BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Phan Phương Uyên TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

: Lý luận văn học

Chuyên ngành Mã số

: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, người viết được sự dạy dỗ, hướng

dẫn và giúp đỡ rất tận tình của Quý Thầy Cô Khoa Ngữ Văn,

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, luận

văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS

Huỳnh Như Phương, người đã nhiệt tình chỉ bảo, giới thiệu nhiều

tư liệu quý giá để người viết tham khảo, người đã góp nhiều ý

kiến bổ ích cho người viết trong suốt quá trình làm việc.

Nay người viết trước hết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với tất

cả Quý Thầy Cô, đặc biệt là thầy Huỳnh Như Phương.

Người viết xin trân trọng cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Cán bộ

Phòng KHCN& SĐH, Cán bộ quản lý Thư viện trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi

cho người viết hoàn thành luận văn đúng quy định.

Luận văn này chắn chắn sẽ còn nhiều hạn chế, rất mong nhận

được sự lượng thứ, những ý kiến góp ý chân tình của Quý Thầy

Cô và bạn đọc.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 - 2011

3TLỜI CÁM ƠN3T .............................................................................................................................................. 2

3TMỤC LỤC 3T .................................................................................................................................................... 3

3TMỞ ĐẦU3T...................................................................................................................................................... 5

3T1. Lí do chọn đề tài3T ................................................................................................................................... 5

3T2. Lịch sử vấn đề3T ....................................................................................................................................... 7

3T3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3T ............................................................................................................ 13

3T4. Phương pháp nghiên cứu3T ..................................................................................................................... 14

3T5. Đóng góp của luận văn3T ........................................................................................................................ 15

3T6. Cấu trúc luận văn3T ................................................................................................................................ 15

3TChương 1: TRANG THẾ HY VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC3T .................................................................................................................................................. 17

3T1.1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Trang Thế Hy3T ...................................................................................... 17

3T1.1.1 Tiểu sử3T ....................................................................................................................................... 17

3T1.1.2 Quá trình sáng tác3T....................................................................................................................... 19

3T1.1.2.1 Các giai đoạn sáng tác3T ......................................................................................................... 20

3T1.1.2.2 Tác phẩm chính3T ................................................................................................................... 22

3T1.1.2.3 Một số giải thưởng đã đạt được3T............................................................................................ 23

3T1.1.3 Quan niệm nghệ thuật3T ................................................................................................................. 23

3T1.2 Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học3T ............................................................ 27

3TChương 2: VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY3T ........................................ 36

3T2.1. Văn hóa ứng xử3T ............................................................................................................................... 36

3T2.1.1 Với môi trường tự nhiên3T ............................................................................................................. 37

3T2.1.2 Với môi trường xã hội3T ................................................................................................................ 43

3T2.2. Tiếp biến văn hóa3T ............................................................................................................................. 53

3T2.2.1 Yếu tố ổn định và kế thừa3T ........................................................................................................... 56

3T2.2.2 Yếu tố tiếp nhận và biến đổi3T ....................................................................................................... 61

3TChương 3: CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY3T .................................... 70

3T3.1 Một số đặc điểm của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy3T ........................................ 70

3T3.1.1 Con người xả thân vì nghĩa, tranh đấu vì dân tộc3T ........................................................................ 71

3T3.1.2 Con người nhân ái, giàu tự trọng, yêu cái đẹp3T ............................................................................. 75

3T3.2 Những đặc điểm nghệ thuật góp phần biểu hiện văn hóa và con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy3T ......................................................................................................................................... 87

3T3.2.1 Nghệ thuật trần thuật với việc thể hiện văn hóa và con người Nam Bộ 3T ....................................... 88

3T3.2.1.1 Cốt truyện đơn tuyến3T ........................................................................................................... 88

3T3.2.1.2 Điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất 3T .................................................................................. 90

3T3.2.1.3. Giọng điệu trầm tĩnh, triết lí3T ................................................................................................ 92

3T3.2.1.4. Lối viết ẩn dụ3T ..................................................................................................................... 97

3T3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật với việc thể hiện văn hoá và con người Nam Bộ 3T ....................... 102

3T3.2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách3T ........................................................................................... 102

MỤC LỤC

3T3.2.2.2 Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí, thể hiện nội tâm3T...................................................................... 106

3T3.2.3 Nghệ thuật sử dụng phương ngữ với việc thể hiện con người Nam Bộ 3T ...................................... 107

3TKẾT LUẬN3T .............................................................................................................................................. 113

3TTÀI LIỆU THAM KHẢO3T......................................................................................................................... 116

3TPHỤ LỤC3T ................................................................................................................................................. 123

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Có những nhà văn mà khi nhắc tới tên họ, người đọc sẽ nghĩ ngay đến những vùng

đất, những con người của một miền Tổ quốc. Trang Thế Hy là một nhà văn như thế, nhà văn

của Nam Bộ. Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Trang Thế Hy thuộc số những nhà

văn viết không nhiều. Nhưng tác phẩm của ông đã vượt qua được những thử thách của thời

gian, sự sàng lọc của công chúng và để lại ấn tượng bằng một vẻ đẹp riêng. Đó là vẻ đẹp của

một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, một ngòi bút viết rất tỉ mĩ và chắt lọc, thận trọng

chứ không cao giọng. Đọc tác phẩm của ông, ta có thể cảm nhận được một sự gắn bó tha

thiết, cao hơn là một sự trân trọng, niềm kính yêu của ông đối với vùng đất và con người

Nam Bộ đẹp đẽ, ân tình. Chính vốn sống sâu sắc, sự chân thành, cái nhìn nhân hậu của Trang

Thế Hy đối với con người, làng quê Nam Bộ đã tinh kết thành tác phẩm và tạo nên cái duyên

cho truyện ngắn Trang Thế Hy.

Vùng đất Nam Bộ đã cung cấp cho văn học Việt Nam hiện đại nguồn đề tài hấp dẫn.

Các nhà văn Nam Bộ thuộc nhiều thế hệ đều chú ý khai thác chất liệu sáng tác từ đất phương

Nam, từ Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang

Sáng, Anh Đức đến Nguyễn Ngọc Tư….Không chỉ các nhà văn sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ,

các nhà văn từ những vùng miền khác cũng đều để lại những trang văn đặc sắc về đất và

người Nam Bộ như Trần Hiếu Minh (Nguyễn Văn Bổng), Nguyễn Thi,… Tác phẩm của họ

chính là “kho tư liệu sống” về con người, văn hóa, địa lý, lịch sử của vùng đất phương Nam.

Viết về mảnh đất và con người Nam Bộ, Trang Thế Hy đã chọn cho mình một lối rẽ riêng,

tạo nên một dấu ấn riêng, sức hấp dẫn riêng như lời nhận xét của Phạm Quang Trung trong

bài viết có tựa đề Bài học sáng tạo từ văn nghiệp của Trang Thế Hy :“ (...) so với nhiều

nhà văn Nam Bộ, ông tách riêng ra một cõi, vừa nghiêm cẩn vừa sâu lắng, vừa Nam Bộ vừa

Việt Nam, thậm chí có những nét gặp gỡ nhân loại bao la ở tầng thẳm sâu nhất” [41, tr.15].

Lúc Trang Thế Hy bắt đầu nặng nợ với văn chương cũng là lúc mảnh đất Nam Bộ

thân yêu đang rỉ máu dưới gót giày đinh của thế lực xâm lược và bán nước, cho nên cũng

như bao con người Việt Nam chân chính khác, văn chương Trang Thế Hy biểu lộ thái độ

bênh vực cho quyền sống của con người, chống lại sự bách hại, chà đạp con người. Dù là

viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay những bài thơ tự do, những bài thơ dịch, Trang Thế Hy vẫn

bằng một cách riêng, rất thâm trầm và có phần lặng lẽ, luôn trăn trở, gìn giữ, đi tìm và góp

nhặt những vẻ đẹp bị khuất lấp của cõi người dẫu có trải qua bao thăng trầm, bất hạnh, khổ

đau. Dường như trong cuộc hành trình tìm kiếm và khám phá những cái đẹp ẩn giấu, ông

luôn giữ được sự điềm tĩnh, không bị đánh lừa bởi vẻ hào nhoáng bên ngoài, không bị

choáng ngợp bởi những vẻ đẹp rực rỡ mà ai cũng có thể nhìn thấy. Trang Thế Hy đã phát

biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự

vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức. Và cái đọng lại trên mỗi trang

viết của Trang Thế Hy là một niềm tin chắc chắn và mãnh liệt vào việc “Cái đẹp sẽ cứu rỗi

thế giới”, cái thiện sẽ phục sinh con người. Ông viết văn như là cách để níu giữ cái phần thủy

chung với tình người, thủy chung với niềm tin đạo lý thuộc về phía những người cùng khổ.

Sống và viết cho niềm tin ấy, ông đã dồn tất cả vốn sống, vốn văn hoá đặt vào những trang

văn mang đậm màu sắc Nam Bộ.

Thế nhưng giá trị văn chương Trang Thế Hy trong một thời gian dài vì những lí do,

những điều kiện nhất định của lịch sử, địa lí… chưa được nhìn nhận đúng với giá trị của nó.

Và những giá trị như thế rất cần được bổ khuyết trong bức tranh văn học nước nhà với những

hướng nghiên cứu khác nhau.

Bên cạnh đó, văn hóa đang là vấn đề được toàn nhân loại quan tâm. Văn hóa được

hiểu là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống, và sự tương tác

giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Ở chỗ nào, ở đâu, người ta cũng bàn đến

văn hóa. Hơn lúc nào hết, các quốc gia đang lo giữ cho mình cái bản sắc văn hóa dân tộc, nó

thấm sâu vào cội rễ dân tộc, nó là tinh hoa sâu lắng, ẩn hiện trong nếp sống đời thường và cả

nơi tâm linh sâu thẳm của con người. Tất cả những giá trị ấy chúng ta có thể tìm thấy trong

nhiều mảng khác nhau của đời sống dân tộc, trong đó văn chương giữ vai trò quan trọng.

Nghiên cứu “Truyện ngắn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa” là cách mà chúng tôi

chọn để tiếp cận một trong những giá trị văn chương được nhận ra khá muộn mằn như một

sự cố gắng ghi nhận, trân trọng với những tác giả có cuộc đời lao động nghệ thuật nghiêm

túc, có nhiều cống hiến đáng trân trọng. Đồng thời đây là dịp để chúng tôi tìm hiểu, áp dụng

phương pháp văn hoá học trong nghiên cứu văn học. Qua việc làm này, chúng tôi hi vọng có

thể góp một phần nhỏ bé vào việc xác lập các mối liên hệ giữa hiện tượng văn học Trang Thế

Hy các yếu tố văn hoá cụ thể của vùng đất Nam Bộ.

2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu về truyện ngắn và những vấn đề liên quan đến truyện ngắn Trang Thế Hy,

chúng tôi nhận thấy đã có những bài viết trên các sách nghiên cứu văn học và các trang web.

Những ý kiến đánh giá từ những khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung thống nhất trong

việc khẳng định những đóng góp của Trang Thế Hy ở thể loại truyện ngắn. Chúng tôi xin

điểm qua những công trình, bài viết tiêu biểu nghiên cứu về tác giả Trang Thế Hy như sau:

Năm 1988, các tác giả công trình Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã ghi

nhận những đóng góp của Trang Thế Hy cho phong trào đấu tranh ở nội đô Sài Gòn giai

đoạn kháng chiến chống Mỹ với thể loại truyện ngắn lẫn thể loại thơ. Tuy nhiên, đây mới chỉ

là những nét phác thảo sơ lược, chủ yếu dừng lại ở việc giới thiệu và ghi công nhà văn trong

phong trào đấu tranh chung [27, tr.256].

Năm 1991, trong cuốn Địa chí Bến Tre của Nhà xuấtt bản Khoa học Xã hội, Trang

Thế Hy xuất hiện với tư cách một nhà văn của địa phương, được giới thiệu về quá trình sáng

tác, quá trình hoạt động cách mạng và tác phẩm tiêu biểu [29, tr.189].

Trong những năm gần đây, hiện tượng Trang Thế Hy nhận được sự quan tâm của giới

nghiên cứu phê bình ngày càng nhiều hơn, sâu sắc hơn. Có lẽ, khi người ta bình tĩnh hơn,

thận trọng hơn... thì cũng là lúc người ta dễ nhận ra những giá trị đích thực mà trong khi vội

vã chưa kịp nhận ra.

Trên báo Văn nghệ số ra ngày 01- 6 - 2002 có trích giới thiệu những ý kiến của các

thành viên tham dự tọa đàm về tập truyện ngắn Nợ nước mắt của Trang Thế Hy. Cuộc tọa

đàm có một số tham luận dài ngắn khác nhau về tập truyện .

Trong bài viết Phong cách Trang Thế Hy, nhà văn Lê Minh Khuê đã có nhận định

khá tinh tế về dấu ấn riêng của truyện ngắn Trang Thế Hy: “Ông là tác giả Nam Bộ,

văn chương Nam Bộ dường như một mình ông một phong cách. Ông không bình dân, không

nhiều sôi nổi. Ông hiện lên trong các trang viết với sự tinh tường, thấu hiểu và điềm tĩnh

trước cuộc sống, trước cảnh sắc. (...) Ông viết về tâm sự của những con người bé nhỏ mà

trong sạch. (...) Họ cũng là con người không giản đơn. Nhân vật trí thức - nghệ sĩ chiếm

phần lớn trong tác phẩm của ông. Nhiều nhân vật sống qua các thứ “mốc” giữa hôm nay và

hôm qua. Bao giờ tác giả cũng lựa cho họ cách sống thanh thản nhất.

(...) Truyện ngắn của ông không có sự thay đổi hình thức. Các truyện kể với phương

pháp như nhau - dường như ông luôn có cách bắt đầu câu chuyện bằng giọng nhẩn nha,

nhưng luôn báo hiệu ngay từ những dòng đầu rằng đây là câu chuyện thú vị. (...) Truyện của

ông không có tình huống phức tạp. Tình huống ẩn chứa trong cảm xúc và chữ nghĩa. Nhiều

câu chuyện khiến ta hồi hộp. Đó là cách viết khó. Cách viết của một người trọng nghề, trọng

chữ...” [72, tr.143-144].

Tương tự, Trịnh Đình Khôi cũng nhấn mạnh nét độc đáo trong phong cách Trang Thế

qua bài viết Truyện ngắn của Trang Thế Hy toát lên vẻ đẹp văn hóa. Tác giả cho rằng:

“Văn Trang Thế Hy điềm đạm (...). Trang Thế Hy không cố ý triết lý. Tính triết lý toát

lên từ nhân vật, từ ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật”.

“Trang Thế Hy là một nhà văn hóa viết văn. Trong ông có văn hóa Á Đông kết hợp

với những ý tưởng phương Tây hiện đại” [72, tr.149]

Trong Ít có tập truyện ngắn nào được viết kỹ lưỡng như thế này, Nguyễn Khắc

Trường đã nhận xét về đề tài chiến tranh, con người và cảnh sắc Nam Bộ trong truyện ngắn

Trang Thế Hy như sau:

“Văn của Trang Thế Hy không đọc nhanh được, không đọc vội được. Ông viết bình

tĩnh, ngẫm ngợi, và ta cũng phải bình tĩnh đọc. Mỗi truyện của ông là một gửi gắm, một nỗi

niềm. Ông nặng lòng với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nặng lòng với những người

những cảnh vùng sông nước quê hương Bến Tre và những nơi ông đã qua của đồng bằng

Nam Bộ. (...) Ông viết, những hồi ức chiến tranh và thực tại bây giờ đan dệt vào nhau...”

[72, tr.146].

Trần Huy Quang cũng thống nhất với nhận định của nhà văn Nguyễn Khắc Trường

qua bài viết Tôi học được nhiều ở Trang Thế Hy về nghề văn với nhận xét khá ngắn gọn:

“Văn Trang Thế Hy kỹ càng, đẹp, đầy tính triết lý, nên đọc chậm thì mới hiểu hết, mới

hưởng hết được cái hay” [72, tr.149]. Trần Đình Sử thể hiện ấn tượng sâu sắc của

mình đối với truyện ngắn Trang Thế Hy qua bài viết Nên đọc kỹ để thấy công phu của tác

giả như sau:

“Truyện của Trang Thế Hy đề cao tình nghĩa, khẳng định tình nghĩa là giá trị lâu bền

nhất, nhắc người đời đừng quên tình nghĩa. (...) Truyện của Trang Thế Hy triết lý nhiều, cả

nhân vật bình thường cũng triết lý, đó là nét độc đáo. Đó là triết lý của nhân dân” [72,

tr.150].

Trong Bốn điều rút ra từ tập truyện ngắn, Hồng Diệu cho rằng truyện ngắn Trang

Thế Hy thường viết về hai mảng đề tài chính, đó là đời sống cách mạng và trách nhiệm của

nhà văn. Bên cạnh đó, tác giả còn bàn về phong cách nghệ thuật Trang Thế Hy:

“Văn của Trang Thế Hy phần nhiều là văn kể chuyện - hoặc do tác giả kể, hoặc do

nhân vật kể - Đó là những cách kể chuyện có duyên, nhiều khi hóm hỉnh, với những triết lý

giản dị, có sức thuyết phục (...)

Truyện Trang Thế Hy giàu lòng nhân ái. Văn ông hiểu rõ bản sắc của một vùng đất,

từ ngôn ngữ địa phương đến cảnh sắc thiên nhiên, cây cỏ, và con người ở đấy (...)” [72,

tr.151].

Nhà văn Trung Trung Đỉnh trong Mỗi truyện ngắn là một đoạn đời nặng nhọc của

nhà văn đã đề cập đến nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôi thứ nhất của Trang Thế

Hy. Ông viết:

“Nhân vật của ông đều là chỗ bạn bè tình nghĩa. Họ là bạn đời của ông trước khi ông

nhập vào trang viết, cho nên tôi thấy ông dùng ngôi thứ nhất rất đắc địa” [72, tr.153].

Trung Trung Đỉnh cũng khẳng định ý thức trách nhiệm của Trang Thế Hy đối với

nghề viết. Trung Trung Đỉnh nhận thấy Trang Thế Hy là nhà văn luôn “đau đáu với nghề,

căm ghét thứ văn chương nghệ thuật bịa tạc khoa trương ồn ã. Các nhân vật là nghệ sĩ của

ông đều bộc lộ quan điểm sáng tác của ông rất rõ...” [72, tr.153].

Bùi Việt Thắng trong bài viết Trang Thế Hy kể chuyện có duyên cho rằng chính hiệu

quả của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất đã mang lại cái duyên riêng cho truyện ngắn Trang

Thế Hy. Theo Bùi Việt Thắng thì:

“Đây là cách kể chuyện có hiệu quả mà nhà văn thường vận dụng vì đứng kể ở ngôi vị

ấy, người kể chuyện sẽ tự do hơn, dễ chân thành hơn. Tuy nhiên trong những truyện còn lại,

dù kể ở ngôi thứ ba và có khi “giả tên” “đóng vai khác” thì cái tôi vẫn cư ngụ trong đó”

[72, tr.155].

Những ý kiến được đưa ra trong buổi tọa đàm là những gợi ý quí báu đối với chúng tôi

khi thực hiện đề tài này.

Ngoài các bài viết kể trên còn có một số bài viết khác được tập hợp và in chung trong

cuốn sách có tựa đề Đi chỗ khác chơi. Đây là cuốn sách lưu hành nội bộ mừng nhà văn

Trang Thế Hy 80 tuổi do nhà thơ Cao Xuân Sơn tuyển chọn. Trong đó có một số bài viết

khác đáng chú ý như:

Trong bài viết Trang Thế Hy, nhà văn chắt chiu từng chữ từng câu, Nguyễn Quang

Sáng cũng đưa ra nhận xét về nhân vật xưng “tôi” trong truyện của Trang Thế Hy, ông viết:

“Cái “tôi” trong truyện của anh chính là anh, anh không né tránh, anh là nhà văn, là

nhà văn đối thoại với nhân vật của mình”. Ông cho rằng việc sử dụng cái “tôi” ấy cho phép

nhà văn toàn quyền với nhân vật của mình. Ngoài ra, Nguyễn Quang Sáng nhấn mạnh ngòi

bút của Trang Thế Hy thường nghiêng về những con người không may mắn và nhận thấy

tính dự báo trong văn của Trang Thế Hy. Ông cũng cho rằng đọc văn Trang Thế Hy để thấy

được cái hay, cái đặc sắc của mỗi câu, mỗi chữ cần phải đọc chậm rãi, kĩ lưỡng và nghiêm

túc [72, tr.12].

Tác giả Phạm Quang Trung trong bài viết có tựa đề Bài học sáng tạo từ văn nghiệp

của Trang Thế Hy đã rút ra bốn bài học cụ thể dành cho những người chọn nghiệp viết

thông qua một số truyện ngắn tiêu biểu của Trang Thế Hy. Đó là chữ “tinh” trong nghề viết;

là phải thấu hiểu đến tận gốc gác, ngọn nguồn bề sâu của bao tấn bi kịch mà con người trong

đời từng trải qua; là sự khám phá về mặt tư tưởng bộc lộ qua cách nhìn, cách nghĩ của nhà

văn; là việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính chân thực của nghệ thuật và tính hiện thực của

đời sống trong giai đoạn chiến tranh vừa kết thúc. Rút ra được bốn bài học đó là nhà nghiên

cứu đã thấu hiểu tâm tư cũng như những tiêu chí “làm nghề” nghiêm túc của nhà văn [72,

tr.15].

Hoàng Đình Quang trong bài Trang Thế Hy - thầy tôi đã nhận xét về ấn tượng mà

câu văn của Trang Thế Hy mang lại cho độc giả:

“Đọc truyện ngắn của Trang Thế Hy thấy câu văn dài mướt như cả truyện chỉ có một

câu văn mà thôi. Cái lạ của câu văn ông là dài mà không khó hiểu, những mệnh đề rất rạch

ròi, đọc hết câu, ngẩn ra, đọc lại thấy hay hơn” [72, tr.91].

Hoài Anh với bài viết Người suốt đời lo trả nợ nước mắt, Hoài Anh nhận thấy Trang

Thế Hy thường tìm đến những cảnh đời của những con người kém may mắn nhưng luôn giữ

được lòng tự trọng qua việc khảo sát số truyện ngắn tiêu biểu của Trang Thế Hy. Theo Hoài

Anh, truyện của Trang Thế Hy thường kết hợp nhiều bình diện trong cùng một truyện nên

tạo được sự đa nghĩa, đa thanh, giàu sắc thái. Hoài Anh cũng nhấn mạnh vấn đề khá nổi cộm

trong truyện của Trang Thế Hy, đó là vấn đề phẩm chất của người nghệ sĩ trong đời sống

[72, tr.95].

Trong bài viết Trang Thế Hy qua tròng kính viễn của tôi, La Quốc Tiến đã khẳng

định tư tưởng hướng thiện trong sáng tác của Trang Thế Hy:

“Cái ác được Trang Thế Hy hình tượng hóa như là những “lỗ đen” của tâm hồn,

chứng “thiểu năng” của nhân cách, do vậy nên khoan thứ hơn là chấp nệ hoặc đòi hỏi trả

giá. Trong truyện ngắn của ông, cái thiện không hề được vinh danh ở bất kỳ mô-típ nào, ông

cũng không dám vạch nẻo thiên lương, thế nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tiếng gọi

trầm thống của sự quay về với ĐẠO, vượt lên trên những điều răn thông tục mà phù phiếm”

[72, tr.139].

Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài viết Người hiền của văn chương Nam Bộ đã khái

quát khá đầy đủ những điểm độc đáo về nội dung lẫn nghệ thuật của truyện ngắn Trang Thế

Hy. Bài viết còn thể hiện một cái nhìn tri âm đối với các truyện ngắn của Trang Thế Hy. Ông

đã chỉ ra sự gần gũi lẫn nét riêng biệt của Trang Thế Hy và Nguyễn Tuân trên hành trình đi

tìm cái đẹp :

(...) Có lẽ đọc thật kỹ Trang Thế Hy, sẽ thấy anh gần Nguyễn Tuân chính ở chỗ này.

Anh cũng là người chơi trò chơi thanh nhã ấy, (nghĩa là tiếp tục cái truyền thống của các

bậc tao nhân mặc khách xưa, cho nên, nhìn kỹ mà xem, ở Trang Thế Hy vừa có cái gì đó rất

hiện thực, hiện đại, vừa có cái gì đó rất xưa, thậm chí có phần cổ kính nữa)...

(...) Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẫn khuất, bị bỏ

quên, hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất nghèo khốn...

(...) Và bây giờ, thử trở lại với so sánh ban đầu: Trang Thế Hy và Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, (...), Trang Thế Hy, cũng tinh vi không kém, nhưng

anh đi tìm cái đẹp trong sự giản dị của cuộc đời thường, (...), ở những con người “thường”,

(...), và ở tận đáy nữa của cuộc đời ấy... Ở hai hướng khác nhau, nhưng đều vì cái đẹp, và

như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú ra rất nhiều.

(…) Ta đã biết Nguyễn Tuân độc đáo trong ngôn ngữ Việt của ông như thế nào. Ông

“chơi” rất tinh, đến cầu kỳ nhiều khi, trên từng con chữ. Trang Thế Hy kỹ chẳng kém, tài

hoa chẳng kém, cũng chơi trên từng con chữ, nhưng ông rất Nam Bộ, rất “miền Tây” [ 41,

tr.1]

Trong bài viết Đọc Trang Thế Hy, bài viết có tính chất tổng hợp về các nét chính

trong quá trình sáng tác của Trang Thế Hy, Trần Hữu Tá đã đưa ra nhận định:

“(...) Tiếp nối Hồ Biểu Chánh, Phi Vân..., Trang Thế Hy đã dựng lên những cảnh trí

Nam Bộ với đặc trưng khó lẫn. (...) Khác với Hồ Biểu Chánh, Phi Vân..., cảnh trí và con

người Nam Bộ trong tác phẩm Trang Thế Hy đang bị quay cuồng trong dông bão, ngày ngày

rỉ máu do thế lực ngoại xâm...

(...) Cách viết kín đáo xa xôi, mượn xưa nói nay, mượn ngoài nói trong, thậm chí

mượn chuyện hoang đường hư huyễn để gửi gắm những ý tưởng cháy bỏng của mình, giai

đoạn sáng tác này của Trang Thế Hy (...) đã sử dụng rất nhuyễn, và đã tác động sâu sắc đến

tư tưởng người đọc thành thị miền Nam.”

(…) Rõ ràng, kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt các giai đoạn

sáng tác của Trang Thế Hy. Tư tưởng đó đã được tác giả chuyển tải bằng giọng điệu bình dị,

từ tốn, đôi khi pha chút hài hước kín đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn

riêng. Sức hấp dẫn ấy không mãnh liệt nhưng thấm sâu, bền chắc” [72, tr.161].

Ngoài ra, ông còn đề cập đến một phương diện khá đậm trong sáng tác của Trang Thế

Hy. Đó là việc “ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của

lĩnh vực nghệ thuật cao quý như nhân cách người cầm bút, khát vọng chân chính của người

nghệ sĩ…” qua truyện ngắn Tiếng hát và tiếng khóc, truyện ngắn được xem là tuyên ngôn

nghệ thuật của Trang Thế Hy.

Có thể nói đây là một bài viết có nhiều gợi ý quan trọng giúp cho chúng tôi tìm ra

hướng đi cơ bản trong việc nghiên cứu đề tài này.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về tác giả

Trang Thế Hy có tính chất chuyên sâu của các sinh viên, học viên chuyên ngành Ngữ văn ở

các trường Cao đẳng, đại học; đáng lưu ý có luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thanh

Hoa, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 nghiên cứu về “Đặc điểm

truyện ngắn Trang Thế Hy”. Trong luận văn này, tác giả đã chỉ ra những đặc điểm nội dung

và đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Trang Thế Hy lần lượt xét từ bình diện quan niệm

nghệ thuật của nhà văn, đến bình diện nội dung tự sự, và xét cả trên bình diện phương thức

tự sự. Đây là những gợi ý hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận

văn này.

Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có những bài phỏng vấn nhà văn và một số bài viết

bày tỏ sự yêu mến, ngưỡng mộ dành cho ông như Trò chuyện với nhà văn Trang Thế Hy

(Phan Tấn Hà, báo Tuổi trẻ Chủ nhật, ngày 29/4/2001), Một buổi sáng Trang Thế Hy (Sa

Nam, báo Sài Gòn giải phóng online, ngày 12/5/2007), Trang Thế Hy: Tôi chung thuỷ

nhưng hờ hững... (Thuý Nga, báo Tuổi Trẻ online, ngày 11/3/2007), ... và một số bài viết

khác trên các trang web điện tử.

Tóm lại, qua việc tìm hiểu các công trình, các bài viết nghiên cứu về truyện ngắn

Trang Thế Hy, chúng tôi nhận thấy mặc dù mỗi bài viết có cách diễn đạt riêng, đi vào nhiều

khía cạnh khác nhau nhưng đều thống nhất ở những điểm như sau:

- Khẳng định Trang Thế Hy là nhà văn có tài năng, có những tìm tòi sáng tạo để tạo

nên dấu ấn riêng cho truyện ngắn của mình. Bao giờ ông cũng có cố gắng thay đổi ngòi bút

cho kịp bước đi của thời đại.

- Chỉ ra những nét nổi bật của ông về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn. Về nội

dung, Trang Thế Hy đã đạt được những thành tựu xuất sắc ở mảng đề tài viết về những vẻ

đẹp bị bỏ quên trong góc hẻo của cuộc đời, về văn hoá, phong tục, cảnh trí, con người…của

vùng đất Nam Bộ. Về nghệ thuật, truyện ngắn của ông có cái độc đáo của lối kể nhẩn nha,

giọng điệu điềm tĩnh, không có những tình huống phức tạp mà dạt dào cảm xúc…

Nhìn chung, các bài nghiên cứu về truyện ngắn Trang Thế Hy trên đây là những tìm

tòi, những khám phá đáng trân trọng. Cho đến thời điểm này chúng tôi vẫn chưa tìm thấy

một chuyên luận về truyện ngắn Trang Thế Hy, những tài liệu tìm được chỉ dừng lại ở bài

nghiên cứu nhỏ. Trong số những vấn đề đã được tiếp cận về sáng tác của Trang Thế Hy thì

vấn đề “Truyện ngắn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa” chưa được đề cập đến một cách

toàn diện và hệ thống. Vì thế đó là phần đất trống mà chúng tôi hy vọng có thể khai phá. Với

luận văn này, chúng tôi hy vọng phần nào góp thêm tiếng nói tìm hiểu một cách có hệ thống

về truyện ngắn của ông, chỉ ra nét đặc sắc của những truyện ngắn ấy dưới góc nhìn văn hoá.

Luận văn chúng tôi sẽ thừa hưởng những ý kiến quý báu mà công trình nghiên cứu trước đó

đã gợi ra. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng tôi có được nền tảng ban đầu đi sâu hơn tìm

hiểu, khám phá thêm những đặc sắc của truyện của truyện ngắn Trang Thế Hy.

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu

Đề tài này nhằm hướng đến:

- Tìm hiểu các truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Trang Thế Hy dưới góc nhìn văn hóa để

soi chiếu và chỉ ra mối tương giao giữa văn hóa và văn học.

- Đặt truyện ngắn Trang Thế Hy trong quan hệ với văn hóa, trong cái nhìn văn hóa

nhằm bước đầu lí giải quá trình hình thành và sáng tạo những giá trị, những đóng góp của

nhà văn trong tiến trình vận động của văn học yêu nước thành thị miền Nam 1954-1965.

Hai vấn đề trên có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ và giao thoa với nhau trong quá

trình khảo sát, lí giải, phân tích các vấn đề trong nội dung luận văn.

Vấn đề sáng tác của Trang Thế Hy cũng như văn hóa Việt Nam là những vấn đề khá

phức tạp. Cái “phức tạp” ở văn chương Trang Thế Hy có lẽ là ở cái lối viết văn “kén” người

đọc và đây cũng là nhà văn nằm trong số những giá trị được nhận ra muộn mằn, chỉ được

nhắc đến qua một số bài viết riêng lẻ, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ

thống, toàn diện. Cái “phức tạp” của văn hoá Việt Nam là ở chỗ đây là vấn đề có nhiều

luồng ý kiến không nhất quán, nhiều khuynh hướng nghiên cứu khác nhau. Do đó, chúng tôi

không có tham vọng chạm đến tận cùng của vấn đề. Chúng tôi chỉ hy vọng những vấn đề

được trình bày trong luận văn có thể góp một phần nhỏ bé mang đến một cách hiểu, một

cách nhìn nhận, thử nghiệm một hướng tiếp cận mới đối với sáng tác của Trang Thế Hy ở thể

tài truyện ngắn .

Đối tượng khảo sát của luận văn chủ yếu là các truyện ngắn của nhà văn Trang Thế

Hy (thuộc cả hai giai đoạn sáng tác). Vì nhiều lí do, một số truyện khác của nhà văn đã thất

lạc nên chúng tôi chỉ có thể tìm hiểu 33 truyện ngắn được in trong tuyển tập Truyện ngắn

Trang Thế Hy (Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2006) và phần tuyển chọn của nhà nghiên

cứu Trần Hữu Tá trong chuyên luận Nhìn lại một chặng đường Văn học (Nhà xuất bản

TP.Hồ Chí Minh, 2000). Tuy thế, trong cuộc gặp gỡ với nhà văn vào tháng 2/2010 vừa qua,

nhà văn Trang Thế Hy đã khẳng định rằng những truyện ngắn in trong tuyển tập Truyện

ngắn Trang Thế Hy có thể được xem là phần tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của ông.

Vì thế, chúng tôi chủ yếu căn cứ vào 33 truyện ngắn này để lí giải các vấn đề đặt ra trong

luận văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi chọn phương pháp nghiên cứu văn học

theo văn hóa học là phương pháp chủ yếu. Đồng thời, chúng tôi sử dụng các phương pháp

khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - lịch sử, phương pháp

thống kê để tiếp cận và bước đầu giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra. Bên cạnh đó, chúng

tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành vì đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn học nhưng

có liên quan đến một số lĩnh vực khác như văn hóa, lịch sử, xã hội học, nên trong quá trình

thực hiện đề tài chúng tôi cũng sử dụng những thành tựu về phương pháp nghiên cứu của các

ngành khoa học đó.

5. Đóng góp của luận văn

Trong thời gian gần đây, vấn đề sáng tác của Trang Thế Hy bắt đầu xuất hiện với tần

số ngày càng cao trong các bài viết của nghiên cứu, phê bình văn học, trên các trang web báo

điện tử, đặc biệt là những chuyên trang văn học nghệ thuật và các trang web cá nhân hoạt

động trong lĩnh vực này. Ngoài ra còn có một số khoá luận, luận văn của sinh viên, học viên

Cao học chuyên ngành Ngữ Văn đi vào tìm hiểu, khám phá những đặc điểm nội dung và

nghệ thuật trong sáng tác của Trang Thế Hy. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng bước đầu đề

cập đến một vấn đề khá mới mẻ và lí thú trong các sáng tác của ông qua cái nhìn văn hoá.

Qua đó góp phần làm phong phú hơn cách nhìn nhận, đánh giá về giá trị văn học của Nam

Bộ nói riêng và cả nền văn học dân tộc nói chung bằng việc:

- Phát hiện và lí giải những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn

Trang Thế Hy.

- Khám phá một số đặc điểm của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.

- Chỉ ra một số nghệ thuật biểu hiện con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế

Hy .

Chúng tôi cũng hi vọng luận văn này được hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo

có ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tác giả Trang Thế Hy nói riêng và mảng văn học

thành thị Miền Nam giai đoạn 1954 - 1965 nói chung.

6. Cấu trúc luận văn

Tương ứng với nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu

tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương như sau:

Chương 1: Trang Thế Hy và phương pháp tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu văn

học.

Chương 2: Văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.

Chương 3: Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.

Chương 1: TRANG THẾ HY VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC

1.1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Trang Thế Hy

1.1.1 Tiểu sử

Nhà văn Trang Thế Hy tên thật là Võ Trọng Cảnh (còn có một số bút danh khác như:

Văn Phụng Mỹ, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm, Triều Phong, Phạm Võ…), sinh ngày 9 tháng 10

năm 1924 tại xã An Hội ( nay là xã Hữu Định), huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, miền đất

của phong trào Đồng Khởi, một vùng địa linh nhân kiệt với Nữ tướng rừng Dừa - Nguyễn

Thị Định và nhiều danh nhân văn hoá: Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản, Ca Văn

Thỉnh, Lê Anh Xuân… Thời thơ ấu, Trang Thế Hy học trường tiểu học ở huyện nhà, sau lên

học trường Trung học Mỹ Tho… Trong những năm 1942-1943, cuộc sống đã khiến anh

thanh niên Võ Trọng Cảnh rời quê lên Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như

làm kiểm vé xe điện, làm thủ kho…Trang Thế Hy bước vào tuổi trưởng thành ngay thời

điểm chín muồi của cách mạng Việt Nam. Yêu nước và sớm giác ngộ cách mạng, sau khi

tham gia giành chính quyền tại Bến Tre, Trang Thế Hy thoát ly gia đình vào chiến khu. Sau

hiệp định Genève năm 1954, ông được phân công ở lại hoạt động hợp pháp ở nội thành Sài

Gòn trên lĩnh vực văn nghệ. Thời gian này, trong khi nhiều người chọn nguyện vọng tập kết

ra Bắc, Võ Trọng Cảnh xin được ở lại bám quê, mai phục đấu tranh chờ ngày thống nhất đất

nước. Cho đến năm 1956, tình hình bắt đầu cam go, cán bộ cách mạng bị địch săn đuổi rất

gắt gao. Lúc bấy giờ, tỉnh có chủ trương đưa những cán bộ bị truy đuổi ráo riết lánh đi, rồi

hoạt động công khai, tạo thế hợp pháp mới. Ông được lệnh đi “điều lắng” và được chọn Sài

Gòn là địa bàn hoạt động mới. Thời gian đầu, ông phải tự xoay sở kiếm sống. Đầu tiên là dạy

kèm trẻ tại tư gia, tiếp đó là sửa bản in ở các nhà xuất bản nhỏ. Nhờ những năm tháng dạy

học mà con người hiếu học, đầy ý chí phấn đấu ấy tiếp tục tự học (vì ông chưa học hết bậc

trung học) và tự học thêm tiếng Pháp. Ông đã tìm đọc, tìm mua nhiều sách cũ bằng tiếng

Pháp để nâng cao vốn ngoại ngữ của mình. Cũng chính từ đây, ông có cơ hội tiếp xúc với

các nền văn học thế giới, “gặp gỡ” được những nhà văn lớn của thế giới như Tshekov,

Gorki, Dostoievski, Hemingway, Lỗ Tấn…Công việc sửa chữa bản in cũng là một nhịp cầu

đầy duyên nợ kết nối ông với văn chương. Ông được đọc nhiều tác phẩm của các tác giả

đương thời và nhận ra được nhiều điều bổ ích. Chính từ đây, sự tự tin của một con người

ham học hỏi, sự quyết tâm của một cán bộ tuyên huấn đã khiến ông nảy sinh ý tưởng: mượn

văn chương để làm công tác tuyên truyền. Ông bắt đầu bén duyên với văn chương nhờ sự

động viên, khuyến khích của các đàn anh trong nghề như Viễn Phương, Sơn Nam, Lý Văn

Sâm….Truyện ngắn đầu tiên của ông đã ra đời và được đăng trên báo Nhân Loại với bút

danh Văn Phụng Mỹ (với ý nghĩa văn chương phụng sự cái đẹp). Năm 1959, ông chính thức

lấy bút danh Trang Thế Hy. Do những tác phẩm mang nội dung yêu nước nên ông bị bắt

giam năm 1962. Trong tù, con người ham học ấy lại tranh thủ học thêm chữ Hán từ các giáo

sư bị giam chung. Năm 1964, ông thoát ly ra vùng giải phóng và công tác ở Ban tuyên huấn

đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Từ năm 1957 đến đầu năm 1962, bên cạnh Sơn Nam, Lê Vĩnh

Hòa, Viễn Phương, Bình Nguyên Lộc, Tiêu Kim Thủy… Trang Thế Hy cũng là cây bút chủ

lực trên tuần báo Nhân loại bộ mới. Thời gian sống ở Sài Gòn, ông còn viết cho các tờ Bách

Khoa, Vui Sống, Ngày Mới. Khi vào vùng giải phóng (1964), ông làm việc ở Ban Tuyên

huấn đặc khu Sài Gòn - Gia Định, sau chuyển sang tiểu ban Văn nghệ Giải phóng cho đến

ngày 30-4-1975. Từ 1975 đến 1990, ông là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ

Chí Minh. Năm 1992, ông lặng lẽ từ biệt Sài gòn phồn hoa đô hội, tự mình “đi chỗ khác

chơi”. Những người yêu mến Trang Thế Hy có nhiều cách nhìn, cách lý giải khác nhau về

việc ẩn cư của ông. Trang Thế Hy thì cho rằng việc này chính là..."đi chỗ khác chơi". Ông

cho biết: "Tôi có được suy nghĩ này từ lời khuyên của một nghệ sĩ già, ông bảo: khi nào con

viết hết được rồi thì nên biết đi chỗ khác chơi, đừng có bẹo hình bẹo dạng trong chốn trường

văn trận bút, nhất là đừng để cho những người yêu mến mình phải đọc những câu lếu láo”.

Với vầng trán rộng thông minh và mái tóc nghệ sĩ, nước da bánh ít, với vẻ bình dị, ít

nói khiến ai mới thoáng nhìn cũng có thể nghĩ Trang Thế Hy là người của vườn tược. Với

đôi mắt sâu hay nhìn xuống lúc đi lại, ông sống lủi thủi chỗ không ồn ào như người có tâm

sự thầm kín. Có thể nói ông là mẫu người hướng nội với tình cảm sâu lắng, không thường

biểu lộ ra ngoài bằng ngôn ngữ và hành động cụ thể…. Ông thích yên lặng, thích đằm mình

trong những suy tưởng riêng tư. Bởi đời sống, với ông, là một cái gì thiêng liêng, nên cách

sống của ông là cách sống của một người rất kỹ tính. Chẳng những mọi suồng sã trong tình

cảm, mọi xô bồ hỗn tạp trong giao tiếp xa lạ với ông, mà cả những lối sống, lối nghĩ hời hợt,

nhợt nhạt, theo ông đều là không thể chấp nhận được. Và đó cũng là hình ảnh của ông mà

người đọc tiếp nhận được qua tác phẩm. Trong chừng mực nào đó, hình ảnh con người Trang

Thế Hy hiện lên qua tác phẩm là một con người ý nhị nhưng buồn rầu, tốt bụng nhưng lạnh

lùng, luôn nhạy cảm với nỗi đau khổ của con người, làm say mê lòng người nhưng lòng

mình lại buồn chán. Sự buồn chán ở đây thật ra là đồng nghĩa với sự lương thiện. Sự buồn

chán mà với Trang Thế Hy chỉ có những người hết lòng với cuộc sống mới có thể cảm thấy

hết ý nghĩa buồn chán của nó.

Có dịp tiếp xúc, gần gũi với nhà văn Trang Thế Hy mới biết ông thông tiếng Pháp, đọc

nhiều tác phẩm của Anatole France, Guy de Maupassant, Gustave Flaubert… và Ernest

Hemingway, Lỗ Tấn… Với kiến thức rộng được tiếp thụ từ văn học thế giới, nhất là nền văn

chương Pháp, Trang Thế Hy có được một óc tưởng tượng phong phú và một văn phong

mượt mà giàu chất lãng mạn. Sức mạnh tinh kết từ ưu thế của ngòi bút tài hoa Trang Thế Hy

dường như được dàn trải đều đặn trong tác phẩm của ông. Dù sao thì con người Trang Thế

Hy, cũng như tác phẩm, là con người yêu sự thẳng thắn, chống bất công và những chuyện

bất bình, yêu sự thật, không quỳ lụy quyền hành dù là với những người bạn từng chung chiến

đấu thời kháng chiến.

