BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thanh Tùng
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thanh Tùng
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
Chuyên ngành Mã số
: Văn học Việt Nam : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gởi lời tri ân đến quí thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi
trong những năm học qua.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thành
Thi – Phó chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Thầy đã giúp đỡ tôi giải quyết các vấn đề vạch ra trong đề tài, cũng như tận
tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn
và phòng Khoa học công nghệ & sau đại học trường Đại học sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cám ơn Ban giám hiệu, Tổ Văn trường THPT Trần Bình Trọng – Cam
Lâm – Khánh Hòa đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác để tôi hoàn thành luận
văn này.
Xin cám ơn đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã động viên, khích lệ tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
T.p Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2009
Người viết
TR ẦN THANH TÙNG
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
2.3.3. Yếu tố kỳ ảo và những khát khao về hạnh phúc lứa đôi.......................... 66
2.3.4. Yếu tố kỳ ảo và cảm hứng triết luận về con người .................................. 72
2.3.5. Yếu tố kỳ ảo và những lý giải khoa học về các hiện tượng thần bí ......... 79
Chương 3: YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ
3.1. Kỳ ảo như một yếu tố mang giá trị mĩ cảm ....................................................... 86
3.1.1. Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng lãng mạn ............................................... 86
3.1.2. Thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh ....................................................... 88
3.2. Kỳ ảo như một yếu tố, phương tiện kỹ thuật trong văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ...................................................... 93
3.2.1. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên cốt truyện .............................................. 93
3.2.2. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên thế giới nhân vật ................................... 97
3.2.3. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên trần thuật ............................................. 102
3.2.4. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên không gian và thời gian nghệ thuật .... 113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 126
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã có sự phát triển vượt bậc và đạt đến những thành tựu đỉnh cao. Chỉ trong vòng 15 năm, người đọc được chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt cây bút chuyên nghiệp tài năng như: Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Lan Khai, Tchya – Đái Đức Tuấn, Thế Lữ… Tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với những tìm tòi, đổi mới về cách thức thể hiện nội dung và bút pháp nghệ thuật. Sự phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác của các văn nhân thi sĩ đã làm nên sự đa sắc diện cho nền văn xuôi lãng mạn Việt Nam. Những tưởng trước ngưỡng cửa cuộc sống hiện đại, trước những xâm lấn của văn hóa phương Tây vào xã hội Việt Nam, yếu tố huyễn hoặc, kỳ ảo trong văn học sẽ không còn đất để sinh tồn. Thế nhưng, khi đi sâu vào khám phá địa hạt của văn học nghệ thuật giai đoạn 1930 – 1945, lạ thay cái chất kỳ ảo, ma quái, kinh dị vẫn nảy nở và phát triển trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong các tác phẩm văn xuôi thuộc khuynh hướng lãng mạn. Trên thi đàn văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 đã xuất hiện nhiều trang viết đậm chất kỳ ảo, huyễn hoặc. Có thể kể đến: Rừng khuya – Lan Khai; Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya – Tchya Đái Đức Tuấn; Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh – Thế Lữ; Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lam, Loạn âm, Khoa thi cuối cùng… – Nguyễn Tuân; Lan rừng, Bóng người trong sương mu – Nhất Linh; Ngậm ngãi tìm trầm – Thanh Tịnh… Sáng tác của họ đưa người đọc vào thế giới của những câu chuyện hoang đường kỳ ảo đậm chất huyễn hoặc, ma quái. Ở đấy, trí tưởng tượng phong phú của các nhà văn lãng mạn có dịp tung hoành mà không bị hiện thực cuộc sống kiềm tỏa. Họ thỏa sức đào sâu vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hoà, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng… Hơn bao giờ hết, yếu tố kỳ ảo được đưa vào trong văn học với mật độ khá dày đặc, trở thành một dòng, một nhánh riêng với nhiều tên tuổi nổi tiếng: Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Đái Đức Tuấn, Lan Khai, Thanh Tịnh, Hoàng Trọng Miên… Sáng tác của họ đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn, được đông đảo người đọc đón nhận và thu hút nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học.
1.2. Sự thực, yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống văn học nhân
loại và nó hoàn toàn không hề xa lạ với độc giả Việt Nam. Yếu tố kỳ ảo đã tạo
thành một dòng chảy liên tục trong lịch sử của văn học dân tộc từ thời kì cổ đại cho
đến cận hiện đại. Tuy nhiên, do đặc điểm xã hội, tâm lí nhận thức của mỗi thời kì
khác nhau, nên yếu tố kỳ ảo ở mỗi thời kì văn học cũng không giống nhau. Ngay từ
buổi bình minh của văn học, văn học dân gian Việt Nam đã gắn liền với yếu tố kỳ
ảo. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết dân gian ra đời nhằm phản
ánh nhận thức, niềm tin của con người cổ đại về những biến cố, sự kiện của thế giới
thuở hồng hoang. Sang thời kì trung đại, yếu tố kỳ ảo tiếp tục tồn tại trong những
sáng tác của các văn nhân nho sĩ. Sáng tác của họ là lời cảnh báo về những chuyện
xấu xa ở trần gian hướng con người đến cuộc sống tốt lành nhằm mục đích phục vụ
cho quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Đến đầu thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 –
1945, hạt giống yếu tố kỳ ảo đã thực sự sinh trưởng tốt tươi trên mảnh đất văn xuôi
lãng mạn và thu đạt được những thành tựu rực rỡ. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là sản phẩm của sự kết hợp độc đáo giữa yếu
tố kỳ ảo trong văn học phương Tây và văn học truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu
văn xuôi kỳ ảo văn học giai đoạn này không chỉ giúp chúng ta thấy được những
đóng góp của nó vào thành tựu chung của văn xuôi lãng mạn mà còn hiểu rõ hơn về
truyền thống của văn học Việt Nam.
1.3. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã
góp phần tạo nên những giá trị khó phủ nhận về mặt nội dung và nghệ thuật. Nó là
phương thức thể hiện quan niệm mới về thế giới, cuộc sống của các nhà văn lãng
mạn, là một trong những hình thức đắc dụng để nhà văn đi sâu vào khám phá thế
giới nội tâm với những cung bậc cảm giác của con người. Đồng thời, nó mang lại
giá trị thẩm mĩ đặc sắc cho những tác phẩm lãng mạn, phản ánh, lưu giữ được nhiều
dấu ấn phong cách tác giả và sự đa dạng về văn phong nghệ thuật. Nghiên cứu yếu
tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn là một việc làm có ý nghĩa góp phần giúp người
đọc hiểu rõ hơn về diện mạo của dòng văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945.
Chính vì thế, trong luận văn này, chúng tôi chọn đề tài: “Yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới, yếu tố kỳ ảo trong văn học đã nhận được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu từ những thập niên đầu của thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, vấn đề
này chỉ được bàn luận vào sau những năm 1975 và thực sự sôi nổi vào những năm
đầu của thế kỉ XXI. Nội dung các bài nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo tập trung ở hai
phương diện sau:
2.1. Nghiên cứu lý luận
Bài nghiên cứu Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo của Lê Huy Bắc đã xác định
đặc điểm phát triển của “văn học kỳ ảo và cái kỳ ảo” bằng việc xác định bản thể và
định danh trong tiến trình lịch sử. Ông đề xuất dùng khái niệm “văn học huyễn ảo”
“với mục đích nhằm bao quát cả một lịch sử sáng tạo văn chương nơi xuất hiện sự
đan cài của hai yếu tố thực và ảo mà hàm lượng bao giờ cũng nghiêng qua phần
ảo”. Từ đó, ông nhấn mạnh “thế giới của văn học huyễn ảo là thế giới của trí tưởng
tượng, nơi sự khác lạ hoang đường, thần diệu… luôn ngự trị. Có lúc nó giúp người
đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến họ hoang mang, khiếp đảm và có lúc khiến họ
hoài nghi, bối rối…”[3]. Lê Huy Bắc đã dùng khái niệm “văn học huyễn ảo “ để
thay cho khái niệm “văn học kỳ ảo” và ông dùng khái niệm văn học kỳ ảo để chỉ
một bộ phận, một giai đoạn trong tiến trình của văn học huyễn ảo. Bài viết này đã
có những đóng góp nhất định trong việc xác định quan niệm về văn học kỳ ảo.
Bài viết Về cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học của Lê
Nguyên Long bước đầu cũng đã thể hiện sự quan tâm đến văn học kỳ ảo và khái
niệm cái kỳ ảo. Trong bài viết này, Lê Nguyên Long đã tổng hợp nhiều quan niệm
về thuật ngữ kỳ ảo và văn học kỳ ảo của các học giả nước ngoài. Từ đó ông đưa ra ý
kiến của mình về cái kỳ ảo: “cái kỳ ảo là cái không thể cắt nghĩa được bằng lý tính
từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận thức hiện tại. Chính sự không cắt nghĩa
được bằng lý tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ” (Roger
Caillois), gây ra tâm trạng hoang mang cho người nào đối diện với nó” [30]. Khái
niệm mà Lê Nguyên Long đề xuất phần lớn xuất phát từ thực tiễn sáng tác của văn
học phương Tây. Chỉ có một lần duy nhất tác giả liên hệ với văn học Việt Nam khi
khẳng định: “truyền thống truyện truyền kỳ, chí quái phương Đông với những kiệt
tác như Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, hay tuyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
chính xác cần được gọi tên là fantasy, vừa xét về thời điểm ra đời, vừa xét từ đặc
trưng nghệ thuật của nó…” [3].
2.2. Nghiên cứu thực tiễn sáng tác
Trong tiểu luận Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học cổ trung đại
và cận đại Đông Tây nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Huệ Chi đã luận
giải khá rõ nét về lý thuyết và thực tiễn truyện kỳ ảo trong đời sống văn học Phương
Tây và Trung Hoa từ cổ đại cho đến cận đại. Bài viết cũng đã xác lập được diện
mạo “truyện truyền kì” trong văn học cổ cận đại Việt Nam trong quan hệ đối sánh
với văn học kỳ ảo nước ngoài. Ông nhận định: “Văn học Việt Nam trong hàng nghìn
năm chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học và văn hóa Trung Quốc, lẽ dĩ nhiên, “cái
kỳ ảo” Trung Quốc vang bóng rất rõ vào “cái kỳ ảo” Việt Nam. Mặc dù thế, trước
khi tìm hiểu “cái kỳ ảo” Trung Quốc tưởng cũng nên nhìn sang chân trời xa hơn,
thử xem “cái kỳ ảo” phương Tây có những đặc sắc gì, có những biểu hiện gì chung
với “cái kỳ ảo” phương Đông, hoặc giả có thể soi tỏ được chút gì cho việc tìm tòi
các dạng thức, các đặc điểm của “cái kỳ ảo” trong văn học dân tộc” [7]. Với tiểu
luận này, Nguyễn Huệ Chi đã góp một phần không nhỏ giúp người đọc nhìn thấy
được bản sắc của truyện kỳ ảo Việt Nam.
Luận án tiến sĩ: Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam của Bùi Thanh Truyền – Trường Đại học Huế cũng là một công trình nghiên
cứu đáng chú ý. Trong luận án này tác giả đã đi tìm nguyên nhân về sự hồi sinh của
yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại. Theo tác giả, sự có mặt trở lại của yếu tố kỳ
ảo trong văn học giai đoạn này xuất phát từ những nguyên nhân: từ những thay đổi
trong đời sống xã hội – văn học, từ sự mở rộng quan niệm về hiện thực và đối tượng
phản ánh của văn học, từ sự mở rộng quan niệm về hiện thực và đối tượng phản ánh
của văn học, từ sự mở rộng quan niệm về phương pháp sáng tác tiếp cận hiện thực
và xuất phát từ truyền thống văn hóa văn học dân tộc. Phải thấy rằng, đây là công
trình nghiên cứu có giá trị khoa học lớn góp phần giúp người đọc hình dung được
sắc diện của dòng văn xuôi kỳ ảo trong thời đại mới.
Bài viết gần với đề tài nhất: Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong văn
học Việt Nam hiện đại của Vũ Thanh. Trong bài viết này, tác giả không chỉ giới
thiệu khá đầy đủ những nhà văn mà các tác phẩm của họ mang đậm phong cách
truyền kì, kinh dị như: Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Lan Khai, Thanh Tịnh, Đái Đức
Tuấn… mà còn làm sáng rõ bút pháp nghệ thuật độc đáo, đa dạng của họ. Hơn thế,
ông đã phân tích đánh giá khá sâu về những đóng góp của dòng truyện truyền kỳ
đời mới cho văn học hiện đại Việt Nam.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến: Truyện kỳ ảo Việt Nam trong đời sống văn
học đương đại của Bùi Thanh Truyền. Trong bài viết này, có một phần nhỏ nhà
nghiên cứu đã đề cập đến: “những cây bút kỳ ảo với phong cách tài hoa, độc đáo:
Thế Lữ, Tchya Đái Đức Tuấn, Đỗ Huy Nhiệm, Nguyễn Tuân. Sự xuất hiện của đội
ngũ này đã làm sinh động đời sống văn học lúc bấy giờ…”. Tuy nhiên, đó chỉ là sự
phác thảo, điểm qua một giai đoạn văn học chứ chưa có sự đào sâu nghiên cứu các
khía cạnh của vấn đề. Hay bài báo: Yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Nguyễn Tuân
đăng trên báo Văn nghệ, số 51, năm 2008. Tuy là bài viết khảo sát cụ thể về yếu tố
kỳ ảo trong sáng tác của riêng một tác giả (Nguyễn Tuân), song nó cũng có những
gợi mở cần thiết cho đề tài.
Mặc dù dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chưa
được quan tâm nhiều, nhưng yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi nghệ thuật sau 1975, đặc
biệt là văn xuôi đương đại lại được quan tâm hơn trong những năm gần đây. Có thể
kể đến luận văn thạc sĩ: Nghệ thuật kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam và
luận án tiến sĩ: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam của Bùi Thanh
Truyền. Hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi
nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (đề tài nghiên cứu cấp Bộ) của Hoàng Thị Văn.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành văn học cũng có rất nhiều những bài viết ở
khía cạnh này: Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 của Phùng
Hữu Hải; Vai trò của yếu tố kỳ ảo trong truyện Việt Nam sau 1975 của Nguyễn
Văn Kha; Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam của Đặng
Anh Đào… Các bài viết trên đã đưa ra những nhận định, phân tích, lý giải hiệu quả
nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1975 ở những góc
nhìn khác nhau.
Như vậy, cho đến nay nghiên cứu về yếu tố kỷ ảo trong văn học đã được các
nhà nghiên cứu bàn luận ở nhiều phạm vi, mức độ khác nhau. Nhìn chung, các bài
viết nghiêng nhiều về nghiên cứu lý luận. Còn nghiên cứu về thực tiễn sáng tác thì
chủ yếu gắn với văn học kỳ ảo sau 1975 hoặc là văn học kỳ ảo đương đại. Thực tế,
cho thấy chưa có nhiều bài viết về yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn
1930 – 1945 hoặc có thì chỉ ở dạng phác họa, điểm qua nên còn nhiều khía cạnh
quan trọng, thú vị chưa được nghiên cứu.
Trên đây là một vài nhận xét của chúng tôi về các công trình nghiên cứu yếu
tố kỳ ảo trong văn học Việt Nam. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực
chủ quan, chúng tôi rất lấy làm tiếc chưa thể tiếp cận và thống kê thật đầy đủ các
bài viết, công trình nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo trong văn học đã được công bố.
Trong phạm vi của một luận văn chúng tôi rất trân trọng những ý kiến, quan điểm,
cách đánh giá, nhận xét của các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quí báu đó
sẽ giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn, vững chắc về mặt phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn
thành mục tiêu đề ra của luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nhằm qua thế giới nghệ thuật tìm ra những quan
niệm mới của nhà văn về cuộc sống, con người và giá trị thẩm mĩ đặc sắc mà yếu
tố kỳ ảo mang lại. Đồng thời, qua nghiên cứu luận văn sẽ phác thảo bức tranh chung
về dòng văn học kỳ ảo giai đoạn này.
4. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp của luận văn
Luận văn khảo sát và tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong một số tác phẩm văn xuôi
(đối tượng khảo sát là truyện ngắn và tiểu thuyết) giai đoạn 1930 – 1945 của những
tác giả thuộc khuynh hướng lãng mạn như: Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối
cùng, Xác ngọc lam, Đới roi, Loạn âm, Rượu bệnh của Nguyễn Tuân; Làng, Am
culy xe… của Thanh Tịnh; Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh… của Thế Lữ; Thần
ho, Ai hát giữa rừng khuya của Tchya – Đái Đức Tuấn, Rừng khuya của Lan
Khai… Từ đó, luận văn miêu tả, lý giải sức hấp dẫn, ám ảnh của yếu tố kỳ ảo, tìm
ra những nét độc đáo của yếu tố kỳ ảo trong quan niệm thẩm mĩ cũng như phương
thức thể hiện nội dung của những tác phẩm văn học này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, luận văn chúng tôi không loại trừ
phương pháp luận nghiên cứu văn học nào, song với đối tượng nghiên cứu của
mình, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp lịch sử – xã hội
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội cụ thể trong tiến
trình phát triển của lịch sử dân tộc. Mối quan hệ giữa văn học và thế giới thực tại
khách quan là điều đã được chứng minh và thừa nhận. Sự hình thành, tồn tại và phát
triển của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ít
nhiều chịu sự chi phối văn học truyền thống và hoàn cảnh thời đại mà người cầm
bút đang sống. Vì vậy, nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 chúng tôi không thể không nghiên cứu lịch sử hình thành của
nó trong quá khứ, sự tác động của hoàn cảnh lịch sử trong thời đại nó ra đời.
Phương pháp lịch sử – xã hội với cái nhìn lịch đại sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn sự
chi phối đó.
5.2. Phương pháp sưu tầm thống kê và phân loại.
Chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm, thống kê để thu thập thống kê các
tác phẩm kỳ ảo của dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 từ các
tuyển tập Văn học. Sau khi sưu tầm, chúng tôi làm công tác thống kê các tác phẩm
kỳ ảo và sắp xếp, phân loại chúng theo từng nhóm đề tài (tùy thuộc vào sự xuất hiện
của yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm) để tiến hành nghiên cứu theo mục tiêu và nhiệm
vụ mà luận văn đã đề ra.
5.3. Phương pháp hệ thống loại hình.
Vận dụng phương pháp này, mục đích của chúng tôi là đặt các tác phẩm có
sử dụng yếu tố kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 vào trong hệ thống văn học kỳ ảo Việt Nam từ trước đến nay. Đồng thời, có
thể mở rộng hệ thống để liên hệ với những nền văn học trên thế giới ít nhiều có ảnh
hưởng đến văn học Việt Nam: Trung Quốc, Pháp, Mỹ…
Phương pháp hệ thống loại hình sẽ giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về đặc trưng
của thể loại truyện ngắn kỳ ảo và những nét chính về phong cách trần thuật. Đồng
thời, còn giúp thấy rõ những nét độc đáo của đời sống tâm linh người Việt có trong
những tác phẩm mà chúng tôi nghiên cứu.
5.4. Phương pháp miêu tả so sánh
Vận dụng phương pháp này để chỉ ra những đóng góp của yếu tố kỳ ảo trong
văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945trên các phương diện nội dung
và nghệ thuật. Thấy được những khác biệt của văn học giai đoạn này so với văn học
kỳ ảo truyền thống cũng như văn học hậu hiện đại. Phương pháp này còn giúp
chúng tôi liên hệ với những hiện tượng tiêu biểu của dòng văn học kỳ ảo thế giới
như: Allan Poe, Hoffmann, Maupassant, Bồ Tùng Linh… thấy được những điểm
tương đồng cũng như dị biệt giữa các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt
Nam với các truyện ngắn kỳ ảo của các tác giả kể trên.
5.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng thường xuyên
trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu các văn bản kỳ ảo của dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Trong các phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi ý thức được rằng, không
nên tuyệt đối hóa phương pháp nào. Mỗi phương pháp có những mặt mạnh riêng.
Trong quá trình nghiên cứu đòi hỏi người viết phải có sự phối kết hợp nhuần
nhuyễn giữa các phương pháp và các thủ pháp khác để đạt hiệu quả cao nhất.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được tổ chức
Chương 1: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn lịch sử.
Chương 2: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn thể tài.
Chương 3:
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn thẩm mĩ.
thành ba chương:
Chương 2
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ TÀI
2.1. Điểm qua một số tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo và một vài
nhận xét về đặc trưng thể loại truyện kỳ ảo
2.1.1. Một số tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo
Dòng văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 có bao nhiêu tác giả, tác
phẩm sử dụng yếu tố kỳ ảo? Câu trả lời hầu như vẫn còn bỏ ngõ. Bởi, cho đến nay
vẫn chưa có nhà nghiên cứu nào cất công biên soạn tuyển tập về văn xuôi lãng mạn
kỳ ảo giai đoạn 1930 -1945. Vì thế, để có cái nhìn tổng quan về văn học kỳ ảo giai
đoạn này, thiết nghĩ việc điểm qua một số tác giả, tác phẩm có sử yếu tố kỳ ảo là
cần thiết. Qua khảo sát các tuyển tập: Truyện truyền kỳ Việt Nam (3 tập) của
Nguyễn Huệ Chi, Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa của Lưu Minh Sơn
tuyển chọn, Đêm bướm ma của Ngô Tự Lập và Lưu Minh Sơn tuyển chọn và giới
thiệu, Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (8 tập), Tổng
tập văn học Việt Nam (cuốn 29B, 30A, 30B, 30C, 31)… chúng tôi nhận thấy có
khoảng 12 tác giả và gần 50 tác phẩm văn xuôi viết theo dạng kỳ ảo (Trong bài viết
này, rất tiếc chúng tôi không thể tìm được văn bản các truyện đường rừng của Lan
Khai gồm: Đôi vịt con, Ma thuồng luồng, Con bò dưới thủy tề, Người lạ, Người
hóa hổ, Con thuồng luồng nhà họ Ma… để khảo sát. Đây là những truyện ngắn có
giá trị của Lan Khai và cũng rất tiêu biểu cho dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945). Tuy chưa phải là con số thống kê hoàn toàn chính xác,
nhưng chừng ấy cũng đủ nói lên rằng: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 -1945 đã tạo nên một dòng riêng, một xu thế văn xuôi mới
trong lịch sử văn học dân tộc. Sự xuất hiện của dòng văn học này đã góp phần tạo
nên sự đa hương sắc cho bộ mặt của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945. Sau đây chúng tôi giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và đây cũng
chính là đối tượng để luận văn phân loại và mô tả.
(Bảng thống kê tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo)
STT Tác giả Tác phẩm Thể loại
1 Nguyễn Tuân Truyện ngắn Đới roi, Loạn âm, Trên
đỉnh non Tản, Xác ngọc
lam, Rượu bệnh, Lửa nến
trong tranh, Khoa thi cuối
cùng, Bữa rượu máu, Một
truyện không nên đọc lúc
giao thừa, Tâm sự nước
độc.
2 Thanh Tịnh Truyện ngắn Am culy xe, Làng, Tình
trong câu hát, Ngậm ngải
tìm trầm
3 Thế Lữ Tiểu thuyết Vàng và máu, Trại Bồ
Tùng Linh.
Truyện ngắn Một chuyện ghê gớm, Một
đêm trăng, Tiếng hú ban
đêm, Ma xuống thang gác.
Hai lần chết.
4 Tiểu thuyết Tchya – Đái Đức Tuấn Thần hổ, Ai hát giữa rừng
khuya.
Truyện ngắn Oan nghiệt.
Lan Khai 5 Tiểu thuyết Rừng khuya.
6 Hoàng Trọng Miên Truyện ngắn Người đàn bà trong trắng,
Người bạn kì dị, Đàn bồ
câu trắng, Người đẹp
phương Đông, Trăng xanh
huyền hoặc.
7 Nhất Linh Truyện ngắn Bóng người trong sương
mù, Lan rừng, Câu chuyện
mơ trong giấc mộng.
Truyện ngắn 8 Bùi Hiển Chiều sương, Một trận bão
cuối năm, Ma đậu.
9 Đỗ Huy Nhiệm Truyện ngắn Ông rắn, Một chuyện lạ,
Ngủ với ma, Cây đa ba
chạc, Tết trên Mường.
10 Phạm Cao Củng Truyện ngắn Người con gái tỉnh Bắc.
11 Cung Khanh Truyện ngắn Hoàng Kim ốc, Quyến rũ,
Trên bồng lai, Mặt trời, Đi
tiêu dao, Người con gái
thần rắn.
12 Trần Tiêu Truyện ngắn Ma.
Để định hướng cho việc tiếp nhận cũng như tạo sự thuận tiện cho công việc
nghiên cứu, chúng tôi xin được nhắc rõ: đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo. Nghĩa là tác phẩm đó phải có sự tham gia
của các yếu tố kỳ ảo: hồn ma, quỷ dữ, cảnh tượng kỳ dị, sự hóa thân… vào cốt
truyện. Yếu tố này có thể xuất hiện thường xuyên hoặc không thường xuyên nhưng
nó có khả năng chi phối đến cốt truyện, kết cấu và chủ đề của tác phẩm. Tùy vào
khả năng sáng tạo của tác giả và tầm đón nhận của bạn đọc, yếu tố kỳ ảo có thể gây
ra những hiệu ứng tâm lý như sự tò mò, nỗi sợ hãi, sự hoang mang, sự hoài nghi,
niềm xác tín hay một cảm xúc thẩm mĩ nào đó nơi người đọc… Đó chính là tiêu chí
làm cơ sở để chúng tôi xác định những tác phẩm đã nêu (trong bảng thống kê ở
trên) là những tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo. Theo đó mục 2.2 sẽ giải thích rõ
hơn việc xác định đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.
2.1.2. Một vài nhận xét về đặc trưng thể loại truyện kỳ ảo
Qua bảng thống kê ở mục 2.1.1, chúng tôi nhận thấy: Yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 hầu hết chỉ xuất hiện trong thể loại
truyện ngắn. Truyện dài, tiểu thuyết chứa đựng yếu tố kỳ ảo chỉ đến trên đầu ngón
tay. Vậy tại sao yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945 thường chọn hình thức thể loại truyện ngắn để tồn tại? Giải đáp vấn đề này
phải dựa vào các góc nhìn sau:
Từ góc nhìn lịch sử văn học: Lịch sử thể loại truyện ngắn thế giới có điểm
tựa từ rất xa xưa dưới các hình thức truyện cổ dân gian. Truyện ngắn Việt Nam
cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Hơn nữa, nó lại có sự chuẩn bị kĩ lưỡng
trong văn học trung đại qua: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục… để hình thành nên truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Những đặc điểm trên cho thấy, ngoài sử thi (chiếm tỉ lệ không lớn trong văn
học nhân loại), thì truyện ngắn đóng vai trò chủ đạo trong việc dung chứa những
yếu tố huyền ảo, kỳ dị và tâm linh. Từ góc nhìn lịch sử văn học, chúng ta có thể kết
luận, ngay từ buổi khởi nguyên của văn học nhân loại, hình thức ngắn ngọn đã
chiếm ưu thế trong việc chuyển tải những vấn đề thuộc về thế giới kỳ ảo, linh dị, ma
quái cũng như quan niệm tâm linh của con người.
Từ góc nhìn nhu cầu sáng tạo: Nguồn gốc truyện ngắn là một vấn đề thú vị
gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học nhưng không phải là không
chứng minh được. Như trên đã trình bày, truyện ngắn đã tồn tại dưới hình thức
truyền miệng truyền thống và thực sự trở thành một thể loại văn học hiện đại vào
thế kỉ XIX. Kể từ đó, trong đời sống văn học loại hình truyện ngắn đóng một vai trò
chủ chốt và nó tỏ ra gần gũi và tự nhiên với chúng ta hơn những hình thức kể
chuyện dài hơi khác. Truyện ngắn diễn ra trong một thời gian ngắn, cực ngắn và
thường được kể một cách “chọn lọc”. Hình thức ngắn gọn khiến nó thiên về biểu
hiện những ấn tượng, những lát cắt sâu đậm trong cuộc sống. Cách miêu tả về nhân
vật, sự kiện, thời gian và không gian trong tác phẩm luôn có sự cô động và tiêu
biểu. Đó là cả một quá trình biên tập bao hàm trong đó sự chọn lọc, nhấn nhá và hư
cấu của người kể chuyện. Truyện ngắn thường mang lại cho người đọc những âm
vang dài và rộng hơn khuôn khổ chật hẹp về mặt hình thức của nó. Loại hình truyện
ngắn tỏ ra là mảnh đất màu mỡ để yếu tố kỳ ảo tồn tại và phát triển. Những hiện
tượng siêu nhiên, huyền bí, tâm linh luôn là một phạm trù bí ẩn đối với tầm hiểu
biết của con người. Trong văn học dù nhà văn có dùng nó để chuyển tải niềm tin
thẩm mĩ hay coi đó là phương tiện nghệ thuật thì những hiện tượng ấy luôn tạo sự
“lưỡng lự” trong tầm đón đợi của người tiếp nhận. Yếu tố kỳ ảo ở trong cuộc sống
và trong văn học đều tạo ra ấn tượng cho con người. Nhà văn khi viết về những ấn
tượng ấy, ít tìm đến thể loại tiểu thuyết hay truyện dài. Bởi hình thức dài lê thê của
chúng buộc nhà văn phải bổ sung thêm sự kiện, nhân vật, tình tiết… Thời gian và
không gian giãn nở ra, sự cô động, tính chặt chẽ trong truyện sẽ giảm đi. Vì thế,
hiệu quả ấn tượng sẽ bị mờ dần.
Từ góc nhìn nhu cầu tiếp nhận: Đọc giả luôn là một yếu tố quan trọng
quyết định đến hình thức tồn tại của một thể loại văn học. Vào đầu thế kỉ XX, nhu
cầu thưởng thức văn học trong bộ phận người dân thành thị là rất lớn. Thể loại
truyện ngắn tỏ ra rất gần gũi với bạn đọc. Bởi hình thức ngắn gọn của nó giúp độc
giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm một cách liền mạch từ đầu đến cuối. Người đọc có
điều kiện chú ý từng từ, từng đoạn và từng hành động trong truyện. Dung lượng của
truyện ngắn cũng làm cho cốt truyện lộ ra rất nhanh, người đọc không mất nhiều
thời gian để lập luận giải thích. Vì thế, hiệu ứng tâm lý do bản thân yếu tố kỳ ảo gây
ra sẽ trực tiếp hơn. Khả năng gây xung đột về “cái bất khả giải” trong lòng độc giả
mạnh mẽ hơn. Trong quá trình sáng tác Poe là người rất chú trọng đến tầm đón đợi
của người tiếp nhận. Poe cho rằng: “Một tác phẩm quá dài sẽ hạn chế tính duy nhất
của ấn tượng mà tác phẩm sản sinh ra. Hiệu quả duy nhất hay “hiệu quả của tính
duy nhất” là nguyên tắc mà Poe đặt ra trong truyện ngắn. Bởi, nếu một tác phẩm bị
đọc gián đoạn do quá dài, bị các công việc khác xen vào, “thì tất cả những cái mà
chúng ta gọi là toàn bộ, cái tổng thể sẽ bị phá hủy lập tức” [24, tr.168]. Lý thuyết
về truyện ngắn được Poe thể hiện khá rõ trong truyện ngắn kỳ ảo của ông. Truyện
của Poe vắng bóng những lời giới thiệu hay sự giải thích dài dòng về tiểu sử và
những sự kiện mà hầu như chỉ tập trung thể hiện về nỗi ám ảnh trong truyện. Đó là
nỗi ám ảnh về những người phụ nữ đầy huyền bí. Hoặc là nổi ám ảnh về cái chết
đang cận kề.
Bên cạnh những khía cạnh đề cập trên, chúng tôi còn nhận thấy, sở dĩ yếu tố
kỳ ảo xuất hiện nhiều trong truyện ngắn là do đặc trưng của đời sống hiện đại. Đời
sống báo chí và truyền thông luôn hướng về sự ngắn gọn. Nhà biên tập ngại đăng tải
những truyện dài trên các mặt báo. Đây cũng là nguyên nhân gián tiếp tác động đến
sự hình thành và phát triển của thể loại truyện ngắn kỳ ảo.
