

tỉnh Đắk Lắk vì tỉnh có đặc điểm kinh tế, địa lý, an ninh, chính trị, dân cư đặc

thù. Thông qua các giải pháp riêng đó góp phần hoàn thiện tổ chức và bảo

đảm hoạt động TAND tỉnh Đắk Lắk xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ

98

phải và niềm tin phải.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án

và những mục tiêu yêu cầu tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh trong

điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:

Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền lực Nhà

nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa án là cơ

quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử.

TAND cấp tỉnh là cấp Tòa án có vị trí, vai trò quan trọng hệ thống

TAND. Qua phân tích, đánh giá thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, thực tiện tại TAND tỉnh Đắk Lắk trong các năm. Từ đó,

đưa ra quan điểm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND cấp

tỉnh là: Cần đổi mới và cải cách tư pháp mới đáp ứng được các yêu cầu trong

tình hình mới, việc đổi mới, cải cách cần bám sát các Nghị quyết của Đảng và

pháp luật nhà nước về cải cách tư pháp. Đưa ra các giải pháp chung về hoàn

thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm:

- Về tổ chức: Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu; cần tổ chức lại

các tòa chuyên trách để bảo đảm tính chuyên môn hóa trong công tác xét xử;

mở rộng thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TAND cấp tỉnh; nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ giữ chức danh tư pháp; tăng cường kỷ luật, kỷ

cương; bảo đảm chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ, bảo vệ tính mạng, sức

khỏe và danh dự cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên; đổi mới

công tác đánh giá phân loại công chức; xây dựng kế hoạc thu hút nhân tài,

kiện toàn nhân sự và công tác đào tạo; kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán; nâng cao

năng lực HTND.

- Về hoạt động: Nâng cao chất lượng xét xử thông qua các giải pháp

99

đảm bảo nguyên tắc Tòa án độc lập và có hiệu lực trên thực tế; đổi mới thủ

tục hành chính tư pháp; ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động

của Tòa án; công khai các bản án trên Cổng thông tin điện tử TAND; tổ chức

phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp; tăng cường công tác kiểm tra trong

hệ thống TAND cấp tỉnh; thường xuyên tổ chức các phiên tòa rút kinh

nghiệm; tăng cường các biện pháp áp dụng thống nhất pháp luật; mở rộng

phạm vi xét xử án hành chính.

Bên cạnh các giải pháp chung hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn các các giải pháp riêng dành cho Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Các giải pháp riêng dành cho TAND tỉnh Đắk Lắk

đều dựa trên các giải pháp chung nhưng cụ thể hóa hơn để phù hợp với đặc

thù địa lý, lịch sử, an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, dân cư trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk như:

- Về tổ chức: Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn và

chính trị tư tưởng cho đội ngũ giữ chức danh tư pháp, xây dựng cơ chế thu hút

nhân tài; chú trọng công tác quy hoạch bổ sung nguồn nhân lực bị thiếu hụt

trong tương lai; nâng cao chất lượng xét xử, nâng cao uy tín của Thẩm phán

đối với nhân dân; thay đổi phương thức đánh giá cán bộ, công chức; đổi mới

công tác chỉ đạo điều hành; tăng cường công tác thanh tra kiểm tra nghiệp vụ;

tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ.

- Về hoạt động: Thực hiện nghiêm việc tổ chức phiên tòa theo tinh thần

cải cách tư pháp; tăng cường hơn nữa ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt

động Tòa án đặc biệt cải cách thủ tục hành chính tư pháp; kiểm tra chặt chẽ

việc công khai các bản án trên Cổng thông tin điện tử TAND; nâng cao hiệu

quả công tác hòa giải trong việc giải quyết các vụ án hành chính, dân sự;

thường xuyên tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm có hiệu quả; phối hợp

chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác; tăng cường việc xét xử lưu

100

động nhằm tuyên truyền giáo dục pháp luật cho đồng bào, dân tộc thiểu số.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn, luận văn đưa ra những

giải pháp để hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND cấp tỉnh và

101

thực tiễn tại TAND tỉnh Đắk Lắk./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Nguyễn Đức Bình (2014), Quyền tư pháp và thực hiện

quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí TAND, Hà Nội.