1.1.2 Quá trình sáng tác

Hơn nửa thế kỷ sáng tạo, nhà văn Trang Thế Hy chỉ viết khoảng gần 50 truyện ngắn.

Tuy nhiên nhiều truyện ngắn của ông được in trong các tuyển tập và được đánh giá là những

truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Điều này cho thấy sức hấp dẫn và sức

sống của truyện ngắn của Trang Thế Hy đối với thời gian và tâm hồn con người.

Trang Thế Hy bắt đầu bén duyên với văn chương từ năm 1956 và tiếp tục viết với một

tốc độ không nhanh nhưng bút lực sung mãn cho đến những năm 90 của thế kỉ XX. Văn

Trang Thế Hy cũng là con người Trang Thế Hy, một con người kiên nghị và trầm tĩnh. Mọi

thay đổi, biến thiên của cuộc đời đều được ông chế ngự được một cách dũng cảm.

Ông viết không nhiều về số lượng, không viết cho thị hiếu, thời thượng, chỉ viết cho

người đọc tự giác nhất và cho chính mình, bất kể qui luật cung cầu của thị trường chữ nghĩa.

Trong đời sống thường ngày cũng thế, ông không có cuộc sống nào khác ngoài sống với văn

chương và nhân thế, viết và sống đối với ông bao giờ cũng chỉ là một, chỉ có một.

Đọc truyện của ông, ta thấy ngập tràn sự sống - một sự sống đa dạng, phong phú. Phải

chăng đó là kết tinh từ những nỗi đau và hạnh phúc, từ nước mắt và nụ cười của bao con

người Nam Bộ trước những biến động vô thường của cuộc sống? Cuộc sống mà chính bản

thân nhà văn đã trải nghiệm. Và đằng sau những mảnh vụn, những lát cắt của cuộc sống ấy

thường toát lên những bài học nhân sinh, dù rất nhẹ nhàng nhưng có sức lay động sâu xa

những tâm hồn nhạy cảm. Những gì mà ông xây dựng, khám phá đều xuất phát từ trái tim

của một con người Nam Bộ có tình yêu nồng nàn với quê hương xứ sở, và trên hết là tấm

lòng của nhà văn đối với cuộc đời. Cho nên truyện ngắn Trang Thế Hy đến với người đọc

không ồn ào như một số hiện tượng văn học cá biệt, mà rất âm thầm, ý nhị và không biết tự

1.1.2.1 Các giai đoạn sáng tác

bao giờ đã len vào trái tim của nhiều độc giả rồi neo lại ở một góc nhỏ.

Có thể tạm chia quá trình sáng tác của Trang Thế Hy ra làm hai giai đoạn, thể hiện

được khá rõ sự chuyển biến và thay đổi về đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật từ giai

đoạn này sang giai đoạn khác.

Giai đoạn thứ nhất : từ 1956 đến 1975

Cũng như phần lớn các nhà văn yêu nước và cách mạng vùng thành thị miền Nam,

trong thời gian này ông lấy nhiều bút danh khác nhau để tránh sự kìm kẹp và đàn áp của kẻ

thù, đó là các bút danh như: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm,

Trang Thế Hy. Các sáng tác tiêu biểu của nhà văn trong giai đoạn này là: 1TNắng đẹp miền quê

ngoại1T, 1TAnh Thơm râu rồng. 1TNhững sáng tác của ông vào giai đoạn này thường sử dụng một

cách khá tinh tế và uyển chuyển lối viết mang tính ẩn dụ với lối biểu tượng hai mặt nhằm

“vượt qua” tình thế chính trị hết sức khó khăn tại thời điểm đó, vươn tới thể hiện tinh thần

yêu nước, ý chí căm thù giặc mãnh liệt.

Vào thời điểm này, bước vào thế giới truyện ngắn Trang Thế Hy, người đọc dễ thấy

nổi rõ lên trước hết là ánh sáng của chủ đề: lòng yêu quê hương tha thiết, đằm thắm, tình

cảm đồng bào chân thành, sâu nặng biểu hiện dưới nhiều hình thức trong một đất nước, xã

hội u ám rối ren vì khói lửa binh đao. Nhân vật xuất hiện thường gặp trong tác phẩm nói trên

là người dân lương thiện, người lao động nghèo đôn hậu mà tiến bộ, ý thức được trách nhiệm

của mình, những người công dân chân chính trong thời chiến. Để phác họa cảnh vật trong

truyện, Trang Thế Hy dùng lối văn trong sáng, trôi chảy mượt mà, trữ tình và lãng mạn.

Viết về chiến tranh, truyện ngắn Trang Thế Hy gợi sự xúc động mạnh mẽ trong lòng

người đọc về những uẩu khúc, những hiểu lầm, những mất mát cả tinh thần lẫn thể xác trong

hành trình gian nan đi tìm tự do, hạnh phúc của con người. Chiến tranh hiện lên với tất cả sự

tàn khốc của nó. Nhưng chính tình yêu đối với quê hương trong mỗi con người biến thành

sức mạnh giúp con người vượt lên những nỗi đau cá nhân.

Giai đoạn thứ hai: sau 1975

Sau năm 1975 là một giai đoạn sáng tác mới, rất có chất lượng của Trang Thế Hy.

Đối diện với hiện thực cuộc sống sau chiến tranh, những sáng tác của Trang Thế Hy vào giai

đoạn này thể hiện những trăn trở, day dứt kín đáo về thế sự, nhân sinh. Cuộc sống thời bình

bắt đầu phô bày những mặt trái, những toan tính, vụ lợi cá nhân, quan hệ của con người trở

nên lạnh lùng. Nhu cầu gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh là nhu cầu rất thực của nhà văn. Vì

vậy, truyện ngắn của ông trong giai đoạn này bộc lộ sự trăn trở, đau đáu trước những biến

đổi của cuộc đời, trước sự đa tạp, biến ảo của con người thường nhật. Truyện của ông vừa

giữ vẻ duyên dáng, dí dỏm đồng thời cũng mang vẻ thâm trầm, sâu lắng của một con người

từng trải. Mặc dù cảm xúc chiến tranh vẫn đầy ắp trong trái tim một con người trực tiếp tham

gia chiến trường nhưng cuộc sống phồn tạp vẫn cứ đập vào và tạo nên những trang viết về

đời thường sinh động, ngồn ngộn sự sống, đánh dấu những thành công mới của Trang Thế

Hy.

Nhu cầu của cách mạng không còn quá thúc bách, ông có điều kiện viết kỹ hơn, lượng

tác phẩm ít dần đi, mỗi năm dăm ba truyện ngắn. Chắc chắn không phải vì “lão lai tài tận”,

mà có lẽ ông chọn cách viết kiềm chế để chắt lọc từng dòng chữ, mang lại cho người đọc

những trang văn tinh khiết, thẳm sâu, giàu sức ám ảnh. So với những gì đã viết trong mấy

năm cộng tác với 1TNhân Loại1T, trong giai đoạn sáng tác mới này Trang Thế Hy đã tự đổi mới

rất nhiều trong sáng tác nghệ thuật. Vẫn nhất quán trong việc tìm cảm hứng từ những con

người và những cảnh đời quen thuộc quanh mình nhưng giờ đây ông bắt đầu chú ý đến vấn

đề nhiều hơn cốt truyện, quan tâm nhiều đến tâm trạng lẫn khắc họa tính cách. Không ít nhân

vật tâm trạng của Trang Thế Hy đã có sức khơi gợi sâu sắc.

Có thể nhắc đến một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông được sáng tác trong

giai đoạn này, đó là 1TNợ nước mắt1T và một số truyện ký khác như: 1TChút hào quang từ mảnh vỡ

của một ngôi sao buồn, Tiếng hát và tiếng khóc, Một nghệ sĩ buồn thích đùa, Rác và hoa1T...

Ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của lĩnh vực nghệ

thuật cao quí như nhân cách của người cầm bút, khát vọng chân chính của người nghệ sĩ...

Truyện ngắn 1TTiếng hát và tiếng khóc1T có thể coi như tuyên ngôn nghệ thuật của ông.

Với Trang Thế Hy, sống là một sự tự thể nghiệm và quan sát. Từ những chuyện vui

đến chuyện buồn trong cuộc đời, từ những nỗi đau, mất mát trong chiến tranh đều được ông

cho nó đi vào trang viết của mình thật sống động và tự nhiên. Hiện thực cuộc sống đi vào

trong tác phẩm góp phần làm nên giá trị cho tác phẩm, nhưng giá trị của tác phẩm không

phải được quyết định bởi tính hiện thực mà quyết định ở tư tưởng, tình cảm của nhà văn.

Nếu thiếu cảm xúc hay chỉ bằng tình cảm hời hợt thì những trang viết chỉ là những trang khô

khan, thiếu chất sống. Từ đó, ta hiểu vì sao truyện ngắn Trang Thế Hy lại giàu chất sống và

1.1.2.2 Tác phẩm chính

gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc như vậy.

Trang Thế Hy viết nhiều thể loại nhưng truyện ngắn là phần nổi trội và thành công

nhất, là nơi thể hiện tập trung tư tưởng và phong cách sáng tác của nhà văn. 4TNhững truyện

ngắn của ông vừa lãng mạn vừa thâm trầm. Cứ thế, văn chương của ông phát triển lặng lẽ,

sâu thẳm và lắng đọng trầm tích4T.

Sự nghiệp sáng tác của ông bắt đầu với Nắng đẹp miền quê ngoại (1964) và sau đó

lần lượt là Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ mười ba (1989),

Tiếng khóc và tiếng hát (1993), Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác (2001). Truyện

ngắn cuối cùng mà Trang Thế Hy viết chính là truyện Hai người nhìn mưa dầm, truyện viết

về một người bạn mà ông mến yêu, về những kỷ niệm hằn sâu trong đời ông.

Ngoài viết truyện ngắn, Trang Thế Hy còn là một nhà thơ. Có thể kể tên một số bài

tiêu biểu: Dấu răng, Định lý và định lý, Tấm vé số và những thiên đường có sẵn, Người bạn

đường có tên là hy vọng, Bứt đứt sợi chỉ hồng…Trong số đó, bài thơ Lời nói dối nhân ái đã

được bình chọn là một trong 100 bài thơ hay của thế kỉ. Ngoài ra, Đắng và ngọt cũng là bài

thơ nổi tiếng của Trang Thế Hy được Phạm Duy phổ thành bài hát Quán ven đường và bị ghi

tên tác giả thơ là Vô Danh. Thật ra, Đắng và ngọt được ký tên Minh Phẩm (một bút danh

khác của Trang Thế Hy) đăng trên báo Vui Sống vào năm 1959. Vì Trang Thế Hy vào chiến

khu kháng chiến chống Mỹ nên bài hát muốn “sống” ở vùng tạm chiếm phải cải tên tác giả

thơ thành Vô Danh. Thơ của Trang Thế Hy chủ yếu viết theo thể thơ tự do, câu thơ giàu tính

triết luận và tư duy thơ vạm vỡ, khỏe khoắn. Trang Thế Hy thường đưa một vài yếu tố của

cốt truyện vào trong bài thơ tạo nên tính đối thoại giữa chủ thể trữ tình và các yếu tố trữ tình.

Trang Thế Hy say mê thơ Tagore, từng là một dịch giả khá thành công với những bài thơ của

thi hào Rabindranath Tagore. Có thể nhận ra nơi ông một tư duy thơ phảng phất tư duy thơ

vũ trụ của Tagore. Tính triết lý nhân sinh và phong cách thơ thâm trầm, sâu sắc đã tạo nên

sức hấp dẫn của thơ Trang Thế Hy đối với người đọc.

Bên cạnh đó, Trang Thế Hy còn viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết của ông xuất hiện trên

báo Thủ đô và tuần báo Chị cùng em dưới hình thức feuilletons. Dù là truyện ngắn, tiểu

thuyết hay những bài thơ tự do, những bài thơ dịch, văn chương Trang Thế Hy vẫn toát lên

nét thâm trầm, sâu lắng của một ngòi bút luôn trăn trở tìm cách để bảo vệ, giữ gìn cái đẹp

của con người. Âm thầm sáng tạo, xa lánh mọi bon chen, cám dỗ của danh lợi, Trang Thế Hy

góp công lớn trong việc tiếp thêm sức sống và tạo nên sự dung chứa kỳ diệu của thể loại

truyện ngắn đối với hiện thực cuộc sống và sự bí ẩn của tâm hồn, tính cách con người. Hơn

nửa thế kỷ sáng tác, có thể nói nhà văn Trang Thế Hy đã tạo được "thương hiệu" và phong

1.1.2.3 Một số giải thưởng đã đạt được

cách riêng cho mình.

- Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam

(1960-1965) với truyện ngắn Anh Thơm râu rồng.

- Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và

tiếng hát.

- Tặng thưởng loại A của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt

Nam năm 2001 cho tập truyện Nợ nước mắt.

1.1.3 Quan niệm nghệ thuật

Nếu xem "Văn là người", có thể nói sự nghiệp văn chương của nhà văn yêu nước

Trang Thế Hy là chiếc lăng kính phản chiếu sắc thái tài năng và nhân cách của một nhà văn

luôn luôn ý thức về sứ mệnh và trách nhiệm của người cầm bút chân chính.

Hiểu về mình, không ai bằng mình; nhà văn Trang Thế Hy tự nhận xét về mình như

một lời tự bạch rằng: "Tôi tự đánh giá mình có được tạo hóa nhểu cho vài giọt năng khiếu

bẩm sinh về văn chương nhưng bản thân kém ý chí và thiếu sự đam mê nghề nghiệp nên

không có thành đạt đáng kể”, “Tôi cho rằng văn chương tuy không giải phóng được con

người nhưng đối với bản thân người viết văn, văn chương góp phần thanh lọc tâm hồn và

cung cấp cho người đó sự bình tĩnh và lòng can đảm”.

Tự nhận xét về đời mình, ông nói: “Má tôi không muốn đẻ một con cù lần đâu nhưng

cuộc sống do những người nhảy cao đá lẹ làm chủ đã biến tôi thành cù lần, biết làm sao?”.

Còn về văn mình, ông cũng nói: “Trong bài tựa tập Gào thét, Lỗ Tấn (1881-1936) viết:

“Biết mình có được vài ba độc giả, điều đó tạo cho tôi niềm vui lớn”. Nhà văn Nga Yury

Trifonov (1925-1981) thì khiêm nhường hơn, trong thư gởi những kịch tác gia Đức, đã viết:

“Chỉ cần biết có một người chịu khó đọc mình, cũng đủ thấy công sức mình bỏ ra trên trang

giấy đã được đền đáp tốt”.

Qua đó ta có thể thấy rõ hơn chân dung nhà văn Trang Thế Hy, trong đó có tác phẩm,

những đứa con tinh thần được ông cưu mang, nuôi dưỡng và trách nhiệm. Trò chuyện cùng

nhà văn Trang Thế Hy, những người sáng tác thường cảm thấy rất thú vị. Ông chỉ nói những

gì ông đã chiêm nghiệm, ấp ủ chín mùi nên những điều ông chia sẻ thường sâu sắc, ý vị và

mang ý nghĩa nhân sinh. Trang Thế Hy cho rằng ông không có năng khiếu về học thuật, lý

luận. Tuy vậy, theo ông, người sáng tác cần trang bị cho mình hệ thống lý luận về văn học,

nhân sinh và cần tự chiêm nghiệm, đúc kết những kinh nghiệm sáng tác cho bản thân. Gương

mặt, dáng dấp của Trang Thế Hy giống nhà hiền triết nhưng giọng nói của ông lại ấm áp như

người nghệ sĩ kể chuyện dân gian. Với vốn kiến thức uyên thâm về văn hóa Pháp cộng với

sự tích lũy và chắt lọc tinh hoa văn hóa Việt Nam, sự chiêm nghiệm về thân phận con người

và lao động nghệ thuật nghiêm túc đã tạo nên tâm hồn, tư tưởng và giá trị nghệ thuật độc đáo

trong các truyện ngắn của Trang Thế Hy.

Có thể nói một cách ngắn gọn về quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy, đó là hành

trình viết văn để đứng về phía những người cùng khổ, bênh vực cho những số phận bất hạnh.

Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên, hoặc

ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của nghèo khốn. Trang Thế

Hy cho rằng, số đông những con người bất hạnh là những con người thầm lặng, họ biết nói

nhưng làm thinh không nói. Và bổn phận của chúng ta - những người cầm bút là phải nghe

cho được những điều mà họ không nói ra thành lời ấy. Kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ

thuật xuyên suốt các giai đoạn sáng tác của Trang Thế Hy. Trang Thế Hy cho rằng thuộc tính

của văn chương là vô mệnh (ý của Nguyễn Du trong bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký). Nhưng

ảnh hưởng của văn chương đối với vận mệnh của loài người là không nhỏ. Chức năng của

văn chương là thanh lọc tâm hồn người viết và cung cấp thuốc giảm đau cho người đọc “Cái

đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Ông khẳng định bản thân vừa si mê vừa hoài nghi lời tiên tri ấy của

Dostoievky. Nhưng ông cả tin rằng nếu như cái ĐẸP cứu rỗi được thế giới thì trong cái đẹp

vĩ đại, mênh mông cao rộng không có đường biên ấy có cái đẹp của văn chương.Viết văn là

tu thân, là đương đầu với nhiều thứ. Với niềm vui phải trầm tĩnh tiếp nhận nó như một động

lực sáng tạo, đừng bị nó cám dỗ để trở thành người nhẹ dạ, cả tin. Với nỗi buồn, phải giữ thế

thượng phong, không biến được nó thành người bạn đường hữu ích, thì cũng đừng để nó

nhấn chìm mình trong trầm cảm. Trong cao hứng phóng bút, hư cấu nhưng phải nghiêm cẩn

tự dặn dò mình đừng bao giờ tùy tiện bịa đặt.

Ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của lĩnh vực

nghệ thuật cao quí như nhân cách của người cầm bút, khát vọng chân chính của người nghệ

sĩ... Trong mối duyên nợ với văn chương, Trang Thế Hy khiêm tốn tự nhận mình là người

tình thuỷ chung nhưng hờ hững. Tuy vậy, hờ hững nhưng không cò nghĩa là bạ đâu viết đó.

Ông luôn tâm niệm, một tâm niệm nghiêm khắc với chính mình, dù trong hoàn cảnh nào vẫn

cố gắng để giữ những gì mình viết luôn chân thật. Nhà văn phải biết mình đang đứng ở đâu

giữa thời cuộc để viết bằng chính tinh hoa cảm nghĩ của mình, chứ không phải bằng kỹ xảo.

Bởi vì theo ông kỹ xảo chỉ để đánh lừa một bộ phận người đọc nhẹ dạ chứ không thay thế

được nghệ thuật chân chính. Nhà văn phải cảnh giác với chính mình, chớ để thế cuộc dẫn

mình đi vào con đường sa đọa, nhẹ hơn cũng trở thành kẻ giả dối, giả dối với mọi người và

giả dối với chính mình. Theo quan niệm của ông, nhà văn, nhà thơ không chỉ là người biết

ứng xử có văn hóa mà còn phải biết gìn giữ nhân cách của mình trên từng trang viết, từng tác

phẩm. Khi ngồi trước trang giấy, Trang Thế Hy luôn tự dặn dò mình: “Những điều mình

chưa yêu mến, hoặc chưa kịp yêu mến thì đừng giả bộ yêu mến nó”.

Trong Nguồn cảm mới, tác phẩm được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của ông, ông đã

tự xác định ý thức trách nhiệm và nhân cách của người cầm bút là “chủ tâm xác định cái

chiến thắng tất yếu, sau cùng của đạo lí, trước cái chiến thắng tạm thời của dục vọng xấu

xa”[41, tr.25]. Trong Tiếng hát và tiếng khóc, Trang Thế Hy không quên nhắc nhở chính

mình cái điều mà người nghệ sĩ thấm thía: “Tôi nghe đó là lời răn dạy rất nghiêm, có giá trị

thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn, nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất

điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi đau khổ lớn nhất của một số đông thầm lặng”, “nếu

như em thật sự yêu nghề…thì em phải lắng nghe cho được ngôn ngữ lặng thầm của những

người đau khổ biết nói mà làm thinh không nói”[41, tr.450].

Đứng về phía số đông ấy, theo Trang Thế Hy thì cái đạo lý mà người nghệ sĩ cần có

trong cảnh nước mất nhà tan là phải dấn thân để hoàn thành sứ mệnh của một công dân chân

chính. Trong tranh đấu, người nghệ sĩ phải dùng tài năng của mình để hoàn thành sứ mệnh

ấy bằng cả trái tim sục sôi lửa chứ không phải bằng trí óc tỉnh táo của một con người luôn

toan tính thiệt hơn cho bản thân .

Nhân cách của người cầm bút còn là việc “Phải tự lượng sức mình và phải chân

thực”, nếu không sẽ rơi vào “nỗi cô độc bi thảm của người cầm bút nuôi nhiều tham vọng

lớn bằng một tài năng nhỏ và muốn thu hoạch sự mến mộ của người khác bằng những xúc

động giả của chính tâm hồn mình, nói nôm na là bằng sự lường gạt” [41, tr.371]. Người cầm

bút có nhân cách cũng là người không bao giờ “ tự huyễn hoặc rằng mình có những cống

hiến lớn trong khi những thành đạt của mình thực ra là hết sức nhỏ nhoi” [41, tr.371].

Theo Trang Thế Hy, nhà văn phải cảnh giác với chính mình, chớ để thời cuộc dẫn

mình đi vào con đường giả dối, lừa lọc. Người nghệ sĩ có nhân cách là một nghệ sĩ chọn cho

mình một cuộc sống như số đông vẫn sống, dù đó có thể là cuộc sống vất vả, nhưng nhất

định không chịu đem “chút đỉnh tinh hoa nghệ thuật” tìm cách bán, bởi “ trong văn học, sự

hẩm hiu chưa chắc là một điều bất hạnh” [41, tr.249] . Có thể ví Trang Thế Hy là người đi

tìm “chất ngọc” không phải giữa chốn phồn hoa đô hội, cũng không phải trong tỉ mẩn trà dư

tửu hậu, mà giữa cuộc đời nhọc nhằn, trần tục, ở nơi tận đáy cùng của xã hội. Và khi nhắc

đến Trang Thế Hy điều trước tiên người ta nhắc đến đó là một nhà văn có nhân cách đáng

quý trọng là vì những điều như thế.

Nếu Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, ở “Ấm trà trong sương sớm”, ở “Chữ

người tử tù”…thì trên trang viết của mình, Trang Thế Hy đi tìm cái đẹp trong sự giản dị của

cuộc đời thường, trong “Áo lụa giồng”, trong “Mỹ Tho - Mỹ Thơ”…, ở những con người

như “Anh Thơm râu rồng”, và cả những con người ở tận đáy của cuộc đời… Ở hai hướng

khác nhau, nhưng đều vì cái đẹp, và như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú hơn rất nhiều.

Trang Thế Hy lặng lẽ phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người với cái nhìn

đôn hậu và đầy thương cảm. Ông đã tạo ra những trang văn đẹp giản dị nhưng vô cùng nhân

đạo. Những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh cao, những con

người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Mỗi người một

hoàn cảnh, một cuộc sống riêng nhưng họ đều có chung tâm trạng dày vò, buồn rầu và lòng

khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, cao quý hơn. Trang Thế Hy cũng rất mẫn

cảm và nhân hậu, ông đi sâu vào thế giới nội tâm con người, biết quan sát cái bên trong, biết

đi sâu vào những bí ẩn tâm lý. Tác giả đã hướng cái nhìn của mình vào những vùng khuất tối

nhất trong thế giới nội tâm con người: cái khoảng tối ẩn náu sự hèn hạ, yếu đuối, xấu xa

đáng loại bỏ để tìm ra những khoảng sáng thanh cao. Bởi với ông thiếu cái đẹp, cuộc sống

trở nên tầm thường biết bao.

Tư tưởng đó đã được tác giả chuyển tải bằng giọng điệu bình dị, từ tốn, đôi khi pha

chút hài hước kín đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn riêng. Sức hấp dẫn

ấy không hiện diện bằng ngọn lửa đốt cháy dữ dội nhưng thấm sâu, bền chắc.

Và đứng ở góc nhìn của một người Nam Bộ, độc giả sẽ dễ dàng nhận ra dù là viết về

vấn đề gì thì Trang Thế Hy vẫn thuộc một trong số những nhà văn còn giữ được cốt cách

diễn đạt của một người Nam Bộ trong sáng tác văn chương. Chính văn hóa và làng quê Nam

bộ là tiền đề hình thành nên quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông ở Bến Tre, trên chính vùng đất

phương Nam của tổ quốc. Vì thế, một trong những tiền đề quan trọng góp phần hình thành

nên quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy có nguồn gốc và cơ sở sâu xa là những yếu tố

văn hóa mang đặc trưng riêng của vùng đất và con người nơi đây.

Từ đó, Trang Thế Hy đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết

nhiều, viết hay về miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Có thể nói, vùng văn hóa

Nam Bộ là môi trường màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm

hứng mãnh liệt chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Trang Thế Hy. Vì thế, độc giả rất dễ

nhận ra nơi truyện ngắn Trang Thế Hy một mạch nguồn văn hóa bản địa âm thầm chảy, tạo

nên sở trường riêng cho những truyện ngắn viết về con người và vùng đất nơi miền cực Nam

Tổ quốc của ông.

Đọc truyện của ông, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở

nhiều phương diện của tác phẩm như: bối cảnh trong các truyện ngắn; những tên ấp, tên

làng nhiều chất Nam Bộ; nhân vật trong tác phẩm của ông là những con người Nam Bộ với

những cái tên và tính cách cũng hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ …Đặc biệt, vùng đất

và con người Nam Bộ trong các sáng tác của Trang Thế Hy được dựng lại bằng chính chất

liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của ông. Từ đó, có thể nói văn hóa

Nam Bộ là một trong những nét chính làm nên sức hấp dẫn thẩm mĩ của truyện ngắn Trang

Thế Hy.

1.2 Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học

Khoảng đầu thế kỷ XX, thuật ngữ văn hoá học xuất hiện với nghĩa là khoa học nghiên

cứu về văn hoá. Và gần đây văn hoá học được chú ý một cách đặc biệt. Thậm chí người ta

còn nói đến sự “bùng nổ” văn hoá học ở cuối thế kỷ XX. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam,

người ta ngày càng chú ý đến vai trò của văn hoá trong sự phát triển của xã hội con người,

đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay.

Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là một khái niệm rất phức tạp,

có rất nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh

phương diện nào. Có thể nhìn văn hóa từ góc độ một hệ thống tôn giáo, đạo đức, từ góc độ kĩ

thuật, lại có thể nhìn văn hóa từ góc độ dân tộc hoặc chủng tộc…Trong giới hạn cho phép

của đề tài nghiên cứu, chúng tôi xin trích dẫn một số định nghĩa như sau:

- E. B. Taylor (1832-1917), nhà nhân học văn hóa người Anh là người đầu tiên

đưa ra một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn

hóa nguyên thủy), Taylor định nghĩa “văn hóa” là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến

thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói

quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [17, tr.251].

- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con

người […] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con

người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với

hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên

phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [102, tr.35-36].

- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương

tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [89, tr. 25].

- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Quý Nhâm chú ý

nhấn mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [62,

tr. 249].

Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan niệm

chính thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc

tế do Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng

thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của

một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn

chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,

những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản

thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính,

có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự

ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét

những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên

những công trình vượt trội lên bản thân” [102, tr.23-24]. Từ quan niệm trên, chúng ta có thể

hiểu văn hóa không phải là lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội

loài người.

Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất

kì khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số

lượng các khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng.

Mỗi khái niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú

của các khái niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà

nghiên cứu Chu Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ

yếu, cơ bản sau:

* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.

* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:

đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.

* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa

được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.

* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử,

phân biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [17, tr.252].

Tuy nhiên, không có một định nghĩa nào có thể bao gồm hết các phương diện đa dạng

của văn hóa. Vì vậy, chúng tôi không chủ trương tìm một định nghĩa văn hóa cho riêng

mình, một công việc rất khó khăn, dễ sa vào phiến diện mà mặc nhận một số nội dung của

khái niệm để ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Trong khái niệm văn hóa, chúng tôi đặc biệt

lưu ý đến quan niệm giá trị của chủ thể văn hóa. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đều

có tầm quan trọng như nhau trong khi nhận diện bản sắc một nền văn hóa. Chúng tôi cũng

quan niệm văn hóa là một hệ thống các phạm trù giá trị hình thành trong các mối quan hệ xác

định của con người, những giá trị này hoặc là nội sinh hoặc là ngoại sinh. Chúng hình thành

bằng hai con đường, trước hết là được con người đúc kết thông qua hoạt động thực tiễn của

chính mình, thứ hai là hình thành trong quá trình giao lưu giữa các nền văn hóa. Hai quá

trình này đều quan trọng như nhau. Không có một nền văn hóa nào lại đứng biệt lập, tách

biệt mà không có quan hệ giao lưu.

Hiện nay người ta cũng bắt đầu nói nhiều đến vai trò của văn hoá trong nghiên cứu

văn học, đến việc vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hoá để lý giải văn học. Xu

hướng này mới xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XX và cho đến nay đang được hưởng ứng

rộng rãi. Một trong những người khởi xứng cho xu hướng tiếp cận văn học bằng văn hoá học

là Mikhail M. Bakhtin, giáo sư văn học người Nga thuộc Đại học Saransk.

Bakhtin quan niệm “Trước hết khoa học nghiên cứu văn học cần phải gắn bó chặt chẽ

với lịch sử văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái bối cảnh [kontekst] nguyên vẹn của toàn bộ

văn hoá một thời đại trong đó nó tồn tại. Không được tách nói khỏi các bộ phận khác của

văn hoá, cũng như không được như người ta vẫn làm, và trực tiếp gắn bó với các nhân tố xã

hội - kinh tế, vượt qua đầu văn hoá. Những nhân tố xã hội - xã hội tác động tới toàn bộ văn

hoá nói chung, và chỉ thông qua văn hoá, mới tác động được tới văn học” [8]. Đây là quan

điểm đề cao vai trò của văn hoá. Năm 1940 ông đã viết một công trình để rồi đến 1965 (sau

25 năm) mới được xuất bản: Sáng tác của Francois Rabelais với văn hoá dân gia thời Trung

đại và Phục hưng. Trong công trình này, lần đầu tiên Bakhtin đã đưa ra cái nhìn văn hoá để

phân tích và lý giải tác phẩm của nhà văn Phục hưng Pháp, Rabelais. Ông cho rằng Rabelais

là đỉnh cao của xu hướng phi chính thống trong việc các sáng tác dân gian xâm nhập vào văn

học cao của Rabelais có một vị trí độc đáo trong văn học cuối thời trung đại, thách thức với

địa vị chính thống của dòng văn học phục vụ thần quyền và quân chủ thời bấy giờ. Cuốn

sách của Bakhtin đã có ảnh hưởng lớn đến giới phê bình phương Tây. Và vì ông dùng văn

hoá để lý giải tác phẩm cho nên chúng tôi xin được gọi phương pháp của ông là “phương

pháp văn hoá học”. Nguyên tắc của phương pháp này là đi tìm ảnh hưởng không chỉ của văn

hoá đương thời đối với văn học, mà còn truy nguyên đến cả các truyền thống văn hoá xa xưa

của cộng đồng.

Ở Việt Nam, phương pháp văn hoá học trong lĩnh vực nghiên cứu văn học hiện đại

cũng có mầm mống gần như từ thời điểm cùng thời với Bakhtin.

Cụ thể, trong công trình nghiên cứu Kinh thi Việt Nam (Hàn Thuyên, Hà Nội, 1945)

của tác giả Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa). Trương Tửu chủ trương đi theo xu hướng lấy

văn hoá để cắt nghĩa văn học khi lí giải hiện tượng Hồ Xuân Hương. Ở đây quan niệm về

“tôn giáo thờ sự sinh đẻ” của Trưởng Tửu cũng có thể được coi là tương đương với quan

niệm về “tín ngưỡng phồn thực” của Đỗ Lai Thuý sau này.

Năm 1968, trong lời giới thiệu viết cho cuốn sách Thơ Hồ Xuân Hương xuất bản bằng

tiếng Nga tại Moskva, nhà Việt Nam học người Nga N.Niculin, dựa trên kết quả nghiên cứu

của Bakhtin về Rabelais, cũng đã so sánh sự xâm nhập của văn hoá dân gian Việt Nam vào

thơ Hồ Xuân Hương giống như sự xâm nhập của văn hoá dân gian Pháp vào sáng tác của

Rabelais. Tiếp thu ý kiến của Niculin, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn (1987) cũng đã cắt nghĩa

cái yếu tố “tục” của thơ Hồ theo tinh thần đó. Nhà văn Nguyễn Tuân (1986) thì nói cụ thể

hơn đến cái tục thờ “nõn nường” trong văn hoá dân gian ở một số vùng Việt Nam, đến sự

ảnh hưởng của truyền thống này vào thơ Hồ Xuân Hương.

Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý đã tổng kết và phát triển các ý tưởng nói trên để viết

thành một cuốn chuyên luận nhan đề Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực (NXB.Văn hoá -

thông tin, H, 1999), trong đó ông dùng phương pháp nhân học - văn hoá học để lý giải thơ

Hồ Xuân Hương. Sau khi phân tích những đóng góp và “những điểm bất cập, chưa thoả

đáng” của các cách tiếp cận xã hội học, tâm phân học Freud và nguyên lý hội hoá trang của

Bakhtin, Đỗ Lai Thuý tiến hành triển khai vấn đề “phồn thực” trên hầu khắp các phương

diện của cách tiếp cận “nhân học - văn hoá học”: tín ngưỡng phồn thực, văn hoá phồn thực,

triết lý phồn thực, người phát ngôn phồn thực, mỹ học phồn thực; từ đó ông lý giải “văn hoá

dâm tục Việt Nam” (hay “văn hoá tính dục nói chung”) và lý giải thơ Hồ Xuân Hương. Đây

là một công trình khảo cứu khá công phu, nhưng tác giả thiên về kiểu nghiên cứu văn hoá

học nhiều hơn là nghiên cứu văn học.

Cũng theo tinh thần của phương pháp văn hoá học, chúng ta phải kể thêm sự đóng góp

của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu. Trần Đình Hượu là một trong những người đầu tiên

của thời kỳ sau Cách mạng chú ý đến khía cạnh văn hoá của văn học và xem xét văn học

trong bối cảnh văn hoá của nó. Trong cuốn sách Nho giáo và văn học Việt Nam trung đại

(NXB.Văn hoá thông tin, H.1995, tập hợp các bài viết từ nhiều năm trở về trước). Trần Đình

Hượu đã dùng cách khảo sát văn hoá - lịch sử, đặc biệt là đối với Nho giáo, để giải quyết

một số vấn đề của văn học, ví dụ như vấn đề có hay không có chủ nghĩa hiện thực trong văn

học trung đại; vấn đề vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ Nôm Việt Nam; vấn đề có hay

không có chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều…

Tiếp nối hướng đi của Trần Đình Hượu, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương cũng thực

hành một công việc vừa mang tính văn hoá học vừa mang tính nghiên cứu học. Trong hai

cuốn sách: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam (chuyên luận, NXB, Giáo dục, H,1995) và

Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung (tập tiểu luận, tập hợp các bài viết từ những

năm về trước, NXB. Giáo dục, H, 1997), Trần Ngọc Vương đã làm một cuộc khảo sát về mặt

văn hoá đối với bức tranh văn hoá - lịch sử. Chiếm một phần rất lớn trong cuốn sách đó là

phong cảnh văn hoá lịch sử thời trung đại Việt Nam, trong đó xuất hiện loại hình nhà nho tài

tử. Ngay cả ở chương cuối cùng của cuốn sách: Chung cục và nối tiếp, ta cũng không tìm

thấy kết luận về văn học mà chỉ thấy bóng dáng của các nhà nho tài tử như là một sự hoài

niệm dĩ vãng.

Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, tác giả của tập tiểu luận Văn học Trung đại Việt Nam

dưới góc nhìn văn hoá (NXB. Giáo dục, H. 2003), cũng ứng dụng cách tiếp cận văn học

bằng văn hoá học. Đây là cuốn sách tập hợp các bài đã được viết trong những thời gian khác

nhau từ trước đó, nhưng tác giả tuyên bố một cách rất có ý thức ở Lời nói đầu, chúng có một

điểm chung là “người viết chọn góc độ văn hoá để quan sát và giải thích các hiện tượng văn

học”. Trần Nho Thìn có nhận xét rằng các nhà khoa học ngày nay đôi khi đã dùng cách giải

thích hiện đại để áp đặt cho văn học thời quá khứ, mà cụ thể là cho nền văn học trung đại

Việt Nam (thời trung đại trong văn học Việt Nam được coi là từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX),

dẫn đến chỗ suy diễn chủ quan, xa rời sự thực. Từ đó ông đã chọn “cách tiếp cận văn hoá

như một hướng đi chủ yếu để nghiên cứu văn học Việt Nam.” Với chủ trương trên, Trần Nho

Thìn đã chọn một số trường hợp cụ thể tiêu biểu của văn học trung đại để xem xét từ góc độ

văn hoá, trong đó có trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du và Bình Ngô Đại Cáo của

Nguyễn Trãi. Bằng lối phân tích văn hoá học đối với hai tác phẩm này, ông đã đặt ra nhiều

vấn đề để giải quyết, trong đó có việc ông bác bỏ một số quan niệm hiện đại hoá đối với

Truyện Kiều; ông mở ra những ý nghĩa mới mà trước đây những nhà nghiên cứu chưa phát

hiện ra đối với thông điệp của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo.

Trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ. Thứ quan hệ

ngang bằng của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh

một cơ sở hạ tầng. Văn hóa là một tổng thể, một hệ thống, bao gồm nhiều yếu tố trong đó

văn học giữ vai trò là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa, là một hình thái đặc biệt,

thuộc về văn hóa tinh thần. Trong mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, văn hóa chi phối

văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Tuy nhiên, văn

học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và năng động. Nó luôn có xu hướng đi trượt

ra ngoài hệ thống, sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Gần đây, nhờ

UNESCO phát động những thập kỷ phát triển văn hóa, nhờ thức nhận văn hóa là động lực

của phát triển, nên quan hệ văn hóa và văn học được chú ý nhiều hơn.

Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học,

vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện:

1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết

phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn

hóa”. Văn học có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể

nhận ra cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học

cung cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu cầu làm giàu đời sống tâm hồn và

trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần gũi và thiết thực đối với con

người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa,

sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hóa [73, tr.891-892-

893-894].

Cũng bàn về vai trò tác động trở lại của học đối với văn hóa, trong bài viết Văn học

góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu Đinh Gia

Khánh cho rằng qua văn học, những phạm trù có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát

triển. Từ đó, ông khẳng định: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học đối

với đời sống xã hội là góp phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39].

Tóm lại, bản chất của mối quan hệ văn hóa và văn học là là quan hệ bất khả kháng, là

mối quan hệ mang tính chất quy luật. Tuy nhiên đây không phải chỉ là mối quan hệ một

chiều. Văn học là sản phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Tuy nhiên, là thành viên của

cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu, nhà văn dù phản ánh hiện thực nào, dù sáng tạo

đến đâu thì tác phẩm vẫn không thể tách rời "lăng kính" văn hóa, không thể không thông

qua "bộ lọc" của các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Cho nên, văn học là một thành tố quan

trọng của văn hoá, vừa chịu sự tác động của văn hóa, vừa tác động đến sự phát triển của văn

hoá dân tộc.

Vì vậy, có thể nói cách tiếp cận văn học bằng con đường văn hoá đã cung cấp thêm một

con đường mới để đến với văn học. Đây là một con đường đặc sắc, lí thú nhưng cũng rất

phức tạp, bởi lẽ văn hoá là nơi hội tụ của mọi ý tưởng sáng tạo của con người.

Phương pháp đọc tác phẩm văn học từ góc độ văn hóa học (gọi tắt là phương pháp tiếp

cận văn hóa học) lấy con người làm trung tâm để xây dựng hệ thống vấn đề miêu tả tác

phẩm. Con người với tính cách là một thực thể văn hóa bao giờ cũng tồn tại trong ba mối

quan hệ căn bản: quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính

bản thân mình. Nhưng con người khác với động vật ở chỗ có ý thức, con người không thể

hiện mình một cách bản năng, tự phát trong các quan hệ ứng xử mà luôn có ý thức lựa chọn

giá trị. Trong tiến trình phát triển của mình, con người không ngừng tìm kiếm, xác lập

nguyên tắc cho các ứng xử trong ba mối quan hệ này. Đến lượt mình, các nguyên tắc ứng xử

ấy luôn luôn chi phối các phương diện thi pháp của một tác phẩm văn học. Thành thử, đọc

một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để

nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm.

Tiếp cận văn hóa học thực chất là phương pháp tiếp cận liên ngành, nơi yêu cầu vận

dụng tổng hợp tri thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học, … để giải mã các

hiện tượng thi pháp tác phẩm văn học. Tiếp cận văn hóa học không phải là một cái gì khác

biệt tuyệt đối so với các hướng tiếp cận khác. Sự giao thoa, sự gặp gỡ với các cách tiếp cận

đã có trong thế kỉ XX là một điều hiển nhiên, tuy vậy nói thế không có nghĩa đây là một kiểu

tiếp cận chiết trung mà có những đặc điểm riêng biệt.

Tiếp cận văn hóa học cũng có điểm gặp gỡ với thi pháp học. Thi pháp học mô tả các

ngôn từ được chính tác giả sử dụng tiếp cận văn hóa học cũng quan tâm đến hàm nghĩa văn

hóa của các khái niệm ngôn từ của tác phẩm. Điểm khác biệt của cách tiếp cận văn hóa học

so với thi pháp học là ở chỗ, tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ

thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà còn có nhiệm vụ đối chiếu,

so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm

nguồn gốc của các dạng thức quan niệm về con người, về không gian, thời gian trong tác

phẩm. Một hình tượng hay một thủ pháp nghệ thuật sở dĩ hấp dẫn, có sức thuyết phục vì nó

tìm được sự chia sẻ, đồng cảm của những người cùng một nền văn hóa. Nói cách khác hình

tượng nghệ thuật hay thủ pháp nghệ thuật cũng là một yếu tố của sự tương đồng (identity)

thông qua nó người đọc cũng có thể chia sẻ, tìm kiếm những người có cùng quan niệm văn

hóa.

Chương 2: VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY

2.1. Văn hóa ứng xử

Khám phá văn hóa là bước chân vào khu rừng già chất chồng thời gian với nhiều tầng

lớp, sắc độ. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp

nhất giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với

động vật, là đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học

mà có được nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do

con người sáng tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã

hội.

Dựa trên các nguyên lý: cùng cội nguồn, cùng chỗ định cư, cùng lợi ích và tín nhiệm,

cộng đồng người trên vùng đất mới tạo lập nên xã hội mới mang trong lòng nó truyền thống

của một nền văn minh lúa nước lâu đời và tự cải tạo mình để thích nghi với môi trường. Từ

đó hình thành nên sắc thái vùng đất phương Nam trong hằng số chung của văn hóa Việt

Nam.

Vùng đất Nam Bộ với những đặc trưng văn hóa độc đáo riêng đã cung cấp cho văn

học Việt Nam hiện đại nguồn đề tài hấp dẫn. Các nhà văn Nam Bộ thuộc nhiều thế hệ đều

chú ý khai thác chất liệu sáng tác từ đất và người phương Nam. Không chỉ các nhà văn sinh

ra và lớn lên ở Nam Bộ, các nhà văn từ những vùng miền khác cũng để lại những trang văn

đặc sắc về đất Nam Bộ như Trần Hiếu Minh (Nguyễn Văn Bổng), Nguyễn Thi…Tuy nhiên,

chung thủy với đề tài Nam Bộ và có đóng góp nổi bật nhất về mảng đề tài này vẫn là các nhà

văn Nam Bộ. Bởi chính họ là những con người được sinh ra, được sống, được trải nghiệm

trện chính mảnh đất này. Như một lẽ tất yếu, văn hóa Nam Bộ thấm vào từng hơi thở của họ.