Nhìn vào thực tế sáng tác của văn xuôi lãng mạn Việt Nam, số lượng tác
phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo đều tập trung nhiều ở thể loại truyện ngắn. Các tác
giả Thế Lữ, Nhất Linh, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Bùi Hiển… dù ý thức
hay không ý thức về vấn đề thể loại đều nhất loạt chọn hình thức truyện ngắn để
khai thác tối đa hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo. Trong các tác phẩm: Bóng
người trong sương mù, Lan rừng (Nhất Linh); Chiều sương, Một trận bão cuối
năm (Bùi Hiển); Làng, Ma đậu (Thanh Tịnh); Cây đa ba chạc, Một chuyện lạ,
Ngủ với ma, Ông rắn, Tết trên Mường (Đỗ Huy Nhiệm)… ấn tượng về yếu tố kỳ
ảo đạt hiệu quả khá cao. Khả năng khắc sâu và gây sự bất ngờ trong tâm trí của độc
giả là rất mạnh. Nói như thế không có nghĩa là những truyện dài và tiểu thuyết có
chứa yếu tố kỳ ảo kém hiệu quả biểu hiện nghệ thuật. Nhìn vào thực tiễn sáng tác
văn học thế giới, những cuốn tiểu thuyết: Bá tước Dracula (Bram Stoker ) Trăm
năm cô đơn (Maquez), Miếng da lừa (Balzac)… đã để lại những ấn tượng sâu đậm
trong lòng độc giả về chủ nghĩa huyền ảo. Trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 sự xuất hiện của các tác phẩm: Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ
(Đái Đức Tuấn), Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) cũng đã đóng góp
những thành công đáng kể cho dòng truyện kỳ ảo. Có được điều này là nhờ vào khả
năng kể chuyện biến hóa tài tình của nhà văn. Lời kể có sự sáng tạo và luôn hấp dẫn
người đọc. Nội tâm nhân vật được khắc sâu. Sự kiện trong truyện và các lập luận
của nhân vật luôn được sắp xếp một cách logic và hợp lý… Tất cả đã tạo nên sức
hấp dẫn mãnh liệt khi người đọc tiếp xúc với tác phẩm.
Tóm lại, việc chúng tôi nêu ra một vài nhận xét về vấn đề thể loại là nhằm
giải thích cho hiện tượng mang tính phổ biến trong đời sống văn học giai đoạn 1930
– 1945 chứ không phải khoanh vùng thể loại để khảo sát. Nếu làm như thế, vô hình
trung chúng ta chối bỏ những đóng góp quan trọng của các tác phẩm kỳ ảo được
viết theo hình thức truyện dài và tiểu thuyết. Trong hành trình mười lăm năm phát
triển, bên cạnh những truyện ngắn kỳ ảo đã đạt đến những thành tựu nghệ thuật
đỉnh cao: Tâm sự nước độc (Nguyễn Tuân), Tình trong câu hát (Thanh Tịnh)…
Truyện dài và tiểu thuyết kỳ ảo: Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái Đức Tuấn),
Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) cùng hòa vào thành tựu của truyện
ngắn kỳ ảo tạo nên một diện mạo khá phong phú về thể loại cho dòng văn xuôi lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Tuy nhiên, nếu đặt dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 vào hệ thống văn xuôi kỳ ảo thế giới, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt lớn.
Chỉ xét riêng về kỹ thuật viết truyện, dù xuất hiện trước gần một thế kỉ nhưng các
sáng tác kỳ ảo của Edgar Allan Poe đã đạt đến kỹ thuật của truyện ngắn hiện đại.
Truyện của ông đã đi sâu vào khắc họa thế giới nội tâm của nhân vật với những nỗi
ám ảnh triền miên. Cái kỳ ảo cũng được ông đưa vào cuối truyện để tạo ra sự bất
ngờ về mặt thẩm mĩ. Truyện ngắn kỳ ảo thuộc đòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 ra đời sau, nhưng những tác phẩm đạt đến thành tựu cao là
rất ít. Kỹ thuật viết truyện ngắn còn ảnh hưởng lớn từ văn học quá khứ. Cách xây
dựng nhân vật cũng chưa thực sự khắc họa nội tâm của nhân vật. Các tác phẩm vì
thế phần lớn nghiêng về tái hiện hơn là thể hiện. Do vật, sức hấp dẫn của nó cũng
không thể so sánh được với các sáng tác của Edgar Allan Poe hay Hoffman.
2.2. Phân loại yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 được
biểu hiện ở những dạng thức nào? Nó gồm bao nhiêu chủng loại truyện kỳ ảo? Đó
là câu hỏi rất cần được trả lời. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc với các công trình
nghiên cứu có liên quan mật thiết với đề tài của luận văn, chúng tôi nhận thấy chưa
có bài viết nào đề cập đến vấn đề này. Đó chính là khó khăn lớn cho chúng tôi trong
việc tiếp cận các tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945. Trong luận văn này, để thuận tiện cho công việc
nghiên cứu, qua khảo sát các tác phẩm, chúng tôi tạm phân thành ba loại truyện kỳ
ảo như sau: Kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh, kỳ ảo kỳ bí. Sự phân loại này chủ yếu
dựa vào những yếu tố siêu nhiên, siêu thực mà các tác giả lựa chọn để tạo nên chất
kỳ ảo, huyền hoặc. Cách phân loại này có thể chưa nhận được sự đồng thuận của
nhiều người nhưng hy vọng nó sẽ đem đến cho chúng ta một cái nhìn cụ thể hơn về
yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
2.2.1. Kỳ ảo ma quỷ
Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945,
chúng tôi nhận thấy có rất nhiều tác phẩm đề cập đến sự xuất hiện của ma quái, quỷ
dữ. Các sáng tác của Nguyễn Tuân, Lan Khai, Đái Đức Tuấn, Thanh Tịnh, Bùi
Hiển, Đỗ Huy Nhiệm… luôn đưa người đọc vào thế giới của những loài ma. Nhân
vật ma, chi tiết liên quan đến ma có ý nghĩa rất lớn trong việc chuyển tải quan niệm
nghệ thuật của các nhà văn. Một mặt, nó biểu hiện văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của
người Việt là luôn tin vào sự hien hữu của thế giới cõi âm. Mặt khác, nó còn gởi
đến người đọc những cảm xúc thẩm mĩ, những trăn trở về cuộc sống của con người
trong thời đại mới.
Thế giới ma quỷ xâm nhập vào trong các tác phẩm kỳ ảo giai đoạn 1930 –
1945 không phải là những hiện tượng đơn lẻ mà nó tạo thành một chủng loại “Kỳ
ảo ma quỷ”. Sỡ dĩ chúng tôi mạnh dạn khẳng định như vậy, bởi thực tiễn nghiên
cứu đã chứng minh điều đó. Hàng loạt các câu chuyện ma quái xuất hiện trong các
trang viết của những cây bút “chuyên trị”. Đỗ Huy Nhiệm với các truyện ma trong
Truyền kiếp: ma cây đa, ma rắn, ma Mường, ma nhà xác… Tchya Đái Đức Tuấn
đưa người đọc đến với thế giới ma rùng rợn: ma hổ, ma rắn, ma xó, ma trành, ma
cụt đầu (Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ…), Bùi Hiển với ma thuyền chài (Chiều
sương, Một trận bão cuối năm), Thanh Tịnh với ma culy (Am culy xe), Thế Lữ với
ma khách, ma giữ của (Vàng và máu, Một đêm trăng, Một chuyện ghê gớm, Tiếng
hú ban đêm)…
Tính chất ly kỳ, rùng rợn của yếu tố kỳ ảo ma quỷ đã được các nhà văn khai
thác một cách tối đa. Đọc các tác phẩm kể trên, người đọc dù thần kinh có vững
chãi đến mấy cũng không khỏi có cảm giác lạnh buốt ở sống lưng. Dòng truyện ma
quái, quỷ dữ luôn gây ấn tượng mạnh trong lòng đọc giả. Đa số những tác phẩm viết
về ma quỷ đều có cốt truyện được lưu truyền trong dân gian. Những câu chuyện ma
ly kỳ, quái đản từ miền ngược đến miền xuôi và ở trong người dân tộc thiểu số đã
được các tác giả khai thác một cách triệt để. Mặc dù loại truyện kỳ ảo ma quỷ được
xây dựng trên cơ sở những câu chuyện nhân gian nhưng nội dung nghệ thuật của nó
thì khác hẳn. Các câu chuyện ma thuần túy thường nói về sự tồn tại của ma và nỗi
sợ hãi của con người về ma. Ngược lại, mục đích tối cao của loại truyện kỳ ảo ma
quỷ là đem đến cho bạn đọc một cảm xúc nghệ thuật nào đó và nỗi sợ chỉ còn là
phương tiện, được sử dụng như một không gian thậm chí là một cái cớ để đạt đến
mục đích đó.
Quan niệm về ma ở mỗi thời đại, mỗi dân tộc cũng có sự khác nhau. Ma
trong quan niệm của văn học phương Tây bao giờ cũng gắn liền với cái xấu và cái
ác. Trong quan niệm của người phương Đông cổ xưa, ma là một thực thể tinh thần.
Người ta gọi linh hồn của người chết là hồn ma. Ma cũng có sức mạnh siêu nhiên
như thần thánh có thể tác oai tác quái, ban phúc hay tiên tri số mệnh, vận hạn cho
người sống. Đặc biệt, chúng có khả năng biến lẫn vào thân thể người khác hay cứ
trú vào bất cứ thực thể nào (hoa lá, cỏ cây, vạn vật…), gây ra bệnh tật, chết chóc,
gọi là ma nhập, ma ám hay ma cư trú. Đối với họ ma quỷ là nỗi khiếp sợ. Ngược lại,
ma trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 rất gần gũi thân thiện đối với con người.
Ngoài một số oan hồn ma gắn với nghiệp độ nhật của mình lúc sống trên thế gian:
Ma culy xe (Am culy xe), ma thuyền chài (Một trận bão cuối năm, Chiều sương),
ma tài tử (Đới roi, Tâm sự nước độc)… Phần lớn trong quan niệm của các nhà văn
hiện đại ma là hiện thân của người phụ nữ. Vì thế, hồn ma hiện ra trong các tác
phẩm thường là các ma nữ: người con gái Mường (Tết trên mường), Pengslao,
Oanh Cơ (Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya), Sao (Lan rừng), Hoàng Lan Hương
(Trại Bồ Tùng Linh), Ngọc Bách (Người con gái tỉnh Bắc )… và hầu hết đều rất
đẹp. Nhân vật ma còn là biểu tượng cho sự minh triết và tình yêu, cho hạnh phúc và
bất hạnh. Tình yêu đưa con người đến tột đỉnh của hạnh phúc nhưng cũng chính
tình yêu làm cho con người ta ê chề đau khổ. Tình yêu ngàn đời vẫn là điều bí ẩn.
Có lẽ những người đàn bà ma đã ra đời như thế.
Tóm lại, nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 –
1945 chúng ta cần phải thừa nhận những tác phẩm kỳ ảo ảo ma quỷ là một nhánh,
một chủng loại truyện. Có như thế mới thấy hết những đóng góp của loại truyện này
trong nỗ lực tìm tòi và sáng tạo của các nhà văn lãng mạn.
2.2.2. Kỳ ảo thần linh
Bên cạnh việc sử dụng yếu tố kỳ ảo ma quỷ, các nhà văn giai đoạn này còn
đưa vào trong tác phẩm của mình những nhân vật, chi tiết mang tính thần linh. Tuy
nhiên, quan niệm, niềm tin về thế giới thần linh của con người hiện đại không còn
chất phác như xưa. Trong văn học truyền thống, thần linh là nhân vật trung tâm của
tác phẩm. Thần linh thuộc về thế giới khác, thế giới siêu trần với quyền năng tối cao
và quyền uy tối thượng. Thần là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là niềm tin, sự
ngưỡng vọng của con người và cộng đồng. Thượng đế, Diêm Vương, Long Quân,
Tiên, Phật… xuất hiện trong các tác phẩm: Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên), Lĩnh
Nam chích quái (Vũ Quỳnh, Kiều Phú), Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông),
Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ)… với quyền năng, phép thuật vô hạn để đem lại
hạnh phúc và cứu rỗi con người thoát khỏi hoạn nạn. Trong văn học giai đoạn 1930
– 1945, thần linh không còn là nhân vật trung tâm mà thay vào đó là con người.
Thần linh được hình thành theo tư tưởng và đạo diễn của tác giả. Sự xuất hiện của
Sơn thần Tản Viên trên núi Ba Vì (Trên đỉnh non Tản), thần hổ (Thần hổ, Ai hát
giữa rừng khuya), thần rắn (Ông rắn)… chính là thủ pháp độc đáo để chuyển tải
quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Vì thế, trong văn học hiện đại yếu
tố thần linh là phương tiện nghệ thuật giúp nhà văn “thấu” tất cả những bề bộn, trăn
trở của cuộc sống thực tại. Từ đó gởi gắm vào cuộc đời những ước mơ, những hy
vọng dù bé nhỏ, mong manh.
Bóng dáng của thần linh trong các tác phẩm văn học hiện đại phảng phất dư
vị của truyền thuyết dân gian. Câu chuyện về Quan Ôn có trong Loạn âm và sự bất
tử của Thần Tản Viên (Trên đỉnh non Tản) đều tồn tại trong quan niệm nhân gian
và phảng phất dư âm của truyện Dạ xoa bộ soái lục và Tản Viên từ soái sự luc
trong Truyền kì mạn lục. Chuyện thần giữ của trong tác phẩm Một truyện không
nên đọc lúc giao thừa, truyền thuyết chuột tha lá phủ mặt trong tác phẩm Thần hổ,
hay thần hổ trong Ai hát giữa rừng khuya rất gần với những câu chuyện dân gian
vẫn tồn tại ở vùng đồng bằng Bắc bộ, một số dân tộc ít người ở vùng núi Đông –
Bắc và trong quan niệm của người Mường. Chính sự gần gũi đó đã khơi gợi trong
tâm thức người đọc những ý niệm của cha ông ta về đời sống tâm linh. Và cái
dưỡng chất truyền thống ấy được gia vị bằng chút cảm quan nghệ thuật hiện đại. Vì
thế, người đọc luôn có cảm giác vừa quen, vừa lạ. Quen vì nó gần với đời sống tâm
linh bản địa. Lạ, vì nó in đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn hiện đại.
So với kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh chiếm một tỉ lệ khiêm tốn hơn. Nhưng
với thành công của các tác phẩm: Thần hổ, Loạn âm, Trên đỉnh non Tản, Một
truyện không nên đọc lúc giao thừa (Nguyễn Tuân), Ông rắn (Đỗ Huy Nhiệm),
Mặt trời, Người con gái thần rắn (Cung Khanh) … cũng đủ để chúng ta thừa nhận
đây là một dòng truyện kỳ ảo có giá trị nghệ thuật cao. Các tác giả văn học giai
đoạn này sử dụng yếu tố kỳ ảo thần linh như là một thủ pháp sáng tạo trong văn
chương. Cùng với kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh góp phần minh hiển những ước
nguyện của con người trong cuộc sống. Chính vì vậy, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi
lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 vừa thấp thoáng bóng dáng của văn học truyền
thống nhưng lại vừa thoát ra khỏi những truyền thống đó. Nó đã được xã hội hiện
đại khoác lên mình một tấm áo tươi mới hơn, làm cho con người vừa được thỏa
mãn niềm tin, tín ngưỡng tâm linh lại vừa phải suy ngẫm về cuộc sống.
2.2.3. Kỳ ảo kỳ bí
Thế giới chúng ta đang sống quả là vô cùng rộng lớn. Nó càng rộng lớn hơn
bởi đang ẩn chứa quá nhiều điều bí ẩn mà trí tuệ loài người, dù có tiến bộ đến đâu,
vẫn chưa dễ cắt nghĩa. Trong thực tế, vẫn có những vấn đề không thể giải đáp thuần
túy về mặt khoa học hay văn hóa tâm linh, hay về tín ngưỡng, tôn giáo... Thực tế
quá kỳ bí. Và cũng bởi có loại vấn đề mà người đời càng cố công tìm lời giải đáp thì
sự tình lại có vẻ trở nên huyền bí hơn. Ý thức được giá trị nghệ thuật của yếu tố kỳ
ảo kỳ bí, các nhà văn lãng mạn giai đoạn 1930 –1945 đã sử dụng nó như một
phương tiện để gây những “cú sốc”, “cú hích” tâm lý trong lòng độc giả.
Giống như truyện kỳ ảo ma quỷ và kỳ ảo thần linh, truyện kỳ ảo kỳ bí cũng
sử dụng các thế lực siêu nhiên để tạo nên tính ly kì rùng rợn của tác phẩm. Bản chất
của cái siêu nhiên trong truyện kỳ ảo ma quỷ và kỳ ảo thần linh chính là sự hiện hữu
của những ma, quỷ, oan hồn, thần linh… Sự hiện hữu đó được người đọc chấp nhận
như một thế lực quyền năng tối thượng và không phải mất công tìm hiểu lý giải.