2. Trương Hòa Bình (2014), Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt

động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ

quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện tư pháp”, Tạp

chí TAND, Hà Nội.

3. Trương Hòa Bình (2014), Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền quyền tư

pháp, Tạp chí TAND, Hà Nội.

4. Trương Hòa Bình (2014), Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, giải

pháp đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân, Tạp chí TAND, Hà Nội.

5. Trương Hòa Bình (2013), Một số nội dung đổi mới thủ tục hành chính tư

pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, Tạp chí TAND, Hà Nội.

6. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

7. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp

tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị

khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2007), Nghị quyết số 27-NQ/TW về

đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của

bộ máy nhà nước (tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương

102

khoá X), Hà Nội.

10. GS. TSKH. Lê Văn Cảm (2014), Về quyền tư pháp và các nguyên tắc cải

cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện

nay, Tạp chí TAND, Hà Nội.

11. Lê Duẩn (1973), Mấy vấn đề về cán bộ và về tổ chức trong cách mạng xã

hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

12. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân

sự chính trị.

13. Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,

Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

14. Đại hội đại biểu toàn quốc (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII ngày 28/01/2016, Hà Nội.

15. Nguyễn Quang Lộc (2013), Thực hiện thủ tục Hành chính – Tư pháp của

ngành Tòa án nhân dân – Thực trạng và giải pháp, Tạp chí TAND, Hà Nội.

16. Th. Lê Văn Minh (2014), Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án

nhân dân theo quy định của Hiến pháp và đổi mới tổ chức hoạt động của

Tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí TAND, Hà Nội.

17. Montesquieu (2016), Sách bàn về tinh thần pháp luật, NXB Hà Nội,

Hà Nội.

18. Khoa học tổ chức và quản lý, một số vấn đề lý luận và thực tiễn (1999),

Nxb Thống kê, Hà Nội.

19. Quốc hội (2001), Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, Hà Nội.

20. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Công báo/số 1003 + 1004/ngày

29-12-2013, Hà Nội.

21. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

22. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng Dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.

23. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng Hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.

103

25. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng Hành chính, NXB Tư pháp, Hà Nội.

26. Quốc hội (2019), Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 về công tác

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của viện kiểm sát

nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án, Hà Nội.

27. Hội đồng Tuyển chọn giám sát Thẩm phán quốc gia (2018), Quyết định số

87/QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 của Hội đồng Tuyển chọn giám sát Thẩm

phán quốc gia về việc ban hành bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm

phán, Hà Nội.

28. Th.S Nguyễn Bằng Phi (2014), Luận bàn về Tòa án là cơ quan xét xử,

thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí TAND, Hà Nội.

29. GS Hoàng Phê (2018), Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

30. Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (1999),

Nxb Thống kê, Hà Nội, tr 25.

31. TAND tối cao (2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động, Hà Nội.

32. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về cải

cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp

quyền, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

33. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán

ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

34. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của TAND trong thể chế Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

35. Nguyễn Anh Thư (2014), Nâng cao trình độ nghiệp vụ của Thư ký Tòa

án, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, đáp ứng yêu cầu của chiến

lược cải cách tư pháp, Tạp chí TAND, Hà Nội.

36. TAND tối cao (2014), Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2015 của các Tòa án, Hà Nội.

37. TAND tối cao (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và nhiệm vụ

104

trọng tâm công tác năm 2016 của các Tòa án, Hà Nội.

38. TAND tối cao (2016), Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016

của Chánh án TAND tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của

các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh, Hà Nội.

39. TAND tối cao (2008), Quyết định số 1138/2008/QĐ – TCCB ngày 22/8/2008

của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về phân cấp quản lý cán bộ Toà án

nhân dân địa phương, Hà Nội.