Hơn ai hết, họ có điều kiện khám phá, thấu hiểu mảnh đất mẹ đã nuôi dưỡng, cưu mang đến

tận ngọn ngành.

Đối với nhà văn Trang Thế Hy, những nét đặc sắc của văn hoá và con người Nam Bộ

vừa là cảm hứng vừa là bản chất của văn chương ông. Với thể loại truyện ngắn, qua nhiều

tác phẩm, ông đã khẳng định một phong cách độc đáo, đậm đà chất Nam Bộ từ việc xây

dựng khung cảnh thiên nhiên đến khắc hoạ tính cách con người. Hầu hết các truyện ngắn của

Trang Thế Hy đều lấy bối cảnh từ đồng bằng sông Cửu Long, từ tính cách nhân vật cho đến

ngôn ngữ đối thoại đều mang đậm bản sắc của con người miền Nam.

Đọc truyện ngắn Trang Thế Hy, ấn tượng đọng lại trong lòng độc giả đó không chỉ

bởi đó là những câu chuyện thắm đượm tinh thần nhân văn mà sức hấp dẫn ấy còn ở chỗ

nhà văn đã thổi vào tác phẩm của mình những giá trị văn hóa của cha ông, cụ thể là những

đặc trưng văn hóa vùng đồng bằng Nam Bộ. Những mảng màu văn hóa trong truyện ngắn

Trang Thế Hy vừa mang đậm văn hóa vùng vừa mang đầy đủ các yếu tố văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Nam Bộ trong truyện Trang Thế Hy nổi bật lên những nét của đời sống vật chất và

tinh thần mang đặc trưng vùng đất cực Nam tổ quốc từ trong thể ứng xử trước những điều

kiện tự nhiên và các vấn đề xã hội .

2.1.1 Với môi trường tự nhiên

Về mặt tự nhiên, Nam Bộ là vùng đất nổi bật với đặc trưng sông nước. Trong phương

thức lao động, trong nhịp sống, trong tín ngưỡng, phong tục và ngôn ngữ… yếu tố sông nước

đều hiện diện. Được nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa ấy, nhiều thế hệ nhà văn Việt Nam đã

xây dựng tác phẩm đề cập đến mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Trang Thế

Hy là một trong những nhà văn Nam Bộ đã mang theo “tâm thức sông nước” vào tác phẩm

của mình . Sinh ra và lớn lên nơi vùng quê sông nước Nam Bộ, Trang Thế Hy không chỉ sử

dung yếu tố văn hóa sông nước làm phông nền, bối cảnh dựng truyện mà còn thể hiện rất

đậm đặc sự gắn bó và tình cảm trân trọng trong cách ứng xử của người miền Nam với môi

trường tự nhiên.

Trước hết, có thể nhận thấy hình ảnh những cánh đồng, con kênh của vùng Tây Nam

Bộ hiện lên trên trang viết Trang Thế Hy vừa đậm chất hiện thực vừa đậm chất trữ tình.

Nếu hình tượng sông rạch trong truyện ngắn của Sơn Nam xuất hiện như một cách

ứng xử của con người trước tự nhiên. Đó là khi sông rạch mang đến cho con người những

nguồn lợi thủy, hải sản thì con người tận dụng thiên nhiên để làm phong phú thêm cho đời

sống của mình, khi sông rạch gây khó khăn cho con người thì con người ở đây cũng có cách

ứng xử linh hoạt trước những khó khăn do thiên nhiên gây ra. Yếu tố sông rạch trong truyện

ngắn Sơn Nam còn gắn liền với nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của những tiền nhân thời mở

đất. Trong Một cuộc biển dâu, Sơn Nam miêu tả một cánh đồng ngập tràn nước, nước mênh

mông, nước dậy đùng đùng, nước ngập lênh láng. Đến nỗi, con người chết không có chỗ

chôn, trong cảnh ngộ đó, con người Nam Bộ ứng xử với sông nước bằng cách bó xác người

chết lại, neo ở đáy ruộng. Đợi nước giựt mới hốt xương đem chôn. Đó là cách ứng xử của

con người trong hoàn cảnh nước ngập lụt.

Hình tượng sông nước, kênh rạch Nam Bộ cũng hiện lên trên trang viết của Trang Thế

Hy như một thứ không thể nào thiếu được nhưng ở đây những hình ảnh ấy xuất hiện chủ yếu

với tư cách là không gian của sự sinh hoạt, không gian gắn bó với cuộc sống con người.

Trong truyện ngắn Trang Thế Hy, bức tranh thiên nhiên Nam Bộ hiện lên rất đẹp và

rất thơ. Nhà văn viết về quê ngoại ở vùng bưng biền Đồng Tháp Mười (Áo lụa Giồng), nơi

đó có nét đẹp quen thuộc trữ tình của "những dòng kênh thẳng băng giống như một tấm lụa

dài vô tận, màu xanh gờn gợn”, của một quê hương tươi đẹp có "Vầng trăng bên kia sông"

hay trong những ngày "Nắng đẹp miền quê ngoại". Hay đó là vẻ đẹp hoang sơ của một làng

quê xa xôi, hẻo lánh nằm giữa Đồng Tháp bao la như làng Mỹ Hạnh Đông. Vẻ đẹp ấy hiện

lên với “những rặng tràm thưa”, “những cội vông đồng soi bóng đỏ ối trên gương nước”,

“những chiếc xuồng con lắc lẻo trên đồng sâu”, “những biển cỏ bao la xanh rờn rợn trải

rộng đến chân trời”. Những con kinh ấy “mùa nắng nước phèn trong như lọc, nhìn thì đẹp

nhưng hớp vào thì chua quéo miệng… đến những bữa cơm gạo lúa sạ, hôi mùi cỏ nuốt

không trôi, ăn với cá kho mặn quíu lưỡi và canh chua không có nêm rau thơm…” (Nắng đẹp

miền quê ngoại).

Bên cạnh đó, thiên nhiên trong những trang viết của nhà văn xứ Dừa còn là những

hình ảnh, những sinh vật, sản vật mang đậm “chất Nam Bộ”. Đó là những “lùm lau rông dày

bịt”, nơi có thể nghe “tiếng tu hú kêu trong tàng rậm của một cây bàng”, là những loài

“bông nhỏ xíu mà tím xanh như bông lục bình” (Trong trắng). Đó là những “gò hoang mọc

toàn trâm bầu, dứa gai, lức, mua và chùm lé”, là những “cây dừa lão cao trật ót”(Anh Thơm

râu rồng) sinh ra cái nghề hái dừa hụt sào vô cùng nguy hiểm…..

Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, qua vài nét chấm phá Trang Thế Hy

còn giới thiệu với độc giả những thay đổi kỳ thú của thiên nhiên vùng đồng bằng Nam Bộ:

“Hồi đầu mùa, trong tiết sa mưa giông khoảng cuối tháng ba đến giữa tháng tư âm

lịch, năm nào cũng có những trận mưa dầm, thường là mưa to để đưa cá từ sông lên đồng

tìm chỗ đẻ. Còn đợt mưa cuối năm nầy là để rước chúng nó trở về sông nước khi mùa mưa

chấm dứt” [41, tr.252] .

Đó là mưa rước cá. Ngoài mưa phùn, mưa ngâu, mưa giông. mưa rào….như chúng ta

biết lâu nay thì nơi vùng đất này còn sinh ra thứ mưa đặc trưng riêng của Nam Bộ và cũng là

thứ “đặc sản” riêng của Trang Thế Hy. Cũng nhờ đó, chúng ta mới biết “Té ra quê hương

của cá đồng là kinh rạch sông ngòi. Đìa bàu, ao vũng trên đồng ruộng chỉ là nơi tạm trú để

sinh sôi” [41, tr.252].

Không chỉ có mưa rước cá, Trang thế Hy tiếp tục giới thiệu một kiểu mưa đặc trưng

khác của đất Nam Bộ, kiểu mưa có đặc điểm riêng, có tên riêng hẳn hoi: mưa nấm. Đây là

kiểu mưa từng trận, hết trận này đến trận khác, “không trận nào lớn nhưng có khi dây dưa tới

chiều luôn” [41, tr.410]. Thứ mưa này làm cho gò nấm mọc lên, và những gò nấm mới nứt

đất ấy khi “nở tán dù thì vừa làm nhưn bánh xèo lắm” [41, tr.410] .

Mưa đã mới, đã lạ, gió trong văn Trang Thế Hy cũng là loại gió rất mới, rất khác với

những gió chướng, gió bấc….quen thuộc. Với sự cảm nhận đầy tinh tường bằng thính giác,

nhà văn đã nghe rất sâu một thứ gió riêng của miền quê Nam Bộ hiền hòa: gió nấm mối.

“Gió nấm mối nhè nhẹ lòn qua khe cửa (…). Đó là một thứ gió rất nhẹ thổi từng cơn

ngắn đúng vào mùa nấm mới mọc ngoài vườn. Nó không lạnh buốt như gió bấc làm cho

người ta run rẩy. Nó chỉ lạnh vừa đủ cho một người cô đơn phải thèm thuồng hơi ấm của

bất cứ một kẻ thân yêu nào” [41, tr.35-36].

Đọc những câu văn như thế, người đọc có cảm tưởng như đang được hòa mình vào thiên

nhiên. Ở đó tâm hồn con người trở nên trong sáng, thuần khiết và đẹp đẽ hơn. Chỉ với mưa

và gió thôi, thiên nhiên trong những trang văn của Trang Thế Hy cũng mang vẻ kỳ thú rất

riêng, rất mới mẻ và độc đáo.

Bằng chính những khám phá ấy, Trang Thế Hy đã để lại dấu ấn sáng tạo riêng, sức hấp dẫn

riêng so với các nhà văn cùng thời khi viết về những nét đặc thù của thiên nhiên Nam Bộ.

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Trang Thế Hy không phải chỉ là những hình ảnh tươi đẹp

có được từ sự quan sát bằng cặp mắt yêu cái đẹp. Thiên nhiên trong văn ông còn là những

hình ảnh được phân tích, được chắt lọc từ sự chiêm nghiệm, cảm nhận bằng linh hồn của một

con người tha thiết yêu thương mảnh đất này, tha thiết được tìm hiểu, được khám phá tận

tường hơn về mảnh đất này. Người ta có thể tập nghe ngóng cho tinh tường, kỹ lưỡng, có thể

tập quan sát cho thấu đáo, tinh tế. Nhưng để viết những dòng như Trang Thế Hy đã viết thì

còn cần cả một tấm lòng gắn bó máu thịt với quê hương, với cảnh vật, với cuộc sống thôn

quê. Qua những truyện ngắn của mình, nhà văn không chỉ góp phần khơi gợi những tình

cảm đẹp của con người đối với thiên nhiên nơi đây mà còn mang đến cho độc giả những

kiến thức lý thú về tự nhiên Nam Bộ. Có thể nói, Trang Thế Hy đã phác họa thành công

không gian văn hóa tự nhiên nơi nhà văn đang sống, không phải bằng nét cọ của một họa sĩ

mà bằng nghệ thuật ngôn từ của một nhà văn tài hoa.

Nhắc đến vùng đất Nam Bộ, không thể không nhắc đến lịch sử của một phải trải qua

quá trình đương đầu với tự nhiên hoang vu và dữ tợn. Những lưu dân người Việt đến vùng

đất Nam Bộ hoang sơ, thăm thẳm này bên cạnh việc khai thác, làm cạn kiệt dần những sản

vật tự nhiên, đã biết cách sống hài hòa với tự nhiên, dựa vào thiên nhiên. Tuy vậy, dần về sau

họ cũng bắt đầu ý thức được sự nuôi dưỡng, vun trồng trên vùng đất họ chọn để còn duy trì

và phát triển cuộc sống của chính họ. Và cách ứng xử hòa mình với tự nhiên, lợi dụng những

điều kiện thuận lợi của tự nhiên để phát triển đời sống, dòng giống là sự phản ứng linh hoạt

và thông minh của người Nam Bộ.

Cuộc sống của họ phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân nơi đây rất có ý thức

tôn trọng và mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên. Sống hòa hợp, gắn bó gốc rễ với tự

nhiên, cộng đồng người Nam Bộ nói riêng và cộng đồng người Việt nói chung hướng đến

quan niệm nhân sinh hết sức đáng quí là triết lí sống hài hòa, bình ổn. “Trọng sinh, hướng

thực” là “đạo sống” của người dân Việt từ ngàn xưa. Triết lí sống quan trọng nhất của họ

không chỉ thể hiện ở tâm lí phụ thuộc, ý thức tôn sùng và thái độ hòa hợp với tự nhiên, mà

rộng hơn còn thể hiện ở lẽ sống thuận theo tự nhiên, vô sự với tạo hóa. Khi thiên nhiên bình

đẳng với con người thì con người trở thành một thực thể của tự nhiên và cùng giao hòa với

chúng. Đặc trưng của vùng văn hóa này phải kể đến thái độ ứng xử với tự nhiên trên cơ sở

chinh phục và sống hài hòa với tự nhiên. Cuộc sống tập cho con người thói quen thích nghi

với môi trường, hoàn cảnh, thậm chí họ còn cảm thấy yêu thương, gắn bó máu thịt với tự

nhiên.

Được nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa đồng bằng Sông Cửu Long, Trang Thế Hy lớn lên

trên mảnh đất với những cánh đồng lúa bạt ngàn, những dòng sông chở nặng phù sa…Thế

giới tự nhiên không biết tự bao giờ trở thành người mẹ nuôi dưỡng, chở che, là người bạn

thủy chung của con người. Có lẽ điều đó ăn sâu vào tâm thức nhà văn như một lẽ như nhiên,

tự nhiên như hơi thở, khí trời. Vì thế, ta có thể nhận ra mảng màu thiên nhiên Nam Bộ trong

truyện ngắn trang Thế Hy không chỉ đơn thuần là thiên nhiên khách quan mà đã trở thành

hình tượng nghệ thuật, trở thành người bạn thủy chung của con người. Những dòng kinh,

những biển cỏ bao la, những cánh đồng sâu…là chứng nhân, là người bạn đường gắn bó với

cuộc sống con người Nam Bộ, cùng sẻ chia những niềm vui lẫn nỗi buồn, cả hạnh phúc lẫn

khổ đau.

Trong truyện Trang Thế Hy không gian nông thôn đồng bằng Nam Bộ chiếm tỉ lệ lớn.

Không gian ấy liên quan xa gần với địa bàn kháng chiến, đồng thời dễ dàng khơi gợi “tình

dân tộc”. Ở đó, thiên nhiên và con người hòa nguyện với nhau. Tình yêu thiên nhiên gắn

chặt với tình yêu quê hương đất nước.

Nếu thiên nhiên trong truyện của Phi Vân là những sông rạch ở vùng Bạc Liêu, Cà

Mau với những cảnh sắc êm đềm trên bờ sông Trẹm hoặc xuôi theo rạch Bần….Với truyện

ngắn của Sơn Nam, thiên nhiên hoang dã với những điều kỳ thú trải dài theo mỗi bước khẩn

hoang của những cư dân đất mới phương Nam…thì thiên nhiên trong truyện của Trang Thế

Hy không chỉ là những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ, kỳ thú mà thiên nhiên trong những trang

viết của ông còn là thiên nhiên của chiến cuộc thương tâm. Khi con người đang phải sống

trong cảnh bị chà đạp, bị vùi dập, quay cuồng dưới gót giày của bọn thực dân xâm lược,

thiên nhiên cũng rỉ máu, cũng trở nên tiêu điều, xác xơ.

Những ngày miền Nam đang rỉ máu dưới gót giày đinh thế lực xâm lược và bán nước,

thiên nhiên dường như cũng chịu chung kiếp đọa đày với những con người chân chất nơi

mảnh đất phương Nam. Giờ đây, những “bóng mát dừa xanh, cây lành trái ngọt đang quằn

quại dưới gót chân xâm lược”. Nơi những vườn dừa sum suê với vô vàn những “cây dừa lão

cao trật ót”, có những người nghèo đã phải hộc máu “nằm chết co quắp tại gốc dừa của một

tên điền chủ”. Sự trù phú của mảnh đất phù sa giờ đây chỉ còn là “một vùng đồng áng khô

khan,(…), dưới đất cát mặn rát chân, trên đầu nắng nồng cháy tóc không có thứ huê lợi gì

hấp dẫn”. Và những con người nơi miền quê ấy phải bỏ xứ mà chạy giặc, để lại “một mảnh

trăng và một cây bằng lăng chết khô vì bị bom bứng gần tróc gốc”, những “cái gò trống

lỏng, xác xơ, trơ trụi”. Những “ao rau muống nước tù ứ đọng đen ngòm”. Đến “tiếng con

vạc sành gáy ngoài vườn” cũng trở nên “buồn vô hạn”.

Không khí bao trùm lên thiên nhiên giờ đây là không khí của sự thiếu vắng ánh sáng,

sự kìm kẹp đến ngẹt thở. Mảnh trăng, vườn dừa, cánh đồng giờ trở nên vắng lặng, hiu hắt bởi

sự tàn phá ghê gớm của chiến tranh. Đằng sau những trang viết về thiên nhiên ấy, dường như

nhà văn gửi gắm một quan niệm rất nhân văn: thiên nhiên cũng mang linh hồn của đất, của

người - nơi cung cấp nguồn sống cho nó.

Hơn nữa, thiên nhiên còn là chỗ dựa, nâng đỡ tinh thần cho con người. Chính khi sống

chan hòa với thiên nhiên, nhận thức được giá trị và vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng là thời khắc

con người nghiệm ra những bài học của cuộc sống, về tình người, cả về đạo đức, về lẽ phải,

tìm lại thiên lương. Vẻ đẹp của thiên nhiên có khả năng vẫy gọi thiên lương của con người.

Vẻ đẹp của thiên nhiên như vị thuốc quý cứu sống tâm hồn con người, thôi thúc những kẻ lạc

lối quay về. Quan niệm ấy được nhà văn bày tỏ trong truyện ngắn Nắng đẹp miền quê ngoại,

qua sự hồi sinh của nhân vật người anh họ:

“Em Thơm ơi! Có những kẻ muốn tàn phá hết, sát phạt hết, không muốn chừa lại một

chút gì tươi đẹp trên dải nước non này. Nhưng cái đẹp vẫn muôn đời tồn tại: biển cỏ đẹp,

dòng kinh đẹp, màu nước đẹp, cô gái chèo ghe đẹp, tiếng hót con chim đẹp và tấm lòng bao

dung tha thứ của người cha rộng lượng của em cũng đẹp đẽ vô cùng.

Đến như cái tâm tư đen tối của anh mà cũng chói lên được vài tia sáng đẹp dưới ánh

nắng miền quê ngoại.

(…) Anh chỉ muốn hứa với em rằng tâm tư u tối cuả anh từ đây sẽ trong sáng lần lần

nhờ sự soi rọi của nắng đẹp miền quê ngoại” [41, tr.436].

Vì vậy, con người cần phải có văn hóa khi ứng xử với tự nhiên, biết tôn trọng và sống

hài hòa với tự nhiên. Bởi tự nhiên cũng góp phần làm cho cuộc sống đẹp hơn gấp nhiều lần.

Đó có lẽ là thông điệp mà ta có thể nhận ra đằng sau những trang viết về thiên nhiên của

Trang Thế Hy. Điều đó cũng lí giải vì sao những dòng viết về thiên nhiên trong truyện ngắn

của Trang Thế Hy là những dòng trĩu nặng tình cảm ưu ái dành cho thiên nhiên.

Tóm lại, hệ thống hình ảnh thiên nhiên của vùng đất Nam Bộ như dòng sông, cánh

đồng, kênh rạch, mưa, gió…với những đặc trưng rất riêng đã trở thành những biểu tượng văn

hóa độc đáo trong sáng tác Trang Thế Hy. Nó không chỉ là một bộ phận của tác phẩm mà

thiên nhiên ấy còn góp phần khám phá và biểu hiện một cách chân thực hình ảnh rất riêng,

rất lí thú của một vùng đất mới. Trong sáng tác của mình, Trang Thế Hy không đơn thuần

miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của thiên nhiên. Ông trải lòng mình với cảnh vật, soi chiếu thiên

nhiên từ nhiều hoàn cảnh, nhiều chiều kích khác nhau, từ đó mang đến những ý nghĩa mới

mẻ cho những biểu tượng vốn quen thuộc, mở ra cho người đọc những liên tưởng mới mẻ,

đầy thú vị. Đọc tác phẩm Trang Thế Hy có thể cảm nhận được ý thức trân trọng tự nhiên,

tình cảm ưu ái mà con người dành cho tự nhiên. Đọc Trang Thế Hy vì thế, nếu là người đang

sống trên mảnh đất này sẽ cảm thấy rất tự hào vì thiên nhiên của quê hương Nam Bộ khi đi

vào trang viết của ông mang đậm linh hồn, hơi thở của một vùng đất bằng chính những đặc

trưng hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc. Nếu là người có một thời sống ở mảnh đất này

nhưng vì cuộc sống phải tha hương cầu thực thì những trang viết của Trang Thế Hy không

chỉ cho họ thêm niềm tự hào mà còn gợi lên trong lòng một cảm giác cồn cào nhớ quê đến

quay quắt, cháy bỏng, thầm mong một ngày nào đó được trở về. Còn nếu là người chưa một

lần đặt chân đến đây, thiên nhiên hiện lên trên những trang viết của Trang Thế Hy chính là

lời giới thiệu giúp họ hiểu thêm về con người và vùng đất mang đậm dấu ấn văn hóa sông

nước rất đáng yêu và đáng tự hào của tổ quốc.

2.1.2 Với môi trường xã hội

Văn hóa Nam Bộ có một bản sắc riêng, thể hiện trong lối sống, trong giao tiếp, trong

ngôn ngữ, trong tư tưởng tình cảm, trong nghệ thuật, trong ăn mặc, sinh hoạt, hội hè, trong

mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng…Trong truyện ngắn của Trang Thế Hy, mối quan hệ

giữa con người với tự nhiên là quan trọng, nhất là ở buổi đầu khi Nam Bộ còn là vùng đất

mới. Nhưng mối quan hệ đó vẫn là thứ yếu và phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người với

người. Thể hiện thái độ trân trọng và ứng xử hài hòa với tự nhiên nhưng nhà văn luôn tâm

niệm yếu tố đất đai, sông hồ chỉ thật sự gắn bó máu thịt và có ý nghĩa đối với con người khi

ở đó có phần kỉ niệm giữa con người với con người, có tình người.

Người Nam Bộ trong tác phẩm của Trang Thế Hy mang những đặc điểm chung của

người Việt Nam bởi tất cả đều thuộc một cộng đồng dân tộc, có cùng cội nguồn lịch sử, văn

hóa, ngôn ngữ, sinh hoạt… Nhưng người Nam Bộ lại có những tính cách riêng do hiện diện

trong điều kiện sống khác biệt trên một vùng văn hóa khác. Điều kiện tự nhiên, xã hội mà

con người phải đối diện và thích nghi đã làm thay đổi những nét chung của người Việt Nam

về các mặt phong tục, tập quán, tâm lý, tình cảm… tạo nên nét tính cách Nam Bộ đặc thù.

Nhìn chung, trong đời sống của người Nam Bộ, do nhiều nguyên nhân xã hội và lịch

sử, tính cộng đồng luôn chiếm ưu thế so với tính cá nhân, ngược lại với các nước phương

Tây.

Từ nhiều nơi trên những miền xa xôi của đất nước, những con người vì nhiều hoàn

cảnh khác nhau phải tiến về miền Nam hoang vu để làm lại cuộc đời. Đứng trước thiên nhiên

hùng vĩ, con người chỉ là những sinh vật bé nhỏ, yếu đuối, phải cùng nhau nối lại những bàn

tay mỏng manh để tạo nên sức mạnh chống lại sự hoang sơ của thiên nhiên, sự hung bạo của

thú dữ, những thiếu thốn nơi miền đất mới… Đoàn kết một cách tự giác, con người miền

Nam trong buổi đầu sống với nhau trong tình máu mủ ruột thịt, keo sơn gắn bó. Đó chính là

một truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh tinh thần đã tạo dựng nên một miền Nam giàu có và

xinh đẹp như ngày nay.

Người dân Nam Bộ rất có ý thức trong giao tiếp, họ luôn luôn ứng xử theo nguyên tắc

trọng tình cảm, ôn hòa, vừa phải. Trong ứng xử với tự nhiên, với xã hội, với con người, bao

giờ người Nam Bộ cũng theo nguyên tắc: “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (cái

gì thuận với tự nhiên thì còn, trái với tự nhiên thì mất).

Nếu tính trọng tình hình thành trong môi trường làng xã khép kín của Bắc Bộ với những

người sống ổn định, quen biết nhau rất rõ, có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; thì Nam

Bộ là đất của dân tứ xứ, con người không quen biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ

giúp đỡ lẫn nhau, do vậy cơ sở của quan hệ giữa họ ở đây không phải tình mà là nghĩa. Hơn

thế nữa, Nam Bộ còn là đất của những lưu dân bần cùng, những người đi đày vô sản (khác

với nông dân Bắc Bộ hữu sản), bởi vậy mà người Nam Bộ liều lĩnh, đầy nghĩa khí. Vì thế mà

hình thành nên tính trọng nghĩa khinh tài.

Người Nam Bộ hay uống máu ăn thề, hay kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử. Họ coi

cái chết nhẹ tựa lông hồng, có khí thế ngang tàng nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá. Lục Vân

Tiên tay không bẻ cây đánh cướp để giải thoát Nguyệt Nga (người Nam Bộ rất thích và

thuộc Lục Vân Tiên chính là do tính trọng nghĩa này). Anh hùng Nguyễn Trung Trực khảng

khái: "Bao giờ hết cỏ nước Nam, thì dân Nam mới hết người đánh Tây”.

Tính trọng nghĩa khinh tài khiến người Nam Bộ coi nhẹ tiền tài, của cải vật chất. Hệ

quả thứ nhất của tính trọng nghĩa là tính hào hiệp, sống hết mình. Hệ quả thứ hai của tính

trọng nghĩa là tính hiếu khách. Do trọng nghĩa, hào hiệp, lại được thiên nhiên ưu đãi, trong

khi đất rộng người thưa nên bất cứ người Việt nào đến đây cũng đều là bạn. Hệ quả thứ ba

của tính trọng nghĩa là tính thẳng thắn, bộc trực. Người Nam Bộ nghĩ sao nói vậy, nói

chuyện có khi “bụm miệng không kịp” vì chuyện gì cũng “huỵt tẹt” cũng “bốp chát”, “rổn

rảng”,… không giữ kẽ, quanh co úp mở, vòng vo như người Bắc Bộ: “Ví dầu cầu ván đóng

đinh, Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi, Khó đi mượn chén ăn cơm, Mượn ly uống rượu,

mượn đàn kéo chơi”. Họ yêu trung ghét nịnh; phò trung phạt nịnh; phò chánh trừ tà; ân oán

phân minh . Người Nam Bộ có tác phong rõ ràng, dứt khoát: nói như rựa chém xuống đất;

làm ra làm, chơi ra chơi; làm thì làm tới chết bỏ, còn ăn chơi thì phải xả láng mới đáng mặt.

Trong tác phẩm của Trang Thế Hy, chúng ta nhận thấy con người Nam Bộ giao tiếp

với nhau theo nguyên tắc trọng tình nghĩa, luôn lấy cái tình, cái nghĩa làm gốc để ứng xử và

giải quyết mọi chuyện. Họ rất sợ người khác phải buồn hay thất vọng vì họ. Họ luôn mong

muốn người khác phải vui, phải hài lòng. Họ sẵn sàng chịu nhận phần thiệt về mình một

cách tự nguyện mà không có chút hờn trách nào.

Đó là những con người rất trọng ân nghĩa. Chị Ba Hường trong truyện ngắn Nợ nước

mắt của Trang Thế Hy là một trường hợp tiêu biểu. Trong truyện ngắn này, cuộc gặp gỡ

giữa nhân vật tôi và chị Ba Hường chỉ là cái cớ để những dòng tâm sự được dịp tuôn trào.

Đầu tiên là sự cảm động của chị trước việc trả “nợ nước mắt” của chị Liên. Chỉ vì một sự

nhầm lẫn (chị Ba Hường đã ôm nhầm xác chồng chị Liên mà khóc vì tưởng đó là chồng

mình) mà chị Liên lại xem đó là ân nghĩa. Lối ứng xử trọng nghĩa, trọng tình còn được thể

hiện qua những tình cảm mộc mạc, chân thành và đầy cảm động của chị, của bao người dân

thật thà, nhân hậu nơi xóm ấp dành cho “tôi”, cho cái thùng bản thảo của “tôi” qua bao

nhiêu trận càn của giặc. Cũng như bà con ấp Vàm Kinh, chị đã hết lòng bảo ban cho một vị

cán bộ có cỡ trong những ngày nguy khốn của cuộc chiến. Giờ gặp lại, ông ta dửng dưng,

lạnh lùng như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra, như chẳng có bất cứ mối liên hệ nào trước

đó. Tiếp đó là sự phẫn nộ của chị trước sự hờ hững, lạnh lùng của một con người đã “quên

cái tình, cái nghĩa, cái tấm lòng, quên miếng cay, miếng đắng người khác chia sẻ với mình

trong hoạn nạn” [41, tr.192]. Chính lúc ấy cũng là giây phút ăn năn của tôi về những ngày

tháng vô tâm của mình…Sự kiện này nối tiếp sự kiện khác được đề cập trong truyện chính là

cái cớ để qua đó tình người, tình đời được biểu lộ.

Bất cứ sự sẻ chia nào cũng đáng quý. Nhưng sự sẻ chia đến từ những nơi dư giả

không làm cho chúng ta xúc động bằng việc những con người cũng rất khó nghèo chia sẻ với

nhau. Họ chia sẻ không phải một lần và bằng cái phần dư giả của mình bởi người nghèo thì

có cái gì dư giả ngoài cái sự nghèo. Cũng có những nghệ sĩ hát bội nghèo, lại đang lúc tuổi

già, gặp bạn bè ở “điểm hẹn” là cái lề đường tráng xi - măng của một con đường nhiều bóng

râm, những thứ có được trong buổi hội ngộ là một xị rượu thuốc màu nâu và một bọc trái xơ

ri chín đỏ. Chị Hai Nhạn, một trong số những người bạn nghèo đó, đã cho biết ý định của

mình “Chị sẽ rước anh Năm, chị Năm về dưới quê. Chị không khá giả gì đâu, nhưng đùm

bọc trong bước đầu thì dư sức” [41,tr.309]. Nghèo mà dám cưu mang người khác, mà cưu

mang không chỉ một người, thì thật là liều lĩnh, một sự liều lĩnh đầy nhân ái.

Tương tự vậy, trong Những người lấp hố bom, người đọc bắt gặp cách hành xử của bà

Châu, người con dâu hiếu thảo - vì gia đình chồng mà hy sinh tình yêu, hy sinh tình vợ

chồng, hy sinh cả hạnh phúc của mình. Còn người chồng - Ông Nghiệp - cũng vì muốn được

vợ hạnh phúc mà cam tâm chấp nhận thiệt thòi.

Bên cạnh đó, người đọc còn bắt gặp trong truyện ngắn Trang Thế Hy lối hành xử này

qua hình ảnh người nghệ sĩ. Đó là một nhà thơ đang trượt dốc theo những thú ăn chơi sa đọa,

vẫn biết dùng những đồng tiền mình kiếm được cứu vớt một mảnh đời đang bị cuộc sống

khó khăn nhấn chìm (Người bào chế thuốc giảm đau).

Chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra cách ứng xử của những con người nghèo khổ

như thế này qua một số nhân vật trong truyện ngắn khác của Trang Thế Hy như: chị Châu

trong Vết thương thứ mười ba, ông họa sĩ Hải trong Tiếng hát và tiếng khóc,…Vì thế, đọc

Trang Thế Hy có thể nói rằng, truyện ngắn của ông còn là những bài học về cách ứng xử của

con người trong hoàn cảnh khốn khó.

Con người trong truyện ngắn của Trang Thế Hy phần nhiều là những người dân quê

mùa ít học (không qua đào tạo trường lớp), không phải là thành phần trí thức nên có thể thấy

cách ứng xử của họ có gì đó rất “bình dân”. Họ là những người sống có tình, có nghĩa. Tình

nghĩa không thể thể tách rời khỏi cuộc sống của họ. Nhờ tình nghĩa mà biết thương yêu, tha

thứ, biết phân biệt thiện ác, đúng sai. Hầu hết những nhân vật này đều có một điểm chung là

trước cái nghèo, cái khổ họ đều “quay sang” những người cùng cảnh ngộ mà nương tựa và

đùm bọc nhau để sống. Trước cái nghèo, nếu như con người trong truyện ngắn Nam Cao

thường nhìn lại chính mình để tự điều chỉnh hành vi của bản thân thì ngược lại, con người

trong truyện ngắn của Trang Thế Hy thường nhìn sang những người xung quanh để tự điều

chỉnh mình. Đây có thể nói là điểm độc đáo của truyện ngắn Trang Thế Hy trong quá trình

phản ánh cách ứng xử xã hội của người Nam Bộ.

Có thể nói, cách ứng xử mộc mạc, chân tình này của họ là những bài học đáng để cho

tất cả chúng ta học hỏi. Họ sống bằng suy nghĩ chân thật, mộc mạc của những người dân quê

ít học nhưng rất “hiểu chuyện”. Chúng ta thấy trong cách ứng xử của họ tuyệt nhiên không

có một sự nghi kị hay lợi dụng kiểu “giậu đổ bìm leo” mà rất đỗi chân thành như thể “moi

cả gan ruột mình ra” để hiểu và sống với nhau.

Người ta càng sống giàu tình nghĩa thì lại càng đớn đau trước những thay đổi của lòng

dạ con người. Người Nam Bộ đối đãi hết mình với người khác, sẵn sàng đùm bọc, sẻ chia,

kiểu hôm nay có tiền thì dốc túi cho nhau, ngày mai thiếu thì tính sau nên đối với họ những

hành vi ứng xử trái với lẽ phải đạo đức bao giờ là những hành vi đáng lên án, phê phán gay

gắt. Chẳng hạn như việc làm đáng lên án của nhân vật Diên trong truyện Về nhà trước cơn

mưa. Đây là nhân vật được tác giả giới thiệu là một người được học chữ Nho từ nhỏ. Học

chữ Nho cũng có nghĩa là học đạo lý. Cái đạo lý “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” ấy anh đã

thấm nhuần từ hồi còn trẻ. Bằng chứng là: “Cả hai cái việc nghĩa lớn trong lịch sử đất nước

của thế hệ mình : đánh Pháp và đánh Mỹ tôi đều có làm và làm tốt (…). Trong quá trình làm

việc nghĩa lớn đó, gặp những việc nghĩa nhỏ hơn nhưng muốn làm cũng phải đem mạng

sống ra đánh đổi, tôi không hề tính toán so đo...” [41, tr.396-397]. Thế mà “ trong giai đoạn

cuối đời nầy, hồi năm kia, lúc sức khỏe còn bình thường, trí tuệ còn minh mẫn, đầu óc còn

tỉnh táo, tôi hèn nhát bỏ chạy trước một việc nghĩa rất nhỏ, có thể nói là hết sức nhỏ…” [41,

tr.397]. Đó là việc làm ngơ, thoái thác việc cưu mang một đứa trẻ nhỏ tội nghiệp mới lên hai,

ba tuổi bị mẹ buộc phải bỏ rơi vì hoàn cảnh éo le: chồng chị là lơ xe đường dài, bị tai nạn

chết trên một đường đèo. Chị cũng đi trên chuyến xe định mệnh ấy nhưng không chết, chị

đang mang thai. Chị ra viện với một cái chân què phải đi cà thọt suốt đời và cũng phải mất đi

một con mắt. Thân tàn tật như chị làm sao nuôi nổi mình, nói chi đến chuyện nuôi con.

Trước hoàn cảnh đó mà anh bỏ chạy, để rồi điều đó trở thành nỗi ám ảnh, dằn vặt anh hết

đời, dù anh đã cố tìm cách để biện minh cho mình, dù anh đã tìm đến tác phẩm Mark Twain

về Sự suy đồi trong nghệ thuật nói láo để hy vọng thoát tội. Diên bị ung thư. Và những ngày

nằm chờ chết là những ngày anh sống triền miên trong đau khổ không thể dứt ra được khỏi

mặc cảm vô tâm, hèn nhát. Diên đã cố tìm đến với ảo tưởng để mong một sự giải thoát,

nhưng anh đã thất bại.

Sự dằn vặt trong tâm hồn nhân vật Diên về những gì mà mình đã làm trong cuộc đời,

giữa việc nghĩa lớn anh đã làm việc nghĩa nhỏ anh đã “bỏ chạy”…cho thấy trong cuộc sống

đời thường nhiều vị kỷ nếu con người không giữ “tình nghĩa” thì con người cũng đánh mất

luôn sự thanh thản trong tâm hồn. Qua cái nhìn phê phán trước hành vi ứng xử đi ngược lại

với truyền thống của người Nam Bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung, nhà văn đã mang

đến cho độc giả lời cảnh báo về ranh giới mong manh giữa thiện và ác, giữa đạo đức và phi

đạo đức … Từ đó, nhắc nhở con người cần có thái độ sống đúng đắn trước cuộc đời, và đừng

quên cảnh giác với chính mình, không để cho ảo tưởng đạo đức đánh lừa.

Người Nam Bộ xưa nay luôn giàu lòng bao dung, sẵn sàng tha thứ cho những ai biết

hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không bỏ qua cho những kẻ gian ác, điêu ngoa. Đối với những

người lương thiện sống trung thực, nhân nghĩa thì dẫu từ đâu đến thì cũng được người dân

nơi đây đón tiếp thân tình theo đúng nghĩa “tứ hải giai huynh đệ”, sẵn sàng cưu mang giúp

đỡ người đói rét, bệnh tật . Họ coi trọng nhân - nghĩa - trí - dũng - liêm nhưng họ cũng rất

ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, những kẻ “vong ân bội nghĩa”, “tham phú phụ bần”.

Vì dị ứng với những hành động vong ân bội nghĩa nên người Nam Bộ thường đứng về

phía các nhân vật là nạn nhân của những hành vi đáng phê phán này với cái nhìn cảm thông

và rất độ lượng. Một số truyện ngắn của Trang Thế Hy cho ta thấy rõ điều đó. Cuộc đời của

những người thiếu phụ lỡ lầm, bất hạnh vì bị phản bội hiện lên không phải bằng sự rẻ khinh

mà bằng một sự cảm thông và một tình cảm ưu ái của những người xung quanh. Đó là “tôi”

trong Mỹ Thơ. “Tôi” đã bị người yêu xưa phản bội lý tưởng cao đẹp. Đó là người thiếu phụ

trong Nghệ thuật làm bố dượng. Chị đã bị người yêu rơi với cái bụng bầu đang ngày càng

lớn. Điều này cũng đã góp phần làm cho truyện ngắn của Trang thế Hy thêm phần nhân ái

và nhân văn hơn.

Ngoài cách ứng xử trọng nghĩa thì tính thật thà, ít nói cũng là đặc điểm chung của

người miền Nam. Dù là một nông dân ít học hay là một học giả uyên bác, dù là chị buôn

gánh bán bưng hay anh trí thức thì lời ăn tiếng nói của họ cũng đều toát lên một phong thái

như nhau: chân chất, thật thà, hiền lành. Đó là những con người mang đậm bản sắc con

người Nam Bộ với kiểu ăn ngay nói thẳng, không giấu diếm, không vòng vo. Người bình

dân có một đúc kết thật hay rằng “lòng đầy miệng mới nói ra”. Con người trong truyện ngắn

Trang Thế Hy dù sống thiên về nội tâm, rất kiệm lời nhưng họ có một nhu cầu rất lớn, đó là

nhu cầu bày tỏ tâm sự với những người thân tín.

Đây là lời thú tội chân thành của nhân vật trong truyện Về nhà trước cơn mưa khi

trong đời anh đã làm những việc nghĩa lớn nhưng trước việc nghĩa nhỏ (cưu mang một đức

trẻ có hoàn cảnh đáng thương), anh đã “bỏ chạy”:

“Nhà văn Hemingway, khi miêu tả cái chết vì trò chơi giả đấu bò của một thiếu niên

Tây Ban Nha, có cậu bé nói rằng cậu bé nầy chết đem theo tất cả cái ảo tưởng còn nguyên

vẹn chưa kịp đánh mất một ảo tưởng nào. Tôi đọc truyện này lâu rồi thỉnh thoảng có đọc lại

và suy nghĩ mãi mà không hiểu được Hêmingway muốn tâm sự điều gì với bạn đọc bằng cái

ý đó. Ông thương xót cậu bé hay ganh tỵ với hạnh phúc của cậu ta, niềm hạnh phúc được

mang theo về cõi chết toàn bộ cái hành trang ảo tưởng còn nguyên vẹn? Mãi đến khi má tôi

chết, tôi mới hiểu, má tôi nói: “Phải chi hồi mới giải phóng gặp được con, má chết liền thì

hay biết mấy. Lúc đó xuống âm phủ, gặp ba con, má nói chuyện gì cũng vui vẻ tốt đẹp. Bây

giờ muốn ba con vui, má phải nói láo…”. Má tôi vỡ mộng vì cái gì anh biết rồi. Té ra má tôi

cũng nghĩ rằng chết đem theo chẳng nhiều ảo tưởng chừng nào tốt chừng nấy, mất cái nào

cũng uổng vì ảo tưởng luôn là đẹp. Tôi đang kiểm điểm hành trang ảo tưởng của tôi trước

khi đi theo má tôi. Không còn cái nào hết. Cái ảo tưởng sau cùng về người con “dũng” sẵn

sàng làm việc nghĩa của bản thân mình cũng đổ vỡ mất rồi”[41, tr.400-401].

Còn đây là suy nghĩ bộc trực, thẳng thắn của một phụ nữ nghèo bán quán nước bên

đường trong câu chuyện với cậu em làm nghề viết tuồng:

“Một người nghèo khổ biết nói mà làm thinh không nói đưa cho cậu mảnh giấy ghi

câu đố: “Đố ông thầy tuồng biết trong bụng tôi đang khóc hay đang hát ?”. Đó mới là hiểm

hóc…. Cậu em à, hôm nọ, em nói rằng nghề viết tuồng của em là nghề bạc bẽo. Chị biết em

không nói thật lòng đâu mà em nói lẫy. Bây giờ chị nói thật lòng với em đây: nếu như em

thật sự yêu nghề…thì em phải lắng nghe cho được ngôn ngữ lặng thầm của những người đau

khổ biết nói mà làm thinh không nói” [41, tr.450].

Trong Nợ nước mắt, nhân vật chính của truyện là chị Ba Hường. Chị Ba Hường ôm

xác của một chiến sĩ tưởng nhầm là chồng mình và khóc. Sau đó, người ta chở về một cái

xác khác, bảo đây mới đúng là chồng chị. Nhiều người hỏi chị có cảm giác ngỡ ngàng lúc

ôm xác người khác khóc mà tưởng là chồng mình. Chị thật lòng bảo:

“Tôi nhớ kĩ là tôi không có mắc cỡ chút nào hết anh Hai à! Nước mắt khóc người chết

vì tổ quốc đâu phải là nước mắt dư mà mình mắc cỡ phải không anh?” [41 ,tr.184].

Mỗi người có một cuộc đời riêng, một số phận riêng, một quan niệm riêng nhưng họ

gặp nhau ở cách suy nghĩ bộc trực, ở cách hành xử thẳng thắn, chân thật.

Rời bỏ quê hương ra đi, tuy đói nghèo cực khổ nhưng người Việt phương Nam đã giữ

gìn truyền thống của tổ tiên như một gia sản quí báu trước hoàn cảnh xa lạ. Dù sinh sống

trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì họ vẫn thuộc nằm lòng những bài học đạo lý cổ truyền làm

phương châm xử thế và việc gia huấn được gìn giữ rất nghiêm. Những bài học đạo đức được

nhiệt tình truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ khác mà dường như không hề xưa cũ.