Còn cái siêu nhiên trong loại truyện kỳ ảo kỳ bí là cái siêu nhiên không thể nhận
diện được về bản chất. Nó là cái “bất khả tri” và “bất khả giải”. Cái siêu nhiên “bất
khả tri” (không thể nhận biết) ấy trở thành những ảo ảnh mang hình hài ma quái,
quỷ dữ đeo đuổi ám ảnh con người một cách khủng khiếp. Vì thế, nó luôn đặt con
người trong tình trạng phải hoài nghi với chính mình: đó là nỗi sợ hãi trong phút
chốc không làm chủ được lý trí. Hay là nỗi khiếp sợ trong vô thức? Hay cũng có thể
là những ẩn ức dồn nén từ bấy lâu bột phát?... Chính sự lưỡng lự, không chắc chắn
giữa các cách giải thích đã đưa người đọc vào những mê lộ, những bát quái trận đồ
kỳ ảo. Tạo nên những mê lộ, bát quái trận đồ như thế không phải là để bóp nghẹt
trái tim người đọc bằng nỗi khiếp sợ. Ngược lại, các tác giả muốn đem chút ánh
sáng khoa học để giải mê người đọc ra khỏi những nỗi ám ảnh đó. Hơn thế, những
mê lộ kỳ ảo còn là hình thức đắc dụng để nhà văn chuyên chở những ước mơ,
những trăn trở, những lo âu về con người về cuộc đời. Vì thế, nó đã để lại nhiều ấn
tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Đặt các tác phẩm văn học kỳ ảo kỳ bí Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 vào
trong quan hệ đối sánh với văn học kỳ ảo thế giới, chúng tôi nhận thấy loại truyện
này rất gần gũi với truyện kinh dị của văn học phương Tây ở thế kỉ XIX. Hơi hướng
truyện trinh thám của Hoffman, Poe luôn phảng phất trong sáng tác của các nhà văn
Thế Lữ, Đỗ Huy Nhiệm, Nguyễn Tuân… Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong quá
trình tiếp xúc với văn học phương Tây, các nhà văn Việt Nam của thế kỉ XX đã tìm
thấy một thủ pháp nghệ thuật mới rất phù hợp với cảm quan nghệ thuật hiện đại của
mình. Và, họ đã tiếp thu chúng để làm đa dạng thêm và mới mẻ hơn sắc điệu của
dòng văn xuôi kỳ ảo. Vậy nên, chúng ta có thể gọi: các tác phẩm văn xuôi kỳ ảo kỳ
bí của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là sản phẩm của xã hội hiện đại, là
tư duy sáng tạo nghệ thuật của những đầu óc duy vật biện chứng. Và, cũng chính
dòng văn xuôi này đã tạo năng lượng để văn học kỳ ảo Việt Nam bứt ra khỏi văn
học kỳ ảo truyền thống hòa vào guồng chạy của văn học kỳ ảo thế giới.
Tiếp cận văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chúng tôi nhận
thấy có rất nhiều trang viết đậm chất kỳ ảo kỳ bí. Có thể kể đến một số tác phẩm
tiêu biểu: Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh, Ma xuống thang gác, Một đêm trăng
(Thế Lữ), Lửa nến trong tranh (Nguyễn Tuân), Bóng người trong sương mù
(Nhất Linh)… Đó là những tác giả và tác phẩm có đóng góp và thành công nhất
định về nghệ thuật. Xét về công lao của người tiên phong mở đường phải ghi nhận
sự đóng góp của Thế Lữ. Chính cây bút chủ lực của phong trào thơ mới đã có
những trang viết kỳ ảo kỳ bí mang đậm màu sắc của Á Đông và Thái Tây. Đọc tác
phẩm Trại Bồ Tùng Linh, người đọc sẽ thấy được sự kết hợp nhuần nhuyễn bản sắc
văn hóa dân tộc – văn học vùng, với văn học hiện đại thế giới. Các nhân vật, sự
kiện, tình tiết… đời thường trong sáng tác của Thế Lữ luôn được xây dựng trên cái
nền kỳ ảo, liêu trai, ma quái của phương Đông pha chút kinh dị phương Tây. Vì thế,
câu chuyện của ông bao giờ cũng có sự trộn lẫn giữa thực hư, giữa mộng mị và đời
thường. Nhân vật trong tác phẩm theo đó cũng trở nên kỳ bí, khó đoán định. Ví dụ,
nhân vật Hoàng Lan Hương (Trại Bồ Tùng Linh) là người hay ma, là ảo hay thực?
Dấu hỏi mập mờ về thân thế nhân vật cũng là dấu hỏi cho chính số phận rủi may về
tình yêu của đôi bạn trẻ. Đó chính là tài năng đạo diễn độc đáo của nhà văn. Ông
buộc người đọc phải đứng trước hai lựa chọn: hoặc là lý giải rằng đó chẳng qua là
những ảo ảnh, là sự trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc là có những qui luật khác, tồn tại
ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Tất nhiên, mỗi người đọc có một cách giải thích
khác nhau tùy theo trình độ và quan niệm sống của họ. Còn đối với tác giả, câu trả
lời bao giờ cũng là dấu chấm lửng. Chính dấu chấm lửng đó đã đem đến một kết
thúc mở cho tác phẩm. Buộc người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở nhiều hơn về
con người, về tình yêu và cuộc sống chứ không phải là những thắc mắc vụn vặt
mang tính đời thường.
Xét về cách tổ chức cốt truyện, các tác phẩm kỳ ảo kỳ bí của Việt Nam tuy
mang hơi hướng tư duy “trinh thám” của Edgar Allan Poe nhưng nội dung lại rất
gần gũi với truyền thống tâm linh người Á Đông. Lối viết truyện này không chỉ
nhằm vào ý thích của người đọc khi đem lại cảm giác sợ hãi nhờ tưởng tượng mà
còn gây ngạc nhiên, bất ngờ khi kết thúc theo hướng khoa học viễn tưởng. Đó cũng
chính là cách để nhà văn đối lập với cuộc sống duy lý thường ngày cũng như đa
dạng hóa hiện thực.
Tóm lại, chính sự xuất hiện của các tác phẩm kỳ ảo, linh dị đã đem đến cho
văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 một sự tươi mới hơn. Nó là cầu nối, là
những gợi hứng cho dòng văn học kỳ ảo đương đại. Tiếc rằng, trong một hoàn cảnh
xã hội nhất định những trang viết kỳ ảo kiểu Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Cung Khanh,
Đỗ Huy Nhiệm không nhiều. Nhưng dù sao văn học kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 cũng đã kết thúc thành công vai trò mở đường. Bởi thế, bóng
dáng của nó vẫn còn in dấu trong các tác phẩm của một số nhà văn đương đại:
Những ngọn gió Hua tát của Nguyễn Huy Thiệp; Bóng đè của Hoàng Diệu; Cô
gái đầm sen của Nguyễn Văn Hách, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh; Cõi
người rung chuông tận thế, Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái… Nơi
các nhà văn trẻ này, yếu tố kỳ ảo, ly kỳ lại có dịp tái xuất và phát triển mạnh mẽ
hơn. Với lối viết đầy ngẫu hứng sáng tạo, đan xen tài tình giữa hư và thực, sử dụng
các môtíp điềm triệu, báo oán, lời nguyền, hồn ma… để xâm nhập, khám phá những
vấn đề nhạy cảm của văn học. Những nhà văn trẻ này đã tiếp bước lớp nhà văn đi
trước thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học đương đại.
2.3. Chức năng của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945
2.3.1. Yếu tố kỳ ảo – sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị Chân –
Thiện – Mĩ
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 tồn tại và phát triển
trong một xã hội có sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông - Tây. Trong cuộc biến
thiên văn hóa ấy, dòng chảy của cuộc sống hiện đại đã cuốn trôi đi những giá trị đạo
đức truyền thống muôn đời của dân tộc. Con người đôi khi chỉ vì cái lợi trước mắt
mà đã vứt bỏ lương tri để chạy theo cám dỗ của vật chất. Sáng tạo và thưởng thức
cái đẹp chỉ còn là những mĩ từ xa xỉ. Trước những đổi thay của con người và xã hội,
văn học giai đoạn này đã sử dụng yếu tố kỳ ảo như một phép màu để cảnh tỉnh
lương tri và hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn.
Hai lần chết (Thế Lữ), là câu chuyện về hai lần chết của nhân vật Tâm. Ở
lần chết hụt thứ nhất, Tâm đã nhận rõ tâm địa xấu xa của người bạn chí cốt (Mão).
Người bạn mà Tâm đã đặt trọn niềm tin, tình cảm, người mà Tâm đã từng xem như
anh em ruột thịt lại chính là kẻ sát nhân mất tính người. Mão muốn Tâm phải chết
để tờ di chúc kia sớm được trở thành hiện thực. Vì thế, lợi dụng lúc Tâm đang ngất
đi vì căn bệnh thần kinh hành hạ, Mão đã ra tay tống tiễn bạn vào quan tài. Và một
cái đám ma cho Tâm là sự hợp pháp hóa toàn bộ gia sản của Tâm thuộc về Mão. Để
gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người về sự băng hoại, đổ vỡ của đạo đức nhân
bản, Thế Lữ đã để nhân vật Tâm sống lại và trừng phát Mão. Tâm sống lại để đọc
bản cáo trạng về sự bất lương của Mão. Đoạn văn miêu tả sự xuất hiện của Tâm tại
gác trọ hết sức ly kì rùng rợn. Các bạn Tâm cứ ngỡ đó là một hồn ma trở về, trong
không khí nửa hư nửa thực ấy, bản chất cái ác, cái xấu xa trong con người của Mão
bị lột trần qua những lời giãi bày của Tâm: “…Trong có một giây đồng hồ tôi cũng
đã thoáng thấy được cái kế hiểm độc của bạn với cái tình thế nguy hiểm lúc bấy
giờ. Tôi căm giận không biết ngần nào, đấm nát tay lên nắp săng. Nhưng cái nắp
bật hé lên lại bị ấn xuống. Chân tôi không bị buộc trói như thói thường trong khâm
liệm, nhưng không thể cử động được dễ. Bên ngoài tôi nghe thây bước chân vội
vàng chạy xa dần. Tôi đoán chắc hắn đi tìm cái gì để đè lên mặt săng cho nặng
thêm. Nhân cơ hội tôi thét lên một tiếng rất dữ, đạp một cái hết sức mạnh, nắp săng
bật ra một chỗ, tôi ngồi dậy thì hắn đã tiến đến, cái ống tiêm thuốc độc cầm ở một
tay. Tôi vùng đứng lên, vừa sợ vừa giận. Hắn bước tới, tôi liền níu lấy tóc, nghiến
răng ấn đầu hắn xuống rồi nhảy xổ lại đè lên mình hắn: cái ống tiêm rơi xuống, vỡ
tan ra. Hắn bị tôi cưỡi lên ngực, hai cánh tay bị dập dưới đầu gối tôi, và cổ bị hai
bàn tay tôi thắt vào đến hai mươi phút. Tôi càng nhìn cái mặt thú vật của nó, cái bộ
mặt mà mới hôm trước đây, tôi còn yêu quý, thì cơn giận cứ bốc lên mãi, tôi bóp ghì
lấy cổ nó mà vẫn không rõ là mình làm gì. Lúc nó đã tắt thở rồi, tôi mới buông tay
ra. Bấy giờ đúng mười hai rưỡi” [34, tr 206, 207]. Gieo nhân nào, gặp quả đó. Mão
đã phải chết cho những suy nghĩ ti tiện và hành động bất nhân ác độc. Nhưng với
Tâm, cái chết mà mình gây ra cho Mão là không thể tha thứ. Mặc dù, bạn bè thông
cảm cho anh, pháp luật đã cho anh trắng án nhưng tòa án lương tâm không cho phép
anh vô tội. Vì thế, Tâm đã tự giam mình và chết trong gian nhà phố Hàng Bột. Đó
là cái chết mang nhiều ý nghĩa; cái chết của một con người chân chính; cái chết của
một con người không thỏa hiệp với cái xấu xa, cái ác độc; cái chết của ước mơ về
một cuộc sống tốt đẹp hơn…
Tác phẩm Một truyện ghê gớm (Thế Lữ), là một câu truyện ghê gớm, kỳ dị
mà nhân vật tôi chứng kiến trong một lần đi săn. Qua lời kể của nhân vật tôi, người
đọc phải uất hận trước những hành động tác oai tác quái của tên quan cao phẩm Mã
Hồng. Một kẻ đam mê nữ sắc, chuyên cưỡng bức đàn bà con gái. Và ghê rợn trước
những hành động giết người man rợ, hãm hại phụ nữ như súc vật của tên khách trú
Lý Thạch. Sự thù hận đã biến Lý Thạch trở thành một tên sát nhân khát máu. Trong
tiềm thức của hắn luôn in đậm oán thù: “Cha mẹ ta đang an cư lạc nghiệp, tổ phụ
nhà người dùng thủ đoạn thái ác mà giết hại, khối máu căm hờn chưa biết bao giờ
mới tan. Ta may còn lọt sống lại đây, nên quyết đem cái mạng thừa này làm cho ba
đời nhà ngươi cùng chịu với cha mẹ ta một số phận. Bấy lâu ngươi chưa phải chết
vì người chưa có gia đình để ta đến phá. Bây giờ người đã có vợ, là đã đến giờ ta
ra tay. Thủ cấp ngươi ta đem tế cha ta, còn tính mạng vợ ngươi ta sẽ đem tế mẹ ta
ngày nay ở dưới cửu tuyền vẫn đợi trông ta báo phục” [10, tr.48]. Con người Lý
Thạch đã bị khuôn theo cách nghĩ “nợ máu trả bằng máu” nên tội ác mà hắn gây ra
chẳng kém gì với tội ác của tổ phụ nhà họ Mã. Ba đời nhà họ Mã đã phải chết dưới
lưỡi dao oan nghiệt của Lý Thạch dù họ là những người vô tội. Oan oan tương báo?
Con người chẳng lẽ sống để hận thù? Thế thì còn đâu nhân tính, đạo đời. Viết tác
phẩm Một truyện ghê gớm phải chăng Thế Lữ muốn gởi đến người đọc thông điệp:
Trong bể đời bao la, để hướng đến cuộc sống tốt đẹp con người cần phải phá chấp.
Thật vậy, lời tâm tình của Thúy Liễu ở cuối tác phẩm chính là biểu hiện cho quan
niệm ấy: “… Những việc trên đây, đáng lẽ thiếp phải giữ kín, nhưng nghĩ rằng
chiếc thân gửi nơi đất lạ, không đành làm một khối oan hồn kỳ bí, khiến cho ân
nhân không hiểu những tội tình kia thiếp chịu là duyên cớ vì đâu. Vậy tiện thiếp
không quản bại nhược cố tỉnh tâm thần, để lại máy hàng này, xin ân nhân soi xét.”
[10, tr.50]
Giống như tác phẩm Một truyện ghê gớm của Thế Lữ, tác phẩm Oan nghiệt
(Tchya Đái Đức Tuấn) cũng viết về mối thâm thù truyền kiếp giữa hai dòng tộc
Vương và Hoàng. Bằng niềm tin vào thuyết quả báo và kiếp luân hồi, Đái Đức Tuấn
đã đưa người đọc vào một thế giới mà âm – dương kề cận bên nhau. Trong thế giới
ấy, sự thù hận của hai dòng họ diễn ra dai dẳng. Vương Tổng Đốc lạnh lùng vô cảm
trước lời cầu xin của mẹ và vợ của Hoàng Sinh Mẫn nên đã gieo nỗi oán hận vào
lòng người vợ trẻ họ Hoàng. Người thiếu phụ tuổi mười tám tuổi với lời nguyền báo
thù oan thiêng: “Ta năm nay mới có mười tám tuổi đầu, ta chết đi sẽ theo dõi dòng
họ mày mà báo thù cho đến thuở đá mòn sông cạn, ta sẽ làm cho họ mày, cũng như
họ chồng ta, tuyệt tự, ta sẽ làm cho con cái nhà mày cũng như ta, chết giữa thời
niên thiếu, lúc trên đầu chưa đội hết đôi chín xuân xanh” đã gieo biết bao oan khốc
lên đầu họ Vương. Oán thù che lấp lí trí, che mờ nhân tính con người. Con người cứ
chạy theo vòng xoáy của oán – ân thì cuộc sống vẫn còn nhiều điều bi thảm. Nhằm
giúp con người thoát khỏi cái vòng uẩn khúc ấy, tác giả đã mượn lời tuyệt bút của
Liễu (kiếp trước là vợ của Hoàng Sinh Mẫn): “Trời là đấng chí công chí minh, ta có
ra ngoài cõi thế, nhìn vào phàm trần, mới trông thấy lắm điều chí lý mà khi làm
người, ta không bao giờ tưởng tượng được” [10, tr.116] để cảnh tỉnh cuộc đời, con
người. Đó là lời cảnh tỉnh mang nhiều ý nghĩa nhân văn.