40. TAND tối cao (2016), Chị thị số 04/2017/CT-CA ngày 03/10/2017 của

Chánh án TAND tối cao về việc tăng cường công tác hòa giải tại TAND,

Hà Nội.

41. TAND tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2017 của các Tòa án, Hà Nội.

42. TAND tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2018 của các Tòa án, Hà Nội.

43. TAND tối cao (2017), Quyết định số 663/QĐ-TANDTC ngày 12/4/2017

của Chánh án TAND tối cao quy định về số lượng lãnh đạo, quản lý cấp

phó đối với TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Hà Nội.

44. TAND tối cao (2017), Hướng dẫn số 163/HD-TANDTC ngày 30/3/2017

về hướng dẫn công tác tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải

cách tư pháp, Hà Nội.

45. TAND tối cao (2017), Báo cáo số 28/BC-TA ngày 03/8/2018 về báo cáo

việc thực hiện các nghị quyết của quốc hội về giám sát chuyên đề và chất

vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4 quốc hội khóa XIV, Hà Nội.

46. TAND tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017

của TAND tối cao về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ

105

chức danh tư pháp trong tòa án nhân dân, Hà Nội.

47. TAND tối cao (2018), Quyết định số 17/QĐ-TANDTC-TĐKT ngày

16/5/2018 của TAND tối cao về ban hành bảng chấm điểm thi đua áp

dụng trong tòa án nhân dân, Hà Nội.

48. TAND tối cao (2018), Quyết định số 1865/QĐ-TANDTC ngày 15/10/2018

của TAND tối cao về việc tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND cấp tỉnh

Đắk Lắk, Hà Nội.

49. TAND tối cao (2018), Quyết định số 2228/QĐ-TCCB ngày 27/12/2018

của TAND tối cao về tổng biên chế và số lượng Thẩm phán TAND tỉnh

Đắk Lắk, Hà Nội.

50. TAND tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2019 của các Tòa án, Hà Nội.

51. TAND tối cao (2018), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ cải cách

tư pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Hà Nội.

52. TAND tối cao (2019), Báo cáo sơ kết 03 năm thi hành Luật tổ chức

TAND nhân dân năm 2014 và các văn bản triển khai thi hành, Hà Nội.

53. TAND tối cao (2019), Quyết định số 01/QĐ-TANDTC ngày 02/01/2019

về việc ban hành quy chế đánh giá và phân loại công chức, viên chức,

người lao động Tòa án nhân dân, Hà Nội.

54. TAND cấp cao Đà Nẵng (2017), Báo cáo số 5218/BC-TACCĐN ngày

27/10/2017 về báo cáo việc rút kinh nghiệm về công tác xét xử năm 2017

đối với Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố thuộc cụm Thi đua số III khu

vực duyên hải Miền trung và Tây nguyên, Đà Nẵng.

55. TAND tỉnh Đắk Lắk (2014) Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015 của các Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

56. TAND tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016 của các Tòa án nhân dân hai cấp

106

tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

57. TAND tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

58. TAND tỉnh Đắk Lắk (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018 của các Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

59. TAND tỉnh Đắk Lắk (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của các Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

60. TAND tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 379/QĐ-TA ngày 17/12/2018

của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc phân công Chánh án và các

Phó Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

61. TAND tỉnh Đắk Lắk (2019), Quyết định số 18/QĐ-TA ngày 05/4/2019 về

việc ban hành Quy chế làm việc của TAND tỉnh, Đắk Lắk;

62. http://toaandaklak.gov.vn/gioi-thieu-chung/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-

trien-cua-toa-an-nhan-dan-hai-cap-tinh-dak-lak-104.html.

63. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Nghị quyết số 730/2004/NQ-

UBTVQH11 ngày 30/09/2004 ban hành kèm theo Bảng lương chuyên môn,

107

nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát, Hà Nội.