Chính nhờ căn bản đạo đức đó mà dù lưu lạc trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông

dân Nam Bộ vẫn không mất đi bản chất thật thà hiền lành của mình. Cho dù ở tận nơi xa xôi,

hẻo lánh nhất của xứ sở, con người Việt Nam vẫn lấy đạo đức làm căn bản sống của mình,

và càng khốn khổ bao nhiêu thì tinh thần đạo đức của họ lại càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Sở dĩ

người Việt biết chịu đựng như thế chỉ vì ở trong họ có một niềm tin vững chắc về sự thắng

thế của lẽ phải trong cuộc đời, điều mà bao nhiêu giáo lý thấm nhuần ở trong sinh hoạt từ

xưa đã khuyên dạy họ qua lẽ nhân nghĩa nhiệm mầu, qua các ý niệm ở hiền gặp lành, ở ác

gặp dữ, trời phật luôn luôn phù hộ người hiền lương… Dù sống hoàn cảnh nào đi chăng nữa

thì người dân Nam Bộ vẫn xem trọng lễ giáo, đạo đức của con người. Họ luôn sống theo lễ

giáo, đạo đức mà xã hội đặt ra trong quá trình giao tiếp với nhau, coi đó là cái làm nên nhân

cách con người.

Như vậy, có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ, những nét tính

cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã ăn sâu vào tiềm thức của

Trang Thế Hy. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết

của ông một cách tự nhiên như một điều tất yếu không thể nào khác được.

Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ và mang theo một thứ văn hóa hoàn toàn xa lạ.

Xã hội gần định hình rõ bộ mặt nông thôn và thành thị với những hoạt động, những phản ứng

xã hội đặc trưng của nó. Những phong tục, lễ hội còn duy trì khá đậm nét truyền thống ở

phía miền Tây Nam Bộ. Nhưng tại Sài Gòn, văn hóa Tây Âu ngập tràn làm thay đổi bộ mặt

cổ kính của đất Gia Định xưa. Bên cạnh cuộc sống khó khăn, bẩn chật của lớp thị dân nghèo

trong những khu lao động nghèo là lối sống chạy theo văn minh Âu Mỹ. Quan hệ làng nước,

xóm giềng là nền tảng của ứng thể xã hội người Việt vẫn còn hiện diện. Song cùng với cuộc

sống vật chất và nhu cầu vật chất kiểu mới, sự ích kỷ, tính toán, thậm chí đua đòi, xa lạ với

truyền thống Á Đông cũng xuất hiện.

Nếu như văn hóa Việt Nam hòa quyện, gắn kết con người cá nhân trong cộng đồng

dân tộc, thì thực dân Pháp lại thổi luồng tư tưởng về cái tôi và vai trò của tôi trong lịch sử ở

Nam Kỳ. Một trong những cách đập vụng văn hóa Việt Nam của người Pháp là thế: mang

cuộc sống vật chất vào lôi kéo cuộc sống dân dã, thôn quê ở lũy tre, đồng lúa.

Không chỉ bị tiêm nhiễm văn minh kiểu Tây phương, không ít kẻ tự biến mình thành

nô lệ của thực dân với vẻ mỹ mãn sung sướng, thậm chí còn hồi hộp xúc động. Xã hội ấy tạo

nên hai khuynh hướng văn hóa: một ứng phó và chấp nhận mau lẹ những hành xử khác

truyền thống, một dị ứng và phản kháng cục mịch, thẳng thắn; một theo đuổi, xu nịnh, một

chân chất, giản đơn.

Pháp đi. Mỹ đến. Cuộc xâm lược của Mỹ cả về quân sự và văn hóa làm tình hình đô

thị miền Nam chao đảo lớn. Cuộc sống bẩn chật trong những xóm nghèo song song tồn tại

bên sự xa hoa, lộng lẫy của trung tâm Sài Gòn. Quán bar, vũ trường mọc lên và những cô gái

nông thôn khoác áo thị thành đi đổi những đồng đô la bất hạnh làm cho những giá trị văn

hóa, đạo đức có phần bị phai mờ. Bởi xu hướng văn hóa Mỹ trong khoảng giữa thế kỷ XX

đang lấn dần mặt bằng văn hóa miền Nam, gây những tác động không nhỏ trong toàn xã hội.

Lối sống vật chất, trọng đồng tiền đang biến miền Nam thành một xã hội muôn mặt và đầy

ích kỷ.

Bên cạnh cách ứng xử trọng nghĩa khí, bộc trực, thẳng thắn, bao dung, trong hoàn

cảnh mới nguời Việt Nam Bộ còn bộc lộ sự năng động và thiết thực trong lối sống. Tuy thiên

về âm tính, nhưng người Việt truyền thống cũng đã có sẵn tính linh hoạt, mặc dù đó là cái

linh hoạt "cò con", lanh lợi, biến báo. Song không có cái linh hoạt từ trong máu thịt ấy của

người Việt thì không thể có tính năng động Nam Bộ hôm nay. Có thể nói, tính năng động là

bước phát triển mới của tính linh hoạt truyền thống ở địa bàn Nam Bộ. Sự hình thành văn

hoá Nam Bộ, trong cả thời gian lẫn không gian, đã gặp tính mở - thoáng và tính năng động

của phương Tây. Về không gian, Nam Bộ là cửa ngõ của Việt Nam tiếp xúc với các luồng

giao thông đường biển từ phương Tây tới. Về thời gian, thời điểm hình thành văn hoá Nam

Bộ trùng với thời điểm văn hoá phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, mà nơi đầu tiên thâm

nhập vào chính là Nam Bộ.

Sự năng động Nam Bộ có biểu hiện rất đa dạng. Trước hết, nó thể hiện ở khả năng dễ

thay đổi cách sống. Thứ hai, nó thể hiện ở khả năng dễ thay đổi chỗ ở. Thứ ba, nó thể hiện ở

khả năng dễ thay đổi nghề nghiệp. Từ đó, người Nam Bộ cũng sinh ra khả năng dễ tiếp nhận

cái mới. Các vấn đề này cũng được thể hiện trong các sáng tác của nhà văn Trang Thế Hy.

Không tiện trực diện đề cập đến sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ, nhà văn nhắc đến

tội ác chiến tranh của đạo quân xâm lược Pháp trước 1954 và về thân phận bi đát của những

người dân lương thiện trước dục vọng và bom đạn của kẻ thù (1TNắng đẹp miền quê ngoại, Áo

lụa giồng...). 1TTrang Thế Hy cũng không ngần ngại đề cập đến mặt trái của xã hội Sài Gòn và

cách ứng xử của những con người đang trượt dài trên dốc của lối sống vật chất chủ nghĩa.

Trong 1TMột thiếu nữ không đáng kể, người đọc bắt gặp hình ảnh 1Tcô con gái nhà lành

phải nuốt nhục, bán mình để nuôi em ăn học. Nhưng rồi không thể đối diện và chịu đựng nỗi

ô nhục ghê gớm ấy, cô gái đã tự tử. Một thứ văn hóa xa lạ với người Việt đã xuất hiện trong

lòng xã hội, làm thay đổi cuộc sống và tâm hồn con người.

Trong truyện ngắn Nguồn cảm mới, nhà văn cho ta thấy một cách bán rẻ nhân cách

nữa của con người. Đó là cách người cha âm thầm nhận tiền của một phú thương ở Chợ Lớn

để bán con gái ruột của mình. Trước tình cảnh cực kỳ khốn đốn, người ta bắt đầu dấn thân

vào những việc làm cạn nghĩ và bất nhẫn.

Trước sự đổi thay của thời cuộc, sự xâm nhập của những lối sống, quan niệm sống

mới, văn hóa Nam Bộ đã có những đổi thay lớn. Bức tranh hiện thực về con người và vùng

đất này trong truyện ngắn của Trang Thế Hy giờ đây bên cạnh những gam màu sáng (con

người sống nghèo khó nhưng chân chất, nghĩa tình) bắt đầu xuất hiện những gam màu xám.

Những điều này đã góp phần làm cho hiện thực vùng đất phương Nam trong truyện ngắn

Trang Thế Hy thêm phần chân thực và sinh động hơn.

Tuy thế, con người Nam Bộ trước cuộc sống hiện đại đấy biến động, không đơn giản

chỉ chịu sự tiêm nhiễm của nền văn hóa khác mà có sự ứng biến, thích nghi và biết chọn

những giá trị phù hợp để làm giàu thêm vốn văn hóa sẵn có. Niềm tin ấy được Trang Thế Hy

khẳng định trên chính những trang viết gan ruột của mình. Khi viết về những con người lầm

lạc, chúng ta dễ dàng nhận ra trong ánh mắt đau đáu của nhà văn cái nhìn cảm thông. Theo

ông, con người lầm lạc là con người bất hạnh, đáng thương, cần nhận được sự đồng cảm chứ

không phải sự khinh bỉ, rẻ rúng . Họ chỉ là những nạn nhân tội nghiệp của sự nghèo khổ,

quẫn bách. Từ trong bản chất họ không phải là những người đáng lên án, đáng kết tội. Trái

lại, họ là những người đáng thương, thậm chí đáng được trân trọng.

“Người nghèo thì có gì ngoài sức lao động? Đem lao động bán không người mua, rốt

cuộc phải đi bán tới cái đáng lẽ không nên bán. Chính tôi hồi năm ngoái, giữa những ngày

đói lạnh vì thất nghiệp ,có lần tôi tiếc rẻ tại sao tôi không phải là một người phụ nữ để có thể

làm gái điếm nuôi thân”[41, tr.25-26].

Ở đây, Trang Thế Hy không hoàn toàn ủng hộ cái cách giải quyết tình thế đói khát

bằng việc bán trôn nuôi miệng, bằng chứng là ngay trong truyện này, ông đã cho nhân vật nữ

chính của mình cái máu “dám chết” để thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo. Có lẽ

trên hết vẫn là cái nhìn cảm thông của Trang Thế Hy đối với những con người bị cuộc đời xô

đẩy.

Từ những vấn đề trên chúng tôi cho rằng, mỗi truyện ngắn của Trang Thế Hy vừa là

một lời tâm sự chân tình, vừa là cái nhìn mang tính phản biện xã hội khá sâu sắc - một cái

nhìn đa chiều đầy sáng tạo và mang đậm chất nhân văn. Những trang viết như thế đã ít nhiều

bộc lộ được những tư tưởng đáng quý của một nhà văn Nam Bộ biết sống, biết nghĩ, biết

quan tâm, biết trăn trở và đau đớn trước những số phận hẩm hiu mà ông đã từng gặp đâu đó

trong cuộc sống quanh mình.

Như vậy, có thể nói đằng sau những câu chuyện Trang Thế Hy kể lại, thể ứng xử của

người phương Nam trong xã hội biểu hiện từng lúc khác nhau nhưng vẫn giữ được cái hồn

đất, hồn người, cái hồn văn hóa Nam Bộ đặc trưng, cái hồn Việt Nam luôn nhất quán. Điều

đó đã minh chứng cho vẻ đẹp của một dòng chảy văn hóa dẫu có trải qua những quanh co,

thác ghềnh của lịch sử.

2.2. Tiếp biến văn hóa

Văn hóa người Việt Nam Bộ là sản phẩm tổng hợp của ba nhân tố chính : truyền thống

văn hóa dân tộc Việt Nam tiếp biến với văn hóa phương Tây trong bối cảnh tự nhiên - xã hội

Nam Bộ.

Sự tiếp xúc, giao thoa giữa các nền văn hóa luôn luôn diễn ra trong quá trình phát triển

của nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy luật của sự phát triển. Trong quá trình giao

thoa văn hóa, có thể xảy ra hiện tượng các yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào nền

văn hóa kia rồi cải biến, điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa của người

Việt Nam. Đó chính là quá trình hội nhập để bổ sung những yếu tố mới tiến bộ, hiện đại vào

nền văn hóa truyền thống, làm giàu đẹp hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân

tộc trong điều kiện lịch sử mới.

Trước khi tiếp xúc gặp gỡ văn hóa phương Tây, Nam Bộ đã tồn tại và phát triển một

nền văn hóa nông nghiệp với những nét đặc trưng của văn hóa phương Đông. Đó là nền văn

hóa lấy gia tộc làm gốc, lấy tình cảm làm trọng, coi trọng tính trường tồn, đời xưa sao đời

nay thế, ưa chuộng hòa bình, an cư lạc nghiệp. Những đặc trưng này toát lên tính chất “trọng

tình” của văn hóa truyền thống, cốt giữ cho tình cảm nồng hậu, trọng đạo đức, nhân nghĩa,

có xu hướng trọng cuộc sống yên lặng hòa bình.

Trong quá trình tiếp xúc giao thoa văn hóa, chủ thể văn hóa Việt Nam xuất hiện những

thái độ khác nhau đối với văn hóa Đông Tây. Cách nhìn nhận phong tục tập quán đã khác

trước. Một mặt tôn vinh bản sắc tinh tế riêng biệt của văn hóa dân tộc qua các lễ hội, sinh

hoạt gia đình, tình làng, nghĩa xóm, đề cao sự khoáng đạt, bao dung, thủy chung, nhân hậu

của văn hóa truyền thống. Mặt khác có thái độ phê phán những hủ tục lạc hậu, xuất hiện

những hành vi ứng xử mới. Qua đó đã chứng minh rằng văn hóa Nam Bộ, dù trước sau từng

có lúc có khác nhau, nhưng trong quá trình giao lưu tiếp biến, nó vẫn nhất quán, như một

dòng chảy, dẫu phải qua bao thác bao ghềnh vẫn xuôi về biển lớn, vẫn luôn hướng về cội

nguồn chung là văn hóa Việt Nam được hình thành từ buổi đầu dựng nước.

Dường như đã thành quy luật, các nghệ sĩ của nhân loại từ lâu đã luôn chịu ơn văn hóa

dân tộc họ. Theo lí luận mà Bakhtin đã đề xuất, văn học của thời đại chịu ảnh hưởng trực

tiếp từ những biến động trực tiếp của lịch sử xã hội, mà còn thông qua môi trường văn hóa.

Từ mảnh đất phong phú của nền văn hóa dân tộc sinh động, đầy những sắc màu, họ sẽ tiếp

thu trên tinh thần chọn lọc những giá trị, nguồn thi liệu thích hợp nhất với tư tưởng nghệ

thuật của mình.

Đồng bằng sông Cửu Long với những khu rừng đước, rừng tràm bạt ngàn, những cánh

đồng rộng lớn mênh mông, với hệ thống kênh, rạch chằng chịt muôn ngả, những vườn cây

trĩu quả quanh năm…và đặc biệt là con người Đồng bằng Sông Cửu Long thật thà, chất

phác, trọng nghĩa khinh tài… Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên một vẻ đẹp riêng về

văn hoá ở vùng đất này. Nơi đây, nhà văn Trang Thế Hy được sinh ra, lớn lên và đến với con

đường sáng tạo nghệ thuật. Những vẻ đẹp cùng phong vị riêng của quê hương không biết từ

bao giờ đã thấm sâu trong tâm hồn Trang Thế Hy và lẽ tất yếu đã để lại dấu ấn trong tác

phẩm của ông. Chúng tôi quan niệm đó là một trong các yếu tố góp phần làm nên giá trị đặc

sắc cho truyện ngắn Trang Thế Hy.

Thêm vào đó, Trang Thế Hy đã sống, hoạt động và viết văn vào thời điểm mà tình

hình chính trị xã hội ở miền Nam nói chung và ở đô thị miền Nam nói riêng đầy những bất

trắc. Cuộc sống của xã hội miền Nam lúc này là cuộc sống giữa cơn phá sản tinh thần, chẳng

những do chiến tranh, còn do sự ngờ vực đày đọa lẫn nhau, trong một thế giới đang đi vào

tuyệt vọng. Từ đó đẩy xã hội miền Nam vào những cuộc khủng hoảng triền miên cả trong

đời sống vật chất, tinh thần, làm cho tình hình chính trị xã hội ở đô thị miền Nam luôn bất ổn

và phức tạp. Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân

mới, người Mỹ không những đổ quân ồ ạt vào miền Nam mà còn “đem theo tiền Mỹ, lối

sống Mỹ, văn hóa phẩm Mỹ”. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị xã hội ở

miền Nam, chi phối số phận của từng con người, khiến họ luôn sống trong tâm trạng lo âu

thấp thỏm vì những điều bất an luôn thường trực quanh mình. Không những thế, nhân dân

miền Nam, đặc biệt là tầng lớp cư dân thành thị ngoài sự lo sợ chiến tranh, họ luôn thấy

chông chênh trong cuộc sống. Họ sống không niềm tin, không lý tưởng, không hoài bão và

ước mơ. Họ hoài nghi trước nhiều vấn đề của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị, xã

hội, văn hóa… và ngay cả trong đời sống vụn vặt hàng ngày. Nếp sống trong sạch, lành

mạnh, giản dị vốn có từ lâu đời của dân tộc đang bị tổn thương và lớp thanh niên - nam và

nữ - là những nạn nhân chủ yếu. Một lớp người sống thỏa thuê sung sướng;vì tiền, họ sẵn

sàng bỏ quên tình nghĩa. Cho nên nhiều khi không phải chỉ vì nghèo túng mà họ dấn thân

vào nghề bán môi, bán ngực, bán cả thân xác lẫn linh hồn, hoặc làm nghề môi giới để kiếm

chác lời lãi quanh chuyện mua bán đó, từ bán sỉ đến bán lẻ.

Tất cả đã tạo thành một tình trạng tâm lý thiếu công bằng, bất ổn định. Mặc dù, người

Mỹ dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn không chí bằng quân sự, kinh tế mà còn bằng cả công cụ

trên mặt trận tư tưởng nhằm ổn định đời sống chính trị xã hội ở miền Nam, nhất là trong các

đô thị. Song họ càng ra sức duy trì sự ổn định thì xã hội lại càng bất ổn hơn, bởi nhiều mâu

thuẩn nảy sinh từ trong lòng xã hội miền Nam lúc bấy giờ vẫn cứ tồn tại và phát triển. Đây là

nguyên nhân dẫn đến những cuộc đấu tranh đòi tự do, cơm áo, đòi dân chủ, dân sinh, dân

quyền, đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc chống sự xâm lăng của văn hóa nước ngoài, bảo vệ

văn hóa dân tộc là vấn đề có ý nghĩa sống còn, ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến đời sống

văn học nói chung và lý luận - phê bình văn học nói riêng. Vì thế, những người đang cầm bút

với một sứ mạng và một khuynh hướng văn nghệ riêng biệt. Có lẽ chưa lúc nào bằng lúc này,

một số đông những cây viết trẻ đang tối tăm mặt mũi bởi những khuynh hướng văn nghệ

không đồng nhất chi phối thẳng vào tâm tư, làm cho đường hướng sáng tác trở nên hỗn loạn.

Có thể lí giải nguyên nhân của tình trạng này là do ảnh hưởng tất nhiên của một xã hội hỗn

độn bị ảnh hưởng của gần ba mươi năm chiến tranh. Sự hỗn độn phát nguồn từ sự du nhập

những tư tưởng ngoại lai xa rời dân tộc tính tiếp sức cho một thế lực phi nhân hà hung bạo

sẵng sàng đè bẹp bất cứ sự vươn lên nào của tư tưởng dân tộc, hoặc luận điệu của những con

người bi quan, yếm thế, mất hết khả năng suy luận trước những đổ vỡ của cuộc đời.

Thật vậy, cuộc đấu tranh chống văn nghệ ngoại lai đồi trụy để bảo tồn văn hóa dân tộc

là một vấn đề ý nghĩa sống còn đối với nền văn học ở đô thị miền Nam mà trong đó có trách

nhiệm của những người cầm bút. Vì thế những người cầm bút có lương tri, với tư cách là

nhân chứng của thời đại đã lên tiếng. Nội dung hiện thực khách quan mà các nhà văn phản

ánh mang đậm ý nghĩa tố cáo nghiêm khắc. Họ đã phơi bày được những mâu thuẫn trong

thực tế, vạch ra những cảnh xấu xa, giải thích nó như một phạm trù lịch sử và khẳng định nó

thuộc bản chất của lực lượng đương quyền.

Là người hoạt động sáng tác trong chính môi trường văn hoá phức tạp ở miền Nam

giai đoạn trước 1975, có thể xếp Trang Thế Hy thuộc vào hàng ngũ những nhà văn dù có sự

tiếp nhận văn hoá phương Tây nhưng vẫn không xa rời các giá trị tinh thần truyền thống…

2.2.1 Yếu tố ổn định và kế thừa

Vùng đất và con người Nam Bộ từ lâu đã đi vào văn học bởi sự gắn bó máu thịt giữa

người nghệ sĩ với hiện thực của một vùng văn hoá mới so với bề dày lịch sử văn hoá dân tộc.

Đời sống con người và thiên nhiên Nam Bộ với những đặc trưng khó lẫn đã đi vào sáng tác

của các nhà văn, nhà thơ. Kế tục thế hệ cha anh, với tư cách là cây bút văn xuôi hiện đại,

Trang Thế Hy tiếp tục ghi lại những giá trị văn hoá truyền thống của vùng đất cực Nam Tổ

quốc này.

Đó là vùng đất Nam Bộ với những nét đặc thù về lịch sử, địa hình, khí hậu, dân cư rất

độc đáo. Vẫn là những con người Nam Bộ có lối sống và cách sống ít giống những vùng quê

khác trên đất nước ta như: có nội tâm sâu sắc, ưa hành động nhưng ít chuộng hành văn, chất

phác, thật thà nên không thích màu mè, hình thức; kiên quyết nhưng ít kiên trì; dễ hòa đồng

nhưng không dễ hòa tan; tiếp cận nhanh với khoa học nhưng không thích khoa trương, khoa

cử... Tính cách trội về bộc trực, thẳng thắn. Tất cả những biểu hiện văn hoá đặc trưng đó của

con người Nam Bộ được Trang Thế Hy tiếp tục khẳng định một cách chân thực trong sáng

tác của mình.

Đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy trong truyện ngắn Trang Thế Hy là ý thức trân trọng,

giữ gìn truyền thống văn hóa Nam Bộ và văn hóa dân tộc dân tộc.

Ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc trong truyện ngắn của Trang

Thế Hy trước hết được thể hiện ở sự khẳng định và niềm tự hào của nhà văn về những phẩm

chất và giá trị văn hóa vùng đất Nam Bộ. Hầu hết các truyện Trang Thế Hy đều lý giải rằng

con người không bao giờ quên cội nguồn, dù đã già, dù sống cách xa vạn dặm với nơi sinh

ra, thì cuống rún của họ vẫn không lìa đất mẹ, vẫn gắn kết tự nhiên mật thiết với quê hương

(ngay cả trong tiềm thức). Phải giữ cho hồn quê thuần túy không pha tạp, dù vẫn biết thưởng

thức món ăn theo kiểu Tây.

Tiếp nối các thế hệ nhà văn lớp trước, truyện ngắn Trang Thế Hy tiếp tục khẳng định

vẻ đẹp và ý nghĩa của cuộc sống con người không thể tách rời tâm thức và cội nguồn văn hóa

dân tộc.

Trong Áo lụa giồng, hình ảnh chiếc áo lụa xuất hiện trong một không gian và thời gian

đặc biệt: giữa một vùng bị oanh tạc ngay khi chị Tơ mới chết, khi “tôi” bơ vơ giữa Sài Gòn

trong phiên chợ tết, trong đêm cuối năm trên một căn gác trọ chật chội tối tăm “Tôi đã gặp

trong giấc mơ một vật thể gì đó hình thù không rõ nét nhưng mềm mại mong manh đang nhè

nhẹ đong đưa theo gió thoảng…” [41, tr.23]. Hình ảnh chiếc áo lụa giồng cư trở đi trở lại

như lời nhắc nhở về kỉ niệm xưa, như tình cảm với quê hương, với con người xưa cứ dày lên

theo năm tháng, như lòng chung thủy sắt son đối với truyền thống văn hóa của quê hương,

của dân tộc. Cuộc sống có thể trở nên vội vã hơn, ồn ào hơn, có những biến động làm cho

bao giá trị thay đổi đi, nhưng đâu đó trên con đường thời gian đằng đẵng, mẹ ta, chị ta, em ta

vẫn mặc chiếc áo ấy như một nét hồn quê vẫn còn ẩn hiện đâu đây, vẫy gọi ta tìm về bên cõi

nhớ.

Đọc những truyện như Hồng nhan và đồng xu, Trong trắng, Giả đò yêu,…người đọc

dễ dàng tìm thấy vẻ đẹp của một vùng quê Nam Bộ hiện lên thật rõ nét với những cảnh sống

giản dị, ấm cúng, với những công việc lao động của người nông dân một nắng hai sương bao

đời nay vẫn thế, với tình làng nghĩa xóm thân thiết, với những cảnh sinh hoạt tinh thần sôi

nổi theo đúng cái “gu” của người dân vùng đất mới.

Trong truyện ngắn Trong trắng, nhà văn cho ta biết một cái “lệ” đã tồn tại từ rất lâu

trong cách đón Tết truyền thống của người dân quê Nam Bộ. Hằng năm, cứ vào cuối tháng

Chạp, bà con trong từng xóm ấp lại trao đổi với nhau những vật phẩm mình có được. Thói

quen trao đổi này là dấu tích của hoạt động “tự cung tự cấp” ở những vùng quê mà việc giao

thương chưa được mở rộng. Chính vì thế, hoạt động trao đổi ấy không mang dấu ấn của sự

sòng phẳng. Nhờ nó mà tình làng nghĩa xóm của những người nông dân nghèo thêm phần

bền chặt. Đó là vẻ đẹp của một kiểu “cho” và “nhận” tuy mộc mạc, đơn sơ mà đậm tình

người, tình quê:

“Hằng năm, vào khoảng cuối tháng Chạp, khi bà con trong xóm Cồn Bần trong đổi

với nhau chút đỉnh đồ vật để chuẩn bị ăn tết, thì thằng Tư Cù Nèo và con Lìn lại có dịp làm

thân với nhau thêm. Hai đứa nó bưng hai thúng đồ đi rảo quanh trong xóm, ghé từng nhà,

từng nhà, cho thứ này, nhận thứ khác đem về. Nhà thằng Tư Cù Nèo làm rẫy. Thúng của nó

đựng đồ hàng bông. Nhà con Lìn bán hàng xén. Thúng của nó đựng những ống nhang,

những phong bánh in, những gói chà là.

(…) Từ ngày con Lìn ra chợ làm công, về đơn chiếc, thím Xồi chỉ buôn bán cầm

chừng. Mọi năm, vào những ngày cuối tháng Chạp nầy, hai má con thím bận rộn suốt ngày

không hở tay. Năm nay thím ngồi trên cái ghế đẩu cao cẳng phía sau tủ tài phú, mặt mày

buồn xo. Tuy thế, khi nhìn thấy thằng Tư Cù Nèo thím vẫn mỉm cười rồi cất giọng ngọt ngào:

- Kìa! Thằng con trai tôi tới kìa! Đội cái gì trong thúng mà è ạch vậy nhỏ?

- Dạ, má con sai con đem qua cho thím Ba một ít đồ hàng bông.

Đáp xong, Tư Cù Nèo để thúng xuống bàn, lần lượt sắp ra những trái khổ qua, dưa

leo, dưa gang, bí thuộc về phần riêng dành cho thím Xồi.

(….) Thím Xồi bước lại kệ. Soạn một mớ bánh mứt gói bằng một miếng giấy dầu màu hường

ràng lại đàng hoàng cầm để vào thúng nói:

- Con về thưa lại với má con nói thím Ba năm nay buôn bán xập xệ lắm, gởi cho cha

má chút đỉnh bánh mứt ăn lấy thảo, nghe chưa” [41, tr.108-111].

Có lẽ không đâu trên đất nước này con người lại sống với nhau mật thiết như những

con người Nam Bộ chân chất trong truyện ngắn của Trang Thế Hy. Viết về họ, nhà văn như

thầm cảm ơn mảnh đất đã sinh ra những con người nhân nghĩa. Đó cũng là niềm tự hào kín

đáo của nhà văn về mảnh đất và những con người phương Nam yêu dấu của mình.

Ý thức trân trọng và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc trong truyện ngắn của Trang

Thế Hy còn thể hiện ở điểm nhìn tiếp cận hiện thực đời sống với thái độ ngợi ca và trân

trọng những giá trị văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức qua bao thế hệ của người dân thôn quê.

Mỗi vùng đất trên đất nước ta đều có những bộ môn nghệ thuật đặc trưng riêng của

mình. Nếu quan họ là niềm tự hào của xứ Bắc, ca Huế là dấu hiệu của văn nghệ đất cố đô thì

hát bội là môn nghệ thuật được ưa chuộng trên mảnh đất phương Nam trù phú, phì nhiêu

này. Từ những ngày cha ông đi mở đất, hát bội đã có mặt trong mỗi bước đường khai phá.

Đã có những gánh “hát bội giữa rừng” bất kể những nguy hiểm rình rập như trong truyện

ngắn của Sơn Nam. Âm vang của giai điệu đó thể hiện tinh thần hết sức lạc quan, một sức

sống mãnh liệt và cũng là lời giải thích lí do vì sao trên bước đường Nam tiến, giữa vùng đất

bưng sình hoang vu, giữa những khó khăn tưởng không thể nào vượt qua, con người phương

Nam vẫn hiên ngang tồn tại và phát triển.

Trong những dịp lễ hội, với những người dân nơi đây, không thể không có sự hiện

diện của gánh hát bội. Nếu ngoài ruộng đồng, trên sông nước, người ta hò đối đáp thì ở đình

làng, họ lại xem hát bội. Đó là một phần cố định, không thể thiếu trong lễ hội người dân tạ

ơn thần, chủ yếu là để dân làng giải trí. Khi có gánh hát bội về làng biểu diễn, người người

nô nức kéo nhau đi xem cho thỏa nỗi khát khao và lòng yêu mến bộ môn nghệ thuật của quê

hương. Các tác giả của cuốn Địa chí Bến Tre đã ghi lại :

“…Tổng hợp các nguồn điều tra, khảo sát các gia phả ,các dòng họ và nguồn gốc dân

cư cũng như về vốn văn hóa dân gian lại, chúng ta có thể xác định được rằng hát bội được

phổ biến rộng ở Bến Tre vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Như vậy, có nghĩa rằng trước đó cũng

đã có hát bội như một sinh hoạt văn nghệ dân gian trong thôn xóm, chưa có tổ chức qui mô.

Như chúng ta biết, trước đây khi ông cha ta đến định cư một nơi nào trên vùng đất mới, thì

một trong những công trình đầu tiên là xây dựng ngôi đình làng, mà thường là hễ có đình thì

có hát bội ,vì mỗi năm “đáo lệ kỳ yên”, sau lễ hội thì tổ chức hát, hát vừa để “cúng thần”,

nhưng chủ yếu là để giải trí cho dân làng” [29, tr.466].

Hát bội đã đi vào đời sống bình dị của người dân Nam Bộ và được tiếp tục ghi lại dấu

ấn trong sáng tác của Trang Thế Hy. Nó không chỉ đơn thuần là món ăn giải trí tinh thần, là

lời tâm tình mộc mạc, chân thành, thắm thiết mà còn thể hiện một nét văn hóa tốt đẹp trong

sinh hoạt của người dân quê Nam Bộ. Cũng viết về nghệ thuật hát bội, nhưng không khí hát

bội trong truyện của Trang Thế Hy không giống với Sơn Nam. Nhà văn xứ Dừa không miêu

tả cách thức dựng rạp, các khâu chuẩn bị tuồng hay cảnh sống của những gánh hát bội,….

của những cư dân xưa như Sơn Nam. Hát bội trong truyện của Trang Thế Hy là hát bội gắn

với cuộc sống của người dân nơi xóm thôn hiền hòa, trong hoàn cảnh đất nước đang bị xâm

lăng. Trang Thế Hy mang hát bội vào trong sáng tác của mình như là một cách hữu hiệu để

chống lại phong trào Mỹ hóa đang ồ ạt tấn công đời sống người dân Việt.

Qua truyện ngắn Trong trắng, Trang Thế Hy đã tái hiện lại hết sức chân thực không

khí và niềm say mê hát bội của người Nam Bộ. Ở đó, không chỉ người lớn mới mê hát bội,

cả những đứa trẻ cũng say mê. Không chỉ thế, chúng còn lập ra cả những “gánh hát bội cấp

xóm” mà “nghệ sĩ” chính là những đứa trẻ trong các xóm nghèo, mang những cái tên rất

nghộ nghĩnh: Năm Cà Khêu, Tư Cù Nèo, Thạch Mặt Khỉ, Chín Địa… Qua việc miêu tả tỉ mĩ

cách chúng tập luyện, dựng cảnh, phân vai, học tập những tiền nhân hát bội,… Trang Thế Hy

đã để người đọc thấm thía thế nào là niềm tin yêu dành cho hát bội mà người Nam Bộ đã

truyền cho con cháu mình. Có lẽ việc truyền bá những bộ môn nghệ thuật truyền thống của

dân tộc bao giờ cũng phải bắt đầu từ lớp trẻ. Theo thời gian, tình yêu ấy sẽ lớn lên, sự hiểu

biết về nó sẽ trở nên sâu sắc. Và điều đó giúp cho những bộ môn nghệ thuật truyền thống của

dân tộc sẽ sống mãi.

Hát bội, với người dân nơi đây, thật sự là một ngày hội lớn. Thế nên, mội khi có đoàn

hát, bà con sẵn sàng người góp tiền góp gạo, kẻ góp công sức để nuôi đào kép, làm sâu khấu.

Yêu hát bội, mến người nghệ sĩ, khi đi xem hát bội, người dân nghèo ở quê cũng có những

cách bày tỏ lòng ái mộ của riêng mình:

“Lòng ái mộ của người xem lên đến đỉnh cao biểu hiện bằng những đồng xu, những

cây quạt giấy, những gói đậu phộng rang, những chùm bánh ú, bánh dừa được quăng tới tấp

lên sân khấu cùng với những tiếng trống thùng thùng ngợi khen của người cầm chầu. Phải

mất đến hơn năm phút mấy đứa nhỏ của gánh hát mới lượm hết những đồng xu và những

quà tặng đó” [41, tr.434].

Cách bày tỏ lòng ái một kiểu này thì chỉ có những người dân quê Nam Bộ mới có. Tuy

không sang trọng, kiểu cách như khán giả của những thành phố lớn nhưng lòng ái mộ không

vì thế mà kém nồng nhiệt. Người dân nơi đây đã đến với hát bội bằng chính những gì mình

có, không ngại ngần, không khoảng cách. Chính sự giản dị ấy là lời khẳng định hùng hồn

nhất cho tình yêu máu thịt mà họ dành cho môn nghệ thuật và những người nghệ sĩ chốn

quê nghèo.

Sáng tác của Trang Thế Hy đã được triển khai trên cái nền của “bức tranh” sinh hoạt

văn hóa Nam Bộ độc đáo ấy. Ở phương diện nào đó, đây là những lời quảng bá và “tiếp thị”

bằng văn chương rất độc đáo của ông về những nét đẹp của văn hóa Nam Bộ. Điều này đã lí

giải vì sao những ai đọc văn Trang Thế Hy đều cảm thấy rất thích thú, yêu mến và xúc động

khi đọc đến những dòng, những câu nhà văn miêu tả về cảnh sinh hoạt “đời thường” của

người dân quê ở xứ sở ruộng đồng, sông nước.

Trong truyện ngắn Trang Thế Hy, hát bội đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người

dân quê. Khi vui mừng, người ta nghĩ ngay đến hát bội :

“ Mùa khô năm 1953, tôi đến một xã thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ dự cuộc mít -

tinh mừng thành tích thu thuế nông nghiệp xã. Sau mít - tinh, sẽ có một chầu hát bội. Tôi đến

vào buổi trưa, ông chủ tịch Mặt Trận Liên Việt xã rờ râu cằm ,nói với tôi, khoái chí:

- Vậy chớ sau chú! Thành tích cỡ nầy thì phải hát bội ăn mừng thôi. Ở xứ chú người ta

không có đòi hát bội ăn mừng mỗi khi gặp chuyện vui mừng lớn hay sao?

- Ở quê tôi không phải chỉ có con người mới biết rước hát bội ăn mừng. Khi giựt sẩy

một con cá, người đi câu nói con cá đó sẽ rước hát bội ăn mừng.

- Trật rồi! Không có tiếng rước. Con cá chết hụt đó gom bè bạn nói lại, tự biên tự diễn

cùng nhau hát bội ăn mừng đâu cần rước gánh hát. Trong câu hát ru em, tôm càng biết hát

bội, cá trê biết cầm chầu, chú quên rồi sao?”[41, tr.320-321].

Hát bội không chỉ hiện diện trong niềm vui của con người mà hiện diện ngay cả trong

nỗi buồn. Trong truyện ngắn Nợ nước mắt, khi nghe tin một cán bộ cách mạng hy sinh,

người cán bộ đó khi sống có thói quen đem theo lưỡi câu để câu cá rô, nhân vật ông Tư mác

vót đã thốt lên : “Phen nầy, mấy con cá rô bưng Đồng Năng nó hát bội ăn mừng! Ổng nói,

ổng cười mà mặt ổng méo xẹo” [41, tr.321].

Những vấn đề trên một lần nữa cho Trang Thế Hy là một người am tường và gắn bó

sâu đậm với những giá trị văn hóa của cha ông. Bởi phải là người gắn bó sâu nặng và có ý

thức giữ gìn những giá trị truyền thống của cha ông mới có thể viết hay và thiết tha đến vậy.

Trang Thế Hy luôn giữ cái tâm thế quay về với những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống

của cha ông. Phải chăng đây chính là cách Trang Thế Hy tiếp cận hiện thực đời sống xã hội

- một sự kế thừa và tiếp nối về một khuynh hướng tiếp cận hiện thực từ góc nhìn văn hóa

trong sáng tạo văn chương nghệ thuật từ các thế hệ nhà văn đi trước?

2.2.2 Yếu tố tiếp nhận và biến đổi

Nam Bộ là miền đất của tiếp xúc văn hóa. Diện mạo văn hóa đặc sắc của Nam Bộ biểu

hiện ở chỗ, một mặt, xuất hiện những hiện tượng, những đặc điểm riêng có ở Nam Bộ, không

thấy ở bất cứ vùng miền nào; nhưng mặt khác, những hiện tượng, những đặc điểm ấy vẫn là

sự tiếp nối nhằm làm sâu sắc, làm phong phú thêm truyền thống văn hoá Việt. Ngay từ thời

kỳ khai phá vùng đất mới này ở các thế kỷ XVII - XVIII, những truyền thống văn hoá Việt,

Khmer, Hoa, Chăm, Ấn... đã gặp gỡ nhau, đan xen và hòa trộn nhau. Trong công cuộc tiếp

xúc với văn hóa phương Tây ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nam Bộ cũng đi trước cả

nước. Chính từ miền đất này, những cuộc cách tân đã khởi phát, sau đó lan ra cả nước như:

sản xuất hàng hóa lớn và thương mại quốc tế, văn học quốc ngữ, ăn uống đồ Tây, mặc âu

phục, nghề in và xuất bản, nghề báo... Đó là những lĩnh vực quan trọng làm thay đổi cách

nghĩ, cách cảm của cả dân tộc. Cho nên, có thể nói, 0T 0Tgiao thoa văn hoá chính là một trong

những bản sắc của văn hoá Nam Bộ. Nó khiến cho văn hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa

khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là văn hoá Nam Bộ chỉ là con số cộng các luồng

văn hoá đã hội tụ nơi đây. Trong quá trình giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây không tiếp

thu trọn gói các nền văn hoá khác mà chỉ chọn lọc những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật

chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây

không tự đánh mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất này thu nạp được

theo hướng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất

mới. Có thể nói,0T 0Tsự tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một bản sắc của văn hoá nơi đây.

Những năm giữa thế kỉ XX là thời thịnh trị của chế độ thực dân Pháp tại Nam Bộ. Với

ý đồ cai trị Việt Nam lâu dài, bên cạnh việc đàn áp chính trị, chúng còn sử dụng thủ đoạn

đán áp văn hóa. Vì một khi đã bứng gốc được văn hóa, dân tộc Việt Nam mặc nhiên sẽ chấp

nhận sự thống trị của chúng một cách nhẹ nhàng.

Nhưng bất cứ một nền tảng văn hóa nào cũng vậy, khi giao lưu cọ xát với nền văn hóa

khác, luôn có sự chọn lọc những yếu tố phù hợp, hoặc làm khúc xạ, tán sắc những yếu tố mới

lạ cho phù hợp trước khi tiếp nhận. Hơn nữa, Việt Nam vốn có chiều dài lịch sử lâu đời với

bản sắc văn hóa như một nội lực thâm hậu khiến có thể dị ứng trước bất cứ những gì phản

truyền thống. Tuy nhiên, trong thực tế, mọi cái không đơn giản chút nào. Đời sống người

Việt Nam từ bao lâu, với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, ít có sự biến động, đã vậy còn

bị kìm hãm bởi nền đạo đức phong kiến Khổng Mạnh ngột ngạt. Thế rồi, thực dân đến, nền

văn minh phương Tây ùa vào như một luồng gió mát giữa trời oi bức làm rung chuyển và bắt

đầu biến động sâu sắc cả xã hội Việt Nam. Trong phút chốc, con người Việt Nam có dịp nhìn

thấy người và bỗng giật mình nhìn ra được chính mình. Tất nhiên, văn hóa phương Tây vẫn

có nhiều yếu tố tích cực, lành mạnh mang đậm sắc thái nhân văn, nhưng sự tiếp nhận đôi lúc

cần phải có thời gian và điều kiện thích hợp chứ không thể trong một sớm một chiều, huống

hồ gì bên cạnh đó vẫn có không ít điều xa lạ với truyền thống dân tộc. Vậy mà một số người

Việt Nam do thiếu ý thức đã nhắm mắt chạy theo làn sóng văn minh xa lạ ấy, cứ tưởng đâu

phủ nhận hoàn toàn nếp sống cũ, theo lối sống mới là tiến bộ, cho nên mới tạo sự phản ứng

của mọi người xung quanh.

Lẽ tất nhiên, trên đà phát triển xã hội, sự du nhập một yếu tố văn hóa mới là một

khuynh hướng tự nhiên, bình thường và cần thiết. Theo mới, Âu hóa đâu hẳn là xấu. Nhưng,

cái mới phải phù hợp với điều kiện sống, với môi trường xung quanh, không thể vội vã được.

Như một quy luật, một nền văn hóa khi đến vùng đất mới, nó vẫn tồn tại mãnh liệt,

nhưng do điều kiện mội trường xung quanh, nó phải sáng tạo, tiếp biến và mang nét đặc

trưng mới. Vì thế, có một nền văn hóa Nam Bộ là điều không thể chối cãi. Nền văn hóa này

dù sao chăng nữa vẫn nằm trong dòng chảy của nền văn hóa Việt Nam nói chung, bắt đầu từ

nguồn văn hóa sông Hồng. Duy có điều là nó phải biết ứng biến để cho phù hợp với điều

kiện tự nhiên miệt vườn, sông rạch, cánh đồng, làng xóm…

Trong quá trình phát triển của bất cứ một nền văn hóa nào, ta thấy luôn có sự xung đột

giữa cái hủ tục, lạc hậu, trì truệ với cái tiến bộ và phát triển theo xu hướng chung của văn

minh nhân loại. Tuy văn hóa thực dân không thể chạm đến gốc rễ của văn hóa cội nguồn dân

tộc, nhung sức hấp dẫn của lối sống xa hoa hào nhoáng thiên về vật chất, không hợp với

truyền thống cũng kịp phô diễn và thu hút không ít người Việt thời bấy giờ. Ảnh hưởng của

nó quả không nhỏ, đã lan tràn xuống tận các lũy tre, ruộng lúa nơi đồng quê thôn dã.