Một đêm trăng (Thế Lữ) là lời tố cáo nhưng kẻ lừa tình. Đó là tội ác không
thể tha thứ. Bằng lối kể chuyện kỳ ảo ma quái, Thế Lữ đã đưa người đọc bước vào
địa hạt của những câu chuyện liêu trai. Trong không gian thơ mộng của một đêm
trăng giữa đại ngan tịch mịch âm u, nhân vật “tôi” đã gặp một người con gái Thổ trẻ
đẹp. Cuộc gặp gỡ và dạo chơi đó không phải để dệt nên mối tình lãng mạn của lứa
đôi. Đó chỉ là cái cớ để nhân vật tôi (người kể chuyện) khẳng định câu chuyện mà
mình đã chứng kiến. Đó là cảnh trả thù rùng rợn của cô gái Mán đối với kẻ lừa tình
(ông Ba – đi – ghệt): “Nói xong, nó đứng dạng chân ra, cái mép váy đằng trước
căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng. Một tay nó xốc ông Ba đứng dậy, một
tay nữa nâng ở ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái
dướn mình văng cái thây chết xuống. Rồi, không biết vì quá đà hay cố ý, cả người
con gái cũng văng theo..” [34, tr.119]. Cái chết thảm hại của ông Ba là án phạt tất
yếu, là hồi chuông cảnh tỉnh đạo đức, lương tri những kẻ trăng hoa chuyên lợi dụng
tiền bạc để chiếm đoạt tiết trinh của người phụ nữ. Ngược lại, hành động tự vẫn
theo chồng của cô gái gợi người đọc nhận rõ vẻ đẹp về lòng thủy chung son sắt của
người phụ nữ cùng ước mơ được sống với người mình yêu.
Bữa rượu máu (Nguyễn Tuân), là câu chuyện về đao phủ Bát Phẩm Lê có
lối chém “treo ngành” sắc ngọt. Bát Phẩm Lê được quan Đổng lý quân vụ sai chém
mười hai dư đảng giặc Bãi Sậy cho quan công sứ Nam kì xem. Đoạn văn miêu tả
cảnh xử trảm thật ghê rợn: “Viên công sứ Pháp chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn
giữa hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ ngục
đến đấy. Những tia máu phun lên kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều. Mà trên
áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống” [68, tr.83]. Cái chết của
mười hai con người làm niềm vui cho một viên công sứ Pháp. Đó là một sự thật trớ
trêu mà cuộc sống đương thời đem lại. Ngòi bút Nguyễn Tuân tưởng chừng lạnh
lùng, trơ cảm nếu người đọc không chú ý đến yếu tố kỳ ảo ở cuối tác phẩm cho dù
đó chỉ là : “…một trận lốc xoáy tất mạnh”, “Trận gió xoắn giật, hút cát bụi lên,
xoay vòng quanh đám tử thi, và đuổi theo các quan ra về.” [68, tr.84]. Thông qua
yếu tố kỳ ảo, Nguyễn Tuân muốn thể hiện một ước mơ về công lý và tố cáo những
hành động phi nhân tính của xã hội đương thời.
Trong tác phẩm Khoa thi cuối cùng (Nguyễn Tuân), yếu tố kỳ ảo tham gia
vào cốt truyện không chỉ để diễn giải một thực tế, một quan niệm nhân sinh mà còn
để lên án cái ác. Hình ảnh kỳ ảo: “Người người đàn bà trẻ, xoã tóc, ẵm con, hiện
ngay lên dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ rịt lấy tay không cho viết quyển
nữa. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xoã quất vào mặt ông cứ bỏng rát
lên. Lại cười sằng sặc, lấy nghiên mực đổ vào quyển của ông. Lần ấy ông xin đổi
quyển đến hai ba lần. Vẫn người đàn bà quấy nhiễu không tha để quyển ông cứ tỳ ố
mãi” [68, tr.189]. Oan hồn người phụ nữ trẻ cố phá không cho ông đầu xứ Anh và
ông đầu xứ Em thi cử là bởi từ hành động thất đức của ông Huấn lúc sinh thời: “Hồi
còn mồ ma cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một
người nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời. Người thiếp đó, lúc tự ải, đã có mang
được sáu bảy tháng. Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cứ còn lều
chiếu ở cửa trường thi” [68, tr.190]. Chính tội lỗi đó của ông Huấn đã để lại cho
con cháu của ông một âm oán khủng khiếp và dai dẳng, món nợ máu phải trả: “Nó
còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô muốn, cô
muốn nó phạm húy, cho nó bị tội cả nhà kia” [68, tr.190]. Qua chi tiết hồn ma và
âm oán trường thi tác giả muốn kí gởi đến người đọc: việc đỗ đạt của người xưa
đâu phải là nhờ tài thông kinh thuộc sử, mà còn phụ thuộc vào chuyện phúc đức
của sĩ tử và dòng họ của sĩ tử đó. Vì thế, trong cuộc sống con người cần phải biết
tạo phúc, phải biết sống hợp với đạo trời.
Có thể thấy rằng, cái ác qua yếu tố kỳ ảo đã được các nhà văn khai thác ở
nhiều khía cạnh hết sức đa dạng. Có khi đó là lòng tham cố hữu của con người như
nhân vật Mão trong Hai lần chết (Thế Lữ). Có khi đó là sự ham mê sắc dục như
trong Một truyện ghê gớm, Một đêm trăng (Thế Lữ), Khoa thi cuối cùng (Nguyễn
Tuân). Cũng có khi là những hành động bất nhân, phi nhân tính đem cái chết làm
trò mua vui như trong Bữa rượu máu (Nguyễn Tuân)... Vậy, cái ác, cái xấu xa đã
được hữu hình hóa qua yếu tố kỳ ảo, và qua đó các tác giả văn xuôi lãng mạn giai
đoạn 1930 – 1945 đã thể hiện sự lo âu, khắc khoải về sự sói mòn nhân tính, đạo lý
truyền thống của dân tộc. Giữa lúc con người đang nghiêng ngả, choáng ngợp trước
cuộc sống hiện đại, đạo đức đang bị tấn công từ nhiều phía, ở hiền chưa chắc đã
được gặp lành. Vì thế, con người đã nhờ đến yếu tố kỳ ảo như một giải pháp để cân
bằng tâm linh giữa một xã hội xô bồ và phức tạp. Đồng thời, khuyên răn người đời
phải sống có đạo đức, người thiện được phúc, kẻ ác tất yếu phải lãnh nhận hậu quả
khôn lường.
Nghiên cứu các tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chúng tôi nhận thấy: các tác phẩm văn học
này không chỉ nghiêng về cảm hứng khai thác, khám phá những mặt trái của đời
sống con người, mà còn thể hiện cái nhìn bao dung độ lượng và niềm tin bất diệt
vào bản tính tốt đẹp của con người. Để khẳng định sức sống lâu bền của những giá
trị đạo đức truyền thống, để hướng con người đến cuộc sống cao cả tốt đẹp, các tác
giả thuộc dòng văn học này đã lùng sục vào tận cùng của thế giới yêu ma, thần quỷ
để săn tìm cái đẹp. Qua đó, các nhà văn muốn chuyển tải đến cuộc đời, con người
những khúc ca về giá trị đích thực của Chân – Thiện – Mĩ.
Tác phẩm Loạn âm (Nguyễn Tuân) là sự ngợi ca lòng liêm chính, cương
trực, ngay thẳng của con người. Câu chuyện kể về vị Quan Ôn (cõi âm) vì nể tình
riêng mà muốn châm chước cho người nhà của họ Trịnh (cõi dương). Nhưng ông
Kinh Lịch không vì tình riêng mà chữa lại mệnh trời – nghĩa là xin xóa tên những
người thân trong cuốn sổ bắt phu của Diêm Vương: “Thưa Quan Lớn, trong cái đời
liêm chính của tôi, chưa lúc nào tôi có làm điều gì khuất tất trong lòng. Nay Quan
Lớn hành tạt qua đây, lại nghĩa cái tình đồng song cũ và thứ nhất có nghĩ đến cha
tôi mà vào chơi, thế là quí rồi. Việc Quan Lớn gia ơn cho làng Phú Giang này, tôi
rất thâm tạ, nhưng thực không dám xin cho ai. Việc sống chết của chung quanh tôi,
xin quan lớn cứ phải mà làm và người áo vải này không dám nói thêm vào lấy nửa
lời” [68, tr.310]. Hình ảnh, khí phách của quan Kinh Lịch và sĩ hạnh của Quan Ôn
chính là bản tính tốt đẹp của con người vẫn còn xót lại trong xã hội xô bồ, lắm bon
chen.
Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân), là truyền thuyết về hôn nhân giữa ông Tổ
nghề giấy Chu Hồ và cây dó thần. Thông qua truyền thuyết linh dị, đầy sắc thái kỳ
ảo ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã khám phá những chất ngọc đáng quí trong thiên
tính của con người. Đó là một câu Năm nhà họ Chu vừa có chữ, vừa lại có khí
phách. Đó là một cô Dó sâu nặng nghĩa tình – người con gái của rừng đại ngàn- có
giọng hát “trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa trời nổi gió”. Và,
đó là một Chiêu Hiện rất trọng nghĩa khí, biết ăn năn hối hận vì trót “thờ nhầm
người có nhân cách đê hạ”, đã quyết từ chối mọi tặng phẩm quí giá của ông Huyện
để trở về quê chịu chết trong cảnh nghèo đói.
Một truyện không nên đọc lúc giao thừa, Rượu bệnh, Đới roi (Nguyễn
Tuân) là những thiên truyện ca ngợi vẻ đẹp về nhân cách của con người. Nguyễn
Tuân viết Một truyện không nên đọc lúc giao thừa là để ca ngợi tấm lòng nhân
hậu, biết yêu thương con người của vợ chồng ông Bá. Viết Rượu bệnh, là để ca
ngợi nghĩa khí cương thường và mà chân chất của Bố Ô. Kì nhân không biết đói
nhưng chỉ thấy khát rượu mà thôi. Bố Ô một mình dám xông vào dinh quan Thượng
– kẻ “quyền trấn một góc trời lấy đầu người trị hạ cứ dễ như bỡn” – la hét đòi thả
cô gái quê bị cậu ấm con quan bắt hãm hiếp. Đó là hành động của lòng cam đảm,
nghĩa khí không chịu khuất phục trước bạo tàn. Và, cái chết kì lạ của Bố Ô càng
làm tăng thêm vẻ đẹp dị thường của một dị nhân. Sáng tác Đới roi, Nguyễn Tuân
cũng muốn gởi đến người đọc một nhân cách, một lối sống cao đẹp và khác thường
qua hình tượng nhân vật Ấm Đái. Ấm Đái dù rơi vào hoàn cảnh bần cùng mà vẫn tỏ
ra khẳng khái: thà thắt cổ chết để làm con ma tài tử chứ không chịu nhận tình
thương bố thí của một đào nương. Đó cũng chính là khí tiết, lối sống cao đẹp một
thời còn sót lại giữa biển đời lắm bon chen.
Trong Tâm sự nước độc (Nguyễn Tuân), vẻ đẹp tài hoa khí phách của con
người được nhà văn Nguyễn Tuân đặc biệt ngợi ca. Đó là một Lãnh Út chung thủy
đến cuồng si trong tình yêu, một Bá Nhỡ tài hoa, tận tụy trung thành hết lòng với ân
nhân. Một cô Tơ có “tiếng hát mọc cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá pha
lê gọt”, và một con ma linh hồn Chánh Thú – “cũng là một nòi tài tử”.
Tác phẩm Am culy xe (Thanh Tịnh), là câu chuyện cảm động về cuộc đời và
số phận nghèo khổ của người nông dân nghèo, nhưng lại chan chứa niềm tin vào
tình yêu thương bao la và lòng nhân hậu của con người trong cuộc sống. Hành động
sẻ chia, bảo bộc của người dân xứ Quảng trước mảnh đời bất hạnh của lão phu mù:
“dân trong xóm thương tình, người ít kẻ nhiều dồn nhau mua cái hòm mới và chôn
cất người kéo xe già tử tế”. Và, “dân làng Quảng sốt sắng góp tiền rất nhiều. Con
thuyền xưa đã nối lại hai bờ. Lòng từ thiện đã qua sông” đã nói lên nghĩa cử cao
đẹp “nghĩa tử là nghĩa tận” và đạo lý ngàn đời của dân tộc “lá lành đùm lá rách”.
Có thể nói, thông qua tác phẩm, nhà văn Thanh Tịnh đã gởi gắm niềm tin vào sự
trường tồn của cái đẹp.
Tình trong câu hát (Thanh Tịnh), là câu chuyện đậm chất kỳ ảo, huyền hoặc
nhưng sâu nặng nghĩa tình. Đạt và Liên yêu nhau bằng tình yêu trong sáng thiết tha
nhưng mối tình sâu nặng ấy lại sớm “uyên ương sảy mái”. Sau ba năm nên vợ thành
chồng, Liên đã vĩnh viễn ra đi trong kỳ thai sản. Đạt sầu muộn rời chốn cũ đi làm ăn
xa. Nhưng chiều hôm ấy trở về chốn cũ, kỷ niệm xưa chợt vỡ ào trong tâm trí Đạt.
Trước mắt Đạt một chiếc thuyền ai rẽ nước giống hệt thuyền Liên. Đạt cố gắng
dong buồm đuổi theo cô lái thuyền nhưng “chiếc thuyền trước chạy như bay thấp
thoáng trong chiều sương trông như bóng nhạn”. Chỉ vẳng nghe điệu hò tha thiết
đến nao lòng: “Tình về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đế n đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào”
Với cách viết nhẹ nhàng, bay bướm cùng sự đan cài giữa cái hư và cái thực
tác giả đã tạo nên một câu chuyện đầy huyền ảo, thơ mộng. Ẩn đằng sau cái thơ
mộng huyền ảo ấy là tiếng nói ngợi ca tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt.
Tóm lại, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 là
nguồn mạch để nhà văn khai phá những mảng tối – sáng bên trong con người.
Chính việc tiếp cận con người ở hai chiều tốt – xấu là sự dằn lòng đầy đớn đau của
con người để vươn đến những khát vọng chân chính. Hơn thế, nó còn là lời nhắc
nhở con người cần phải có thái độ ứng xử chừng mực, phù hợp hơn. Làm cho con
người ghê sợ, xa lánh cái ác cũng chính là đích hướng đến Chân – Thiện – Mĩ của
văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
2.3.2. Yếu tố kỳ ảo và cõi bí ẩn tâm linh
Hiện hữu trong cuộc sống của con người là những điều mơ hồ, vô hình
nhưng có thật trong cảm xúc của con người về thế giới, đó chính là thế giới tâm
linh. Trong văn học trung đại, thế giới tâm linh là niềm tin, là sự xác tín vào sự tồn
tại của đấng siêu nhiên. Trong thế giới đó, lực lượng siêu nhiên luôn chi phối đời
sống con người bằng quyền năng tối thượng. Kế thừa truyền thống ấy, con người
hiện đại cũng đã thừa nhận nó như một phần không thể tách rời của cuộc sống. Tuy
nhiên, thế giới tâm linh trong văn học hiện đại đã phát triển lên một tầm cao mới.
Nó không đơn thuần là niềm tin, tín ngưỡng của con người mà còn là nơi diễn ra
đời sống vô thức đầy bí ẩn, trừu tượng, là những biến động tinh tế trong tâm hồn
con người. Vì vậy, việc sử dụng yếu tố kỳ ảo có một ý nghĩa rất lớn, nó như là một
phương tiện nghệ thuật hữu dụng để hiện hữu hóa những điều lạ lùng kì diệu đang
diễn ra bên trong cõi tâm linh bí ẩn của con người.
Thế giới tâm linh được biểu hiện trước hết qua niềm tin vào sự tồn tại của thế
giới siêu nhiên bên trên con người. Đó là niềm tin vào sự linh thiêng của tiên tổ, của
cha ông: “Dọc phá tôi mới sực nhớ năm nay đến phiên tôi “hương khói” am Cô
Giang và tôi tự bảo có lẽ vì thế nên “ông bà” bắt mình phải nóng lòng nóng ruột”
(Làng của Thanh Tịnh). Là quan niệm về sự linh thiêng và bất tử của thần Sơn Tinh
trên đỉnh núi Ba Vì trong tác phẩm Trên đỉnh non Tản của Nguyễn Tuân. Hay là
niềm tin vào thần giữ của (trong quan niệm của đồng bào một số dân tộc thiểu số)
trong truyện ngắn Một truyện không nên đọc lúc giao thừa của Nguyễn Tuân.