Như đã trình bày, xã hội mà Trang Thế Hy sống và viết là một xã hội có sự xáo trộn

nhiều nền văn hoá. Điều đó tác động không nhỏ đến đời sống văn học. Thực tế, mâu thuẫn

giữa văn hoá phương Đông và văn minh phương Tây chính là sự xung đột giữa đạo đức,

danh dự và cá nhân cho nên việc khẳng định bản sắc riêng trong sự cộng sinh, giao lưu, tiếp

nhận văn hoá trong văn xuôi lúc này còn là cách để nhà văn bảo toàn các giá trị truyền thống

đã có, để tạo thế cân bằng về tinh thần trước những kiếp người đang nghẹt thở và hấp hối.

Hiện thực xã hội đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người, trong đó

quan trọng là làm phân hoá, chuyển biến tư tưởng các nhà văn. Vấn đề văn chương trong giai

đọan này không tách khỏi vấn đề văn hoá. Trong điều kiện giao lưu tiếp xúc với văn hoá

nước ngoài dễ dàng, các quan điểm và trường phái văn nghệ mới trên thế giới tự do xâm

nhập vào thị trường chữ nghĩa ở miền Nam, thì việc một số nhà văn tìm kiếm những cách

viết mới hay có những cách nhìn nhận và thể hiện con người khác với trước cũng là điều tất

yếu.

Sáng tác của Trang Thế Hy đã gắn liền và mang theo các giá trị văn hoá truyền thống

lẫn các giá trị của thời đại, chính là biểu hiện của đời sống văn hoá của một thời đại đầy

những biến cố.

Truyện Trang Thế Hy đề cập đến những người Nam Bộ có đầu óc và suy nghĩ thiết

thực trong cuộc sống. Điều kiện sống cực khổ, vất vả hằng ngày hằng giờ không cho phép

con người nơi đây tư duy những chuyện xa vời, không liên quan đến miếng cơm manh áo.

Mang trong ký ức là quá khứ, là kỷ niệm, nhưng thôi thúc cấp bách của sự tồn tại đã tôi

luyện con người không dùng dằng với quá khứ. Chính vì vậy mà sự tha hóa của người Nam

Bộ trở nên dễ dàng và uyển chuyển hơn so với cư dân phía Bắc và miền Trung vốn quen với

nếp văn hóa đã định hình và bền vững tự ngàn đời. Tư duy thực tế và khá nông cạn của dân

Nam Bộ khiến người ta linh động thích ứng với môi trường, song đôi khi đó lại là điểm yếu

trong tính cách người Nam Bộ.

Khi làn sóng văn minh vật chất tràn vào xã hội miền Nam, người dân nhận thấy cuộc

tiếp xúc văn hóa xa lạ này lan khá nhanh trong cộng đồng cũng do tính tư duy thực tế của

người Nam Bộ. Nhưng chính cái vế thứ hai rất quan trọng trong tính cách này của người

Nam Bộ đã đóng vai trò quyết định trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của người Việt Nam:

linh hoạt, dung hợp và tha hóa.

Trong những hỗn độn văn hóa Âu Mỹ xâm nhập và xã hội, con người đã tập vững

vàng đón nhận nó, gạn đục khơi trong, tìm cách tiếp biến văn hóa, linh hoạt thay đổi chính

mình dựa trên nền tảng căn cơ văn hóa Việt trên đất phương Nam.

Tiếp biến văn hóa làm biến đổi cấu trúc văn hóa sẽ do chính con người thực hiện.

Người Nam Bộ đã thật sự linh hoạt và năng động điều chỉnh các hành vi hoạt động cho phù

hợp thực tế, đồng thời vẫn đảm bảo cái gọi là “dân tộc tính”. Dù là biến đổi nhiều hay ít, thì

tiếp biến của chủ thể sáng tạo văn hóa vẫn là một quá trình diễn ra từ từ, liền hồi. Con người

Nam Bộ cũng theo đó mà trưởng thành và chín chắn, hoàn thiện nhân cách, khẳng định tính

cách độc đáo của mình.

Về vấn đề này, tìm hiểu truyện ngắn của Trang Thế Hy, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh

tình cảm trân trọng, ngợi ca dành cho những con người với những đức tính, những cách ứng

xử cao đẹp trong cuộc sống; bên cạnh việc tái hiện những bức tranh thiên nhiên thanh bình,

êm ả mang đặc trưng văn hóa ruộng vườn sông nước Cửu Long, Trang Thế Hy cũng quyết

liệt nhưng rất kín đáo bày tỏ sự không đồng tình của mình trước khá nhiều vấn đề có thể gọi

là tiêu cực của xã hội qua việc phơi bày thảm cảnh đời sống nhân dân, phê phán tư tưởng và

lối sống xa lạ, vạch trần bản chất vô nhân đạo, tố cáo âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Đời sống người dân Nam Bộ bắt đầu có những đổi thay, xáo trộn. Bức tranh cuộc sống

yên bình bên thôn xóm, lũy tre làng giờ đây được thay vào những mảng màu khác: lối sống

thành thị, sự tác động của chiến tranh…đã làm cho đời sống con người Nam Bộ có sự vận

động và biến đổi trong nếp sống, lối sinh hoạt…

Nhìn “bề ngoài” truyện ngắn của Trang Thế Hy là bức tranh tái hiện cuộc sống và sinh

hoạt của người dân nghèo vùng Đồng bằng Nam Bộ. Tuy vậy, nếu quan sát kỹ hơn chúng ta

sẽ thấy, trong bức tranh sinh hoạt ấy, bắt đầu có sự vận động, biến chuyển theo hướng từ

thôn quê ra thành thị. Nói khác đi, đây cũng chính là thái độ không đồng tình của nhà văn về

những mặt trái của của xã hội với nguy cơ tàn phá cấu trúc và những giá trị văn hóa tốt đẹp

của dân tộc cả về vật chất lẫn tinh thần.

Từ lòng yêu quê hương, đồng bào, Trang Thế Hy dùng ngòi bút của mình để tố cáo

giặc Pháp gây tội ác, tàn phá, huỷ diệt đất nước giống nòi "Những kẻ muốn tàn phá hết, sát

hại hết… Không muốn chừa lại một chút gì tươi đẹp trên dải nước non này". Ông phơi bày

sự cám dỗ của chốn đô thành quyến rũ dễ giết chết tình yêu trong sáng giữa những người

lương thiện. Cái chết của cô gái Hoa kiều giữa độ xuân thì, làm bừng dậy dạt dào mối cảm

xúc ở nhà văn. Từ đó, ông muốn khắc đậm lại niềm tin ở mọi người "dục vọng xấu xa không

thắng nổi ý chí thiết tha bảo vệ sự cao đẹp của con người" (Một chút tình xưa, Mấy dòng

thư cũ). Nhà văn muốn thức tỉnh người đọc về tinh thần tự chủ và ý chí đấu tranh bất khuất

mà không khép nép, ù lì chịu nhục (Mối tình bên rạch Giồng Chanh): "Có nước mà không

biết yêu, người ta đàn áp chỉ biết sợ hãi, mà không biết cách chống cự lại. Cái dốt đó mới

nhục”. Cả đến lòng tham lam tiền bạc vật chất, quên đi tình máu thịt ruột rà của một số

người cũng được nhà văn xa xôi nhắc đến để thể hiện sự phản kháng. Nhìn chung, truyện

ngắn Trang Thế Hy viết trong giai đoạn từ năm 1963 trở về trước, tức là thời kỳ miền Nam

còn sống dưới chính sách cai trị khắc nghiệt của chính quyền Sài Gòn lệ thuộc vào Mỹ, phản

ánh sự phân hoá suy đồi của xã hội phồn hoa nơi đô thị. Do vậy, nhà văn viết rất xúc động về

tội ác chiến tranh của quân xâm lược Pháp, đồng thời nói lên thân phận bi đát của những

thường dân hiền lành trước dục vọng và bom đạn của kẻ thù. Qua đó, ta thấy Trang Thế Hy

muốn khơi gợi lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước của người dân thành

thị.

Sự phức tạp trong đời sống chính trị và xã hội đòi hỏi con người phải có tư duy tỉnh

táo để tránh sai lầm ngoài ý muốn. Vấn đề con người quan tâm không phải là cuộc đấu tranh

với tự nhiên hay các mối quan hệ xã hội mà chính là cuộc đấu tranh giữa bản ngã với đạo

đức và lợi ích cộng đồng, giữa nhu cầu khẳng định tài năng cá nhân và điều kiện để thực

hiện và thỏa mãn tài năng ấy. Tình trạng sống bế tắc có thể khiến con người khó giữ được

lương tâm trong sạch, không vi phạm vào những qui ước đạo đức. người đọc sẽ nhận ra quá

trình nhận thức phức tạp của văn xuôi đô thị miền Nam về con người đối với truyền thống

lịch sử và vận mệnh dân tộc.

Trang Thế Hy cũng cho rằng con người phải biết thích ứng, tiến bộ trong đời sống văn

minh, nhưng con người cần phải duy trì truyền thống đã có và giữ gìn bản sắc dân tộc mình

trong các mối quan hệ và cách ứng xử. Nam Bộ là nơi hội nhập, giao lưu và phát triển. Trên

con đường phấn đấu, mưu sinh, con người cần tỉnh táo, cầu tiến; nhưng trong cuộc sống thực

tại lại cần có đức tin, tình cảm hay chỗ dựa tinh thần bền vững. Nhà văn Trang Thế Hy là

người hướng tới khả năng dung hòa các mâu thuẫn nảy sinh trong tâm lý con người theo một

triết lý quen thuộc, đơn giản: con người không nên nô lệ quá khứ nhưng không được quên

cội nguồn.

Con người Nam Bộ dần từ giã cuộc sống yên bình, ấm áp sau luỹ tre làng mà thích

ứng với một cuộc sống mới trong những ngày Miền Nam rỉ máu dưới gót giày đinh xâm

lược của thực dân. Chiến tranh là nỗi kinh hoàng của loài người, làm đảo lộn cuộc sống của

những con người phương Nam . Sức phá hủy của nó không gì có thể đo đếm được, nhất là sự

hủy diệt con người. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có những con người bất hạnh. Chiến tranh đã

tràn lên quê hương miền Nam hiền hòa và gieo rắc đau thương, bất hạnh cho bao con người.

Những nhà văn cầm bút giai đoạn này điều lên án chiến tranh một cách mạnh mẽ bằng cách

phơi trần bộ mặt của thế lực cướp nước và chính quyền tay sai.

Trước tiên là việc mất người thân. Đó là nỗi bất hạnh khó tránh khỏi ở những nơi

chiến tranh loạn lạc. Sự dấn thân không ngại phải bỏ mình vì Tổ quốc xem như là điều

đương nhiên. Mất mát ấy dù đớn đau nhưng được trân trọng và dễ chấp nhận. Nhưng có biết

bao cái chết oan uổng,vô lý làm cho chúng ta thấy nhức nhối, căm hận. Sự “xuất quỉ nhập

thần” của những chiến sĩ biệt động thành đã làm cho bọn cướp nước và bán nước phải kinh

sợ. Cũng chính vì thế chúng nhìn ai cũng ra Việt cộng. Chúng thẳng tay bắt bớ, thủ tiêu bất

kì ai chúng nghi ngờ. Biết bao con người hiền lành, lương thiện chỉ mong yên phận làm ăn

đã bị chúng bắt đi rồi thành ra mất tích giống như thợ cưa trong truyện Nguồn Cảm mới. Biết

bao con người phải trốn chạy khỏi quê hương, bản quán, chỉ mong giữ được tấm thân, cũng

đã phải bỏ mạng giữa đường vì trúng bom đạn của giặc ( Áo lụa giồng). Biết bao cô gái xinh

đẹp đã bị chúng tìm cách hãm hiếp đã chọn cái chết để giải thoát (Nắng đẹp miền quê ngoại).

Và biết bao con người bị ép lao động nặng nhọc cho đến chết để làm lợi cho bọn quan quyền

(AnhThơm râu rồng)…Nỗi đau đớn, oan ức ấy đã được nhà văn hiểu thấu, cảm thông chân

thành.

Tuổi thơ cũa những đứa trẻ đang sống trong một đất nước đang giặc giã, từng ngày

từng giờ đối mặt với cái chết là một tuổi thơ không bình thường. Nói đúng ra, tuổi thơ của

chúng đã bị tước đoạt một cách tàn nhẫn nhất. Chúng bỡ ngỡ lớn lên giữa cuộc chém giết mà

không hiểu nổi duyên cớ vì tâm hồn chúng còn quá non dại. Mới mấy tuổi đầu, thay vì được

tự do rong chơi, chúng lại phải theo người thân di tản cư mong thoát khỏi bom đạn (Áo lụa

giồng). Mới chừng mười lăm tuổi mà từ trước đó rất lâu, giữa một thành phố đầy cạm bẫy

đầy giặc giã một cô bé phải đi làm thuê làm mướn đủ thứ việc để nuôi thân và chăm sóc cho

người cha bệnh tật (Nguồn cảm mới). Có những đứa trẻ lớn lên lăn lóc một mình như củ

khoai, củ sắn vì người thân đã chết dưới bàn tay tàn bạo của bọn vô nhân (Anh thơm râu

rồng). Cũng có đứa phải đau lòng bởi cái chết oan uổng của người cha vì quá tin vào “đồng

minh”, cái chết ấy lại trở thành trò cười cho thiên hạ và cứ đeo đẳng, ám ảnh nó vì bọn trẻ

trong xóm vô tâm cứ diễn đi diễn lại cái tuồng bi kịch ấy trước mắt nó (Trong trắng)…Biết

bao đứa trẻ đã trải qua một tuổi thơ như thế.

Đưa những đứa trẻ ngây thơ, vô tội đặt trước bộ mặt tàn bạo của chiến tranh, Trang

Thế Hy đã vẽ lên một bức tranh đối lập kinh khủng giữa ánh sáng và bóng tối,giữa thiên thần

và ác quỉ, giữa mầm sống và sự hủy diệt….Bức tranh ấy tự nó đã thừa sức tố cáo thế lực tàn

bạo mà không cần nhà văn phải nhiều lời thuyết minh.

Chiến tranh cũng cướp đi bao điều quí giá của con người:sự thanh thản của người phụ

nữ như trưởng hợp của chị Châu (Vết thương thứ mười ba ), sự trinh trắng của người con gái

hiền lương như Hường (Một thiếu nữ không đáng kể) hạnh phúc gia đình như ông bà Nghiệp

(Những người lấp hố bom); hy vọng về một tình yêu đẹp, một người tình lý tưởng như Thu (

Mưa ấm) , như “tôi” (Mỹ Thơ)….

Tuy có khác nhau, nhưng những con người vừa nói trên đều phải chịu một nỗi đau

chung mà tất cả những con người chân chính cũng phải chịu trong giai đoạn rối ren ấy, đó là

phải sống kiếp sống của những người dân mất nước. Nhà văn là một trong số những con

người thời bạo loạn ấy, đã thấy và đã cảm được những nỗi đau mà những người sống chung

quanh ông phải gánh chịu.

Trước hết, có thể thấy sự tác động của văn hóa thực dân đã làm cho cuộc sống của

người dân phương Nam ít nhiều bị xáo trộn. Sự êm ả, thanh bình vốn có bắt đầu có sự thay

đổi. Điều này cho chúng ta thấy đang có một sự xâm lăng rất táo tợn của mặt trái đời sống đô

thị đối với những giá trị văn hóa Nam Bộ và dân tộc.

Tóm lại, từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy, Trang Thế Hy đã kín đáo và gián tiếp

nói rằng sự xâm nhập những luồng văn hóa mới cùng với cuộc sống hiện đại tạo ra biết bao

điều mới lạ hấp dẫn đối với con người nhưng cũng chính cuộc sống ấy đã tạo ra không ít

những dâu bể, thăng trầm.

Con người Nam Bộ trong hoàn cảnh mới vẫn là những con người cần cù, chất phác,

giàu nhân nghĩa, yêu nước, nhưng những con người ấy trong văn chương của Trang Thế Hy

không phải chỉ biết làm lụng,chỉ biết đánh giặc, chỉ biết hy sinh cho nhau, sống có ích cho

đời mà họ còn có bản lĩnh vuợt qua những cám dỗ của thời cuộc để vừa giữ lại cốt cách văn

hoá truyền thống vừa thích ứng, góp nhặt những giá trị tốt đẹp từ những nền văn minh khác

….

Nhìn chung, con người Nam Bộ trong văn xuôi Trang Thế Hy hiện lên chân thật sinh

động. Bên cạnh việc khẳng định những giá trị cao đẹp của con người Nam Bộ như thuỷ

chung, cởi mở, thẳng thắn, vị tha, bao dung… nhà văn đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về

sự thay đổi trong tính cách của con người ở vùng đất này. Tuy vậy, dẫu có lỡ lầm, con người

Nam Bộ trong văn chương Trang Thế Hy vẫn giữ lại được cho mình cái căn cốt tinh thần rất

đáng quý mà nhà văn Nguyên Ngọc đã trân trọng dành cho hai chữ “chất ngọc”. Dẫu có gặp

thử thách, con người trong văn Trang Thế Hy vẫn luôn khí khái chọn cho mình những lối đi

vừa giống mọi người mà lại rất riêng…

Trong sáng tác của mình, Trang Thế Hy viết nhiều về những con người bất hạnh với

những nỗi niềm đa diện đa chiều. Vì thế nhân vật của ông không chỉ là con người của vùng

đất Nam Bộ mà còn có sự gặp gỡ với nhân loại.

Chỉ cần hơi tinh một chút để nhận ra chất trí thức Tây học ở Trang Thế Hy. Và có điều

rất thú vị: chính sự thâm thúy văn hóa phương Tây đó khiến cho những người cầm bút thấm

nhuần được nó lại tha thiết, mặn nồng quay về nâng niu những giá trị dân tộc và địa phương.

Dường như chính vì họ có hiểu biết sâu rộng về văn hóa nhân loại nên họ càng nhìn ra rõ

hơn giá trị của văn hóa bản địa, và muốn nâng nó lên thành một phần nữa của những giá trị

ấy mà nó không hề thua kém chút nào...

Sự tiếp biến văn hóa trong sáng tác Trang Thế Hy như một thứ gia vị làm tôn thêm vẻ

đẹp của vùng đất Nam Bộ và con người Nam Bộ. Vùng đất ấy, con người ấy đi vào sáng tác

Trang Thế Hy bằng vừa mang đặc điểm riêng, vừa có sự gặp gỡ dân tộc và nhân loại trong

tần bao la, sâu thẳm của nó. Làm được như vậy chính là vì đằng sau người cầm bút đó có

một cái nền rất rộng, rất sâu, rất vững chắc. Có một cái nền rộng, lớn, sâu như vậy để mà

suốt đời viết rất ít, khiêm nhường, cái khiêm nhường của người biết rất nhiều, chỉ người biết

thật rất nhiều mới có được. Một cái nền rất sâu, rất rộng, để mà viết về những cái rất nhỏ, rất

âm thầm, rất địa phương, rất bản địa. Có lẽ chỉ có như vậy thì mỗi nhà văn mới làm được cái

việc mà người ta gọi là “đóng góp” vào gia tài chung của văn hóa, văn học dân tộc và thế

giới.

Chương 3: CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY

3.1 Một số đặc điểm của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy

Văn hóa là một hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người, được sản sinh qua hoạt động

của con người. Con người lại là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Vì thế, qua con người

có thể tìm thấy hơi thở, dáng dấp của một nền văn hóa. Ngược lại, muốn nhận diện một nền

văn hóa ta không thể không thông qua việc nhận diện con người. Con người trong tác phẩm

văn học là con người nghệ thuật, hay nói khác hơn đó là hình tượng con người được sáng tạo

từ hiện thực cuộc sống, được biểu hiện dưới cái nhìn, sự đánh giá, cách lý giải của nhà văn.

Cho nên, con người trong tác phẩm văn học bao giờ cũng mang dấu ấn của một nền văn hóa

cụ thể nào đó.

Do đó, để góp phần nhận diện sâu sắc văn hóa Nam Bộ trong sáng tác Trang Thế Hy,

như một “sản phẩm mang tính bản chất con người”, chúng tôi đi vào tìm hiểu một số đặc

điểm tiêu biểu, nổi bật của con người Nam Bộ trong truyện ngắn của Trang Thế Hy.

Tính cách con người vừa có tính ổn định lại vừa có tính biến đổi theo thời gian do sự

tác động của môi trường địa lý và hoàn cảnh xã hội, giống như một dòng chảy, có thể sâu

cạn, rộng hẹp tùy từng lúc, nhưng vẫn là dòng chảy ấy. Vì thế, người Nam Bộ trong sáng tác

Trang Thế Hy ngoài tính chất “vùng” đặc trưng của người Nam Bộ trong chiều dài lịch sử

dân tộc Việt Nam vừa là người Nam Bộ trong một thời điểm lịch sử cụ thể, mang bóng dáng

thời đại nhà văn đang sống. Thành công của Trang Thế Hy thể hiện ở chỗ nhà văn không chỉ

là phác họa lại nền văn hóa Nam Bộ với những phong tục, tập quán, lề lối sinh hoạt…mà ở

đó còn bộc lộ tính cách con người Nam Bộ khá trọn vẹn.

Thực ra, rất khó để xác định tính cách đặc trưng của con người một vùng đất trong

tổng thể một quốc gia. Bởi văn hóa là cái tiềm tàng lan tỏa khắp cả cộng đồng dân tộc, không

phân định rạch ròi theo cương giới lãnh thổ hay địa giới hành chính, cái mà nơi này con

người có thì nơi kia con người cũng có. Tuy nhiên, do hoàn cảnh địa lý, thiên nhiên, xã hội

và cung cách sinh hoạt mỗi nơi có khác nhau, cho nên tính cách con người Nam Bộ đã hình

thành những nét riêng biệt. Nếu quan sát kĩ ta sẽ thấy tính cách ấy thể hiện qua cách tổ chức

cuộc sống, qua quan hệ giao tiếp, trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày…

Nói đến tính cách, nhiều tác giả cho rằng con người Nam Bộ có những phẩm chất như:

yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh bất khuất, ý thức đoàn kết trọng nghĩa khinh tài,

tính bộc trực khẳng khái pha chút ngang tàng, hào sảng phóng khoáng, tấm lòng nhân hậu

thủy chung … Nam Bộ cũng là vùng đất đón nhận những cư dân di trú từ tứ xứ, vùng đất này

cũng là nơi hội tụ, giao thoa các luồng văn hóa khác nhau. Hấp thụ một “linh khí” văn hóa

như thế, tính cách con người Nam Bộ trong sáng tác Trang Thế Hy thể hiện qua một số đặc

điểm sau:

3.1.1 Con người xả thân vì nghĩa, tranh đấu vì dân tộc

Cộng đồng người Nam Bộ được hình thành từ quá trình di dân, do dân cư nhiều nơi tụ

lại. Thêm vào đó, môi trường thiên nhiên của vùng đất mới đối với những lưu dân thật xa lạ

và nghiệt ngã, trước mặt là dải đất hoang vu bưng sình, nhiều rắn độc, thú dữ: “Muỗi vắt

nhiều hơn cá, chướng khí mù như sương…Chiều chiều nghe Vượn hú, Hoa lá rụng buồn

buồn” (Sơn Nam). Trong điều kiện mọi thứ xung quanh đều thiếu thốn, buộc họ phải đoàn

kết nhau, yêu thương nhau, xả thân vì nghĩa từng phút từng giờ để đối phó với bao thiên tai,

dịch họa. Cuộc sống đó dần dần đã tạo nơi người Nam Bộ tấm lòng nhân ái, nghĩa tình. Họ

yêu thương nhau không tính toán thiệt hơn, không phân biệt sang hèn, thấy ai lỡ bước là sẵn

5TNguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và sự tác động của môi trường thiên nhiên đã hình

lòng giúp đỡ, đùm bọc.

thành nên tính cách đặc trưng của người Nam Bộ. Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực, mạnh

mẽ, hào phóng và đôn hậu, người Nam Bộ còn có vẻ đẹp của nét tính truyền thống, đáng trân

trọng đó là tính nghĩa khí hào hiệp. Đ5Tọc truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chúng

ta sẽ thấy những nét tính cách đó của người Nam Bộ đã được nhà thơ miêu tả rất sâu sắc qua

hàng loạt nhân vật đầy dũng khí như: Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực… Có thể

thấy, người Nam bộ trong sinh hoạt còn có chút “quê mùa”, “giản đơn” tuy nhiên họ cũng rất

biết thế nào là “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.

Không nói khéo léo, tuy nhiên đằng sau vẻ thầm lặng ấy lại là những con người dạt

dào tình cảm, yêu thương trìu mến từ gốc cây, ngôi nhà, gia súc, xóm làng cho đến mồ mả

những người đã khuất. Những con người ấy, khi đất nước lâm nguy bỗng trở nên can đảm lạ

lùng. Họ sẵn sàng hy sinh tất cả, từ ruộng vườn nhà cửa cho đến cả sinh mạng của họ, cho

đại nghĩa thiêng liêng chung của giống nòi.

Trang Thế Hy “vạm vỡ” và thâm hậu với những truyện ngắn viết về vẻ đẹp giàu nghĩa

khí của con người Nam Bộ. Con người nghĩa khí trong truyện ngắn Trang Thế Hy không

phải là người anh hùng như trong sử thi truyền thống được khoác lên màu sắc huyền thoại

mà là những con người bình thường trong cuộc sống hàng ngày nhưng sẵn sàng hy sinh,

tranh đấu vì dân tộc khi đất nước lâm nguy. Khi đối mặt với quân thù, họ sẵn sàng vì đồng

chí, đồng đội hy sinh quên mình, nhưng khi trở về cuộc sống thường nhật, họ là những con

người bình dị, gần gũi như bao con người khác đang sống quanh ta.

Chưa bao giờ con người bị đặt trước sự lựa chọn quyết liệt như trong truyện ngắn

Trang Thế Hy. Để sống, con người buộc phải lựa chọn. Tình thế của nhân dân Miền Nam

dưới chế độ thực dân kiểu mới buộc phải vậy. Nhưng trong cuộc sống của những ngày hòa

bình, cũng có không ít những cám dỗ, những thử thách đòi hỏi con người phải lựa chọn. Lựa

chọn là một cách bộc lộ mình chân thật nhất. Con người hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn.

Chính điều này lại làm cho việc lựa chọn trở nên khó khăn gấp bội. Tính cách nghĩa khí của

người Nam Bộ trong sáng tác Trang Thế Hy được biểu hiện khá rõ khi con người đứng trước

tình thế buộc phải có sự lựa chọn giữa riêng và chung. Trong mọi hoàn cảnh, con người xả

thân vì nghĩa lớn luôn hướng về lợi ích chung, vượt qua những rào cản khách quan, gạt bỏ

tình cảm, quyền lợi riêng tư để thực hiện nhiệm vụ người công dân đối với nhân dân, Tổ

quốc. Trang Thế Hy thể hiện nét tính cách này của người Nam Bộ với nhiều biểu hiện đa

dạng, phong phú.

Vấn đề riêng và chung là vấn đề mà con người trong truyện ngắn Trang Thế Hy luôn đặt

ra. Đó không chỉ là vấn đề của thời chiến mà là vấn đề của mọi thời. Sự vị kỉ luôn khiến cho

con người chỉ lựa chọn những gì có thể đảm bảo cho lợi ích riêng, thỏa mãn nhu cầu của cá

nhân mình.

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn trang Thế Hy trước hết là những con người có ý

thức về vai trò của cá nhân đối với vận mệnh đất nước, sẵn sáng tự nguyện hy sinh vì đất

nước, tranh đấu vì dân tộc. Không chỉ thế, họ còn là những con người có thái độ kiên quyết

khi đối diện với thực tại, không né tránh hay ảo tưởng, hời hợt về nó. Sự phức tạp trong đời

sống chính trị và xã hội đòi hỏi con người phải có tư duy tỉnh táo để tránh ngoài ý muốn.

Vấn đề con người quan tâm không phải chỉ là cuộc đấu tranh với tự nhiên hay các mối quan

hệ xã hội mà chính là cuộc đấu tranh giữa bản ngã với đạo đức và lợi ích cộng đồng, giữa

nhu cầu khẳng định cá nhân và điều kiện để thực hiện nhu cầu ấy.

Được nhìn nhận là “nhà văn của mùa thu, của tình yêu” , từ những câu chuyện mang

đậm đấu ấn hoài niệm, hồi ức, Trang Thế Hy kín đáo đặt ra những vấn đề lớn lao gắn liền

với đất nước, dân tộc, với thanh niên nam nữ sống trong hoàn cảnh chiến tranh.

Trong Bây giờ là mùa thu, nhân vật “tôi” đã lựa chọn cho mình một người yêu theo

“tiêu chuẩn” khá cao:

“Con người ấy góp phần làm nên ý nghĩa cuộc đời bằng sức mạnh của bàn tay, bằng

ý thức sáng tạo của bộ óc, bằng sự yêu thương trong trái tim và hình ảnh Tổ quốc trong

đường gân gạch máu” [tr.33].

Chính vì thế, khác với lẽ thường, người ta sợ người yêu rời bỏ mình, nhân vật “tôi” ở

đây lại “sợ hãy cái mà tôi không còn yêu em được nữa”[ tr.34]. Chính vì thế, nhân vật “tôi”

nhận thức được rằng:

“Ở thời đại chúng ta, không có tình yêu đơn thuần. Tình yêu là một thứ đẹp không

tách rời với cái Đẹp thanh cao làm rạng rỡ hình ảnh Tổ quốc trong tim ta. Hình ảnh đó mà

lu mờ thì sự thương yêu mà nó nuôi dưỡng sẽ bám vào đâu để sống?” [ tr.38].

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn của Trang Thế Hy không hô khẩu hiệu mà thiết

thực hành động. Thu trong Mưa Ấm đã bày tỏ lòng mình với người yêu:

“Vấn đề của chúng ta không phải cường độ tình yêu mà là quan niệm về tình yêu

(……). Nhiều khi thương anh quá, em muốn quên hết, muốn trở thành mê muội để chỉ thuộc

về anh thôi nhưng không được. Em không phải chỉ là người yêu của anh. Em còn là con của

ba má em bị giặc thảm sát. Em còn là thành viên của một tổ chức mà em phải chấp hành

mệnh lệnh. Em còn là bạn đường của một số đông người đau khổ cùng chung một lý tưởng

mà em đã thề nguyền hiến dâng cuộc sống…” [78, tr.210].

Người con gái này yêu một cách mãnh liệt nhưng biết đặt tình yêu của mình đúng chỗ.

Cô xác định được đâu là tình yêu, đâu là lẽ sống. Lẽ sống của cô không hề mâu thuẫn với

tình yêu, thứ tình yêu chân chính trong khi tổ quốc đang lâm vào cảnh nước sôi lửa bỏng.

Phải từ bỏ tình yêu lứa đôi của mình, với Thu, nỗi đau đó không dễ nguôi ngoai. Nó đeo

đẳng cô mãi đến suốt cuộc đời. Con đường cô chọn không phải là con đường dễ dàng, bằng

phẳng. Thu đã phải lựa chọn cái chung, từ bỏ cái riêng, nhất là khi cái riêng nhỏ bé ấy không

hòa hợp được với cái chung lớn lao. Đó là cách ứng xử với tình yêu, giải quyết mối quan hệ

cá nhân - cộng đồng một cách đầy say mê và tỉnh táo của một con người trong chiến tranh.

Ngoài ra, ta có thể bắt gặp trong truyện ngắn Trang Thế Hy những con người có ý

chí, hành động kiên cường “chết mà không bị ô danh, xủ tiết…giành cây mi với thằng quan

Hai rồi bị bắn chết, thằng kia chưa hãm hiếp được” [78, tr. 23]. Đó là cái đẹp ở hành động

của Thơm trong Nắng đẹp miền quê ngoại. Qua đó, nhà văn khẳng định sự bất tử của những

con người “biết chết” vì lẽ sống cao cả.

Ở truyện Vết thương thứ mười ba, ta lại được chứng kiến một kiểu đau đớn khác của

con người khi bị đặt trước sự lựa chọn trong hoàn cảnh chiến tranh. Đó là chị Châu, một

người phụ nữ mà suốt cuộc đời chị luôn là niềm tự hào của mọi người, của gia đình, nhất là

của người chồng rất mực yêu thương chị, ngoại trừ một lần duy nhất. Trước lúc nhắm mắt,

điều chị trăn trối lại với chồng là chị đã thất tiết, đã lỗi đạo làm vợ với anh. Chị không hề

biện hộ cho mình dù việc chị làm là vì cái chung, vì lý tưởng. Chị đã cho tên ác ôn điều hắn

muốn, đổi lại hắn đã làm nhiều việc có ích cho cách mạng. Cũng chính tay chị đã chấm dứt

sự tồn tại của hắn trên cõi đời. Tất cả những việc làm đó trở thành một bí mật đầy đau đớn

mà chị chôn sâu trong lòng, chỉ một mình chị biết, một mình chị hay. Mặc cảm tội lỗi với

chồng trở thành nỗi ám ảnh, dằn vặt chị cho đến tận khi chị nhắm mắt. Nỗi dằn vặt, day dứt

đó càng lớn vì chị không thể thổ lộ cùng người suốt đời đầu kề tay ấp. Sống cùng nỗi day dứt

ấy, chị héo hon, gầy mòn rồi trở nên “dị ứng” với chiến tranh, với những ai nhắc đến chiến

tranh. Chị Châu cho rằng:

“Muốn biết chiến tranh là cái gì, người cần hỏi ý kiến, người cung cấp định nghĩa

chính xác chứ không phải là các vị nguyên thủ quốc gia, các chính khách lẻo mép, các vị

thống chế tổng tư lệnh không bị bom đạn làm trầy miếng da nào” [41, tr.405-406].

Còn hỏi ai để biết chính xác ư? Chị Châu đã mạnh mẽ khẳng định:

“Hỏi vợ anh, cô anh, dì anh …nói chung là hỏi những người đẻ con cho thiên hạ, đem

đi nướng…hỏi những bà mẹ sau chiến tranh đi hết nghĩa trang này đến nghĩa trang khác tìm

nấm mồ đề tên con mình mà không gặp…” [41, tr.406].

Chị đã nói thay nỗi đau chung của những người phụ nữ mà suốt đời không bao giờ họ

cất lên được thành tiếng, dù thật nhỏ cho nỗi đau lớn của riêng mình. Bi kịch tinh thần của

chị chính là ở chỗ đó. Chị có thể lựa chọn cách giải quyết khác: chịu tù đày, chịu hy sinh để

giữ vẹn khí tiết. Không ai ép chị. Chính chị tự nguyện. Và sự tự nguyện ấy là sự tự nguyện

trong đau đớn, đau đớn cả một đời làm vợ. Sự tự nguyện ấy cuối cùng đã gây ra cho người

chồng thêm một vết thương, vết thương thứ mười ba “Vết thương không làm chảy máu,

không để thẹo nhưng sẽ đau hoài cho tới chết” [41, tr.429].

Có thể nói đây chính là chỗ khác biệt rất lớn của con người Nam Bộ trong truyện ngắn

Trang Thế Hy so với những con người Nam Bộ trong sáng tác của những nhà văn khác. Nếu

Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và một số nhà văn khác thường miêu tả tính cách người Nam bộ

trọng nghĩa, hành động hào hiệp, quảng đại của các nhân vật trong các tác phẩm rất gần với

các nhân vật trong cải lương, tuồng hay trong các truyện Tàu, truyện thơ Nôm bình dân mà

người Nam bộ rất mê thích; thì qua những truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy giúp người

đọc nhận ra quá trình tâm lí và quá trình nhận thức phức tạp, đầy chiều sâu của con người

đối với truyền thống lịch sử và vận mệnh dân tộc.

Con người trong truyện ngắn Trang Thế Hy ngoài việc có ý thức dân tộc, có tinh thần

tranh đấu không chỉ với sự bạo tàn, bất công còn luôn tranh đấu với chính bản thân mình.

Nhà văn đã để cho những con người ấy đi đến tận cùng của sự hy sinh, tận cùng của sự đau

đớn, day dứt mà không thể sẻ chia. Ở đây hiện thực lịch sử được nêu lên trong truyện không

phải với tư cách bối cảnh hay điểm tựa để con người xuất hiện, hoạt động, mà như một đối

tượng cụ thể đang đối diện và đòi hỏi con người phải có lập trường dứt khoát, thái độ rõ ràng

với nó. Trước hiện thực chiến tranh khắc nghiệt, con người Nam Bộ trong truyện Trang Thế

Hy đã nhận thức và có sự lựa chọn sáng suốt, biết chấp nhận khó khăn, thử thách và sẵn sàng

hy sinh vì lợi ích chung, lớn lao.

3.1.2 Con người nhân ái, giàu tự trọng, yêu cái đẹp

Trong Truyện ngắn Trang Thế Hy, dù là giai đoạn trước giải phóng hay sau này cũng

thế ta dễ dàng bắt gặp những con người mang giá trị làm người cơ bản nhất. Hàng loạt nhân

vật của ông, dù là ai, làm công việc gì, trí tuệ, nghệ sĩ hay những người lao động chân tay, cả

những con người yếu đuối, sa ngã nữa…..đều là những con người nhân ái, giàu tự trọng,

chung thủy, nghĩa tình. Nhà văn đã viết họ với một lòng thương mến, trân trọng và tin tưởng.

Tính cách ấy của người Nam Bộ trong sáng tác Trang Thế Hy được biểu hiện khi con

người đứng trước tình thế buộc phải có sự lựa chọn giữa vinh và nhục.

Cái vinh, cái nhục trong cuộc đời có một ranh giới khá rõ ràng, rạch ròi. Nhưng

không phải ai cũng có thể lựa chọn đúng. Vì để lựa chọn đúng, con người nhiều khi phải trả

giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu. Thế nên con người không dễ dàng khi đứng

trước sự lựa chọn.

Để có cơm ngon, áo đẹp, để nuôi chồng con sống cảnh sung túc giữa một xã hội Sài

Gòn bị Mỹ hóa những năm trước giải phóng, có những người phụ nữ đã chọn cách trở thành

gái bao của những gả đàn ông giàu có hay những tên Mỹ xâm lược có nhiều đô la thay vì tìm

một công việc nặng nhọc mà chính đáng, thanh cao. Và bên cạnh những người vợ như thế là

những “người chồng thời đại” (tên truyện của nhà văn Vũ Hạnh), biết làm ngơ cho vợ dễ

dàng “làm việc”, để vẫn tiếp tục được ăn ngon mặc đẹp, được ở trong những căn nhà tiện

nghi… như trong truyện ngắn của Vũ Hạnh, của Bình Nguyên Lộc… Cũng lại có những kẻ

cam tâm tình nguyện làm chó săn cho giặc để đổi lấy những đồng đô la dính máu của bao

con người chân chính…

Trang Thế Hy biểu hiện thái độ vô cùng nhức nhối trước thực trạng đó. Nhà văn đã

không ngần ngại vạch bỏ bản chất của những kẻ sống đực đó qua truyện ngắn Nắng đẹp

miền quê ngoại. Đó là chuyện kể về một kẻ chuyên bợ đỡ gót giày quân xâm lược để đảm

bảo quyền lợi kinh tế của mình. Kẻ ấy đã không ngại giăng bẫy lừa một cô gái trong trắng,

xinh đẹp đưa về đồn để tên đồn trưởng thỏa mãn thú tính. Nhưng điều không ai ngờ tới, cô

gái ấy lại chính là người em bạn dì của y. Khi y biết được điều đó thì tất cả đã trở thành quá

khứ, một quá khứ đau đớn sẽ đeo đẳng y cho đến chết bởi vì sao trong y vẫn chưa mất hết

lương tri.

Lại có những người hám danh, cố tìm mọi cách để đạt được một danh vị nào đó, dù có

khi cái danh ấy chẳng khiến cho họ cao trọng hơn, thậm chí còn để cho người đối diện phải

cười thầm. Đó là một cách để “giải quyết khâu oai” của một típ người không phải là ít trong

xã hội của nhiều thời. Nhân vật ông Bảy cơ bản trong Rác và Hoa là người như thế. Cái háo

danh của ông Bảy cơ bản dường như chẳng có hại gì cho ai, nhưng nó cứ giống như một thứ

rác rưởi làm chướng mắt của những người trông thấy. Tác giả phải công nhận rằng từ khi trẻ

cho tận về khi già, “cái ý chí ham chức tước của ông nó bền dai đến như vậy” [41, tr.495].

Là đàn ông mà đến khi về hưu vẫn còn cố trở thành “cố vấn tại chức của Hội phụ nữ từ thiện

thành phố” [41, tr.496]. Nói chuyện với “tôi”, ông Bảy thật thà: “…nói cho ngây, được cái

chức này cũng nhờ bà xã tôi, một thành viên trong ban lãnh đạo Hội” [41, .tr.496]. Nhà văn

như cảm thấy một nỗi nhục len lỏi trong từng khe hở chân lông của người đàn ông. Ông thấy

nhột nhạt và buộc phải viết ra những gì ông biết về một dạng những ông Bảy cơ bản.

Nhưng những kẻ lạc lối như thế không phải là mẫu hình thường gặp trong truyện

Trang Thế Hy. Nét đặc trưng nổi bật của con người trong truyện Trang Thế Hy khi đứng

trước tình thế buộc phải lựa chọn giữa vinh và nhục là con người những luôn sáng ngời

phẩm giá.

Đó là một cô gái xinh đẹp, kiên cường, dám chống lại sự càn quấy của những tên vô

lại trong Nắng đẹp miền quê ngoại. Và cũng chính cô là người đã cướp súng của tên đồn

trưởng, vừa để bảo vệ mình, vừa để trừ khử một tên cướp gian dâm, độc ác. Cô gái ấy đã

chết dưới tay kẻ hung ác, nhưng đó là một cái chết kiên cường, hiên ngang và dũng cảm.

Không chấp nhận sự ô nhục, cô đã chọn cách hành xử đẹp để giữ vẹn sự trinh trắng của

người con gái. Hành động đó chính là sự khẳng định khí tiết, bản lĩnh kiên cường của người

dân Nam Bộ khi phải đối diện với sự kìm kẹp, áp bức của kẻ thù.

Trường hợp của cô bé Hứa Lệ Mai, một em gái người Tàu mười lăm tuổi trong truyện

Nguồn cảm mới là một ví dụ khác. Ở giữa cái đất Sài Gòn hỗn tạp như một “cục bầy nhầy”

(chữ dùng của nhà văn Trang Thế Hy), có những cô bé chưa kịp trở thành thiếu nữ đã chọn

một kết thúc đau đớn nhưng đầy ý nghĩa. Hứa Lệ Mai hằng ngày phải trải qua cuộc sống áo

cơm vất vả, chật vật vô cùng so với cái tuổi vốn được xem là “ăn chưa no, lo chưa tới” của

cô. Tuy vậy, cô gái ấy lại sớm có những suy nghĩ chín chắn:

“Làm lụng cực nhọc như vậy, mà em luôn vui vẻ với mọi người. Ít khi nghe em than

mệt nhọc hay phàn nàn về cuộc đời nghèo cực (…), cũng ít khi nghe em trầm trồ một ngôi

nhà đẹp hay mơ ước thèm thuồng một món ăn ngon, một bộ quần áo mới” [41, tr.27].

Cô bé ấy cũng rất khẳng khái trả lời khi được hỏi về tương lai:

“…Có khi nào em nhìn cái cảnh bán phấn buôn hương ngoài đầu lộ kia mà ngao ngán

cho tương lai của em không?

“Không, bởi vì em có định hướng trong bụng rồi. Cùng quá thì chết, chớ không làm

như vậy” [41, tr.27].

Và Hứa Lệ Mai đã thực hiện lời hứa đó, chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá. Cái chết

của cô gái đã thắp lên cho người đời niềm tin vào những giá trị thanh cao, đích thực giữa cái

cuộc sống mà họ đang phải hằng ngày, hằng giờ đối diện với “những cơn phá sản tinh thần”

.