Trong tác phẩm: Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển) thế giới
tâm linh chính là niềm tin vào sự tồn tại quấn quýt, gần kề của cõi âm bên cạnh cõi
dương. Và, những sinh thể của cõi âm (ma) cũng có lúc muốn gặp gỡ, chuyện trò
hoặc trêu đùa với con người (cõi dương) như thể để tìm thấy chút hơi ấm của cuộc
đời. Với quan niệm như thế, nên chuyện kể của Bùi Hiển tuy đậm chất ma quái
nhưng lại ấm áp và xúc động lòng người.
Thế giới tâm linh còn được biểu hiện qua những biến động tinh tế diễn ra
trong tâm hồn con người. Thế giới ấy tồn tại cả chiều không gian thứ tư: không gian
tâm trạng. Trong không gian tâm trạng đó xuất hiện con người tâm linh với những
suy tư trăn trở và dằn vặt của tâm hồn. Ở đó, con người tự đối thoại với lòng mình
với tư cách là một con người riêng lẻ không nhân danh ai, không dựa vào ai.
Viết Người đàn bà trong trắng, Đỗ Huy Nhiệm sử dụng yếu tố kỳ ảo để đi
sâu vào khai phá thế giới nội tâm của nhân vật. Hình ảnh kỳ bí của người đàn bà
hiện lên đằng sau cửa sổ là lời nhắc nhở con người về đời sống vợ chồng. Và đồng
thời, cũng chính là lời tự vấn lương tâm của người họa sĩ. Với ông quãng đời còn lại
là quãng ngày dài của sự ăn năn sám hối, của sự tiếc nuối khôn nguôi vì đã đánh
mất nghĩa tình chồng vợ. Ta hãy nghe lời tâm sự ấy: “Trước đây nhà tôi mắc bệnh
bại đang thời kỳ còn xinh đẹp, về đây hơn hai mươi năm trời, ngày ngày ngồi trên
chiếc ghế bành đặt trước cửa gương, nhìn xuống đồi ngong ngóng chờ tôi về. Thuở
ấy tôi mải ham mê theo những người đàn bà khác, ít khi nghĩ đến người vợ cần đến
sự thương yêu của mình. Tôi chỉ hối lại khi nhà tôi đã có phần yếu, tôi liền từ chức
về đây, nhưng chẳng được bao lâu thì nhà tôi qua đời. Khi đã biết yêu thương thì đã
chậm lắm rồi, tôi chỉ còn trong lòng một hình ảnh in trên mặt gương này mà thôi”
[18, tr.781]. Đó là lời tâm sự ngậm ngùi của một tâm trạng dằn vặt và khổ đau, của
một con người đã gây nên lỗi lầm trong quá khứ. Lời hối lỗi ấy tuy muộn màng
xong nó rất cần thiết, bởi sự hối lỗi ăn năn sẽ giúp con người sống trở nên tốt và đẹp
hơn.
Viết Làng, Thanh Tịnh cũng đã đi sâu vào khai phá thế giới nội tâm của con
người. Sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo như là nỗi ám ảnh nhắc nhở về những rủi ro, là
dấu ấn của quá khứ, cộng đồng. Cái ảo ảnh của làng quê, sông nước với hiện tại
luôn đan cài với quá khứ khiến cho người đọc suy tư ngỡ ngàng. Đằng sau sự sợ hãi
là sự lo âu và ân hận dày vò, nếu một ngày nào đó, con người không nhớ về nguồn
cội, tổ tiên. Lời tự vấn trong tác phẩm Làng (Thanh Tịnh): “Nghe xong, tôi buồn
uất, khóc không ra tiếng. Từ đó, tôi cứ chèo thuyền đi làm ăn thật xa, không mấy
khi trở về làng. Về thêm khổ và về với ai?”… “ [54, tr.133] là lời nhắn gởi, nhắc nhủ
của nhà văn đối với bạn đọc về trách nhiệm của con người đối với quê hương, tiên
tổ.
Trong Câu chuyện mơ trong giấc mộng (Nhất Linh), thế giới tâm linh mà
tác phẩm hướng đến là giấc mộng để hé mở những bí ẩn của con người. Đó là giấc
mộng kỳ lạ của Sinh. Trong giấc mộng ấy, Sinh nghe Tuyết tâm sự về cuộc đời
giang hồ của cô ta (Tuyết). Cuộc đời ấy khởi nguồn vào một đêm Tuyết nằm mơ
thấy ba cô gái lạ đến rũ đi chơi, lúc đi với họ, Tuyết thấy “phảng phất một thứ
hương thơm mát, nhưng không đoán ra được thứ hương gì”. Tuyết tỉnh dậy “khi giơ
vạt áo lên thì thấy đẫm mùi hoa nhài”. Và, từ hôm ấy Tuyết không còn: “là cô gái
mười sáu tuổi trong sạch nữa … em bước mãi vào con đường nhơ nhuốc… cho đến
hôm nay… Nhiều lúc em muốn trở về với cái đời trong sách kia, nhưng không thẻ
nào được nữa, hình như có một sức mạnh vô hình bắt em phải sống, phải mãi sống
với đời khốn nạn này” [33]. Đó thật sự là một giấc mơ kỳ dị nhưng chứa dựng biết
bao trăn trở, lo âu của con người về nhân phẩm, thân phận trong cuộc sống. Giải
đoán được giấc mơ kỳ lạ của Sinh, người ta sẽ thể thấu hiểu nỗi lòng của người con
gái giang hồ đang khao khát hướng về một cuộc sống trong sạch, lương thiện.
Con người tâm linh cũng được bộc lộ qua sự linh ứng không thể giải thích
được. Trong truyện ngắn Bóng người trong sương mù, Nhất Linh đã sử dụng yếu
tố kỳ ảo để đưa người đọc đến với vấn đề ảo giác – tâm linh. Chất hư – thực hợp
lôgic và không hư cấu thái quá như các tác giả khác đã khiến cho câu chuyện Bóng
người trong sương mù mang một sắc thái riêng. Khi người đọc không tin vào ma
quỷ nhưng tin vào thần giao cách cảm thì câu chuyện của Nhất Linh mãi được tin là
câu chuyện xúc động, có thật. Và nó chỉ xảy ra và đến được với những ai sống trọn
tình trọn nghĩa với nhau ở đời. Bóng người đàn bà (người vợ) – cánh bướm kỳ dị
trong đêm hiện ra cứu người lái tàu (người chồng) thoát hiểm là minh chứng cho
điều ấy.
Trong tác phẩm Ngủ với ma (Đỗ Huy Nhiệm) thế giới tâm linh được biểu
hiện qua sự thông linh giữa cõi âm và cõi dương, giữa địa phủ và trần gian. Sa
nhiều lần đến ngủ nhà sơ Célina ở cạnh hồ Tây nhưng thực chất là ngủ ở bãi tha ma
bên cạnh bốn cái mả mới bốc. Tình tiết này gây không ít hoang mang, hoảng loạn
cho người đọc nhưng vẫn chứng tỏ có một sự thông linh kỳ lạ giữa người sống với
linh hồn người đã chết. Đây chính là một hiện tượng tâm linh mờ khuất nhưng vẫn
tồn tại hiển nhiên trong đời sống thực. Nó chỉ xảy ra giữa những con người cực kỳ
gần gũi nhau về huyết thống hoặc về tình cảm.
Để khai phá cõi bí ẩn trong thế giới tâm linh của con người, các tác phẩm
văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 đã sử dụng rất nhiều các dạng thức của
yếu tố kỳ ảo. Dưới tác động của yếu tố kỳ ảo, các sự việc được diễn ra theo một
logic khác thường và cuộc sống được cảm nhận khai phá dưới cái nhìn đa diện
nhiều chiều… Soi sáng cõi tâm linh bí ẩn của con người, chúng ta chợt nhận ra rằng
cuộc đời này vẫn còn quá nhiều điều bí ẩn, những điều con người chưa thể biết
trước và đầy bất trắc.
2.3.3. Yếu tố kỳ ảo và những khát khao về tình yêu đôi lứa.
Văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 là tiếng nói đấu tranh cho hạnh
phúc cá nhân và tình yêu đôi lứa. Tuyên ngôn thời đại ấy đã thấm đẫm vào trong
từng trang viết kỳ ảo. Mượn yếu tố kỳ ảo, các nhà văn giai đoạn này thường đi sâu
vào khai thác chủ đề về tình yêu đôi lứa. Đó là những cuộc tình thắm thiết sâu đậm
vượt qua những ràng buộc, những định kiến của lễ giáo phong kiến, là sự chủ động
và sẵn sàng đấu tranh đến cùng cho hạnh phúc lứa đôi.
Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), là câu chuyện tình ngọt ngào, say đắm nhưng
buông thả vượt qua khuôn phép. Tình yêu giữa Tuấn và Hoàng Lan Hương theo
cách nhìn thông thường của lễ giáo phong kiến là lén lút, bất chính nhưng được bao
bọc bởi một không gian thơ mộng nhạt nhòa sương khói, đượm vẻ liêu trai. Chàng
văn sĩ trọ ở trong một ngôi nhà hoang vắng đã yêu say đắm một cô gái có tung tích
bí ẩn nhưng rất xinh đẹp quyến rũ. Ngay khi biết thiếu nữ hằng ngày mình ôm ấp,
yêu dấu là một oan hồn, Tuấn cũng không thể rời bỏ và quên được nàng. Thậm chí
khi không còn cơ may gặp lại Hoàng Lan Hương, Tuấn đã rơi vào tuyện vọng. Và
coi thế gian này: “đàn bà, đối với Tuấn, không ai có nhan sắc nữa” [35, tr 443].
Đọc Trại Bồ Tùng Linh ta thấy phảng phất âm vị của Liêu trai chí dị (Bồ Tùng
Linh). Từ quang cảnh ngôi nhà, vườn cây đến cách đi, cách đến, những buổi tình tự
hoan lạc cùa đôi trai gái đều rất giống các cuộc tình của các nho sinh với các hồn
ma tinh chồn trong Liêu trai chí dị (Bồ Tùng Linh) và cuộc kì ngộ ở trại Tây
(Nguyễn Dữ). Chỉ có điều, ở đây là những con người Việt Nam, sống trên đất nước
Việt Nam với mọi cung cách sinh hoạt, suy nghĩ tân thời hiện đại. Vì thế, tiếng nói
tình yêu của đôi bạn trẻ Tuấn và Hoàng Lan Hương trở nên gần gũi và đồng cảm
hơn.
Tác phẩm Thần ho của Tchya Đái Đức Tuấn không chỉ là truyền thuyết về
các loại ma trành, hóa thân của những cái chết bất đắc kỳ tử mà xưa dân gian gọi là
dớp, dớp nhà, phải tìm mọi cách để tránh lặp lại với người sau. Đằng sau truyền
thuyết dân gian đó là câu chuyện tình yêu giữa đôi trai gái Peng Slao và Đèo Lâm
Khẳng. Peng Slao, nàng chính là con ma trành, về sau thoát được cảnh tôi tớ, hầu hạ
cho thần Hổ do đã tìm được người thay thế, người rơi vào cái dớp của kẻ trước.
Peng Slao có tiền duyên với Đèo Lâm Khẳng, một người của gia tộc lớn nhất rừng
Thạch Thành (Thanh Hóa). Nàng đã quyến rũ được họ Đèo vào ngôi nhà sàn của
mình để được ân ái. Cuộc ân ái cuồng si giữa một kẻ là người và một kẻ là ma. Thế
là Peng Slao được giải thoát. Gặp được Đèo Lầm Khẳng, Peng Slao hạnh phúc vô
cùng, nàng đã yêu chàng lúc còn sống, nhưng chàng là một thiếu niên chân chính
quá, không để ý đến nàng. Bây giờ tuy kẻ là người, kẻ là ma, âm dương cách trở
nhưng cuộc tình duyên đằm thắm làm cho nàng được khuây khỏa trong cơn sầu
tịch. Cái tình của ma mà lại đắm say thắm thiết hơn cả tình người. Chàng và nàng
được cận kề bên nhau: “Chàng không thấy lạnh lẽo nữa, dẫu rằng ngủ không chăn,
không đệm. Nàng yêu đương chàng một cách nồng nàn thân thiết, vuốt ve chàng và
lên giọng nỉ non hát ru cho chàng ngủ, khiến hồn chàng phút chốc như chia ra tan
tác, như bay bổng lên một tầng thế giới xa xăm. Gối lên cánh tay ngà ngọc của
người yêu, chàng thiu thiu buồn ngủ” [66, tr.85]. Có thể nói, nhờ yếu tố kỳ ảo,
hoang đường mà nhà văn Đái Đức Tuấn đã viết nên những trang tình ái vô cùng
lãng mạn, ngọt ngào và say đắm. Tình yêu ấy đã vượt lên trên sự cương tỏa của
quan niệm cũ còn sót lại trong cuộc sống hiện đại để hướng đến một “vùng trời
mới”. “Vùng trời” của sự tự do luyến ái, tự do được bộc lộ tình cảm với người mình
yêu.
Viết tác phẩm Ai hát giữa rừng khuya, Tchya Đái Đức Tuấn cũng khai thác
triệt để các truyền thuyết về ma trành, ma hổ ở vùng rừng núi phía Bắc để làm nền
cho câu chuyện mang đầy tính thế sự. Đó là niềm tin vào thuyết định mệnh, nghiệp
chướng quả báo của nhà Phật. Là hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công,
ngang trái. Nhưng, có lẽ dấu ấn đậm nét nhất của tác phẩm chính là mối tình đằm
thắm giữa Oanh Cơ và Lương Trọng Việt. Đôi trai gái tài sắc đã đến với nhau bằng
một tình yêu chủ động. Tình yêu của Oanh Cơ dành Lê Trọng Việt là thứ tình cảm
chân thành, nồng ấm. Tình yêu ấy được ươm mầm và nảy nở trong niềm hạnh phúc
dưới mái nhà xinh. Nhưng nó lại chóng vụn vỡ đầy oan khốc bởi một bộ phận con
người có quyền lực trong xã hội đương thời. Trọng Việt bị xử chết, Oanh Cơ bị cọp
vồ. Để rồi từ đó mỗi khi trời đổ mưa trong một ngày gay gắt nắng, người ta lại thấy
oan hồn của hai anh em Lương Trọng Việt hiện lên: “diễu võ, dương oai, vật nhau
chán rồi múa một bài quyền…” [67, tr.112], và cứ “mỗi đêm mưa dầm gió bấc,
những đêm u ám không trăng, trên quãng đèo Ô Quí Hồ lại văng vẳng có giọng đờn
ca não nuột” [67, tr.248]. Cái hình ảnh và thanh âm của đôi trai tài gái sắc ấy như
trở thành một biểu tượng lưu giữ mãi trong lòng người đọc về một tình yêu đẹp.
Nhưng đồng thời, nó cũng như một bản cáo trạng đanh thép dành cho xã hội đương
thời đã gây nên một tấn oan tình đầy nước mắt.
Rừng khuya (Lan Khai), là câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái miền
sơn cước. Nàng Dua Phăn và chàng Mai Kham yêu nhau bằng một thứ tình yêu
trong sáng hồn nhiên. Tình yêu ấy e ấp dịu dàng và đẹp như nụ hoa ban trắng miền
sơn cước buổi ngày xuân. Mỗi giây phút bên nhau, họ dường như quên cả đất trời,
với họ chỉ còn lại: “Sự yêu thương như chìm đắm cả hai linh hồn, một sự yêu
thương nồng nàn thấm thía đến nỗi cả hai ngươi như quên hẳn sự đam mê nhục thể,
xoắn xuýt lấy nhau và yên lặng rất lâu trong cái yên lạnh của đêm thanh. Dưới
vầng trăng lạnh. Trái tim Dua Phăn đập mạnh bên trái tim chàng. Thân thể nàng
thổn thức trong hai cánh tay khỏe mạnh” [59, tr.27]. Khi tình yêu bị chia cắt Dua
Phăn và Mai Kham đã cùng nhau tự sát. Hành động quyết liệt của Dua Phăn và Mai
Kham là hành động của những con người hiểu được giá trị của tình yêu. Tình yêu là
thứ không dễ mua được bằng quyền lực và tiền tài. Dua Phăn và Mai Kham không
hưởng được nhiều hạnh phúc trên cõi đời nhưng cái chết của họ là minh chứng cho
tình yêu tha thiết và lời thề thủy chung son sắt, cho khát vọng cháy bỏng về tình yêu
đôi lứa... Truyện kết thúc bằng chi tiết kỳ ảo: “…từ đấy, trong rừng khuya người ta
bắt đầu nghe có tiếng chim ai oán gọi đàn (…) người ta bảo đó là oan hồn của đôi
tình nhân xấu số đã hóa đôi chim để nghìn muôn năm ca khúc hận tình dưới trời
đêm lạnh” [59, tr.58]. Chính tiếng chim ai oán não nùng ấy đã gieo vào lòng người
đọc những cung bậc khác nhau về tình yêu, đồng thời nó còn toát lên tinh thần phản
kháng chống lại lễ giáo phong kiến để tìm tự do cá nhân.