Đó còn là trường hợp của nhân vật Hường trong Một thiếu nữ không đáng kể. Là một

người giúp việc, phải sống trong cảnh suốt ngày chứng kiến việc người ta chơi bời trác táng,

mua bán xác thịt như một “mốt thời thượng”. Đối với Hường, đó là những điều vô cùng

đáng sợ. Nhưng cuối cùng cô vẫn không thoát được nỗi sợ ấy, cũng phải bán thân nuôi đứa

em gái côi cút ăn học và chữa bệnh. Và ngay sau khi đứa em duy nhất ra đi, Hường cũng đã

tự kết liễu đời mình.

Cũng như cái chết của Hứa Lệ Mai trong Nguồn cảm mới, cái chết của Hường cũng để

lại nhiều dư vị đắng. Nhưng đằng sau cái vị đắng ấy người ta vẫn cảm nhận được cái “vị ngọt

the the” (chữ dùng của Trang Thế Hy) của một cách hành xử đẹp trong cuộc đời. Những cái

chết như thế đã làm cho cuộc sống đẹp hơn gấp nhiều lần.

Trong cuộc sống, con người có quyền khát vọng được sống giàu sang, êm ấm. Nhưng

con người trong truyện ngắn Trang Thế Hy nhất quyết không lấy nhân phẩm để đánh đổi

những thứ ấy dù cho có phải rơi vào tình cảnh oái ăm, khốc liệt nhất. Lựa chọn bao giờ cũng

thể hiện một thái độ sống, một bản lĩnh sống. Thái độ sống, bản lĩnh sống của con người ở

đây chính là dám sống và dám chết, “chết vinh còn hơn sống nhục”. Họ đã biết sống vì

những điều cao cả và dám chết cho những điều cao cả ấy. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp tâm

hồn và tính cách của những con người được sinh ra từ một dân tộc giàu truyền thống lịch sử

và có bề dày văn hóa.

Đọc truyện ngắn của Trang Thế Hy, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con

người khá đặc biệt. Hầu hết họ đều là những con người lao động bình thường, phải sống vất

vả, chật vật trong cuộc sống áo cơm. Đó là những công nhân vệ sinh môi trường, những chị

bán tàu hủ, những bà bán cà phê, những anh thợ sửa xe, những bà má già buôn gánh bán

bưng, những chị bán hủ tiếu dạo, những nghệ sĩ đã hết thời…Tất cả hợp thành số lượng khá

đông đảo. Họ không chỉ hiện diện đông đảo trên những trang viết của nhà văn xứ Dừa, họ

còn hiện diện đông đảo trong cả cuộc đời thực mà chúng ta đang sống. Họ đông đảo và quen

thuộc đến mức đôi khi vì vô tâm, hay vì một lí do nào đó người ta dễ bỏ quên và bỏ qua sự

hiện diện của họ trong cuộc đời. Bằng những truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy nhắc nhở

ta về sự hiện diện lặng lẽ của họ. Trang Thế Hy mải miết đi tìm và phát hiện vẻ đẹp giản dị

nhưng rất đỗi cao quí trong những con người rất đỗi bình thường ấy. Truyện Trang Thế Hy

đề cao nhân phẩm của những con người lao động nghèo. Họ có thể thiếu thốn tiền bạc,

nhưng không nghèo tình nghĩa và rất giàu nhân ái, trách nhiệm.

Trong truyện ngắn Con cá không biệt tăm, Hải - một cô gái “người dưng”, đã trải lòng

mình trước nỗi đau của một người cha bất hạnh. Người cha ấy đang dần đánh mất niềm tin

vào cuộc sống khi đứa con gái duy nhất, người thân duy nhất còn lại sau khi ông từ nhà tù

của địch trở về, bị bệnh tâm thần nặng. Căn bệnh của đứa con gái thân yêu không còn nhiều

hy vọng chạy chữa. Trong nỗi tuyệt vọng, ông đã đánh cược số phận của hai cha con vào

chùm phong lan còi cọc trên thân cây Sao trong công viên Tao Đàn. Luật của phép cược

được người cha đặt ra như sau: nếu chùm phong lan ra hoa, con gái ông sẽ lành bệnh, và

ngược lại… Động lòng trước hoàn cành đáng thương của người cha, cô gái “người dưng” ấy

đã kịp nhờ người, một cách kín đáo, thay chùm lan còi cọc kia bằng một chùm lan sắp nở

hoa. Bằng chính một cử chỉ nhỏ như thế, cô đã cứu được niềm tin cho một người cha tội

nghiệp. Chính người cha đáng thương ấy cuối cùng đã nhận ra được giá trị đích thực của

cuộc sống chính là:

“Cái quan trọng là tình người có thật. Và khi thương ai, người ta có rất nhiều sáng

kiến, kể cả cái sáng kiến lấy chuyện hoang đường làm chất liệu nặn ra hy vọng để giảm nhẹ

nỗi đau của người mình thương…” [41, tr.265].

Tình người chính là thứ keo đặc biệt đã gắn kết con người với nhau. Trong cuộc sống,

con người cho nhau vật chất trong lúc nghèo khổ đã là một nghĩa cử đẹp. Ở đây, con người

còn mang đến cho nhau cả niềm tin cuộc sống. Nghĩa cử đó càng mang ý nghĩa cao cả gấp

bội phần. Qua truyện ngắn này, nhà văn đã chạm đến những giá trị rất “người” trong đời

sống thường nhật, nhắc nhở chúng ta rằng: khả năng đồng cảm, tình người chính là liều

thuốc quý báu mà mỗi người đang sở hữu trong tâm hồn mình. Bất cứ lúc nào, chúng ta cũng

có thể mang nó đến với người khác, để giảm nhẹ nỗi đau cho những con người bất hạnh và

đau khổ xung quanh mình.

Đó là chàng thanh niên tên Hải biết tìm đến để đem hạnh phúc cho người yêu của

mình, một thiếu phụ không chồng nhưng có con, bị bao tiếng đời dèm pha (Nghệ thuật làm

bố dượng). Đó là một nhà thơ đang trượt dốc theo những thú ăn chơi sa đọa, vẫn biết dùng

những đồng tiền mình kiếm được cứu vớt một mảnh đời đang bị cuộc sống khó khăn nhấn

chìm (Người bào chế thuốc giảm đau). Đó là chị Liên, một người vợ liệt sĩ, đã không quản

ngại vất vả, đi tìm người đã khóc chồng mình bằng nước mắt thật sự của một người vợ khóc

thương chồng để trả “nợ nước mắt” (Nợ nước mắt). Đó là người đàn bà nghèo bán quán

nước đã biết cảm thông cho cô gái câm hành nghề gái bán dâm bởi “chẳng qua cũng chỉ vì

nghèo”, là ông họa sĩ nghèo tên Hải đã cho người đàn bà nghèo bán quán nước ấy nhờ chiếc

xe đẩy trong sân nhà mình với điều kiện “đừng nói chuyện tiền bạc chi hết”(Tiếng hát và

tiếng khóc) [41, tr.448]. Tất cả đã vẽ nên diện mạo cuộc sống của con người Nam Bộ trong

truyện Trang Thế Hy, một cuộc sống đầy ân tình, nhân nghĩa của những con người lao động

bình dị, một cuộc sống đã mang đến bao ý nghĩa cao đẹp cho đời.

Nghèo dễ khiến cho người ta hèn. Điều này hầu như không áp dụng cho con người

trong truyện ngắn Trang Thế Hy. Nhân vật của ông dù nghèo vật chất, họ vẫn rất giàu nhân

nghĩa, tình thương. Không chỉ thế, họ còn là những người giàu tự trọng, dù nghèo nhưng vẫn

giữ cho mình một tư thế luôn ngẩng cao đầu.

Tuýp nhân vật đầu tiên mà ta dễ gặp và gặp nhiều nhất là các văn nhân, thi sĩ. Thời

nào cũng thế, “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Có những lúc túng thiếu quá,

nhân vật văn sĩ trẻ tội nghiệp của Trang Thế Hy thậm chí đã phải nghĩ ra những “chiêu” rất

đáng thương để bớt được từng bữa ăn, đó là…ngủ. Còn cảnh đi ở nhờ nhà bạn bè thì không

hiếm. Nhưng ngủ mãi cũng không thể thay thế việc ăn. Phải ăn thì mới sống được. Và trong

những ngày lay lắt đó, chàng văn sĩ của ông chọn một cách kiếm sống là dịch sách trinh

thám và ái tình ba lăng nhăng, hay viết bài quảng cáo cho các nhà thuốc để có thể sống qua

ngày. Nhưng những chuyện đó qua đi thật nhanh. Họ đã cảm thấy nhục nhã, cảm thấy mình

thật bất lực. Nhưng rốt cuộc, họ vẫn là những người “có chút đỉnh tài hoa nghệ thuật mà

không biết cách đem bán” [41, tr.76], nghĩa là họ vẫn luôn giữ được lòng tự trọng, giữ đúng

được tư cách của nhà văn nghèo nhưng chân chính dù có đôi lần hụt chân vào vòng xoáy của

kế sinh nhai cơ cực.

Nghèo về vật chất là một cái nghèo mà không ai mong “sở hữu” nó. Nhưng đối với

các nhân vật của Trang Thế Hy, cái nghèo ấy chưa hẳn đã đáng buồn. Cái đáng buồn chính

là nghèo lòng tự trọng, là sự kém ý thức trong cuộc sống của nhiều người. Giữa cuộc sống

đói nghèo, trong cùng xóm có biết bao người con gái bán thân nuôi miệng, vậy mà cô bé

Hứa Lệ Mai của Trang Thế Hy dám chết để giữ phẩm giá của mình, không để cái nghèo vùi

mình xuống đáy cuộc đời. Phẩm giá, với cô bé ấy, đáng quý hơn tất cả.

Cũng chính những con người nghèo ấy, ngay cả khi phải “mót” những cánh hoa “ít

héo úa nhứt” mà người ta đem bỏ rác sau tết thì cũng vẫn từ chối “bó hoa lay-ơn Đà Lạt lá

còn xanh dờn như mới cắt, nhiều nụ hoa màu đỏ bầm hãy còn búp” [24, tr.491]. Cô gái

nghèo bán đậu hủ non chan nước đường phèn ấy không hề “làm cao” trong trường hợp này.

Cô không từ chối hoa, không từ chối cái đẹp bao giờ (hoa vốn là một biểu trưng của cái đẹp)

nhưng cô nhất quyết từ chối những kẻ không hiểu cái đẹp, không biết trân trọng cái đẹp.

Giữa đống rác hỗn tạp, một người nghèo như cô Hường vẫn nhận ra những vẻ đẹp bị trộn lẫn

trong đó, để rồi biết nhặt nó ra, rửa sạch nó bằng nước sạch, trân trọng nó. Người nghèo vốn

nhạy cảm về thân phận và cũng dễ đồng cảm với những gì đồng phận. Những cánh hoa ít tàn

úa nhất (chứ không phải là những cánh hoa tươi) có khác gì than phận của những người

nghèo trong hành trình tô điểm cuộc đời. Sự nhạy cảm giúp họ tránh được lòng thương hại

của những người “không cùng giai cấp” với họ để giữ được lòng tự trọng. Có khi chính vì

điều đó mà lại thêm một lần bị họ hiểu sai rằng đó là “thói khó ưa của người nghèo muốn tỏ

ra ta đây là kẻ thanh bần” mà không hiểu đó là vì “Họ quí mến lòng tự trọng của họ” [41,

tr.492].

Chính vì quý trọng lòng tự trọng của mình mà bà mẹ liệt sĩ già nua vẫn ngày ngày ôm

thúng khổ qua bán dạo nơi phố chợ ồn ào để kiếm sống. Bà cũng đã không hề làm phiền ai,

không hề thở than một tiếng trong suốt những năm chờ đợi con cháu mình được công nhận là

liệt sĩ bởi bà biết sống là cho đi. Sự hy sinh của con cháu của bà là sự hy sinh vì lý tưởng cao

đẹp, nên với bà, mọi việc dường như hết sức nhẹ nhàng, mặc cho người khác có cảm thấy áy

náy, ray rứt (Bà mẹ già và thúng khổ qua). Cũng chính vì lòng tự trọng của mình nên người

đàn ông nghèo bán sách bên lề đường nhất định không bán sách cho những người theo kiểu

“cho bỏ ghét”. Anh ta biết phận mình nghèo nhưng không bao giờ chấp nhận cách đối xử

bất nhã của người khác đối với mình, hơn nữa là đối với những cuốn sách (cũng là đối với

những người viết ra cuốn sách đó) (Người bào chế thuốc giảm đau).

Nam Bộ những ngày sơ khởi là miền đất hoang vu rừng thẳm, cỏ mọc thành tinh, rắn

đồng biết gáy, nhiều sông rạch, đầm lầy, “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”,

trên rừng nhiều thú dữ, rắn độc và động vật quý, dưới nước tôm cá bạt ngàn, còn có cá sấu,

cá mập. Người nông dân Nam Bộ lao động cần cù, dũng cảm, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước

cải tạo tự nhiên, phòng chống thú dữ trên rừng, dưới nước để sản xuất và bảo vệ sản xuất. Ðể

tồn tại và phát triển giống nòi, sản xuất và bảo vệ sản xuất tất yếu các gia đình nông dân

trong họ tộc, trong xóm làng liên kết lại lao động, phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch,

làm đường giao thông, săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc, “thương nguời như thể thương

thân” giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống, đúng với câu ca truyền miệng

gần như nông dân Nam Bộ ai cũng thuộc lòng “một miếng khi đói bằng cả gói khi no” . Để

vượt qua những ngày tháng vô cùng cơ cực ấy thì ngoài việc ngày ngày lao động trên đồng

ruộng, đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo, chài đôi, chài ba, họ ca hát hoặc hò đối đáp dưới

ánh trăng tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình. Chính điều đó đã góp phần làm

nên tính cách phóng khoáng, tài tử, yêu cái đẹp của người Nam Bộ.

Bên cạnh đó, nói đến Nam Bộ cũng là nói đến cái nôi của bộ môn nghệ thuật cải

lương. Người Nam Bộ vốn rất mê cải lương, rất hay hát những bài vọng cổ cũng như rất quý

trọng những người nghệ sĩ ở những đoàn, gánh hát đã đem lời ca tiếng hát của mình để phục

vụ bà con sau một ngày lao động vất vả. Cuộc sống sinh hoạt của họ thường gắn liền với

những cuộc hát hò vui chơi mà họ gọi là “đờn ca tài tử” thắm đượm tình làng nghĩa xóm…

Có thể nói, tất cả những yếu tố trên là kho cứ liệu văn hóa dồi dào, là nguồn cảm hứng mãnh

liệt giúp Trang Thế Hy xây dựng và khắc họa hình tượng con người Nam Bộ mang đậm chất

văn hóa Nam Bộ: rất tài tử và yêu cái đẹp.

Trang Thế Hy cho rằng: "Con người Việt Nam vốn đa cảm. Sự đa cảm này khiến tâm

hồn con người giống với tâm hồn của nghệ sĩ...”. Trang Thế Hy luôn phát hiện và nâng niu

vẻ đẹp của tâm hồn của những con người bình thường trong cuộc sống. Dù nhân vật của ông

chỉ là những người vô danh hay là người nghệ sĩ thì tính cách và tâm hồn của họ đều toát lên

cái đẹp, phẩm chất của một nghệ sĩ. Phát hiện vẻ đẹp tài tử trong tâm hồn của mỗi con người,

nhà văn Trang Thế Hy đã khắc họa và tôn vinh cái đẹp giản dị và đáng quý như những viên

ngọc lấm láp cát bụi giữa cuộc đời.

Nhân vật của Trang Thế Hy hầu hết đều đẹp. Nếu trong chiến tranh, nhân vật của ông

được xem như những người anh hùng với những lựa chọn quyết liệt, với những trả giá đau

đớn mà đáng hãnh diện…thì trong cuộc sống đời thường họ mang lại vẻ đẹp của sự trầm

lặng, giản dị và đậm chất nghệ sĩ.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã có một nhận xét thật tinh tế về mảng sáng tác của Trang

Thế Hy. Ông viết “Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn

khuất, bị bỏ quên, hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của

nghèo khổ” [72, tr.52].

Đọc truyện ngắn của Trang Thế Hy, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con

người khá đặc biệt. Hầu hết họ đều là những con người lao động bình thường, phải sống vất

vả, chật vật trong cuộc sống áo cơm. Đó là những công nhân vệ sinh môi trường, những chị

bán tàu hủ, những bà bán cà phê, những anh thợ sửa xe, những bà má già buôn gánh bán

bưng, những chị bán hủ tiếu dạo, những nghệ sĩ đã hết thời…Tất cả hợp thành số lượng khá

đông đảo. Họ không chỉ hiện diện đông đảo trên những trang viết của nhà văn xứ Dừa, họ

còn hiện diện đông đảo trong cả cuộc đời thực mà chúng ta đang sống. Họ đông đảo và quen

thuộc đến mức đôi khi vì vô tâm, hay vì một lí do nào đó người ta dễ bỏ quên và bỏ qua sự

hiện diện của họ trong cuộc đời. Bằng những truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy nhắc nhở

ta về sự hiện diện lặng lẽ của họ. Trang Thế Hy mải miết đi tìm và phát hiện vẻ đẹp giản dị

nhưng rất đỗi cao quí trong những con người rất đỗi bình thường ấy. Truyện Trang Thế Hy

đề cao nhân phẩm của những con người lao động nghèo. Họ có thể thiếu thốn tiền bạc,

nhưng không nghèo tình nghĩa và rất giàu nhân ái, trách nhiệm.

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy còn là những con người vì hoàn

cảnh lỡ sa chân vào chốn bùn nhơ vẫn không mất đi “chất ngọc” trong tâm hồn.

Vấn đề thân phận con người trong văn học, nhất là những con người “bé nhỏ”, những

con người nghèo khổ hay gặp phải những tai ương và bất trắc trong cuộc sống là vấn đề

không mới trong lịch sử văn học. Những nhà văn có tâm và có tài, qua tác phẩm của mình,

bao giờ cũng thể hiện nỗi trăn trở trước những “những điều trông thấy” và cả những nỗi

“đau đớn lòng”.

Cũng giống như bao nhà văn khác, Trang Thế Hy thường lấy những thực tế mà mình

đã trải nghiệm và chứng kiến làm đề tài cho những sáng tác của mình. Truyện ngắn Trang

Thế Hy thường tái hiện những tình cảnh nghèo khó, khốn cùng, hình ảnh những con người

phải vất vả tìm kế mưu sinh. Không chỉ thế, nhà văn còn cho thấy vì nghèo khổ mà con

người tìm mọi cách để tồn tại, buộc phải “vật lộn” với cái nghèo bằng đủ thứ nghề khác

nhau.

Không hẹn mà nên, giữa Trang Thế Hy và Nguyên Hồng, nhà văn của những người

cùng khổ có những điểm gặp gỡ thú vị. Nguyên Hồng viết nhiều về những thân phận nghèo

khổ nơi đất cảng Hải Phòng những năm Pháp chiếm đóng với một tình thương, sự cảm thông

sâu sắc. Trang Thế Hy cũng viết về những con người đáng thương nơi mảnh đất Sài Gòn đầy

mỹ hóa, những con người mà xã hội thành kiến luôn sẵn lòng khinh miệt, dè bỉu. Sáng tác

của họ gặp nhau ở cái nhìn đậm chất nhân văn đối với con người.

Con người trong nhiều truyện ngắn Trang Thế Hy nghèo cả về vật chất lẫn sự cảm

thông, trân trọng của mọi người xung quanh. Đó là Loan trong Thèm Thơ, là cô gái không

tên trong Người bào chế thuốc giảm đau, là Hường trong Một thiếu nữ không đáng kể.

Nhưng ở họ lại toát lên vẻ đẹp của nhận thức, của tâm hồn, của văn hóa ứng xử .

Trước cuộc sống nghèo khó, những người phụ nữ đôi lúc không còn sự lựa chọn nào

khác là phải chấp nhận đánh đổi thân xác mình để tồn tại nhưng hoàn cảnh nghèo khó không

làm họ bán rẻ nhân phẩm của chính mình . Với Hường (Một thiếu nữ không đáng kể), cả

hành động bán mình lẫn hành động quyên sinh đều rất “đáng kể”. Hường bán mình để nuôi

em ăn học. Trong cô gái ấy, sự lo lắng của người chị về nhân phẩm, về hạnh phúc, về tương

lai của em mình lớn hơn rất nhiều so với sự lo lắng về miếng ăn cho em mình . Đó chính là

chỗ đáng trọng. Và khi em mình bị bệnh chết, Hường không ngần ngại kết thúc cuộc đời

mình, để tránh được nguy cơ khó mà sống trong sạch giữa xã hội ô trọc lúc bấy giờ. Hường

chết vì không còn tìm thấy ý nghĩa nơi cuộc sống, bởi sự hy sinh của cô đã trở thành vô

nghĩa, bởi ý thức về phẩm giá luôn đeo đẳng, giày vò cô. Đó là chỗ “đáng kể” của Hường.

Trong Người bào chế thuốc giảm đau, cô gái không tên - cô sinh viên thiếu tiền phải

bỏ trường đi làm gái bao, vẫn theo học tiếng Anh ở Trung tâm chính trị Anh ngữ của Hội

Việt - Mỹ và “học rất gạo với hy vọng nhờ nó ngoi ra được cái vũng lầy” [41, tr.465]. Cái ý

thức ấy đủ để cứu cho cái “tội” gái bao thoát án chung thân. Cuối cùng, tuy cô gái ấy không

thành công trên con đường học vấn, nhưng cô đã xa rời cuộc sống hạ cấp xưa, dù chỉ để trở

thành “cô giáo kiêm đầy tớ. Mỗi ngày hai tiếng. Một tiếng giặt giũ, lau nhà, quét dọn, ủi

quần áo, khi làm phụ bếp. Một tiếng dạy kèm Anh ngữ cho hai đứa con…”[41, tr.465] trong

gia đình một nhà thơ. Khát vọng hướng thiện, ý thức vươn lên khỏi vũng lầy của cuộc sống

trong cô gái thật đáng được trân trọng. Ngay khi đang là gái bao, cô gái ấy vẫn cho thấy cô

không giống với số đông các cô gái cùng cảnh sống. Cô là một cô gái có trình độ học vấn, có

lòng tự trọng của một người biết nhận thức các giá trị của con người, của cuộc sống. Giữa

cuộc đời đáng buồn ấy có lẽ nhờ những cô gái như thế mà bớt buồn hơn.

Trong Thèm thơ, Loan “làm gái” không vì thiếu tiền ăn học như cô sinh viên nghèo

kia, cũng không phải để nuôi em như Hường, cô cũng không có ý định sẽ giã từ cái nghề bị

xã hội khinh rẻ ấy. Nhưng trong Loan vẫn còn một tâm hồn trong sáng ẩn trong một thân xác

đã nhàu nát của một cô gái không còn ai thân thích, không có ai chăm sóc, định hướng cho

cuộc đời. Thế giới của Loan không chỉ có những ngày tháng vô nghĩa. Con người “chơi bời”

(chữ dùng của nhà văn Trang Thế Hy) ấy vẫn hoài vọng về một tuổi thơ trong trẻo, nhiều kỷ

niệm đẹp, thân thương. Chính Loan đã làm cho Vũ thay đổi cách nhìn về những cô gái chơi

bời, “không phải chỉ có những con người trong trắng mới biết hoài niệm những cái đẹp của

tuổi thơ.” [41, tr.56]. Cũng chính Loan, khi đọc một bài thơ hay viết về một cảnh ngộ giống

mình, đã thấy tội nghiệp cho tác giả của bài thơ, đồng thời thấy “buồn tủi cho cuộc đời làm

đĩ” [41, tr.57] của mình. Loan thổ lộ: “Trong mấy năm trời, biết bao nhiêu chuyện đã làm

cho em thương thân, tủi phận, nhưng chưa lần nào em thương thân phận bằng lần đó” [41,

tr.57] (tức là lần đọc bài thơ ấy). Cũng vì biết rõ, ý thức rất rõ về cái “nghề” ô nhục của

mình, về phẩm giá của mình mà Loan không dám dùng những đồng tiền hoen ố của mình để

giúp cho người khác, dù chỉ để người đó sửa lại mái tóc và mua ít chút đồ trang sức. Thậm

chí dùng tiền mình mua một miếng dưa hấu cho người khác, cô gái sẵn mang nhiều mặc

cảm, nhiều tủi thân ấy cũng không dám. Ấy thế mà cô lại có “ khát khao sang trọng bất ngờ”

(chữ dùng của nhà văn) là “thèm thơ”, đòi Vũ - chàng thi sĩ trong truyện - làm cho một bài

thơ dù lòng vẫn đầy mặc cảm:

“Như vậy có đèo bòng không? (…) Một cô gái chơi bời thì có gì nói được thành thơ?

Nhưng em không đòi thơ cho em đâu. Cho bất cứ cô gái chơi bời nào cũng được” [41, tr.61].

Điều đó làm cho chàng thi sĩ trong một thời gian dài không tìm được cảm hứng làm

thơ bỗng “thèm làm thơ một cách đáng gọi là làm thơ” [tr.62], nghĩa là “các chất ngọc vẫn

còn trong veo trong cô gái bán hoa đã nhàu nát ấy là nguồn cảm hứng thơ chân chính của

anh” [41, tr.52]. Và thực tế, cô gái với khát khao lạ ấy cũng là nguồn cảm hứng cho chính

những trang viết của nhà văn Trang Thế Hy. Dù là ai, họ vẫn giữ được sự trong trẻo của tâm

hồn, vẫn luôn là những con người biết hướng về cái đẹp, biết giá trị của cái đẹp.

Những người phụ nữ trong các truyện ngắn Trang Thế Hy là những người chịu nhiều

khổ đau, bất hạnh nhưng họ vẫn hướng tới cái đẹp, vẫn giữ cho mình những nét đẹp trong

tâm hồn. Cho dù nhìn bề ngoài những người ấy ta không cảm tình với họ, nhưng Trang Thế

Hy hoàn toàn khác, ông đã mẫn cảm và tìm thấy ở đáy sâu tâm hồn họ những khoảng sáng

thanh cao.

Loan, Hường,… mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, nhưng lại giống nhau ở tâm hồn

trong sáng, biết yêu cái đẹp, ở ý thức phẩm hạnh, ở cách hành xử đầy tự trọng, ở ý thức vươn

lên khỏi vũng lầy của cuộc sống mà ở những người bình thường không dễ dàng có được. Dù

thế nào họ vẫn giữ lại được “cái đạo” của phường “làm đĩ”. Đạo ở đây, không phải là thứ

đạo mà Hoàng Ngọc Hiến đã nhắc tới khi nói về một nền văn học “phải đạo”, trước đây.

“Đạo” ở đây là đạo làm người. Làm một người tử tế hay sống một đời lương thiện, thời ấy,

thật khó. Càng khó hơn, khi sống trong những cảnh khốn cùng, như những cô gái bao kia. Vì

thế, mà Trang Thế Hy trân trọng họ, nâng niu họ cũng là điều dễ hiểu. Bằng “một tấm lòng

nhân ái sâu xa lắm, một chất nhân văn không ồn ào, cường điệu mà đậm đà lắm!” [41,

tr.52].

Trang Thế Hy đã thể hiện cái nhìn hướng thiện, đầy vị tha đối với con người. Tuy nhiên,

điều đó không có nghĩa là Trang Thế Hy ủng hộ lối sống ăn chơi sa đọa, càng không phải

nhà văn cổ xúy cho việc trở thành gái giang hồ. Ông chỉ đứng về phía số ít những cô gái ăn

sương để hiểu họ, bênh vực họ, chứng minh rằng ở giữa cuộc đời ô trọc này, họ vẫn còn

đáng được cảm thông, được quý trọng. Trang Thế Hy đã thể hiện cái nhìn “biết giá người”

(chữ của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù), biết gạn đục khơi trong để không bỏ phí

những mảnh hồn vẫn còn le lói những tia sáng của phẩm hạnh.

Chàng văn sĩ trẻ trong Một thiếu nữ không đáng kể đã nói thay nhà văn thông điệp mà

ông muốn nhắn gửi với mọi người:

“Tôi viết văn là để nói với mọi người rằng cuộc đời đẹp, rằng cuộc đời tuy bề ngoài

gồm những chuyện xấu xa bỉ ổi, đâm chém, tranh giành nhưng cuộc đời có cái đẹp của nó và

cái đẹp đang thoát lần lần khỏi gọng kềm của cái xấu” [41, tr.408 - 409].

Có lẽ vì si mê lời tiên tri của Dostoievsky “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” mà suốt đời

mình, Trang Thế Hy đã ra sức trân trọng và bảo vệ cái đẹp với hy vọng nó có thể “cứu rỗi

thế giới” được phần nào.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng khẳng định về điều này:

“….Chính trong cái đám bùn nhơ nhầy nhụa tưởng chừng đến tuyệt vọng ấy, anh lần

tìm ra cái đẹp, và cái đặc sắc, độc đáo của Trang Thế Hy là cái đẹp anh chắt chiu tìm ra

được và vô cùng trân trọng được nhặt lên từ bùn nhơ, bỗng sáng lên long lanh, như ngọc,

như kim cương.”[41, tr.52].

Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã từng nhận định khá sâu sắc về đặc điểm này trong

truyện ngắn Trang Thế Hy: “Truyện của Trang Thế Hy kêu gọi con người hướng thiện. Nhà

văn không vạch ra nẻo thiện cho nhân vật, cũng không có tham vọng biến nhân vật của mình

thành hiện thân của điều thiện. Nhưng nhân vật của Trang Thế Hy luôn cho chúng ta một

niềm tin mãnh liệt về việc “cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”, cái thiện sẽ phục sinh niềm tin vào

cuộc đời, vào con người.” [72, tr.161].

Cái nhìn bao dung ấy phải chăng được chưng cất từ cuộc sống mà Trang Thế Hy đã

sống và trải nghiệm. Đó là cuộc sống một con người đã sống qua máu lửa, chứng kiến lắm

đau thương, của một người đã đi qua hết cuộc chiến tranh, cũng đã nếm biết bao vị “đắng và

ngọt” của cuộc sống thời bình. Đó là cái nhìn hãnh diện của một con người đã làm tròn

nhiệm vụ đấu tranh cho đất nước, không chút nghi ngờ về tương lai của dân tộc, nhưng

chẳng cũng chẳng hề ảo tưởng về những mặt bất toàn của hiện tại.

* Tóm lại, với những truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy đã xây dựng hình ảnh con

người Nam Bộ giàu cá tính. Đó là những con người nhân ái, tự trọng, có tâm hồn nghệ sĩ sôi

nổi, bồng bột mà không hề đơn giản, sơ lược, bộc trực, thẳng thắn nhưng cũng chất chứa một

nội tâm đầy bí ẩn và phức tạp.

3.2 Những đặc điểm nghệ thuật góp phần biểu hiện văn hóa và con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy

Hoàn cảnh xã hội và nhân tố văn hóa, đặc biệt là môi trường văn hóa miền Nam giai

đoạn Trang Thế Hy sống và viết có tác động lớn đến cảm hứng văn hóa của các nhà văn,

khiến họ có cơ sở để tận dụng, khai thác từ ký ức văn hóa của bản thân thành một nguồn tư

liệu sống cho sáng tác. Không chỉ riêng Trang Thế Hy, nghiên cứu tác phẩm của các nhà văn

Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân và cả những nhà văn miền Bắc di

cư như Vũ Bằng, Mai Thảo, Phan Văn Tạo…đều thấy có sự chi phối đậm nét của ký ức văn

hóa trong sáng tác của họ.

Cảm hứng sáng tạo được xem như một trạng thái tâm lý đặc biệt của người nghệ sĩ khi

xây dựng tác phẩm. Cảm hứng không quyết định hoàn toàn cho sự thành công của sản phẩm

nhưng nói đến cảm hứng là nói tới niềm say mê thôi thúc, sự nồng nhiệt chân thành, sự hào

hứng tự nguyện vì một ý tưởng hay công việc nào đó. Cảm hứng văn hóa được hiểu ở đây là

sự say mê, quan tâm (trong ý thức và vô thức) của tác giả đối với các yếu tố thuộc về văn

hóa dân tộc, thể hiện trong cách cảm nhận hiện thực cuộc sống cũng như quan niệm về con

người trong tác phẩm.

Đối với một số người viết, vai trò của việc ghi nhận văn hóa, tác dụng của ký ức văn

hóa trong sáng tạo có thể không quan trọng hoặc không ý thức rõ ràng. Nhưng bối cảnh va

chạm và cộng sinh, tiếp biến về văn hóa cũng khiến cho nhiều người viết có nhu cầu được

trình bày, chia sẻ với người đọc về những gì mình đã có, về “vốn liếng” văn hóa độc đáo mà

mình đã tích lũy trong quá trình sống. Vì thế, thổ ngơi, mùi vị, cuộc sống, nếp sinh hoạt của

vùng đất Nam Bộ…là đề tài, là nguồn cảm hứng dường như không bao giờ cạn cho những

trang viết của Trang Thế Hy. Để phản ánh hiện thực văn hóa và con người Nam Bộ và tạo

nên sức hấp dẫn của những trang viết mang đậm dấu ấn văn hóa của nhà văn Trang Thế Hy

có sự đóng góp rất quan trọng của các phương thức nghệ thuật được nhà văn sử dụng đạt

hiệu quả cao như: nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng

phương ngữ Nam Bộ trong các truyện ngắn của mình .

3.2.1 Nghệ thuật trần thuật với việc thể hiện văn hóa và con người Nam Bộ

3.2.1.1 Cốt truyện đơn tuyến

Truyện ngắn Trang Thế Hy là những câu chuyện nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám

ảnh lớn. Đó là lối kể chuyện tâm tình, cốt truyện dàn trải, lỏng lẻo. Truyện Trang Thế Hy ít

có những hành động 6Tphát triển6T xung đột mà chủ yếu toát lên một triết lí, một tâm trạng, một

không khí nhưng lại rất thực và rất đời.

Nhiều truyện của ông, có điểm gặp gỡ với lối kể chuyện của Thạch Lam. Đó không

phải là những câu chuyện hấp dẫn bởi những tình tiết gay cấn, những kết thúc bất ngờ…

Truyện của họ phải được đọc, phải nghiền ngẫm để thấy dòng suy tư cuộn chảy trên từng câu

chữ. Đó là kiểu tự sự phi cốt truyện. Với kiểu tự sự này, cốt truyện, sự kiện bị đẩy xuống

hàng thứ yếu, nhường chỗ cho tâm trạng, cho ấn tượng tình cảm của người trần thuật.

Đôi khi, truyện Trang Thế Hy có thể kể lại, nhưng giá trị nghệ thuật của truyện lại

không nằm ở nội dung có thể kể lại ấy. Nhà văn không chú trọng xây dựng một cốt truyện

với đầy đủ các yếu tố thông thường của một cốt truyện như trong truyện ngắn truyền thống.

Hiểu cách khác, cốt truyện được Trang Thế Hy sử dụng chủ yếu nhằm bộc lộ tâm tư, tình

cảm của nhân vật trước cuộc đời. Đây là cách viết chủ yếu tạo nên phong cách của Trang

Thế Hy trong suốt quá trình sáng tác mà giai đoạn sau càng rõ.

Hầu hết truyện Trang Thế Hy là truyện được kể lại từ điểm nhìn hồi cố. Những hồi ức

buồn cứ chầm chậm len lỏi vào hiện tại. Cũng có khi đó là những sợi dây ràng buộc hiện tại

với quá khứ, đan cài quá khứ với hiện tại.

Cốt truyện Trang Thế Hy thường là những cốt truyện đơn tuyến với dung lượng nhỏ

hoặc vừa. Ở đó, hệ thống sự kiện được nhà văn kể lại thường gọn gàng, ít về số lượng, tập

trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân vật, hay chỉ là một giai đoạn,

khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật chính. Như vậy, có thể nói nhà văn có xu hướng coi

trọng vấn đề nhiều hơn cốt truyện, quan tâm nhiều đến tâm trạng nhân vật hơn là khắc họa

tính cách. Những vấn đề, những sự kiện được tác giả đưa vào trong truyện không phải là

những sự kiện đang xảy ra, hay có thể dựng lại, kể lại dễ dàng. Đó là những sự kiện của nội

tâm, thể hiện những cách sống, cách nghĩ thật sâu sắc, tình nghĩa của con người. Đọc truyện

Trang Thế Hy, người đọc rất khó đoán được diễn biến cũng như kết thúc của truyện bởi

truyện ông không đi theo một tiến trình tự nhiên như truyện ngắn truyền thống. Ông viết như

tâm sự chuyện đời, chuyện quá khứ với nhiều tầng lớp, nhiều sự kiện đan xen, lồng ghép vào

nhau. Đó là kiểu “truyện lồng trong truyện”. Mỗi truyện ông viết không phải chỉ cho chúng

ta một bài học mà là nhiều bài học được rút ra từ những sự kiện khác nhau.

Truyện Nắng đẹp miền quê ngoại là một ví dụ cho lối tự sự phi cốt truyện trong nghệ

thuật biểu hiện truyện ngắn Trang Thế Hy. Nhiều mặt khác nhau của cuộc sống đã được lồng

vào cùng một truyện: đó là câu chuyện viết về nhân vật xưng “tôi”, “tôi” đã bày mưu bán

đứng cô gái xinh đẹp cho tên quan ba vì lợi ích cá nhân. Oái ăm thay, cô gái bất hạnh ấy lại

là con dì của y. Lồng vào câu chuyện đó là một câu chuyện khác về một đời người: mẹ của

nhân vật “tôi”, một người đàn bà mộc mạc, quê mùa, nhờ có chút nhan sắc đã về làm dâu

trong một nhà khá giả, rồi phải âm thầm chấp nhận đau khổ cho đến chết vì sự khinh khi tế

nhị mà cay đắng của bên chồng và sự bạc bẽo của chồng.

Truyện Anh Thơm râu rồng là một ví dụ khác. Lồng vào câu chuyện viết về những

chiến công của anh là câu chuyện đau buồn của những người thân trong gia đình khi anh còn

niên thiếu. Sau những dòng ngắn ngủi giới thiệu về một con người có lòng yêu nước giản dị,

hoạt động cách mạng (rải truyền đơn) một cách tự phát, có những mưu mẹo khôn ngoan để

đối phó với những đòn tra tấn của giặc bằng một cách đậm chất nông dân là chuyện mồ côi

mẹ từ sớm của chị em anh. Đó là chuyện ba và chị gái phải chết oan uổng, tức tưởi bởi sự tàn

bạo của vợ chồng hương quản Xung. Đó còn là những diễn biến tâm trạng ở những chặng

khác nhau trong cuộc đời anh. Nhà văn đã khắc họa đậm nét cảm giác đầm ấm, hạnh phúc

mà anh được tận hưởng khi những người thân còn sống bên cạnh anh, và cả sự côi cút, đơn

độc của anh khi còn lại một mình trên đời.

Truyện Một thiếu nữ không đáng kể cũng thế. Truyện kể về nhân vật “tôi”, một văn sĩ

nghèo đang bị hoàn cảnh sống khắc nghiệt, tàn nhẫn làm cho nghẽn bút và rơi vào cảnh túng

thiếu. Không dừng ở đó, trong truyện ngắn này, Trang Thế Hy còn viết về câu chuyện của

một thiếu nữ mồ côi đi giúp việc cho người để nuôi em ăn học. Vì túng quẫn, cô đành bán

thân và cuối cùng đã tự tử vì nỗi mặc cảm về thân phận ô nhục của mình…. Bằng cách lồng

ghép nhiều sự kiện với nhau trong cùng một truyện, Trang Thế Hy đã cho thấy cái nhìn sâu

sắc, đầy trải nghiệm của nhà văn về cuộc đời. Đó là một chuỗi triền miên những niềm vui và

nỗi buồn, hạnh phúc và bất hạnh, chân tình và bạc bẽo, thủy chung và phản bội, cao thượng

và thấp hèn, vị tha và ích kỉ… Nói như Hoài Anh, “Việc kết hợp nhiều bình diện như thế

3.2.1.2 Điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất

khiến cho truyện đa nghĩa đa thanh, vừa êm đềm vừa dữ dội”. [41, tr.94].

Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn dòng

văn học yêu nước đô thị miền Nam 1954 - 1965 vẫn không phức tạp, xuất phát từ việc nhà

văn luôn xác định mục tiêu tranh đấu, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Viết

sao cho người đọc dễ tiếp nhận, không phải để giải trí đơn thuần, mà quan trọng hơn cả là

hướng họ đến hành động đấu tranh.

Nhiều truyện ngắn của Trang Thế Hy, được trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật

“tôi”. 23/33 truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy trực tiếp sử dụng ngôi thứ nhất để thuật

chuyện, chiếm gần 70% toàn bộ sáng tác của nhà văn.

Đọc truyện Trang Thế Hy, độc giả dễ dàng có cảm giác mình đang đọc tự truyện. Cái

cảm giác ấy là cảm giác rất thật, rất có căn cứ bởi trong các sáng tác của mình, nhà văn chủ

yếu sử dụng ngôi thứ nhất xưng “tôi”để thuật chuyện. “Tôi” trong sáng tác của Trang Thế

Hy là cái tôi đa dạng, xuất phát từ nhiều vị thế khác nhau. “Tôi” có khi là một nhân vật

chính. Cũng có khi “tôi” là một người vô tình được chứng kiến câu chuyện và thuật lại,

nghĩa là “tôi” đóng vai trò là “chứng nhân” của câu chuyện.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã rất tinh khi nhận ra hình ảnh cái “tôi” hiện diện

trong truyện của Trang Thế Hy không ai khác chính là bản thân nhà văn. Ông viết:

“…cái “tôi” trong truyện của anh chính là anh, anh không tránh né, anh là nhà văn,

nhà văn đối thoại với nhân vật của mình (…) Có khi quan điểm của nhân vật đối thoại với

anh là chính anh. Nhưng hay ở chỗ, quan điểm ấy được thể hiện qua ngôn ngữ khác, ngôn

ngữ của nhân vật” [72, tr.12-13].

Chọn hình thức xây dựng nhân vật “tôi” với tư cách là người trong cuộc khi thuật

truyện, ngoài việc giúp cho nhà văn dễ dàng bộc bạch trực tiếp, thấu đáo cái nhìn của mình

trước thời cuộc, trước con người; nghệ thuật trần thuật từ ngôi thứ nhất còn đem lại hiệu quả

nghệ thuật ở khả năng tăng cường tính chân thực của câu chuyện được kể, ở khả năng chinh

phục người đọc bằng chính những suy nghĩ trực tiếp thành thật của người viết.

“Tôi” của Trang Thế Hy không giống cái “tôi” của Thạch Lam. Nếu cái “tôi” của

Thạch Lam là cái “tôi” chìm vào nội tâm, cảm giác thì cái “tôi” của Trang Thế Hy lại là cái

“tôi” của một con người Nam Bộ thuần phác, chân chất, đầy khao khát giãi bày. Đó là “tôi”

trong Một thiếu nữ không đáng kể, Áo lụa giồng…Mỗi lời giãi bày, mỗi nỗi niềm của “tôi”

đều chứa đựng một sự trầm tĩnh, lắng đọng, một sự chiêm nghiệm sâu sắc về những ngày đã

qua, những gì đã qua và những gì còn lại…

Hiện lên trong Nắng đẹp miền quê ngoại là những hồi ức của Trang - nhân vật “tôi” -

về quê ngoại xa xôi hẻo lánh nằm giữa vùng Đồng Tháp Mười bao la: làng Mỹ Hạnh Đông.

Dòng hồi ức trào tuôn dường như không dứt, khi Trang nhận được bức điện báo: “Bà ngoại

mất… Ba má đi chịu tang… Con khỏi về”. Quá khứ xa, quá khứ gần đan xen với hiện tại.

Qua nỗi nhớ của Trang, hình ảnh những người thân đã khuất nao nao hiện lên trong lòng;

ông bà ngoại cùng cuộc đời má Trang, “người đàn bà mộc mạc quê mùa nhờ có chút nhan

sắc về làm dâu một nhà khà giả rồi âm thẩm đau khổ trọn đời vì sự rẻ khinh tế nhị mà cay

đắng của bên chồng” [72, tr. 13]. Trong một lần về thăm quê ngoại cho thỏa nỗi nhớ thương,

tình cờ Trang biết được tội lỗi của mình khi trước đó theo gót giặc Pháp xâm lăng đã bán

đứng em Thơm – người em con dì không biết mặt nahu. Trở lại hiện tại, một buổi chiều

đứng trước mộ Thơm trên bờ kinh Xáng, Trang ự hứa với em rằng “tâm tư u tối của anh từ

đây sẽ trong sáng lần lần nhờ sự soi rọi của nắng đẹp miền quê ngoại” [41, tr. 25]. Tác giả

đã khéo léo thể hiện thủ pháp đồng hiện thời gian nhằm bộc lộ nôi tâm nhân vật trong nhiều

đoạn văn:

“Giờ đây, giặc đã yên rồi… Mấy năm nay… Bỗng nhiên tôi nhớ đến ông ngoại, bà

ngoại tôi… Tôi nhớ đến người mẹ hiền… Tôi nhớ đến dì Ba tôi và mấy người con… Tôi nhớ

đến ngôi nhà ngoại tổ… Bao nhiêu bể dâu, tang tóc đã xảy ra…?Ai trả lời được cho tôi? Chỉ

có một cách là về thăm Mỹ Hạnh Đông miền quê ngoại… Đến nơi vòa lúc xế trưa… Chiều

nay, tôi đứng trước mộ của em Thơm trên bờ kinh Xáng… Em Thơm ơi!... Anh chỉ muốn hứa

với em rằng… “[41, tr. 19-20-21-24]

Trong Mối tình bên rạch Giồng Chanh (Văn Phụng Mỹ), có đoạn tác giả với tư cách

người trần thuật đã “nói” thay tâm trạng em Nhan, khi nhắc đến cả Cự, nhân vật chủ chốt

trong vụ bắt ba em bỏ vào từ hơn mười năm trước đễ dễ bề ve vãn má em:

Thương sao được? Có người đã rập tâm bắt bỏ tù ba nó cho rục xương ngoài Bà Rá,

lại còn dùng mưu mẹo bạo lực làm cho má nó thất tiết buồn rầu đến chết. Con người hung ác

với láng giềng, khắc nghiệt với kẻ ăn người ở trong nhà, con người như vậy mà mong gì

thương ai một cách chân thành, không tà tâm, ngụ ý? [41, tr. 160]

Lời tác giả, lời độc thoại nội tâm nhân vật nhiều khi có sự đan xen, hòa quyện rất khó

phân biệt.

Để vừa thuật kể, vừa dễ dàng bày tỏ cảm xúc, tâm trạng, tác giả đã chọn điểm nhìn

nghệ thuật từ nhân vật “tôi”. Tác giả thuật kể, miêu tả, bộc lộ xúc cảm từ quan điểm của

mình, quan điểm nhân vật, hoặc kết hợp luân phiên thể hiện quan điểm của các nhân vật

khác nhau. Hệ thống đểm nhìn và lời văn nghệ thuật vì thế trở nên linh hoạt, đa dạng hơn,

3.2.1.3. Giọng điệu trầm tĩnh, triết lí

mở rộng tối đa biên độ tưởng tượng của người đọc.

Giọng điệu là một trong những phương diện nghệ thuật làm nên nét riêng cho tác

phẩm của mỗi nhà văn. Phản ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của người sáng tạo, giọng điệu

có vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả (gián tiếp qua hình

tượng người kể chuyện). Giọng điệu được thiết lập từ mối quan hệ giữa người kể với người

nghe từ thế giới sự kiện được miêu tả và tạo thành giọng điệu trần thuật. Khảo sát giọng điệu

trần thuật chính là cách để xác định khuôn mặt nhà văn. Đó là một trong những yếu tố góp

phần cho tác phẩm trở nên hấp dẫn và cũng là yếu tố thể hiện cái “tạng” của người làm ra

tác phẩm đó. Với mỗi nhà văn, điều dễ nhận diện họ nhất chính là nhờ giọng điệu mỗi người

chứ không phải lượng tác phẩm họ viết.

Một nhà văn muốn viết được những trang văn đầy ám ảnh, anh ta không phải chỉ trông

chờ vào phút chốc thăng hoa của cảm xúc, ngẫu hứng mà còn phải biết tổ chức một cách

công phu sao cho thế giới nghệ thuật ấy hiện lên chính xác và thuyết phục nhất tư tưởng về

đời sống hiện thực muôn mặt. Để có thể hoàn thành sứ mệnh đó, việc lựa chọn giọng điệu

cho tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Giọng điệu, cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó bao

hàm cả ngữ cảnh, quan niệm,…Do đó, thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết

ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật. Nhà nghiên

cứu Trần Đình Sử xem giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là “yếu tố hàng

đầu của phong cách nhà văn”. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị

hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng

truyền cảm cho người đọc. Mỗi tác phẩm văn chương đều có sắc thái giọng điệu riêng. Trong

mỗi tác phẩm, bên cạnh giọng điệu chủ đạo, bao giờ cũng tồn tại nhiều sắc thái giọng điệu

khác nhau. Giọng điệu chủ đạo không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong

tác phẩm văn học những giọng điệu khác nhau. Các sắc thái giọng điệu đã trở thành phương

tiện tham gia chuyển tải bức tranh hiện thực vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn

trước cuộc sống. Chính vì thế khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không

nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của họ.

Nếu xem giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật (M.B.

Khravchenko), là một trong những tiêu chí xác định phong cách tác giả thì Trang Thế Hy là

một nhà văn có “giọng”

Với một nhà văn thực thụ, số lượng tác phẩm không phải là yếu tố quyết định tạo nên

giọng điệu riêng. Có khi chỉ một số ít tác phẩm cũng đủ để khái quát nên giọng điệu chủ đạo

của nhà văn đó. Trang Thế Hy là một nhà văn như thế. Gần nửa thế kỉ sáng tác, đời văn của

ông chỉ gói gọn trong khoảng trên dưới sáu chục truyện ngắn. Với số lượng tác phẩm khiêm

tốn đó, Trang Thế Hy đã khiến người đọc nhớ đến mình bởi giọng điệu trầm tĩnh, triết lý.

Cái vẻ bình dị, trầm tĩnh, giàu chất triết lý ấy được quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau. Đó

là việc kể chuyện ở ngôi thứ nhất, là chất triết lý, chất tự truyện được bộc lộ khá đậm trong

truyện, thêm vào đó, độ dài của câu văn cũng là một yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu này.

Trong văn học, kiểu giọng điệu triết lí thường được thể hiện qua tính chất khẳng định

(phủ định) để nhấn mạnh những vấn đề mà nhà văn cần thông điệp, triết luận với người

đọc. Ý kiến được đưa ra trở thành chân lí.

Tính triết luận trong truyện ngắn Trang Thế Hy không phải là sự triết lý khô khan mà

chính là sự thăng hoa của cảm xúc, sự tan chảy của trí tuệ và sự chân thành của tiếng nói trái

tim con người. Đó là “triết lý của nhân dân”, triết lý số đông của những con người rất đỗi

bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Chất triết lý trong truyện ngắn của Trang Thế Hy

không hề có dấu vết của sự khô khan mà còn góp phần làm cho giọng điệu văn chương của

ông trở nên bình dị mà sâu sắc hơn.

Giọng điệu ấy phù hợp với tất cả những vấn đề mà nhà văn chuyển tải đến người đọc.

Ở đây, chúng tôi cố gắng phân tích và chỉ ra những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu ấy

của tác giả.

Truyện của Trang Thế Hy mang giọng điệu trầm tĩnh về một vẻ bình dị hiếm gặp

xuyên suốt quá trình sáng tác. Truyện của Trang Thế Hy cũng rất giàu chất triết lý.

Mặc dù nhà văn không hề cao giọng giáo huấn, chỉ với những câu chuyện ngắn gọn,

đơn giản và kết thúc bằng câu nói nhẹ nhàng nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng

nguời đọc.

Cái triết lý rất hay, rất đúng ấy chẳng phải là thứ triết lý sách vở cao siêu mà rất bình

dân, giản dị. Đó là những điều người ta rút ra được từ cuộc sống vất vả, thậm chí là bầm dập

của mình.

Một cô thợ may bình thường, một chàng trai đang thất nghiệp có thể hiểu được một

điều rằng “thiên hạ chỉ mặc áo che cơ thể. Chúng ta có khi lại mặc áo cho tâm hồn nữa” [41,

tr.22] bởi chính họ đã trải nghiệm điều đó qua những bất hạnh riêng tư của chính họ. Cũng từ

một con người bình thường, một tư chức đã trải qua những ngày tháng thất nghiệp đói khát,

chúng ta được nghe những lời chân thật được rút ra từ tâm can mình:

“Ai cũng muốn làm người lương thiện. Nhưng người lương thiện cũng phải có ăn mới

sống như mọi người. Khi bụng đói phải đem bán những gì mình có để ăn. Người nghèo thì

có gì ngoài sức lao động? Đem lao động bán không người mua rốt cuộc phải bán tới cái lẽ

ra không nên bán.” [41, tr.25-26]

Những lời đúc kết như thế không thể thốt ra từ một người giàu có, đủ đầy hay những

người chưa từng trải qua những ngày đói khát.

Đó là những triết lí bắt nguồn từ những cách nghĩ riêng và có phần phi chính thống.

Những lời bàn luận như thế thường khiến câu chuyện trở nên mới mẻ, bất ngờ.

Thông thường, nỗi buồn dễ làm cho con người héo úa đi, tàn lụi đi. Trang Thế Hy lại

thấy được những nỗi buồn làm cho con người thêm đẹp. Cái đẹp ở đây không giống với vẻ

đẹp của những thiếu nữ mặt buồn trong tranh xưa nay hay kiểu buồn của những “thiếu nữ

buồn không nói” trong thơ Xuân Diệu. Đây là cái đẹp của những người đẹp biết buồn “cái

buồn đẹp”. Nhân vật “tôi” trong Nguồn cảm mới đã nhận ra cái đẹp ấy qua việc Hứa Lệ

Mai, cô bé người Tàu, biết buồn đúng chỗ: buồn vì nhiều người trong xóm em sống bị “bao

bố” nhìn mặt lùa lên xe bít bùng chở đi, chứ không phải buồn vì cuộc sống của mình còn

khổ cực. Trang Thế Hy đã phát hiện một điều giản dị trong cuộc sống “Cái buồn đẹp làm

cho người đẹp càng thêm đẹp” [41, tr.29].

Triết lí bình dị mà sâu sắc ấy có thể xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau, ở

những cung bậc tình cảm khác nhau nhưng tất cả đều đến từ tâm hồn, từ ý nghĩ của những

người bình dân và được họ thốt ra một cách tự nhiên như chính bản chất con người họ.

Trong tình yêu cũng thế, người bình dân quan niệm về một tình yêu chân chính thật cao đẹp

và đầy nhân văn:

“Chỉ có oán thù, căm hận và sự yêu thương không đúng nghĩa giữa những con người

ích kỉ, tham lam mới dẫn con người vào bế tắc. Còn yêu thương chân chính thì luôn luôn cởi

mở và kiến tạo những niềm vui.” [41, tr. 34-35].

Trang Thế Hy đã trao cho nhân vật của mình “quyền phát ngôn” những triết lý bình dị

mà sâu sắc đến không ngờ. Những gì mà nhân vật của Trang Thế Hy nói ra thành lời cũng

chính là những điều bao ngưởi cảm thấy trong cuộc sống của mình - cuộc sống với đầy

những vị mặn, đắng, chua, chát:

“Trong bữa ăn, khi đứa nhỏ vô ý cắn nhầm gừng, tiêu ớt hay mật cá, mật lươn, người

lớn thường cho nó hớp một hớp nước hoặc ngậm một cái gì đó ngọt, một viên đường phèn

chẳng hạn để vị cay dịu xuống và nó tiếp tục ăn ngon. Mỗi người chúng ta trong cuộc sống

đều có một viên đường phèn riêng cho mình như vậy” [41, tr.314].

Cái triết lí ấy là kết quả của một sự quan sát tài tình, một sự chiêm nghiệm, đúc rút

bằng sự am hiểu của một con người có một cái nền rất sâu, rất rộng trong cuộc sống.

Ngoài giọng triết lí thì giọng trầm tĩnh cũng là giọng chủ đạo mà Trang Thế Hy tạo

nên trong truyện ngắn của mình. Độ dài của câu văn là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên

chất giọng trầm tĩnh trong truyện Trang Thế Hy.

Bàn về vấn đề này, tác giả Hoàng Đình Quang trong bài viết Trang Thế Hy - thầy tôi

đã cho rằng:

“Đọc truyện ngắn của Trang Thế Hy thấy câu văn dài mướt như cả truyện chỉ có một

câu văn mà thôi. Cái lạ của câu văn ông là dài mà không khó hiểu, những mệnh đề rất rạch

ròi, đọc hết câu, ngẩn ra, đọc lại thấy hay hơn” [41, tr.89].

Đọc Trang Thế Hy, nhiều câu văn dài, thậm chí rất dài, tạo cho người đọc cảm giác

giọng văn chùng lại, rất khó để đọc nhanh. Đó là có lẽ là dạng câu được vận dụng rất phù

hợp với tính chất hồi tưởng trong những câu chuyện mà Trang Thế Hy kể. Trong phần lớn

truyện ngắn của mình, Trang Thế Hy thường hiện diện với hình ảnh một con người sống

nhiều cùng kỷ niệm, có nhu cầu tâm sự, sẻ chia một nỗi niềm gì đó. Câu văn dài là phương

tiện chuyên chở thích hợp những dòng suy tưởng miên man, những hồi ứcđua nhau tràn về.

Chúng tôi xin trích dẫn một số câu văn dài được lựa chọn ngẫu nhiên trong số 33

truyện ngắn của Trang Thế Hy :

- “Đêm ấy trên căn gác chật chội tối tăm, bên cạnh người bạn nghèo trăn trở hoài

không ngủ được vì xót ruột, tôi đã gặp trong mơ một vật thể gì đó hình thù không rõ nét

nhưng mềm mại mong manh đang nhè nhẹ đong đưa theo gió thoảng, chỗ sợi dây kẽm căng

ngang gian gác để treo áo” [ 41, tr.23].

- “Tôi sẽ viết như vậy với lương tri yên ổn của người cầm bút dù biết rằng câu chuyện

có thật hơi khó tin giữa cái xã hội đầy rác rưởi bọt bèo này đã được chắt lọc bằng sự trải

nghiệm đau buồn của lớp người cùng khổ chứ không phải là điều bịa đặt hoang đường” [41,

tr.31].

- “Cho nên trong những lúc tình yêu của em làm cho tôi quên hết tất cả những đau xót

chua cay của cuộc đời lận đận, ngay trong những lúc tôi viết tên em để chia sớt niềm vui

cùng trang giấy hay kêu tên em để xua đuổi cô đơn, tôi cũng không hề có ý nghĩ so sánh em

với loài hoa phượng và tìm đến nhìn vào màu đỏ thắm của nó cho nhẹ bớt đi những niềm

thương nỗi nhớ” [41, tr.33].

- “Vũ muốn biết cảm nghĩ của bất cứ một người nào về những trận mưa đêm nho nhỏ

mà dai dẳng, từng chập tạnh rồi từng chập lại trút xuống, dầm dề liên tiếp hơn tuần nay làm

cho cái không khí ẩm ướt của xóm nghèo càng thêm u thảm, đìu hiu”[41, tr.75].

Truyện của Trang Thế Hy không thể đọc nhanh được. Ngược lại, phải đọc thật chậm

từng chữ, từng câu để nghe tiếng lòng của nhân vật mà cũng chính là tiếng lòng của nhà văn.

Trang Thế Hy cứ rủ rỉ kể lại cho người đời những câu chuyện nhỏ nhất nhưng là những câu

chuyện sâu sắc nhất, máu thịt nhất trong cuộc đời mình. Chính sự sâu sắc ấy đã tạo nên

giọng điệu của tác giả, một thứ giọng trầm tĩnh xuất hiện không nhiều trong văn chương

Nam Bộ.

Những độc giả yêu thích sự sôi nổi sẽ khó mà thích văn Trang Thế Hy bởi sự thâm

trầm, lắng sâu của những trang viết chất chứa nhiều nỗi niềm, nhiều suy tưởng. Đọc ông,

người đọc nhất thiết phải có một thái độ nghiêm cẩn, một sự tỉ mỉ và điềm tĩnh cần thiết, một

tấm lòng rộng mở trước cuộc đời.

Bên cạnh hai giọng “chủ âm” vừa kể trên, làm nên thành công của truyện ngắn Trang

Thế Hy còn có sự pha trộn của nét hóm hỉnh kín đáo. Cái kín đáo, hóm hỉnh ấy phục vụ rất

đắc địa cho ý đồ nhấn nhá để từ đó nhà văn khái quát lên những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh

sâu sắc.

Chẳng hạn như trong truyện Tiếng hát và tiếng khóc, khi trả lời chị hàng nước về

chuyện chị muốn trả tiền gửi chiếc xe đẩy trong sân nhà họa sĩ Hải, ông đã “nạt” lại bằng

một giọng khá hóm:

“Chị còn nói chuyện tiền bạc nữa, tôi nghỉ chơi với chị luôn. Chị không tin tấm lòng

của một người cùng giai cấp với chị sao…Xin lỗi chị, tôi quen miệng…phải nói là cùng thân

phận dễ nghe hơn, mình đang sống trong một xã hội không có giai cấp mà nói giai cấp nghe

“quê quá”…” [41, r.448].

Hay trong truyện “Nghệ thuật làm bố dượng”, nhà văn đã cho độc giả thưởng thức

một đoạn đối thoại khá “hóm” giữa cậu con trai “ham hốt ổ le le” với người thiếu phụ mà

cậu đã mất bao công sức kiếm tìm:

- (…) vị giáo sư tâm lý học người Nga viết hay nhưng chọn nhan đề không hấp dẫn:

NGƯỜI CHA MỚI TRONG GIA ĐÌNH. Dịch theo cách của em phải là: NGHỆ THUẬT

LÀM BỐ DƯỢNG ….

Người thiếu phụ bĩu môi rồi lắc đầu mỉm cười:

- Kỳ thú ở chỗ nào? Đây là kinh nghiệm dành cho người đã “hốt” được “ổ le le” rồi.

Bạn mới chỉ là người ham hốt ổ le le…

- Kỳ thú ở chỗ nó khích lệ động viên người ham hốt ổ le le mà tìm chưa gặp ổ le le

đừng nản chí. Lúc đó em gần như tuyệt vọng trong cái trò chơi ngông dại mò kim đáy biển.

Sự tao ngộ giữa em và cuốn sách lượm bên lề đường gợi em nghĩ có khi đây là lời nhắc nhở

của số phận.”

Như vậy, có thể nói hệ thống giọng điệu trầm tĩnh, triết lí pha chút hóm hỉnh, kín đáo

có tác dụng mở rộng ý nghĩa của câu chuyện, gợi ra những phương diện đạo lí hay lẽ sống ở

đời cho truyện của Trang Thế Hy. Dù viết về những chuyện đã qua hay những câu chuyện

của hiện tại, Trang Thế Hy đều muốn nhắn gửi những nỗi niềm, những trăn trở về sự đời, từ

đó định hướng thái độ sống của con người với những dư vị thấm thía, như nhà nghiên cứu

3.2.1.4. Lối viết ẩn dụ

Bùi Việt Thắng từng khẳng định: “Nơi tác phẩm kết thúc là nơi cuộc sống bắt đầu”.

Miền Nam trước 1975 là một giai đoạn đặc biệt, càng đặc biệt hơn đối với những

người cách mạng làm văn nghệ công khai. Đó là giai đoạn mọi hoạt động của những người

Việt Nam yêu nước bị giám sát chặt chẽ bởi chính quyền Sài Gòn. Trong hoàn cảnh đó, các

nhà văn hoạt động công khai phải lựa chọn cho mình những cách viết an toàn mà vẫn đạt

được mục đích chiến đấu cao. Một trong những “chiến thuật” được các nhà văn áp dụng

trong hoàn cảnh đó chính là lối viết ẩn dụ. Nói cách khác, chính thực tế đấu tranh yêu nước

thôi thúc nhà văn cần phải có những đổi mới trong cách viết nhằm đạt hiệu quả cao nhất có

thể được, đồng thời đảm bảo sự an toàn của bản thân và tổ chức.

Xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm sáng tác truyện ngắn, nhiều nhà văn yêu nước

đã sử dụng ẩn dụ, tượng trưng, phóng đại, nhân hóa, vật hóa như các biện pháp nghệ thuật,

các dạng chuyển nghĩa, các phạm trù thẩm mỹ khác nhau nhằm tạo ra kiểu hình tượng liên

tưởng của trí tưởng tượng, biểu hiện tính đa nghĩa (ambiguity), đồng thời làm tăng sắc thái

thẩm mỹ của hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Từ đó, tính đa nghĩa của hình tượng

nghệ thuật trong truyện ngắn một mặt phản ánh tính mâu thuẫn, đa nghĩa của thực tại, của

đời sống tinh thần con người; mặc khác, tạo điều kiện không ngừng cho phép người đọc phát

huy tính tích cực, sáng tạo của mình trong cảm thụ tác phẩm văn học.

Thường gặp hơn cả trong văn học hiện đại nói chung, truyện ngắn nói riêng, là hình

tượng ẩn dụ, tượng trưng. Biện pháp ẩn dụ đã mở ra những khả năng vô tận trong cách nghĩ

mới, cách hình dung mới nhằm phát hiện bản chất ẩn giấu của hình tượng. Từ những trùng

hợp hay khác biệt giữa các đối tượng, hình tượng nghệ thuật ẩn dụ đem lại những xúc cảm

sống động nhưng tiềm ẩn, những ấn tượng khó phai trong tình cảm, tâm hồn người đọc.

Phải nói ngay rằng lối viết ẩn dụ ở đây không phải là một hiện tượng ngôn ngữ mà là

một kiểu hình tượng liên tưởng do trí tưởng tượng tạo ra ở những tình huống nhất định và

nhất là với mục đích biểu cảm thẩm mĩ. “Ở hình tượng nghệ thuật ẩn dụ, việc chuyển các

dấu hiệu từ một đối tượng này sang đối tượng khác, việc trùng hợp chúng với những khác

biệt mang tính ngụ ý - tạo ra một sự hình dung mới. Trang Thế Hy cũng như các nhà văn

cùng thời, cùng chiến tuyến đã sử dụng lối viết ẩn dụ với những hình ảnh biểu trưng, những

biểu tượng hai mặt đầy ý nghĩa. Đó là Vũ Hạnh với Chất Ngọc, Bút máu, là Sơn Nam với

Đảng cánh buồm đen, Chiếc ghe ngo, là Nguyễn Xuân với Hương máu,… Tất cả gây ấn

tượng mạnh cho người đọc bởi những câu chuyện xúc động trên bề mặt của chữ nghĩa và

tiềm ẩn những ý nghĩa sâu sắc mang tính thời sự cao đằng sau những câu chuyện.

Truyện của Trang Thế Hy dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn là những câu

chuyện mới đọc tưởng như là chuyện của một thời đã xa, chuyện của một cá nhân bé nhỏ với

vô vàn những thứ mắc mứu của đời sống thường nhật. Nhưng đặt vào bối cảnh miền Nam

lúc bấy giờ, càng đọc, người ta càng nhận thấy rõ nét việc nhà văn đã không ngần ngại chỉa

thẳng ngòi bút của mình vào kẻ thù đang hiện diện, phơi bày bộ mặt tàn bạo và đểu cáng của

chúng, đồng thời kêu gọi người dân trở về với văn hóa của truyền thống, với cội nguồn của

dân tộc.

Trước thực trạng rất nhiều người, phần đông là thanh niên nam nữ, đang bị lôi kéo vào

guồng quay của thứ văn hóa thực dân kiểu mới và dần quên đi những nét văn hóa của dân

tộc, nhà văn đã bằng một câu chuyện nhỏ, giản dị mà vô cùng sâu sắc để nhắc nhở, cảnh tỉnh

họ.

Ở truyện ngắn Áo lụa giồng, trên bề mặt của chữ nghĩa, đó là câu chuyện của một

chàng trai trẻ với những nỗi hoài vọng quê xa, nơi có những con người thân yêu đã ngã

xuống vì đạn bom của giặc Pháp, nơi có nghề dệt vải lụa giồng nổi tiếng. Chàng trai mãi

nâng niu, yêu quí chiếc áo lụa giồng mình có được do một bà mẹ đi tản cư bị mất con trong

trận bom đầu của giặc tặng lại, từ những ngày còn ấu thơ. Những ngày cuối năm cô đơn giữa

đất Sài Gòn chàng được gặp lại người con gái năm xưa nhờ cô mặc chiếc áo lụa giồng quen

thuộc. Giữa đất Sài Gòn xa hoa, chiếc áo lụa giồng giờ đây trở nên lạc lõng. Nhưng chính áo

lụa giồng lại là biểu tượng của văn hóa truyền thống dân tộc, là lời kêu gọi những con người

cùng quê hương bản quán, nói rộng ra là cùng dân tộc, cùng thân phận nhận ra nhau, gắn kết

với nhau.

Qua hình ảnh biểu tượng “áo lụa giồng”, Trang Thế Hy muốn cảnh tỉnh những người

đang bị “trúng” phải luồng gió Mỹ hóa, nhắc nhở họ là những người cùng một thân phận và

có chung một cội nguồn văn hóa. Vì thế, những con người Việt Nam có trách nhiệm chung

tay góp sức bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt, tránh xa những

hành động đang biến mình thành những kẻ lai căng, nửa mùa hay những kẻ phản bội. Đồng

thời, qua đó nhà văn cũng kêu gọi mọi người tìm về với cội nguồn đích thực của dân tộc,

Trong truyện Trong trắng, nhà văn cũng kín đáo mang vào những gửi gắm sâu sắc.

Mượn câu chuyện sinh hoạt thường nhật của người dân nghèo một vùng quê, mượn trò chơi

diễn tuồng hát bội của đám trẻ nơi đây, nhà văn đã gửi đến người đọc thông điệp: hãy yêu

quý những môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, hãy gắn bó với nhau trong tình làng

nghĩa xóm. Đó là cội rễ của truyền thống văn hóa dân tộc. Và văn hóa dân tộc còn, đất nước

sẽ còn.

Lối viết ẩn dụ cũng được Trang Thế Hy vận dụng khá khéo léo, tinh tế trong truyện

Bây giờ là mùa thu. Nhan đề truyện gợi cho người đọc cái cảm giác nội dung truyện xoay

quanh những câu chuyện tình lãng mạn. Nhà văn bắt đầu câu chuyện bằng một bức tâm thư

của một chàng trai viết cho người yêu mình. Một bức tâm thư khá lạ lùng. Giữa miên man

tâm sự, hình ảnh của một Mùa Thu nào đó cứ lảng vảng, ám ảnh mỗi câu chữ, ám ảnh tâm trí

của người viết thư. Lạ lùng hơn nữa là Mùa Thu ấy lại được viết hoa với một ẩn ý sâu xa.

Thêm nữa, những lời lẽ của người viết thật sự đang ám chỉ về những điều rất thiêng liêng của

mùa thu ấy. Quả thật, có một Mùa Thu lớn lao luôn hiện hữu trong tâm khảm những người

con yêu nước đang trong giai đoạn chống Mỹ. Đó chính là Mùa Thu cách mạng, một Mùa

Thu tháng Tám đã mở rộng ra một kỷ nguyên độc lập, tự chủ cho dân tộc. Người viết đã

không giấu diếm khi đặt bút viết:

“Không có Mùa Thu, không có sự yêu thương giữa chúng ta.(…). Tôi yêu em vì em

hiện ra cùng tôi với những nét đẹp của Một Mùa Thu. Rồi những lời em nói, những việc em

làm biểu lộ rằng em cũng yêu tôi vì tìm thấy ở tôi chút sắc thái của Một Mùa Thu” [41, tr.37

- 38].

Vậy thì tôi và em ở đây phải chăng là những người đồng chí “yêu nhau” vì cùng chung

một trận tuyến đấu tranh, cùng phấn đấu vì một ngày mai độc lập, cùng hướng đến một ngày

trọng đại như Mùa Thu tháng Tám 1945. Tâm tư ấy đã được nhà văn khéo léo chuyển tải

trong bức thư - truyện ngắn của mình.

Trong truyện Nắng đẹp miền quê ngoại, Trang thế Hy cũng mượn bối cảnh của một

vùng quê thời thuộc Pháp để dựng lên thực trạng của miền quê Nam Bộ thời Mỹ chiếm

đóng. Truyện Nguồn cảm mới cũng là một ví dụ khác, truyện kể về cảm nghĩ của một chàng

trai trước việc một cô bé người Tàu dám chết để giữ danh giá của mình. Qua cái chết của cô

bé ấy, nhà văn gián tiếp vẽ ra cảnh sống đau khổ của những người dân miền Nam dưới chế

độ Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đó là những câu chuyện nhỏ nhưng có sức tố cáo rất lớn.

Sài Gòn được giải phóng, hòa bình được lập lại trên miền Nam thân yêu. Những cảnh

tình, những số phận, những con người thời hậu chiến hiện lên với tất cả sự “trần trụi” và có

biết bao điều “nhạy cảm” khó nói. Vì thế, đã không còn sự kiểm soát gắt gao của kẻ thù,

nhưng lối viết ẩn dụ vẫn là một hình thức chuyển tải phù hợp được nhà văn lựa chọn. Đó là

một trong những cách thức biểu hiện đắc lực giúp ông bày tỏ những vấn đề mình trăn trở

trong cuộc sống sau 1975 đa diện, đa chiều.

Rác và hoa là một trường hợp tiêu biểu. Mượn hình ảnh xe rác và những bông hoa

đang tàn bị vứt trong đống rác những ngày sau tết, qua cách cư xử của những con người

trong câu chuyện, nhà văn bày tỏ cách nhìn của mình về những kiểu người khác nhau trong

xã hội. Một kiểu người “rác”, một kiểu người “hoa”, dù đó là những bông hoa đang trên đà

héo úa. Những người như ông Bảy cơ bản hay tay biên tập, những kẻ chuyên coi thường

những người nghèo, lại thêm tật háo danh, bằng mọi cách để đạt được mục đích của

mình…chính là rác. Còn những người như cô Hường bán đậu hủ non, cô Hải công nhân hốt

rác, những người nghèo nhưng biết trân trọng, nâng niu cái đẹp, biết tự trọng….chính là hoa.

Chiến tranh kết thúc, thực trạng xã hội phơi bày nhiều “kẻ hở”, xuất hiện sự “vênh”

nhau giữa một bên yêu cầu thực tiễn mà cuộc sống đặt ra, một bên là các chủ trương, chính

sách do Đảng đề ra. Một trong những “kẻ hở” ấy là vấn đề chính sách dành cho những gia

đình có công thời hậu chiến. Đây là vấn đề “nhạy cảm” đối với nhiều đối tượng khác nhau.

Trong truyện ngắn Bà mẹ già và thúng khổ qua, nhà văn đã kín đáo đặt ra vấn đề ấy bằng lối

viết ẩn dụ. Qua những dòng tản mạn về một cuộc gặp gỡ tình cờ của “tôi” với bà già bán khổ

qua dạo trong buổi chợ tết, nhà văn đã tô đậm hình ảnh người mẹ chiến sĩ tội nghiệp ấy:

“Bà già bán khổ qua là một mẹ chiến sĩ (…) Bà có một đứa cháu ngoại là du kích xã

(…) Sau giải phóng bốn năm, đứa cháu ngoại đã hy sinh của bà mới được nhận là liệt sĩ…”

[41, tr.231].

Ẩn trong những dòng tản mạn ấy là một thái độ bức bối trước những bất công mà bà

mẹ già ấy phải gánh chịu. Những gì mà bà mẹ già bán khổ qua phải gánh chịu chỉ là một

trong vô số những nỗi cực nhọc, đau đớn mà những bà mẹ chiến sĩ trên đất nước này đang

phải gồng mình gánh chịu. Thúng khổ qua cũng là hình ảnh mang tính biểu tượng. Khổ qua

mang vị đắng, nhưng là vị đắng có ích cho con người. Phải chănng nỗi đau của những bà mẹ

chiến sĩ, cái giá mà những mẹ ấy phải trả cho độc lập, tự do của Tổ quốc cũng kém gì vị

đắng của trái khổ qua? Đó phải chăng là thông điệp mà nhà văn muốn nhắn gửi với người

đọc, với những vị chức trách về cuộc sống thời hậu chiến đầy nhọc nhằn, vất vả mà những

người có công lớn với Tổ quốc đang phải đối diện từng ngày.

Lối viết ẩn dụ là một cách để nhà văn có thể thực hiện được dụng ý của mình trước

những vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống. Đây không phải là phương thức nghệ thuật “cao

tay”, nhưng trong những trường hợp cần thiết, dưới những ngòi bút tài năng, nó vẫn tạo

những hiệu quả nghệ thuật nhất định. Lựa chọn cách viết này trong bối cảnh lịch sử xã hội ấy

cũng là một động thái đầy khéo léo, tinh tường của tác giả. Vì thế, người đọc cần có độ tinh

nhất định mới có thể nhận ra được ý nghĩa sâu xa của những vấn đề mà Trang Thế Hy gửi

gắm trong mỗi trang văn.

3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật với việc thể hiện văn hoá và con người Nam Bộ

Trong tác phẩm văn học, nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện

thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật nhằm thể hiện nhận thức và quan

niệm của mình về những cá nhân xã hội nhất định. Sự thể hiện những phẩm chất xã hội - lịch

sử của con người qua các đặc điểm cá nhân gắn với phẩm chất tâm lý của họ, tạo nên tính

cách. Như vậy, không phải nhân vật nào trong tác phẩm cũng là một tính cách. Hạt nhân của

tính cách là sự thống nhất của cá tính và cái chung xã hội - lịch sử. Nói cách khác, tính cách

là hiện tượng nổi bật của đời sống con người.

Kế tục dòng văn học yêu nước, cách mạng các giai đoạn trước, truyện ngắn trong dòng

văn học yêu nước đô thị miền Nam 1954 - 1965 đã xây dựng được những tính cách nhân vật

khá tiêu biểu, vừa thể hiện những nét tâm lý chung của con người Việt Nam, vừa miêu tả

được sắc thái riêng phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách con người miền Nam trong bối

cảnh cuộc sống và đấu tranh của các tầng lớp nhân dân các đô thị. Trong truyện ngắn của

mình, Trang Thế Hy đã vận dụng đa dạng các phương thức, phương tiện và biện pháp thể

3.2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách

hiện, trong đó miêu tả tâm lý, khắc hoạ tính cách có vai trò quan trọng.

Miêu tả, phản ánh hiện thực đấu tranh như những gì đang diễn ra, truyện ngắn giai

đoạn này thường xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau: đối lập giữa dân tộc ta với kẻ thù

xâm lược; giữa đông đảo nhân dân lao động nghèo khổ với tầng lớp thống trị giàu sang, phè

phỡn. Các quan hệ đối lập, mâu thuẫn, xung đột này không chỉ phản ánh chân thực hiện thực

xã hội - lịch sử mà còn tác dụng bộc lộ bản chất sâu kín nhất của nhân vật. Và tính cách nhân

vật được hình thành chủ yếu từ những quan hệ này. Có thể nhận diện hai loại tính cách chủ

yếu được Trang Thế Hy xây dựng trong truyện ngắn của mình. Đó là:

- Tính cách nhân vật phản diện

Cuộc đời không trải thảm và càng không phải chỉ toàn là những điều tốt đẹp. Vì thế,

truyện của Trang Thế Hy cũng không phải chỉ có những nhân vật tốt đẹp . Trong cuộc biến

đổi tàn nhẫn của chốn nhân sinh, đó đây vẫn xuất hiện những kẻ mất đạo lý, hoặc đạo lý

đang trên đà tuột dốc. Trang Thế Hy hoàn toàn nhận thức được điều ấy. Khá nhiều nhân vật

phản diện được xây dựng với những tính cách được khắc họa khá đậm nét.

Nợ nước mắt, Về nhà trước cơn mưa…là những câu chuyện kể về những con người

như thế. Đó là vị cán bộ cao cấp ngay khi chiến tranh vừa kết thúc đã dễ dàng quên ngay tình

đồng chí, đồng đội, quên tình quân dân keo sơn trong những tháng ngày cận kề cái chết. Đó

là người công dân hoàn hảo đi ra từ cuộc chiến với đầy đủ những nhận thức đúng đắn về việc

nghĩa đã “bỏ chạy” trước nỗi bất hạnh của người khác. Nhà văn đã kể về những điều đó với

một sự xót xa. Sự xót xa ấy không phải là thái độ điểm tin, cũng không phai muốn dựng chân

dung những kẻ đang tuột dốc đạo lý mà thực sự ông đang lên tiếng kêu gọi lòng nhân, kêu

gọi mọi người hướng tới cái thiện.

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp kết thúc, nhưng hình ảnh thực dân Pháp tiếp

tục được thể hiện là thế lực đại diện cho cái xấu, cái ác, từng gây bao nỗi đau khổ cho người

dân lương thiện. Dụng ý nghệ thuật được nhà văn thể hiện kín đáo trong quá trình miêu tả,

xây dựng nhân vật. Do đó, sự liên tưởng, so sánh sẽ giúp người đọc cảm và hiểu sâu hơn

những gì họ đang tiếp nhận khi đối chiếu với thực tế miền Nam lúc bấy giờ. Trước hết, chân

dung những viên sĩ quan xâm lược hiện lên khá sinh động trong truyện ngắn Trang Thế Hy

Không chỉ thâm độc, nhiều viên sĩ quan xâm lược còn rất háo gái. Bằng lối trực tả cốt

bóc trần bản chất nhân vật, Văn Phụng Mỹ đã khắc họa khá sinh động hình ảnh viên trung úy

Pháp chỉ huy quận lỵ nổi tiếng hảo ngọt và chứa đầy dục vọng, nhất là khi đứng trước “cái

cơ thể non tơ của con gái quê mùa, duyên dáng” (Nắng đẹp miền quê ngoại) [41, tr.18-19].

Ở căn phòng làm việc sang trọng của y, bên cạnh khẩu tiểu liên treo trên tường là “nhiều bức

ảnh thiếu nữ khỏa thân rọi lớn” [41, tr.18]. Trong một cuộc càn quét, “Giải sầu với son phấn

đô thị mãi cũng nhàm”. Y muốn “đổi dĩa” và “tìm chút hương đồng nội” [41, tr.16]. Viên

trung úy này đã nghĩ ra cách để bọn lưu manh tạo dựng màn kịch vu oan cô gái giấu lựu đạn

dưới xuồng và những tên lính thuộc quyền ra tay “nghĩa hiệp”, rồi đưa cô lên thẳng về dinh

thự của y. Thế nhưng, người con gái quê mùa tên Thơm ấy đã sẵn sàng chống trả để bảo vệ

sự trong trắng của mình: cô lấy khẩu tiểu liên trên vách lê có chờ sẵn, và khi viên trung úy

vừa bước vào đã lãnh liền hai phát đạn. “Nhưng có lẽ cô ta mất bình tĩnh hoặc không rành

xài vũ khí… Y giành được khẩu súng và tặng lại cho cô nguyên một loạt…” [262, tr. 19].

Hành động của viên trung úy không phải là cá biệt. Biết bao cô gái nông thôn và thành thị đã

rơi vào vòng tay bạo ác của những tên xâm lược như vậy.

- Tính cách nhân vật chính diện

Đối lập với loại tính cách nhân vật trên đây, văn học thành thị miền Nam 1954 - 1965

còn xây dựng thành công nhiều nhân vật anh hùng, nghĩa sĩ và nhân dân lao động thuộc mọi

thành phần xã hội đã sống và chiến đấu trong lòng xã hội áp bức, bất công, cùng với sự

thống trị của kẻ thù xâm lược. Bên cạnh việc chú ý khắc họa nổi bật tính cách yêu nước anh

hùng, các nhà văn còn tập trung thể hiện những nét tiêu biểu trong phẩm chất tốt đẹp của con

người Việt Nam nói chung, con người miền Nam nói riêng. Đó là tình yêu thương đồng bào,

yêu mảnh đất quê hương, ngôi nhà thân thuộc từng chứng kiến bao nỗi thăng trầm trong cuộc

đời; là sống có trước có sau, chất phác, bộc trực, nhân ái, nghĩa khí, chuộng thực tế, thông

minh, sáng tạo…

Trong các sáng tác của mình, Trang Thế Hy thường tập trung chú ý khắc hoạ đậm nét

và rất thành công tính cách của những nhân vật chính diện. Hệ thống nhân vật của Trang Thế

Hy khá đặc biệt. Họ là những con người hết sức bình thường trong xã hội và số đông họ là

những con người kém may mắn. Nói theo ngôn ngữ của Trang Thế Hy, nhân vật của ông là

“những người đau khổ biết nói mà làm thinh không nói”. Cái sự làm thinh của các nhân vật

là thước đo tấm lòng, đo độ nông sâu của nhà văn. Ai trong số các nhà văn sẽ nghe thấu tiếng

lòng cũa những người đau khổ câm lặng ấy? Trang Thế Hy ý thức rất rõ thiên chức của một

nhà văn. Ông muốn đem ngòi bút của mình, tấm lòng của mình sưởi ấm những cuộc đời,

những mảnh hồn lạnh giá ấy.

Một phụ nữ đã có chồng, nếu không sâu sắc, trong những phút giây tính toán ngắn

ngủi giữa cái “được” và “mất” có thể sẽ không hy sinh danh tiết vì nghĩa lớn để rồi âm thầm

đau đớn đến hết đời như nhân vật chị Châu trong “Vết thương thứ mười ba”. Một nhà huấn

học trong Sách và chim, nếu không mẫn cảm với thời thế, nếu không thấu đáo lẽ đời thì ngay

từ thuở học sinh anh đã không “có ý thức phản kháng sự bất công vô lý, thái độ chiêu dụ để

nô dịch hoặc mơn trớn để lợi dụng của một số người lớn” [41, tr.238], đã không dám đánh

tay giám thị “sợ Tây”để bị đuổi khỏi trường.

Còn đây là tâm sự của một nghệ sĩ khi đã về già:

“Thơ của em là cái gì, chị không biết. Nhưng trong bụng chị có hàng trăm câu hát có

vần mà chị thuộc hoài cho tới chết nên chị hiểu rằng cái mà em chọn để em mê phải là cái gì

nhiều người khác cùng mê dù cho thế sự được bằng an hay thế sự bị đảo điên.”[41, tr.324].

Tâm sự ấy, suy nghĩ ấy thật giản dị - một sự giản dị xuất phát từ thái độ trầm tĩnh, sâu

sắc của một nghệ sĩ biết trân trọng, biết yêu mến nghệ thuật suốt cuộc đời.

Đây là suy nghĩ của một phụ nữ nghèo bán quán nước bên đường, người đã biết

thương xót, cảm thông với những thân phận thiếu may mắn:

“Một người nghèo khổ biết nói mà làm thinh không nói đưa cho cậu mảnh giấy ghi

câu đố: “Đố ông thầy tuồng biết trong bụng tôi đang khóc hay đang hát?”. Đó mới là hiểm

hóc…Cậu em à, hôm nọ, em nói rằng nghề viết tuồng của em là nghề bạc bẽo. Chị biết em

không nói thật lòng đâu mà em nói lẫy. Bây giờ chị nói thật lòng với em đây: nếu như em

thật sự yêu nghề…thì em phải lắng nghe cho được ngôn ngữ lặng thầm của những người đau

khổ biết nói mà làm thinh không nói”[41, tr.450].

Lời lẽ của chị giản dị, mộc mạc mà chứa đựng một sự bao dung, một lòng vị tha cao

quí. Lời lẽ ấy làm cho nhân vật của Trang Thế Hy đẹp hơn, gần gũi với người đọc hơn.