Viết Câu chuyện mơ trong giấc mộng và Lan rừng, Nhất Linh đã để lại
giữa văn đàn tiếng nói thiết tha, rạo rực về tình yêu đôi lứa. Xét về hình thức cả hai
tác phẩm này đều là những truyện mang phong vị cổ kính (theo kiểu truyện tinh hoa
cúc của văn học cổ), đậm chất ly kì, huyền ảo giống như những truyện liêu trai.
Nhưng nội dung, tư tưởng của tác phẩm lại hướng đến những trăn trở của con người
hiện đại về hạnh phúc cá nhân. Chính vì thế khi đọc tác phẩm người ta vừa có cảm
giác ghê rợn, rùng rợn vừa cảm thấy thích thú bởi nó mang nhiều dư vị của cuộc
sống và con người hiện đại. Đó là cái ghê rợn về sự huyền bí của thân phận các cô
gái (Tuyết – tinh hoa lài, Sao – tinh hoa lan) và sự vụt đến vụt đi như những bóng
ma của họ, nhưng lại rất kỳ thú. Bởi, đằng sau câu chuyện kỳ ảo là những khát khao
cháy bỏng về tình yêu đôi lứa. Là hành trình đi tìm tự do cá nhân và hạnh phúc cho
riêng mình. Bởi thế, nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh luôn là những chàng
trai, cô gái (đang ở độ tuổi dạt dào cảm xúc yêu đương) mang trong mình một khát
vọng cần được giải phóng, một cái tôi cá nhân cần được khẳng định.
Viết Người bạn kì la, Hoàng Trọng Miên đã kí gởi đến người đọc một bản
tình ca bất tử về tình yêu. Thế và Bích Trăng yêu nhau bằng một tình yêu say đắm,
ngọt ngào nhưng tình yêu ấy lại vấp phải sự ngăn cấm của hai gia đình. Đó là một
trở lực muôn đời chẳng dễ vượt qua. Để nhân vật của mình thỏa vẹn hạnh phúc lứa
đôi trong cõi thế gian, tác giả đã tạo ra tình huống truyện kỳ ảo, khác thường. Đó là
cái chết bất ngờ và sự sống lại kì lạ của Bích Trăng. Chính sự thâm nhập của “cái
phi lý”, “cái bất khả giải” vào cốt truyện đã tạo nên nhiều tầng ý nghĩa cho tác
phẩm. Chí ít, người đọc cũng nhận thấy một thông điệp về tình yêu đôi lứa: đó là
những khát khao cháy bỏng được yêu và sống hết mình cho tình yêu. Và, tình yêu
ấy cũng chính là sự đột kích vào tường thành của lễ giáo phong kiến để chống lại
những định kiến lạc hậu, lỗi thời.
Người con gái thần rắn (Cung Khanh), là tác phẩm mang dáng dấp của một
truyện cổ nhưng đậm chất triết luận về tình yêu đôi lứa. Người con gái thần rắn là
kết quả của tình yêu say đắm giữa thần Rắn và Hoa anh đào. Thần Rắn và Hoa Anh
Đào đã dốc hết tinh lực để sinh ra nàng. Khi thần Rắn sắp qua đời đã trối trăn với
nàng: “Con là kết quả ái tình của một thần linh và một nhan sắc tuyệt trần. Con là
một giai nhân của những giai nhân trong đời, một thần linh trong những thần linh.
Đời con sẽ là đời của mẹ con và của ta hợp lại. Nhưng nếu con muốn giữ vẹn toàn
đức tính, con phải xa lánh tình yêu đi; gương mẹ con ngày trước và của ta bây giờ
đủ cho con thấy xa...” [10, tr.411]. Và cũng chính từ ấy, ái tình đã gieo vào lòng
nàng một nỗi ghê tởm và sự thù hận, nàng nguyền hễ gặp ái tình chốn nào sẽ tiêu
diệt đi. Thế nhưng, ái tình vẫn cứ đến với nàng như một nỗi cám dỗ, như một giấc
mơ say. Bên người yêu, nàng luôn cảm thấy thiết tha, đắm đuối quyến luyến không
nguôi. Một hôm, trong cơn mê lịm của ái tình, nàng chợt nhớ đến lời cha dặn và
bỗng có cảm giác ghê sợ ái tình, nàng liền dùng mũi kim chứa nộc độc của loài rắn
đâm vào trái tim của người yêu để giết chết ái tình ghê tởm. Nguyền xưa đã trả
nhưng trái tim nàng lại luôn ghi khắc hình bóng của người yêu xưa. Cuối cùng,
nàng đã chết khi sinh hạ đứa con của ái tình. Đó là cái chết ngây ngô của một người
con gái say đắm ái tình trần thế nhưng luôn bị khuôn định bởi một quan niệm khô
cứng (lời trăn trối của cha và mẹ). Chính vì thế ta có thể mạnh dạn khẳng định rằng:
tác phẩm Người con gái thần rắn là tiếng nói thiết tha về tình yêu và hạnh phúc lứa
đôi. Ẩn đằng sau câu chuyện kỳ dị ấy còn là sự phản bác lại quan niệm cổ hủ của
một thời về tình yêu.
Có thể nhận thấy rằng: qua yếu tố kỳ ảo, khuôn mặt tình yêu đã được soi
chiếu dưới nhiều góc cạnh khác nhau và từ đó ánh lên nhiều sắc màu quyến rũ.
Đồng thời yếu tố kỳ ảo còn giúp nhà văn khai thác thấu triệt những khát khao về
tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người trong cuộc sống hiện đại. Lựa chọn cốt
truyện kỳ ảo, liêu trai, nửa liêu trai cũng là cách mà nhà văn thoát ly khỏi hiện thực
tù túng để phiêu bồng vào địa hạt của tình yêu. Nơi ấy, con người tìm thấy được
cảm xúc thật của mình, được tự do luyến ái, được tự do kiếm tìm hạnh phúc trong
cõi nhân sinh.
2.3.4. Yếu tố kỳ ảo và cảm hứng triết luận về con người.
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
không chỉ là sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị Chân - Thiện - Mĩ,
là quan niệm về thế giới đa chiều và con người tâm linh, hay những khát khao về
hạnh phúc lứa đôi mà còn là cảm hứng triết luận về con người. Chính cảm hứng ấy
đã góp phần khai phá những bí ẩn bên trong tâm hồn con người, đem đến cho văn
học hiện đại những cái nhìn đa diện nhiều chiều hơn về con người và cuộc đời.
Nói đến cảm hứng triết luận về con người trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn
1930 – 1945 là nói đến cảm hứng khai phá những vấn đề vốn đang tồn tại trong
cuộc sống hằng ngày. Đó là vấn đề mang tính nhận thức cần có sự bàn luận, suy
ngẫm. Bởi cuộc sống và con người như những dòng sông trôi chảy không ngừng,
không nhất thiết dòng sông ấy lúc nào cũng có sóng ngầm, lốc xoáy, và không hẳn
trong cái bằng lặng, dung dị của nó không có những vấn đề khiến ta phải suy ngẫm
về sự đời, tình người, không có những vấn đề bức bối đặt ra cho nhân cách con
người. Đồng thời, ẩn đằng sau những câu chuyện dung dị ấy là ánh mắt cảm thương
chia sẻ của nhà văn đối với những kiếp sống “mờ mờ nhân ảnh”.
Bằng ngòi bút sắc lạnh nhưng đầy nhân bản, Thế Lữ đã đem đến cho người
đọc tấn bi kịch về cuộc sống của mẹ con người Mán (Tiếng hú ban đêm). Đó là
thân phận bé nhỏ của những người đàn bà bị phụ tình. Họ như những cánh hoa tơi
tả giữa chợ tình nổi trôi. Họ chới với mất niềm tin vào cuộc đời nên sống lầm lủi, xa
lánh cộng đồng. Để rồi giữa chốn rừng hoang vu lạnh vắng họ trở thành miếng mồi
cho hổ dữ. Tiếng hú rùng rợn trong đêm mẹ con nàng Mi Nàng gặp nạn không phải
là tiếng gầm của hổ dữ giữa chốn thâm u. Đó là tiếng than não nùng về thân phận
của người phụ nữ, là khát khao về một cuộc sống bình đẳng. Là âm vang ai oán
kinh động lòng người về lối sống hủ lậu, mê tín. Là tiếng nói của tình mẫu tử thiêng
liêng cao đẹp của con người.
Từ môtíp người ngậm ngải lâu ngày hóa thành thú rừng phổ biến trong các
truyền thuyết ở vùng rừng núi, Thanh Tịnh đã viết nên tác phẩm Ngậm ngải tìm
trầm đậm chất ma quái, rùng rợn. Ẩn đằng sau câu chuyện người biến thành hổ là
cả một sự dày công khám phá về thế giới tình cảm của con người. Con người khác
với con vật ở chỗ dù họ có bị biến dạng về nhân hình (như bác Diệm trai) nhưng
nhân tính của họ không hề bị đánh mất. Thế nên, Bác Diệm trai dù đã hóa hổ nhưng
tình cảm thương nhớ gia đình, vợ con cứ luôn đau đáu trong lòng. Và hình ảnh
người vợ nước mắt tràn mi, nén nổi đau thương vào tận đáy lòng nhìn người chồng
cất lên tiếng rú vĩnh biệt: “Đoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi truồi,
rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt” [18] đã làm nghẹn lòng người đọc về tình
cảm chồng vợ thiết tha. Hơn thế, lời kết của tác phẩm: “Dãy núi Truồi từ đó đã như
một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm” [18]
đã gieo vào lòng người đọc nỗi buồn thương man mác và những nghĩ suy về tình
đời, tình người.
Viết tác phẩm Tết trên Mường, Đỗ Huy Nhiệm không phải xác tín niềm tin
vào sự linh thiêng của ma giữ của, cũng càng không phải để cợt nhã về sự mong
muội của người dân xứ Mường. Bằng tình yêu thương, tác giả đã nhìn thấy rõ cái
bản chất hồn nhiên, chân thật của người “đường rừng”. Đồng thời, ký gởi đến cuộc
đời bức thông điệp đầy tính nhân văn: hãy nhìn con người và cuộc sống bằng cái
nhìn cảm thông, chia sẻ.
Tác phẩm Người con gái tỉnh Bắc (Phạm Cao Củng) là câu chuyện về oan
hồn ma nữ Ngọc Bách đêm đêm hiện hình thành cô gái đẹp để quyến rũ chàng thư
sinh… và nhờ cậy chàng trai “ra tay cứu độ chôn cất cho êm đẹp nắm xương tàn”.
Ẩn đằng sau câu chuyện kỳ ảo, hoang đường đậm chất ma quái là câu chuyện gợi ý
thức trần thế. Nó gieo vào lòng người đọc sự đồng cảm, xót thương đối với những
số phận nhỏ bé chông chênh. Là sự gợi nhắc một quan niệm tâm linh rất nhân bản
về cuộc sống đó là: những linh hồn chết oan khuất cũng có nhu cầu được siêu thoát
và đòi hỏi người sống phải có cách ứng xử đúng mực với họ.
Trong cảm hứng triết luận về con người, các tác giả văn xuôi lãng mạn cũng
không ngần ngại đi sâu vào khám phá bản chất của con người. Có thể thấy, cuộc
sống đời thường với những bề bộn lo toan cùng nhiều ham muốn, con người nhiều
khi không biết trân trọng những cái vốn có ở quanh mình. Hoặc nhiều khi không
làm chủ được những đòi hỏi của bản thân trước những cám dỗ tầm thường đến nổi
phải đánh mất chính mình. Yếu tố kỳ ảo như là chất thử để làm sáng rõ bản chất
người và đem đến những bài học nhân sinh quí báu.
Trí tuệ của con người là một vẻ đẹp đáng ngợi ca và trân trọng. Viết tác
phẩm Hoàng Kim Ốc, tác giả Cung Khanh đã sử dụng môtíp về sự phân thân người
– vật (ngôi nhà vàng) để giúp cho người đọc nhận ra được vẻ đẹp ấy. “Cái nhà toàn
bằng vàng, và trong đó có đủ thứ bửu vật” và đó là “cái nhà quý báu hiện có trên
trần gian”. Ngôi nhà ấy chỉ xuất hiện khi chàng thư sinh “mài giũa sự gì trên trang
giấy trắng. Khi chàng ngồi nghĩ, tự nhiên trang ấy xuất hiện một hạt ngọc; lúc bấy
giờ lấy ngọc ấy mà soi, tự nhiên xuất hiện “hoàng kim ốc”” [10, tr.374].
Tác phẩm Đi tiêu dao (Cung Khanh), nhờ yếu tố kì lạ mà nhân vật tôi được
đi chu du khắp thiên hạ, nào là: vương quốc mặt trăng, mặt trời… Mỗi nơi đi qua là
mỗi lần ông chợt nhận ra rằng: tất cả đều không thể sánh bằng cuộc sống của trần
gian. Thông qua việc đối sánh với các thế giới khác giá trị đích thực của cuộc sống
trần thế được phát hiện, chiêm ngưỡng và trân trọng. Câu nói của Linh thần: “Ấy
thế là tính chung của phần đông nhân loại các người. Họ đi chơi đâu đâu trước đã
rồi sau cùng mới nghĩ đến xứ sở của họ. Có kẻ không biết xứ sở mình có gì, lại thấu
rõ những sự đâu trên Hỏa tinh, Kim tinh, vân vân…” đã soi rõ bản chất của con
người. Đồng thời là lời nhắc nhở con người phải biết quí trọng những cái vốn có ở
quanh mình.
Tác phẩm Quyến rũ (Cung Khanh) là câu chuyện về hành trình tu hành để
đến cõi Phật của cụ Huyên. Trên hành trình ấy, cụ Huyên đã rất khổ hạnh để vượt
qua những cám dỗ của cuộc sống trần tục để sớm đến cõi Niết bàn. Thế nhưng, “con
ma” dục vọng của bản thân đã làm cụ không thể vượt qua được những quyến rũ của
thế tục. Câu chuyện đã để lại bài học giàu giá trị nhân sinh. Đó là bài học về sự tự
kiềm chế bản thân trước những cám dỗ của cuộc đời. Cám dỗ đó sẽ quật ngã bất cứ
con người nào khi có cơ hội. Dù người ấy được thừa hưởng một nền giáo dục và
chế độ đãi ngộ ưu việt đến mức nào đi chăng nữa, nhưng chỉ cần một phút ngã lòng,
họ sẽ trượt dài trên con đường tội lỗi. Vì vậy, con người cần phải biết kiềm chế,
phải biết chiến thắng dục vọng của bản thân mình.
Đàn bồ câu trắng (Hoàng Trọng Miên), là tác phẩm kỳ ảo mang bóng dáng
của một câu chuyện cổ tích. Truyện kể về vị đạo sĩ đánh con rắn cứu nạn cho đàn
chim bồ câu; Con rắn biến thành người đàn bà đẹp hiện ra quyến rũ vị đạo sĩ vào
cuộc ái ân để trả thù; Đàn bồ câu trắng tung mình vào gác chuông gióng lên âm
thanh giục giã gọi ông đò đưa đạo sĩ sang sông. Cốt truyện chỉ có vậy nhưng bằng
giọng văn thâm trầm, ý nhị Hoàng Trọng Miên đã khai mở ra một thế giới tươi đẹp
hư ảo nhưng giàu triết lý nhân sinh. Hình ảnh đàn chim bồ câu trắng - những con
vật bé nhỏ, nhưng lại đóng vai trò người dẫn đường, cao hơn nữa, là một người khai
sáng giác ngộ… trở thành một hình tượng rực rỡ cho sự trong sáng khát khao hòa
bình và lối sống nghĩa tình. Nó còn là tấm gương soi chiếu những khuôn hình người
đang thoái hóa trong nhân cách sống, soi rõ lối sống hiện sinh bi đát của con người.