Đây là thái độ đáng nể của một người đàn bà chồng hy sinh đã ôm nhầm xác chồng

người khác mà khóc:

Tôi nhớ kĩ là tôi không có mắc cỡ chút nào hết anh Hai à! Nước mắt khóc người chết

vì tổ quốc đâu phải là nước mắt dư mà mình mắc cỡ phải không anh?” [41, tr.184].

Viết về những con người cùng khổ trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng

Tám, chúng ta có Nguyên Hồng, nhà văn được mệnh danh là “Gorki của Việt Nam”. Giọng

điệu của Nguyên Hồng vô cùng thống thiết trước mỗi số phận nhân vật của mình. Mỗi câu

văn như thấm đầy nước mắt xót thương của tác giả dành cho những nhân vật bất hạnh ấy.

Đọc Nguyên Hồng, người ta có thể bật khóc: khóc cho số phận của nhân vật và khóc vì

giọng văn thống thiết đầy xót thương của tác giả.

Từng nhà văn với mức độ khác nhau đã có những cố gắng trong việc xây dựng những

tính cách tiêu biểu nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh, sự mong đợi của độc giả, cả việc thỏa

mãn đòi hỏi của báo chí để sống và hoạt động. Trong hoàn cảnh đấu tranh khốc liệt, mỗi nhà

văn yêu nước đều nhận thức rằng, không thể vì đầu tư cho nghệ thuật mà lỗi nhịp đấu tranh.

Nói như thế không có nghĩa là hạ thấp yêu cầu về nghệ thuật. Tuy nhiên, không thể đòi hỏi

những nhà văn miền Nam sáng tác trong thời kỳ đất nước có nhiều biến động lịch sử lớn lao,

phải đáp ứng được những yêu cầu như trong thời hòa bình, hội nhập hiện nay. Vả lại cần

thấy rằng, tầm đón nhận của công chúng cảm thụ luôn thay đổi, biến hóa theo sự vận động

của lịch sử và tùy thuộc vào sự tác động của tác phẩm tiếp nhận.

Mong muốn tìm ra những tích cách hoặc nhân vật điển hình có thể chưa có trong

truyện ngắn giai đoạn đầu này. Trong hoàn cảnh đấu tranh công khai phải luôn tìm cách

tranh thủ sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng đô thị, các nhà văn cũng chưa đặt vấn đề

xây dựng những tích cách đa diện, phức tạp.

Trang Thế Hy cũng viết về số đông những con người bất hạnh trong xã hội, nhưng

khác với Nguyên Hồng, giọng văn của Trang Thế Hy luôn trầm tĩnh, dịu dàng và đầy tin

tưởng. Đó là cái giọng văn buồn mà không thất vọng, bởi nhân vật được ông gửi gắm nhiều

tình cảm luôn là những nhân vật luôn kiến tạo niềm tin, là nhân vật hy vọng đem lại cho

người đọc. Mỗi nhân vật đều góp phần hòa vào giọng điệu trầm tĩnh của nhà văn bởi dường

như từ trong bản chất, họ là những người trầm tĩnh. Cái lẽ trầm tĩnh trong chính bản thân tác

3.2.2.2 Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí, thể hiện nội tâm

giả đã phủ lên các nhân vật của chính ông.

Đặt nhân vật trước biến cố để nhân vật hành động bộc lộ tính cách, đây là một trong

những thủ pháp xây dựng nhân vật thường thấy của Trang Thế Hy. Đối với nhà văn, điều

quan trọng trong phản ánh chân thật cuộc sống là phản ánh chân thật tư tưởng, tình cảm của

nhân vật. Suy cho cùng, cái quan trọng không phải là bản thân những biến cố, những sự kiện

mà quan trọng là phản ứng của con người trước sự kiện, biến cố đó. Vì vậy, trong tác phẩm

của mình, nhà văn rất chú trọng miêu tả hành động của con người trước biến cố. Tất cả

những sự kiện nói chung đều được miêu tả trong sự ảnh hưởng của chúng tới thế giới nhân

vật. Chính nó như một cái nền để nhân vật bộc lộ tính cách và tình trạng tâm lý của mình.

Ngoài ra có thể nhận thấy nhân vật được xây dựng trong truyện của Trang Thế Hy

phần lớn thuộc kiểu nhân vật tư tưởng, sống thiên về nội tâm. Trước hoàn cảnh, họ thường

có xu hướng suy nghĩ về lẽ sống, chiêm nghiệm về lẽ đời. Chúng tôi cũng nhận thấy truyện

Trang Thế Hy có sự thể hiện những chuyển hóa tinh vi trong tư tưởng, tình cảm của nhân

vật.

Nhà văn thời nào cũng thế, họ luôn bị giằng xé giữa hiện thực và lý tưởng, giữa thực

tế áo cơm và hình tượng nghệ thuật cao đẹp. Có khi họ phải sống cái cuộc sống tầm thường

trong lúc họ ước vọng và xây dựng trong trí tưởng tượng một cuộc sống cao đẹp. Có khi họ

phải sống với những con người mà họ thấy không thể nào hòa hợp được với họ. Đó là “tôi”

trong Một thiếu nữ không đáng kể, là Vũ trong Bơ vơ, là Vũ trong Thèm thơ… tất cả tạo nên

những bi kịch trong tâm hồn những người nghệ sĩ ngôn từ.

Trong truyện ngắn ngắn khác, Vết thương thứ mười ba, khi đối diện với vết thương vô

hình trong người, âm ỉ không nguôi như chất độc đioxin ở vị trung tá thương binh về hưu

(Hữu) đã mang trước mười hai vết thương trong người. Đó là lúc ông nhận ra người bạn đời

đồng chí của mình (chị Châu) đã thất tiết với một người đàn ông khác (Nhiệm) để hoàn

thành công tác được giao. Ta hãy nghe nhân vật đau khổ này tâm sự với em út:

"Viên đạn làm tao bị thương lần thứ mười ba này đã được bắn ra cách đây ba mươi

lăm năm, bây giờ mới chạm mục tiêu. Vết thương không làm chảy máu, không để thẹo nhưng

tao sẽ đau hoài cho đến chết” [41, tr.402].

Hoặc nỗi đau nhục "bí hiểm" của cô gái câm có gương mặt và vóc mình dễ trông mà

phải đi làm đĩ để nuôi thân. Có lúc người ta không phân biệt được cô ta đang khóc hay là

đang hát lúc cô vui, buồn, cũng chỉ với tiếng ú ớ trong miệng (Tiếng khóc và tiếng hát).

Tóm lại, chính nghệ thuật xây dựng nhân vật với những nét độc đáo riêng đã góp phần

rất lớn trong việc biểu hiện chân dung con người Nam Bộ vừa mang những đặc trưng tính

cách truyền thống vừa hiện đại với những nỗi niềm đa diện, đa chiều. Mỗi người là một cuộc

đời riêng, một số phận riêng, một quan niệm riêng. Vẻ thâm trầm, điềm tĩnh của họ cũng

mang thái khác nhau. Nghệ thuật xây dựng tính cách và nghệ thuật khắc họa tâm lí tinh tế đã

góp phần rất lớn trong việc biểu hiện những thái độ ứng xử, những nét tính cách, tâm lí hết

sức đặc trưng của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy.

3.2.3 Nghệ thuật sử dụng phương ngữ với việc thể hiện con người Nam Bộ

Tác phẩm văn học là bức tranh hiện thực đa dạng và phong phú về cuộc sống do các

nhà văn vẽ nên thông qua chất liệu ngôn từ. Ngôn từ là chất liệu, là vỏ bọc vật chất của tác

phẩm văn học qua đó chứa đựng nội dung mà nó muốn thể hiện.

Qua quá trình sáng tạo của mỗi nhà văn, chất liệu ngôn ngữ chung ấy lại trở thành hệ

thống ngôn từ riêng, độc đáo của mỗi người. Khi tìm hiểu, đánh giá một hiện tượng văn học

nào đó, chúng ta không thể không phân tích yếu tố ngôn từ nghệ thuật. Mỗi nhà văn đều có

sở trường sử dụng ngôn từ khác nhau. Vì vậy ngôn từ là một trong những yếu tố quan trọng

thể hiện cá tính sáng tạo, tài năng và phong cách của nhà văn.

Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Trong

tác phẩm văn học, ngôn ngữ cụ thể hóa, vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, cốt

truyện và tính cách. Để phản ánh hiện thực muôn màu muôn vẻ của đời sống, nhà văn phải

có vốn từ vựng phong phú, khả năng biến hóa từ vựng sẵn có thành những hiện tượng đa

nghĩa, mới mẻ, đầy sáng tạo. Muốn được như thế, nhà văn phải không ngừng học hỏi, trau

dồi ngôn ngữ của nhân dân. Mỗi nhà văn lớn là tấm gương sáng về sự hiểu biết sâu sắc ngôn

ngữ nhân dân và luôn có ý thức trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác. Không chỉ tiếp

thu vốn từ ngữ phổ thông sẵn có, nhà văn còn phải luôn sáng tạo thêm những lớp từ, lớp

nghĩa, hay cách diễn đạt riêng, góp phần làm giàu có thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc.

Là nhà văn Nam Bộ, sống gắn bó với vùng đất và con người Nam Bộ, Trang Thế Hy

am hiểu một cách sâu sắc con người và vùng đất này. Cho nên, trên trang viết của ông, lời ăn

tiếng nói của người Nam Bộ hiện lên rất sống động. Tất cả vốn sống, vốn văn hóa trong

truyện ngắn Trang Thế Hy đã được ông diễn tả bằng một ngôn ngữ, giọng điệu mang đậm

màu sắc Nam Bộ. Ngôn ngữ ấy thể hiện được tính cách và tâm lí ứng xử của người Nam Bộ:

sự bộc trực, mộc mạc, dân dã, tính hào hiệp, trọng nghĩa…

“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc” (W. Humboldt). Nhìn vào tiếng Việt, ta thấy nhận

định trên chính xác hơn bao giờ hết với tính cách, tâm hồn người Việt và những đặc trưng cơ

bản của nền văn hóa dân tộc. Người Việt Nam ta trong giao tiếp hàng ngày vốn chuộng cách

nói ví von, bình dân, nôm na, dễ hiểu.

Tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm của Trang Thế Hy, chúng tôi nhận thấy Trang Thế

Hy đã chịu ảnh hưởng, và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ địa phương trong các tác phẩm của

mình. Thứ ngôn ngữ ấy được nhà văn góp nhặt từ ngôn ngữ giao tiếp của những con người

lao động lam lũ, khó nhọc nên gần gũi, giản dị hơn bao giờ hết.

Cũng như nhiều nhà văn Nam Bộ khác, Trang Thế Hy sử dụng một lượng ngôn ngữ

Nam Bộ khá đậm trong sáng tác của mình. Chúng ta có thể dễ dàng tìm ở bất kì truyện nào

của nhà văn những từ ngữ mang đặc trưng Nam Bộ. Đặc điểm này tạo nên ở truyện của ông

một văn phong riêng mà nhiều người cảm thấy yêu thích. Trong các truyện của ông có rất

nhiều từ ngữ địa phương Nam Bộ được nhà văn sử dụng khá thích hợp, thậm chí có những từ

được dùng khá đắc địa.

Đó là những từ chỉ địa hình, sản vật gắn với một vùng sông nước: đậu hũ, lức, mền,

mùng,…Đó là những hoạt động, sinh hoạt: bắn đạn, biên thư, nhậu,... Đó là những trạng thái,

tính chất: buồn hiu, giả bộ, lai rai, im re, ngộ,... Đó là những từ biến âm và biến âm có rút

gọn: ổng (ông ấy), chỉ (chị ấy), ngoải (ngoài ấy), biểu (bảo), thiệt (thật), nhứt (nhất)…Đó là

cách diễn đạt kiểu Nam Bộ: chút đỉnh (một ít), nhưng (ông thầy tuồng), sụt cà lui (thụt lùi),

tay cáng dá (cánh tay cong), tưới hột sen (tới tấp, xối xả)…Đó là những tình thái từ có màu

sắc Nam Bộ: hen, nghen, vậy ta....

Bên cạnh đó, có rất nhiều yếu tố đi sau tính từ chỉ mức độ trong phương ngữ miền Nam

giàu sắc thái biểu cảm và chất tươi rói của cuộc sống được Trang Thế Hy đưa vào tác phẩm :

“Em run lập cập, quần áo ướt loi ngoi, óc tai rối bời, môi xanh lét” (Vừng trăng bên kia sông

- Văn Phụng Mỹ)

Hoặc việc nhà văn sử dụng các từ được tạo nên từ cách sắp xếp đặc trưng của người

Nam Bộ trong giao tiếp là: thường đưa những từ chứa thông tin quan trọng lên trước, từ ít

quan trọng hơn để sau. Ví dụ, trong cụm từ “sạch sẽ đứa” thì từ “đứa” có thể bỏ, nhưng từ

“sạch sẽ” thì dứt khoát phải có mặt bởi đó là thông tin chính; “sạch sẽ” là thông tin cần

quan tâm chứ không phải là “đứa”, với các cụm từ khác cũng vậy.

Nhóm từ, cụm từ này không nhiều trong truyện Trang Thế Hy nhưng nó cũng nói lên

được cách nói đặc trưng của người Nam Bộ. Người Nam Bộ vốn bộc trực và ưa ngắn gọn.

Có lẽ chính nét tính cách đó đã ảnh hưởng tới cách chuyển tải thông tin: thông tin nào quan

trọng hơn thì được đưa lên trước, những yếu tố ít quan trọng hơn thì để sau. Như vậy, nếu vì

lý do nào đó ảnh hưởng đến phát âm (chẳng hạn như đứt hơi, mất đi âm cuối …) thì nội dung

chính, quan trọng cũng đã được chuyển tải đến cho người nghe.

Nhìn chung, phương tiện tu từ đáng kể nhất là từ địa phương được nhà văn sử dụng

tinh tế nhằm tạo nên sắc thái địa phương của cảnh vật và con người trong truyện. Tuy vậy,

điều làm nên nét độc đáo ở truyện ngắn Trang Thế Hy là tính đặc sắc của những từ ngữ mà

ông dùng chứ không chỉ ở số lượng từ ngữ mang tính chất Nam Bộ.

Thử đọc một đoạn trong truyện ngắn Trong trắng để thấy sự thú vị của màu sắc địa

phương thể hiện như thế nào qua những từ ngữ ấy:

Hai cái khăn choàng tắm rằn ri, Unhớp nhúaU và Uchầm khíuU tứ tung vừa buông xuống thì

Unhích mépU mỉm cười một cách khá dạn dĩ. Đoạn, trong khi chờ những tiếng vỗ tay và những

thằng Năm Cà Khêu đã bước ra chào khán giả. Nó hơi ngã về phía trước, khẽ cúi đầu và

lời hoan hô dịu bớt xuống, nó dùng Ubàn tay mặtU vuốt mái tóc chải rẽ bảy theo kiểu lưỡi mèo

của nó cho đỡ ngượng [41, tr.98].

Chẳng hạn như đoạn văn sau trong truyện Trong trắng:

Khớp mốc xì gì mậy Tư! Utụi nó ở ngoài chợ mặc dầuU, chớ nó cũng ngán mình lắm,

phải chi mình ra ngoải, thì mày khớp đã đành. Cứ việc ra diễn tưới hột sen, coi như không

có tụi nó vậy [41, tr.101].

Qua đó, có thể thấy đặc điểm nổi bật của phương ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn

Trang Thế Hy đó là cách diễn đạt sống động và giàu sắc thái biểu cảm. Phương ngữ Nam Bộ

trong truyện ngắn Trang Thế Hy còn thể hiện cách diễn đạt dung dị, bình dân, nhiều yếu tố

từ ngữ giản dị và mộc mạc, phù hợp với đời sống và tính cách của con người Nam Bộ.

Nhà văn Nguyên Ngọc từng so sánh Trang Thế Hy với Nguyễn Tuân trong việc sử

dụng từ ngữ ở đặc điểm kỹ lưỡng, tài hoa. Nếu Nguyễn Tuân độc đáo ở nghệ thuật làm mới

ngôn từ, ở việc sử dụng từ láy và việc sáng tạo tổ hợp từ, ở nghệ thuật so sánh thì Trang Thế

Hy lại kỹ lưỡng, tài hoa ở chỗ ông viết dùng những con chữ “quê kiểng” đậm chất địa

phương, vẽ lên được thần thái của nhân vật, của cảnh tình, của sự việc một cách rất mới mẻ,

tạo được sự thú vị cho người đọc.

Những cây dừa rất cao nơi miền quê Nam Bộ chắc chắn không lạ gì đối với người đọc,

nhưng khi đi vào truyện của Trang Thế Hy, chúng lại khiến cho người đọc cảm thấy thú vị,

sự thú vị của sự phát hiện ra điều rất đỗi bình thường, rất đỗi quen thuộc mà mình lại không

nghĩ ra được, không nói lên thành lời cho hay, cho đặc sắc được, dù mình vẫn cảm được. Đó

là cảm giác thú vị khi đọc đến cảnh Trang Thế Hy tả những cây dừa “cao trật ót”, và do đó

mà có cái nghề hái dừa “hụt sào” bán mạng như chơi. Với những đứa trẻ nheo nhóc, suy

dinh dưỡng, nhà văn gọi đó là những đứa trẻ “èo uột như một trái cà đèo”. Trẻ con đi bú nhờ

người khác được gọi là đi “bú khính”. Những đứa trẻ bụ bẩm hay những người lớn khỏe

mạnh, vâm váp đều được gọi là “tốt đứa”. Tả vị chua, tác giả viết “chua quéo miệng”, còn

mặn thì “mặn quéo lưỡi”… Cái kiểu nói quá (cao trật ót, chua quéo miệng…) tạo cho người

đọc sự thú vị, ấn tượng khi tiếp xúc với phương ngữ Nam Bộ.

Chẳng hạn một đoạn sau đây trong truyện Anh Thơm râu rồng:

“Tôi không biết mặt má tôi, anh Thơm bắt đầu nói. Má tôi chết lúc tôi còn nhỏ lắm,

mới có hai ba tháng gì đó. Chết vì đẻ còn non ngày non tháng mà phải dầm mưa đi cấy trừ

nợ bị trúng nước. Tôi lớn lên bằng nước cơm quậy đường, lâu lâu mới được một người có

con nhỏ thấy tội nghiệp cho Ubú khính Umột lần. Sau này lúc tôi được năm sáu tuổi, khi có ai

khen tôi khỏe mạnh, Utốt đứaU ba tôi ưa vò đầu tôi mà nói: ”ờ bây giờ coi nó Usởn sơU vậy, chớ

hồi nhỏ nó U èo uột y như một trái cà đèo”U [41, tr127-128].

Đọc truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy ông đã sử dụng đúng mức những từ ngữ

đặc thù, lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ. Ông không lạm dụng ngôn ngữ Nam Bộ và cũng

không làm loãng chất Nam Bộ trong ngôn ngữ mà ông vận dụng trong tác phẩm. Ngôn từ

nghệ thuật trong sáng tác của ông phảng phất sắc thái của ngôn ngữ dân gian bình dị, mộc

mạc song cũng mang dấu ấn sâu sắc của sự suy nghiệm. Đó là sự chừng mực đúng mức mà

nhà văn đã đạt được.

Trang Thế Hy tạo những không gian khác nhau cho chữ nghĩa của mình. Không gian

ấy ứng với tần số xuất hiện của những con người Nam Bộ. Khi nói về người, về cảnh, về sự

gắn liền với miền quê, tần số xuất hiện của những từ, cụm từ “đặc” Nam Bộ rất cao. Ngược

lại, khi viết về thành thị hay những con người nơi chốn thị thành đô hội, lượng phương ngữ

này lại ít hẳn đi. Điều này cho thấy ý thức của tác giả trong việc sử dụng phù hợp liều lượng

phương ngữ trong tác phẩm. Sau đây là các số liệu chúng tôi ghi nhận được trong quá trình

khảo sát ngẫu nhiên một số truyện ngắn của Trang Thế Hy:

- Ở mảng đề tài viết về nông thôn, chúng tôi chọn khảo sát ngẫu nhiên hai truyện và có

kết quả như sau:

Áo lụa giồng (1957): 98 lượt từ, cụm từ/10 trang in (khổ 14,5 x 20,5cm).

Nắng đẹp miền quê ngoại (1957): 97 lượt từ, cụm từ /13,5 trang in khổ (16 x 24 cm ).

- Ở mảng đề tài viết về thành thị, chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên hai truyện để khảo

sát và có kết quả như sau:

- Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư (1987): 32 lượt từ, cụm từ/ 9 trang in khổ (14,5

x20,5 cm).

- Một thiếu nữ không đáng kể (1957): 27 lượt từ, cụm từ/ 7 trang in khổ (16 x 24 cm).

So với Sơn Nam trong Hương rừng Cà mau, tần số xuất hiện của phương ngữ Nam Bộ

trong truyện viết về nông thôn của Trang thế Hy cao hơn. Đây là một số dẫn chứng để chứng

minh cho nhận xét này:

- Chuyện năm xưa có 45 lượt từ, cụm từ/11 trang in khổ 14 x 20 cm, tức trên 4 lượt từ,

cụm từ trong mỗi trang.

- Đảng “Cánh buồm đen” có 36 lượt từ, cụm từ/9 trang in khổ 14 x 20 cm, tức 4 lượt

từ, cụm từ trong mỗi trang.

- Anh hùng rơm có 47 lượt từ, cụm từ/10 trang in khổ 14 x 20 cm, tức gần 5 lượt từ,

cụm từ trong mỗi trang.

Như vậy, có thể thấy trung bình mỗi trang viết của Trang Thế Hy về con người và

cảnh đời ở nông thôn Nam Bộ xuất hiện gần 10 lượt từ, cụm từ mang đặc trưng của phương

ngữ Nam Bộ. Còn mỗi trang viết về con người, cảnh đời ở thành thị chỉ có khoảng trên 3

lượt từ, cụm từ mang đặc trưng phương ngữ Nam Bộ. Nếu tần số xuất hiện của các từ ngữ

Nam Bộ trong truyện của Sơn Nam khá đều đặn thì tần số xuất hiện của từ ngữ Nam Bộ

trong các truyện của Trang Thế Hy lại có sự chênh lệch nhau khá rõ rệt tùy thuộc vào mảng

đề tài mà nhà văn phản ánh.

Qua so sánh này, chúng ta thấy Trang Thế Hy đã rất có ý thức trong việc sử dụng

phương ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của mình để đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Ông biết

“điều tiết” tần số của phương ngữ, góp phần tạo cho các trang viết về nông thôn mang “đậm

chất quê”, các trang viết về thị thành lại đậm “chất phố xá”. Sự “điều tiết” ấy của Trang Thế

Hy luôn tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, dễ chịu và dễ hiểu.

Để đạt đến ngưỡng ngôn từ vừa đậm chất Nam Bộ vừa không xa lạ với người đọc ở

các vùng miền khác phải là người có một sự am hiểu sâu sắc về ngôn ngữ tiếng Việt, đồng

thời phải có một năng lực tư duy ngôn ngữ, không phải nhà văn nào cũng làm được điều đó.

Quá trình sáng tạo tác phẩm là con đường sáng tạo nội dung đi qua sự sống của ngôn

ngữ trong tâm trí người viết. Trang Thế Hy đã để cho ngôn ngữ sống đúng cuộc sống của nó,

đúng “địa vị” của nó. Nhà văn đưa vào trong tác phẩm của mình phương ngữ Nam Bộ với

một dung lượng vừa phải, đồng thời có sự chọn lọc rất tinh tế. Điều đó góp phần tạo cho lời

văn một khả năng diễn đạt dễ hiểu, vừa tạo nét riêng không thể lẫn. Ông đã viết những dòng

chữ ăm ắp những khát khao giãi bày, ăm ắp hơi thở của cuộc sống. Nơi mảnh đất phương

Nam, ông đã tạo cho mình một lối đi riêng bên cạnh những cây bút gạo cội bằng chính nội

lực và thành ý của chính mình. Với cái “tạng” thầm trầm, điềm tĩnh, Trang Thế Hy đã góp

tiếng nói nghệ thuật độc đáo của mình làm giàu thêm cho kho tàng văn chương của dân tộc.

Tất nhiên, có thể có người không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,

trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều tự địa phương thì sẽ gây trở ngại cho

người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng để có được những sáng tác phản ánh sinh động thực tại,

không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản ánh. Bằng chính

trang viết của mình, Trang Thế Hy đã chứng minh rằng bản thân ngôn từ tự nhiên, giản dị

cũng là một vẻ đẹp và một cách biểu hiện nghệ thuật độc đáo, đó là vẻ đẹp của sự giản dị mà

phong phú.

KẾT LUẬN

“Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh

liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng

chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạmh”.

(Phạm Văn Đồng)

Dân tộc Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn có một truyền thống văn hoá lâu đời, đậm đà

bản sắc - phong vị quê hương. Mỗi miền quê, mỗi vùng đất đều tự nó mang trong mình dấu

ấn văn hoá riêng biệt, vừa có những nét đặc thù, lại vừa thống nhất trong tính chỉnh thể của

nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Nam Bộ là một vùng đất mới, thậm chí còn rất mới so với

chiều dài lịch sử đất nước, và dân tộc người Việt xuất hiện ở đây chỉ mới năm ba thế kỉ. Trên

đường tha phương cầu thực, chắc chắn những di dân này đã mang theo di sản văn hóa của cả

mấy ngàn năm từ miền Bắc, miền Trung vào. Trong điều kiện thiên nhiên đặc thù tất nhiên

văn hóa ấy phải ứng biến cho phù hợp. Đi vào truyện ngắn Trang Thế Hy, có thể thấy được

những lát cắt đời sống của con người và vùng đất Nam Bộ với những sắc thái riêng được

chưng cất từ chồi lộc, hoa trái của hạt giống văn hóa Việt Nam. Và con người Nam Bộ với tư

cách là chủ thể sáng tạo văn hóa đã đi vào trang viết của Trang Thế Hy với những nét tính

cách đẹp đẽ, độc đáo. Cùng với các nhà văn Nam Bộ khác, Trang Thế Hy đã góp phần khắc

họa diện mạo văn hóa và con người Nam Bộ trong những ngày đen tối của lịch sử dân tộc

một cách đậm nét và toàn diện hơn.

Tác phẩm của ông ra đời trong những năm chiến tranh ở miền Nam đã đem đến cho

người đọc một chỗ dựa tinh thần vững chắc đó là cội nguồn dân tộc, làm chúng ta yêu quê

hương hơn và tin tưởng vào cuộc sống hơn. Tình yêu và niềm tin ấy không xuất phát từ quan

điểm chính trị hay giáo lý đạo đức mà chính là sự gắn kết tự nhiên với đất mẹ thiêng liêng,

với nơi mình sinh ra lớn lên, bao gồm cả những điều tưởng như vụn vặt, tầm thường nhất

như giọng nói, món ăn, nước uống, cỏ cây...

Con người và văn hoá Nam Bộ trong truyện ngắn Trang Thế Hy nói riêng và trong các

tác phẩm văn xuôi nói chung, một lần nữa đã chứng minh cho mối quan hệ nội tại của văn

học và văn hoá. Văn học vừa là một thành tố quan trọng của văn hoá vừa tác động đến sự

phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể

sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hoá

dân tộc. Thể hiện bằng hình tượng và thông qua hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn

học, những nét riêng của văn hoá được người đọc cảm nhận sống động, tươi nguyên và cụ

thể hơn.

Dù tác phẩm của ông không nhiều về số lượng. Nhưng những đóng góp nghệ thuật của

nhà văn xứ Dừa này trong tiến trình vận động của văn học yêu nước thành thị miền Nam nói

riêng, văn học Nam Bộ nửa sau thế kỉ XX nói chung, thật đáng trân trọng. Trang Thế Hy là

một nhà văn Nam Bộ có phong cách. Mỗi nhà văn đều có một quan niệm nghệ thuật riêng

cho mình. Trang Thế Hy quan niệm rằng điểm tựa tin cậy của người cầm bút là nỗi đau khổ

của số đông thầm lặng.Và đương nhiên, thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của ông là thế

giới những con người đau khổ, “biết nói mà làm thinh không nói”. Trong dòng chảy chung

của văn chương Nam Bộ, Trang Thế Hy khác với những người cầm bút khác phải chăng

chính ở chỗ này.

Trang Thế Hy đã chứng tỏ một bút lực già dặn và tinh tế trong khi tạo dựng những

hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của mình. Nhân vật của ông luôn là những con người

rất đời, rất gần gũi, mộc mạc mà bản lĩnh, lại chân chất, bộc trực, đúng với bản chất của con

người Nam Bộ. Nhà văn đã đẩy họ đến trước những lựa chọn quyết liệt để từ đó họ tỏ sáng

thứ ánh sáng của nhân phẩm, của tâm hồn, của lương tri.

Thiên nhiên Nam Bộ cũng là một mảng khá thú vị trong truyện của Trang Thế Hy.

Ông đã đem đến cho người đọc những kiến thức lý thú về tự nhiên Nam Bộ. Những dòng

những trang viết về thiên nhiên của ông là cả một sự thấu hiểu sâu xa, một sự mến yêu thắm

thiết đối với mảnh đất Nam Bộ trong những năm bị thế lưc ngoại xâm giày xéo. Viết về thiên

nhiên phong tục của người dân Nam Bộ trong những ngày như thế quả thực có ý nghĩa rất

lớn trong việc hướng về cội nguồn, thể hiện tình yêu với quê hương đất nước.

Truyện của Trang Thế Hy thuộc kiểu truyện ngắn trữ tình. Ngòi bút của ông luôn chú

trọng vào những vấn đề nhân bản của cuộc sống. Chọn kiểu tự sự phi cốt truyện, với ngôi

thứ nhất xưng “tôi”, Trang Thế Hy đã có nhiều cơ hội để bày tỏ quan niệm sống, quan niệm

nghệ thuật của mình một cách sâu sắc nhất. Với vốn ngôn ngữ Nam Bộ phong phú, hấp dẫn,

với dụng ý nghệ thuật riêng. Trang Thế Hy đã biết điều tiết vốn từ ngữ của mình để tạo nên

những đặc sắc trong những trang viết, đem đến cho người đọc những bất ngờ, thú vị trong

cách dùng phương ngữ của mình.

Văn của ông thật đẹp, đẹp từ ngôn từ đến giọng điệu, đẹp từ tâm hồn nhân vật đến

cách hành xử của họ. Nhà văn mải miết kiếm tìm những vẻ đẹp bị lãng quên trong cõi nhân

sinh, đem đến những góc khuất trong cõi thế này thứ ánh sáng của niềm tin, của ân tình,

chúng ta sẽ phải nhìn kĩ hơn những người những cảnh xung quanh để cuộc sống này bớt đi

những hớ hênh do sự vô tâm cố hữu của mỗi con người. Để rồi chúng ta sẽ thấy cuộc đời này

đáng sống hơn, những con người quanh mình cũng đẹp hơn nhiều lần so với trước.

Gamzatov từng nói:“Văn học không có ranh giới, nhưng nhà văn phải có quê hương”.

Và chính ông đã làm cho cả thế giới này biết đến cái làng Đaghextan nhỏ bé của ông.Với

những tác phẩm của mình, Trang Thế Hy đã tạo nên dấu ấn trong lòng bạn đọc cả trong và

ngoài nước, làm cho người ta biết đến có một vùng đất Nam Bộ như thế trên lãnh thổ Việt

Nam. Với tất cả những gì Trang Thế Hy thể hiện trên trang viết của mình đã là lời khẳng

định hùng hồn nhất, là niềm tự hào thành kính nhất trước vẻ đẹp đặc trưng của văn hóa và

con người Nam Bộ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Ái (chủ biên) (2004), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành phố

Hồ Chí Minh.

2. Nguyên An (2001), “Phác thảo văn chương Nam Bộ”, Tạp chí Nhà văn, ( số 11).

3. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

4. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất

bản Giáo dục.

5. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản

Giáo dục.

6. Vũ Tuấn Anh (2003), “Điểm tựa tin cậy của người viết là nỗi đau khổ của số đông thầm

lặng…”, Tạp chí Văn học (số 10).

7. Lại Nguyên Ân (biên soạn) 1999, 150 Thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Quốc Gia, Hà

Nội.

8. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học

quá khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí Văn học (số 4).

9. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu

Trung Quốc (số 2).

10. Nam Cao (2001), Tuyển tập Nam Cao, Tập 1, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

11. Tân Chi (tuyển chọn) 1999, Thạch Lam - Văn và đời, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội.

12. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Viện Văn hoá,

Hà Nội.

13. Lê Văn Chưởng (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí

Minh.

14. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí Văn học (số 11).

16. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Thành

phố Hồ Chí Minh.

17. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nhà xuất

bản Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

3TUhttp://www.vannghesongcuulong.org.vnU3T.

18. Trần Phỏng Diều (2007), “Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn Nam”,

19. Trần Hữu Dũng (2003), Vốn Văn hoá, Tạp chí Tia sáng, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ

Chí Minh.

20. Phạm Đức Dương, Từ văn hoá đến văn học, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Duy (2002), Văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.

22. Nguyễn Đức Đàn (1972), “Chủ nghĩa nhân đạo và một số khuynh hướng văn học công

khai trong vùng tạm chiến miền Nam”, Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học 1960-1999,

Tập 3.

23. Hữu Đạt (2000), Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nhà xuất bản Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

24. Phan Cự Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung,

Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

25. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm

nghiên cứu Quốc học, Tp Hồ Chí Minh.

26. Hà Minh Đức (2001), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá văn nghệ”,

Tạp chí Văn học (số 5), trang 4-13.

27. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên) 1988, Địa chí Văn hoá

Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học,

Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

29. Nhiều tác giả (1991), Địa chí Bến Tre, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

30. Nhiều tác giả (2006), Trò chuyện với 100 nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá Sài

Gòn.

31. Nhiều tác giả (1988), Tuyển tập văn 1945 - 1975, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin

Thành phố Hồ Chí Minh.

32. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn

chương”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 1).

33. Nguyễn Văn Hạnh, “Về khái niệm văn hoá - Vài khía cạnh lý luận và thực tiễn”, Tạp chí

Văn học (số 9), trang 60-63.

34. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,

Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

35. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Văn học…gần và xa (Tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Thanh Hoa (2007), Đặc điểm truyện ngắn Trang Thế Hy, Luận văn Thạc sĩ văn

học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội.

3TUhttp://vannghesongcuulong.org.vnU3T.

38. Nguyễn Hữu Hiệp (2006), “Cần giữ gìn sự trong sáng vốn có của ngôn ngữ Nam Bộ”,

39. Đỗ Đức Hiểu (2004), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) Từ điển

văn học (Bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới.

40. Trang Thế Hy (1993), Tiếng hát và tiếng khóc (Truyện ngắn và hồi ức), Hội Văn học

Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre.

41. Trang Thế Hy (2006), Truyện ngắn Trang Thế Hy, Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.

42. Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử

Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới.

43. Nguyễn Mộng Giác (1972), “Nhìn lại 15 năm văn nghệ miền Nam”, Bách khoa (361-

362).

44. Cao Huy Khanh (1974), “Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 –

1973”, Thời Tập, ( số 4).

45. Cao Huy Khanh (1970), “Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền Nam 1955 - 1969”, Khởi Hành,

( số 74).

46. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của

dân tộc”, Tạp chí Văn học (số 6).

47. M.B Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nhà

xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội.

48. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

49. Trần Xuân Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, , Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

50. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành

phố Hồ Chí Minh.

51. Phương Lựu (chủ biên), (2004), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

53. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách,

Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

54. Tôn Thảo Miên (1997), “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn”, Tuyển tập 40

năm Tạp chí Văn học 1960 - 1999, tập 3.

55. Sơn Nam (2006), Hương rừng Cà Mau, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Sơn Nam (2007), Biên khảo Sơn Nam, nói về miền Nam, cá tính miền Nam, thuần phong

mỹ tục Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

57. Chu Nga (1974), “Lê Vĩnh Hoà - Vị trí của anh trong nền văn xuôi cách mạng miền

Nam”, Tuyển tập 40 Tạp chí Văn học 1960 - 1999, tập 3.

58. Vũ Thị Tố Nga (2006), “Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con người”, Tạp

chí Văn học, (số 5).

59. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.

60. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, 3TUwww.vienvanhoc.org.vnU3T.

61. Phan Ngọc, Thử xét văn hoá – văn học bằng ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà

Nội.

62. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá từ một góc nhìn, Nhà xuất bản Văn học và

Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

63. Phùng Quý Nhâm, Bản sắc dân tộc trong văn học, Bản sắc dân tộc trong văn hoá văn

nghệ, Nhà xuất bản Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, trang 249 – 255.

64. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học,

Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

65. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.

66. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nhà xuất bản Hội nhà văn.

67. Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con đường phát triển

của nó”, Văn nghệ ( số 553) (7 - 6 - 1974) và ( số 554) (14 - 6 - 1974), Hà Nội.

68. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) 1999, Địa chí Bến Tre, Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

69. Vương Hiền Sển (1999), Tự vị tiếng nói miền Nam, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí

Minh.

70. Đặng Đức Siêu (2004), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà

Nội.

71. Lê Văn Siêu, Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, Thành

phố Hồ Chí Minh.

72. Cao Xuân Sơn (tuyển chọn) 2004, Đi chỗ khác chơi, Tài liệu lưu hành nội bộ mừng nhà

văn Trang Thế Hy 80 tuổi.

73. Trần Đình Sử ( 1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ

giáo viên, Hà Nội.

74. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

75. Trần Đình Sử (chủ biên) 2003, Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nhà xuất bản

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

76. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường Văn học, Nhà xuất bản Thành phố Hồ

Chí Minh.

77. Trần Hữu Tá (1998), Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, Nhà xuất bản Giáo dục,

Hà Nội.

78. Trần Hữu Tá (1998), Tư liệu truyện kí Việt Nam 1955 - 1975, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội.

79. Hồ Tĩnh Tâm (2005), “Từ phương ngữ Nam Bộ đến sáng tạo văn bản thành văn”, Tham

luận tại hội thảo khoa học về văn hóa văn nghệ dân gian đồng bằng sông Cửu Long lần

thứ nhất, Trường Đại học Cần Thơ.

80. Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin.

81. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

82. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí

Văn học, ( số 2), tr.13.

83. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hoá dân gian Nam Bộ - Những phác thảo, Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội.

84. Bùi Thanh Thảo (2004), Cái đẹp trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách

mạng tháng Tám, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh.

85. Nguyễn Quyết Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nhà xuất bản Văn học.

86. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

87. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hoá Nam Bộ vấn đề và phát triển, Nhà xuất bản Văn hoá thông

tin, Hà Nội.

88. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ

Chí Minh.

90. Trần Ngọc Thêm - Phạm Hồng Quang (1999), Văn hoá học và văn hoá Việt Nam, Nhà

xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

91. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nhà xuất bản

Giáo dục.

92. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Đỗ Lai Thuý (1999), Từ cái nhìn văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

3TUwww.vienvanhoc.org.vnU3T.

94. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết,

95. Đỗ Thị Minh Thuý, Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Nhà xuất bản Văn hoá thông

tin, Hà Nội.

96. Phan Trọng Thưởng (1991), “Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học trong điều kiện

chiến tranh 1945- 1975”, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tập 3.

97. Lê Ngọc Trà (2005), Thách thức của sáng tạo - Thách thức của văn hoá, Nhà xuất bản

Thanh niên.

98. Lê Ngọc Trà (2002), Lý luận và văn học (tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

99. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp

cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

100. Lý Chánh Trung (2005), Một thời đạn bom - Một thời hoà bình, Tuyển tập, Nhà xuất

bản Tổng hợp Đồng Nai.

101. Đỗ Minh Tuấn (1996), Ngày văn học lên ngôi (Tiểu luận – phê bình), Nhà xuất bản Văn

học.

102. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,

Hà Nội.

103. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), “Đoàn Giỏi - Đất và rừng phương Nam”, Tiếng vọng

những mùa qua, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

PHỤ LỤC

TÁC PHẨM CỦA TRANG THẾ HY

I. TRUYỆN NGẮN

1. Anh Thơm râu rồng

2. Áo lụa giồng

3. Ba bốn câu thơ

4. Bà mẹ già và thúng khổ qua

5. Bây giờ là mùa thu

6. Bơ vơ

7. Cánh chim xuân trên đỉnh núi

8. Cành hoa sau cơn mưa

9. Cây bút máy của nhà thơ

10. Chất liệu

11. Chút hào quang từ mảnh vỡ của ngôi sao buồn

12. Con cá không biệt tăm

13. Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư

14. Con người đã xuất hiện rồi

15. Cô gái Ô môi

16. Đường bay ngắn của một vòng luân hồi

17. Giả đò yêu

18. Giọt lệ tình trên dòng nước hôi tanh

19. Hai người nhìn mưa dầm

20. Hai người tàn tật

21. Hồng nhan và đồng xu

22. Lời thề bên vách lá

23. Màu áo người phương Bắc

24. Mớ tóc rối của người tình nghèo

25. Một ngày với người yêu

26. Một nghệ sĩ

27. Một thiếu nữ không đáng kể

28. Mùa xuân chưa đi qua

29. Mưa ấm

30. Mười ba con chim và mùa xuân

31. Mỹ Thơ

32. Nắng đẹp miền quê ngoại

33. Nghệ thuật làm bố dượng

34. Nguồn cảm mới

35. Người bào chế thuốc giảm đau

36. Người chị áo xanh

37. Người đẹp bán thơ

38. Người và trăng

39. Những người lấp hố bom

40. Nói về một người yêu

41. Nợ nước mắt

42. Nơi người yêu ở đẹp hơn cả

43. Nước mắt người yêu nghèo

44. Rác và hoa

45. Sách và chim

46. Sau trận giặc tình

47. Than thở

48. Thèm thơ

49. Tiếng hát và tiếng khóc

50. Tình chỉ nở một lần thôi

51. Tình trên xe buýt

52. Trả lại màu xanh cho tuổi xanh

53. Trị tội con hà bá

54. Trong trắng

55. Trời xanh như mắt em

56. Vầng trăng bên kia sông

57. Về nhà trước cơn mưa

58. Vết thương thứ 13

59. Vui nhỏ trên đường dây

60. Xứ xa và xứ mơ

II. TIỂU THUYẾT FEUILLETONS

1. Hoa tình chỉ nở một lần thôi ( được in trên Tuần báo “Chị cùng em”, do Lâm Xuân Mai

chủ biên)

2. Nét buồn bạc mệnh (được in Nhật báo “Thủ Đô”, do Trần Kiêm Uẩn chủ biên - In được

khoảng 10 kỳ thì tác giả phải rời Sài Gòn)

III. HỒI ỨC

Một nghệ sĩ buồn thích đùa

IV. THƠ

1. Bài thơ trên đống rác

2. Bối rối

3. Bứt đứt sợi dây chỉ hồng

4. Cuộc đời

5. Dấu răng

6. Định lí và định lí

7. Hoang tưởng trắng

8. Lời dạy của mẹ về thời gian và văn minh

9. Lời nói dối nhân ái

10. Người bạn đường có tên là hy vọng

11. Người mẹ + cô giáo

12. Tấm vé số và những thiên đường có sẵn

13. Thanh gươm tháng Tám

V. DỊCH THƠ

1. Cây đèn của tình yêu

2. Chết trong sự viên mãn

3. Đôi mắt của trái tim

4. Đường đi của người không thuộc đường

5. Hoa nở và trái chín

6. Người biết làm cho hoa nở

7. Những nụ hoa tình yêu chưa kịp nở

8. Niềm tin và lời hứa

9. Sự sống bên trong và bên ngoài tôi

Chín bài thơ trên đây của thi hào Rabindranath Tagore được trích từ tập thơ Giỏ trái

cây (La corbeille de fruits) do nữ dịch giả Pháp Hélène du Pasquier dịch sang tiếng Pháp,

nhà xuất bản Nouvelle revue francaise in năm 1921 tại Paris, được Trang Thế Huy dịch từ

tiếng Pháp.

Mỗi bài không có nhan đề riêng, chỉ được đánh dấu bằng con số La Mã. Nhan đề do

người dịch tự đặt.