Viết tác phẩm Trên bồng lai, Cung Khanh xây dựng nên thế giới của những
nhân vật siêu nhiên: Mạnh Kha, Hoa Đà, Tào Tháo, Trương Tử Phòng cùng ngự nơi
chốn bồng lai tiên cảnh. Trong cuộc hội ngộ kỳ lạ ấy, linh hồn của các hiền sĩ đang
mê man nghe Tào Tháo bàn việc lớn: cướp phép “biến cải” của Hóa Công và mọi
người cùng chia sẻ quyền năng. Lời “hoạt bát, hùng hồn” của Tào làm cho các linh
hồn trở nên hăng hái: “Mạnh Kha nghĩ đến chức Hóa Công, Hoa Đà nghĩ ngợi đến
cái lẽ hóa sinh của vạn vật. Trang Chu yên lặng không rõ đã nghĩ gì”. Chỉ khi tiếng
sáo của Trương Tử Phòng cất lên mới làm cho “cả thảy đều tỉnh minh”. Thông qua
hình tượng nhân vật siêu nhiên ấy, nhà văn đã nhìn nhận và đánh giá con người từ
chiều ngược lại. Thánh, thần đôi khi cũng phải ngục ngã trước “những dục vọng
quỷ quái chực chờ ám ảnh hồn người”. Vì thế, trong cuộc sống con người cần phải
tỉnh táo làm chủ bản thân mình để chiến thắng “con quỷ dục vọng có ở trong mỗi
con người”. Nếu để nó đưa đường dẫn lối, lấn át, làm lu mờ ý chí bản lĩnh thì danh
dự, nhân phẩm và vòng đời ngắn lại.
Cảm hứng triết luận về người phụ nữ và số phận của họ cũng được văn xuôi
lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 đặc biệt chú ý khai thác. Thông qua yếu tố kỳ ảo,
các nhà văn đã làm hiện lên thân phận bé nhỏ, chông chênh của người phụ nữ trong
cuộc sống đời thường: mẹ con Mi Nàng (Tiếng hú ban đêm), Peng Slao (Thần
Hổ), Oanh Cơ (Ai hát giữa rừng khuya), Tuyết (Câu chuyện mơ trong giấc mơ),
Ngọc Bách (Người con gái tỉnh Bắc)… Có điều sự chông chênh, bé nhỏ ấy đang
chứa đựng một sự bùng phát, vượt ngưỡng để hướng đến một cuộc sống mới.
Cảm hứng triết luận về số phận của người phụ nữ không chỉ dừng lại ở tiếng
nói cảm thương chia sẻ, mà còn là tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp về thể chất và những
khát khao thân xác. Nói đến vẻ đẹp “một nửa của thế giới”, các nhà văn lãng mạn
đã miêu tả bằng tất cả sự say sưa và hứng khởi. Các nhân vật: Peng Slao (Thần hổ),
Oanh Cơ (Ai hát giữa rừng khuya), Sao (Lan rừng), Người đàn bà (Người đàn bà
trong trắng), Người đẹp phương Đông (Người đẹp phương Đông), Ngọc Bách
(Người con gái tỉnh Bắc)… đều là những cô gái trẻ tuổi “sắc nước hương trời”.
Qua lăng kính văn học, vẻ đẹp nữ tính ấy được các nhà văn chú trọng miêu tả bằng
sự chiêm ngưỡng của những đôi mắt nghệ thuật chân chính. Vẻ đẹp của họ là những
kiệt tác của tạo hóa làm say đắm lòng người: Peng Slao “nàng là một thiếu nữ
Mường, nhưng là một thiếu nữ Mường tuyệt sắc, có lẽ đẹp hơn nhiều các cô ả dưới
tỉnh thành! (...) Môi nàng đỏ thắm như hoa, cười một nụ cười say đắm. Hàm răng
trắng nõn như ngà (…), đôi con mắt đen sáng như gương, dưới vành lông mày dài,
phăn, vành cong bán nguyệt” (Thần hổ ); Oanh Cơ “ là một công trình tuyệt mĩ
tuyệt xảo của Hóa công, gồm cả thanh âm lẫn nhan sắc. Đó là một người đàn bà
độc nhất vô nhị trong một thời, mà cứ khoảng trong năm sáu trăm năm, mới được
gặp một lần trên cõi phàm tục” nàng như “một pho tượng ngọc ngà vô giá, tóc đen,
đen nháy dài chấm gót, da trắng, trắng hồng mịn như lụa, ngực nở mông cong, lưng
thon vai nhỏ càng trông càng đắm càng ngắm càng duyên” (Ai hát giữ rừng
khuya); Hoàng Lan Hương có “khuôn mặt tuyệt mĩ với nước da rất trắng, và từng
nét môi, từng vòng mi, từng vành tay nhỏ và nhất là cặp mắt đen láy lonh láng sáng
và yêu lặng một vẻ dị thường” (Trại Bồ Tùng Linh); Nữ thủy thần với “đôi mắt
xanh biếc với làn mi dài uốn cong (…) suối tóc xanh mượt tuôn chảy trên một thân
hình lồ lộ, da thịt xanh màu ngọc thạch để nổi những làn gân nhạt, và hai vú tròn
trĩnh, trinh bạch, ngon lành như trái cây tươi” (Trăng xanh huyền hoặc)... Mỗi
người mang một dáng vẻ mĩ miều khác nhau nhưng ở họ luôn chất chứa những khát
khao yêu đương trần thế. Dù là hiện thân của những oan hồn hay ma, quỷ thì các cô
gái trong các tác phẩm: Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn); Người
con gái tỉnh Bắc (Phạm Cao Củng); Người đàn bà trong trắng, Người đẹp phương
Đông (Hoàng Trọng Miên); Câu chuyện mơ trong giấc mộng (Nhất Linh); Người
con gái thần rắn (Cung Khanh)… vẫn hiện lên với những cảm xúc chân thật nhất
trong tình yêu. Sự hiện diện của họ giữa cõi trần thế là để hưởng ái ân và hạnh phúc
lứa đôi mà bất cứ đâu cũng không có được. Chính vì lẽ đó, các nhà văn không ngần
ngại ghi khắc lại những giây phút mê đắm trong tình yêu của các nhân vật. Đó là
những phút giây: “Chàng quì xuống, nắm lấy bàn tay xinh đẹp in mấy làn gân xanh
nhạt, nàng để yên cho Thanh. Chàng ấp vào bàn tay, ngẩng đầu lên nhìn rồi ngả
mình vào lòng nàng, nhắm mắt hôn lên má, môi, cổ, làn ngực trắng nõn nà” (Người
đẹp phương Đông); hay “Nàng yêu đương chàng một cách nồng nàn thân thiết,
vuốt ve chàng và lên giọng nỉ non hát ru cho chàng ngủ, khiến hồn chàng phút chốc
như chia ra tan tác, như bay bổng lên một tầng thế giới xa xăm. Gối lên cánh tay
ngà ngọc của người yêu, chàng thiu thiu buồn ngủ”; hoặc là “Tuấn ôm bên mình
một mỹ nhân nhu mì, thuần thục nhưng nồng nàn xiết bao! Anh cúi xuống dần. Đôi
mắt kia dìu Tuấn vào một bẻ sôi nổi (…) Tuấn âu yếm bước xa dần ánh sáng đèn
trên bàn viết, bên vai trĩu một sức nặng bám víu lả lơi. Nàng ngoan ngoãn như trẻ
thơ, bước chân nhẹ nhàng và ân ái theo Tuấn” (Trại Bồ Tùng Linh)… Có thể thấy,
tiếng nói đam mê ấy như cất lên tự sâu thẳm trong đời sống tình cảm của người phụ
nữ hiện đại. Họ khao khát được tự do, được bình đẳng và có quyền được hưởng ái
ân xác thịt. Bởi, đó là nhu cầu chính đáng của người phụ nữ chứ chẳng phải của
riêng ai. Phải chăng, đây chính là lộ trình khởi nguồn cho diễn trình giải phóng dục
tính nữ trong văn học Việt Nam.
Nói tóm lại, trong cảm hứng triết luận về con người văn học giai đoạn này có
một bước đột phá mới mẻ trong quan niệm nhận thức về con người. Con người hiện
ra với nhiều dáng vẻ với nhiều số phận và mơ ước khác nhau. Tiềm ẩn bên trong
tâm hồn con người hiện đại là nỗi trăn trở, day dứt về nhân cách, thân phân của họ
trước cuộc sống. Với sự trợ giúp của yếu tố kỳ ảo đã giúp cho văn học “chạm” đến
những ước mơ, khát vọng của người phụ nữ mà bấy lâu nay vẫn bị đè nén hoặc
chưa có dịp để chạm đến. Đồng thời, nó còn “thấu hết” tất cả những điều bí ẩn bên
trong tâm hồn mỗi con người.
2.3.5. Yếu tố kỳ ảo – những lý giải khoa học về các hiện tượng thần bí
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 còn là phương
tiện để lý giải những hiện tượng siêu nhiên, bí ẩn bằng ánh sáng của khoa học. Đọc
những trang viết kiểu này, ban đầu cứ tưởng là siêu nhiên, huyễn hoặc, ma quái sau
không phải, đó chẳng qua là những ảo giác, ảo mộng…
Với tinh thần duy vật, một số truyện kỳ ảo của Thế Lữ: Vàng và máu, Trại
Bồ Tùng Linh, Một đêm trăng… đã dùng kiến thức khoa học để lý giải những hiện
tượng thần bí, huyễn hoặc mà bấy lâu nay người dân Việt Nam vì kém văn minh, ít
hiểu biết vẫn tin theo đến mất cả lý trí.
Viết truyện Vàng và máu, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới huyền
ảo kỳ bí. Câu chuyện bắt đầu từ hang Văn Dú từ lâu đã nổi tiếng là một hang thần.
Thần núi thường hiển hiện tác hại, gây lắm sự khủng khiếp, khiến dân cả vùng sợ
hãi lánh xa. Một hôm có hai người Thổ mạo hiểm vào hang. Một người tử nạn, một
người kịp chạy về châu Nga Lộc, trình báo quan Châu một mảnh giấy có những lời
chú kì dị. Nhờ những lời chú đó mà quan Châu đã biết được hang Văn Dú là nơi cất
giấu vàng ngọc của viên quan Tàu nhà Minh. Ông bèn quyết đem gia nhân đi lấy
của, tiến vào hang thần gặp bao nhiêu cảnh chết chóc rùng rợn. Nhưng quan Châu là
người cam đảm, lại không có óc mê tín, cho nên ông đã vững trí tìm ra được kho
vàng và khám phá được cái bí mật đã giết chết những người đến trước ông. Cái bí
mật đó không phải là sự trừng phạt của thần linh vì bị xúc phạm mà chẳng qua là
những hòn đá cuội có trát thuốc độc. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng: viết tác
phẩm Vàng và máu, Thế Lữ sử dụng yếu tố kỳ ảo không phải để thần bí, hoàng
đường câu chuyện mà trái lại, muốn đề cao sự tin tưởng vào khoa học, vào trí
người.
Tác phẩm Trại Bồ Tùng Linh là câu chuyện tình lãng mạn, đằm thắm nhưng
đậm màu sắc liêu trai. Tác phẩm dễ làm người đọc liên tưởng đến những “kì tình dị
sử” trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Đó là những cuộc tình giữa các nho
sinh với các hồn ma, tinh chồn… Song có một điều, truyện của văn sĩ họ Bồ là sản
phẩm của trí tưởng tượng đầy huyễn hoặc, ma quái làm cho người đọc phải sợ hãi
giữa đêm khuya, còn truyện Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) được gây dựng theo một
lối viết của óc khoa học biện chứng. Chính vì thế, khi đọc xong tác phẩm, người
đọc tự có câu trả lời về tung tích bí mật của Hoàng Lan Hương và cảm giác lo sợ về
sự huyền hồ cũng không còn nữa. Những giả thiết huyễn hoặc: Hoàng Lan Hương
là tinh hoa lan, là một oan hồn, là một yêu nữ… hiện hình để quyến rũ con người
cũng được gạt bỏ. Người đọc hiện đại sẽ tìm thấy một sự hợp lý, khoa học trong
cách giải thích của tác giả ở cuối tác phẩm.
Tác phẩm Một đêm trăng là câu chuyện lãng mạn đường rừng đặc sắc. Tác
giả trong một chuyến đi rừng, nghỉ đêm tại một cái lều. Bạn đồng hành kéo nhau
vào bản chơi, tác giả ở lại lều một mình ngắm trăng, nghe tiếng thác đổ, rồi ngủ
thiếp đi. Bỗng một cô gái Thổ rất xinh đẹp vào đánh thức và rủ chàng trai đi chơi.
Ma rừng? Oan hồn? Quỷ dữ? Hồ ly tinh? Cuộc đi chơi kết thúc trên một cái cầu, cô
gái nhờ chàng trai kéo một xác chết ngã xuống dưới cầu, vướng vào một cành cây
mọc dâm ngang sườn núi. Khi tác giả đưa được cái xác chết lên mặt cầu, nàng mới
cho hay người này đã giết chồng chưa cưới của nàng, và bị nàng báo thù đâm chết
và xô xuống thác nước, nhưng chưa xuống tới nên mới nhờ chàng trai trợ giúp. Câu
chuyện kết thúc bằng một hình ảnh kinh dị: “Nói xong, nó đứng dạng chân ra, cái
mép váy đằng trước căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng. Một tay nó xốc
ông Ba đứng dậy, một tay nữa nâng ở ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã
thấy người con gái dướn mình văng cái thây chết xuống. Rồi, không biết vì quá đà
hay cố ý, cả người con gái cũng văng theo… Mặt trăng kín đáo ẩn mình sau đỉnh
núi, hai cái thân người trên cao rơi xuống, một tiếng ghê gớm trong những tiếng
thác đổ ầm không ngớt” [34, tr.119 ]. Đúng là một tác phẩm kinh dị mà thật, cảm
tưởng kinh dị, quái ảo chỉ có lúc đầu rồi sau tan dần và nhường chỗ cho sự thật. Một
sự thật phảng phất chút huyền bí trong tâm hồn của người con gái Thổ: bí ẩn, lạnh
lùng. Tóm lại, tất cả các sáng tác kỳ ảo của Thế Lữ đều được soi chiếu dưới ánh
sáng lý luận, “song tác giả vẫn muốn giữ lại một ít sương mù phủ trên câu văn hàng
chữ, một không khí huyền ảo qua bút pháp, để gây một thi vị huyền ảo” [48, tr.407].
Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa Edgar Allan Poe (Mỹ) và Bồ Tùng Linh (Trung
Quốc) để tạo nên nét riêng Thế Lữ.
Viết tác phẩm Lửa nến trong tranh, Nguyễn Tuân không chỉ làm bật lên vẻ
đẹp về nhân cách của Lê Bích Xa. Một con người biết yêu cái đẹp, biết thưởng thức
cái đẹp. Vì cái đẹp, Lê Bích Xa không tiếc cả gia tài để đổi lấy bức tranh cổ “vẽ một
ông Tướng và một ngọn nến cháy soi xuống một cuốn sách mở của ông Tướng” [68,
tr.301]. Bên cạnh đó, tác giả còn muốn giải thích rõ hiện tượng kì lạ quái ảo, thần
diệu về hình ảnh ông Tướng Hàn Kì hiện lên trong bức tranh. Đó là bức tranh độc
đáo được tác tạo bởi một người họa sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc. Hãy nghe lời giảng
giải của cụ Lê Bích Xa: “Lỗ Hường Diên vốn là một hoạ sĩ nổi tiếng về môn vẽ và
lại kiêm cả khoa thôi miên nữa (tỉnh Mân vốn lại là quê hương của môn hư linh
học). Cứ chỗ thầy biết thì lúc tạo nên bức tranh này, Lỗ đã phải vi hành hương mãi
vào vùng Ma Thiên Nhẫn để tìm nguyên liệu như chất lân tinh và diêm sinh ở những
mả hoang gần đấy - núi Ma Thiên Nhẫn vốn là đất co chiến trường – và chất thạch
nhung ở đáy lòng sông Bộc Ly. Con cũng chưa biết công dụng hóa học của mấy
loại khoáng này. Lân và diêm sinh thì cháy sáng và thạch nhung thì không cháy,
mặc dầu bỏ thẳng vào lửa. Lụa vẽ tranh, dệt bằng tơ loài sơn tằm đánh săn lại với
thạch nhung cán nhỏ ra. Vẽ đến ngọn nến, hoạ sĩ dùng chất lân và diêm Ma Thiên
Nhẫn trộn lẫn với thuốc vẽ. Vẽ xong, hoạ sĩ thôi miên vào đầu ngọn nến. Đấy là
ruột tranh. Cái lần trong. Lần lụa vẽ ngoài, chỉ là cái lượt hoa mĩ của màu sắc và
hình vẽ phủ lên để giữ vững cái cốt kì diệu ở trong. Tranh cổ lâu ngày, lượt lụa
ngoài cũng hấp thụ được cái thần diệu của cốt trong. Và thắp vào ngọn nến ngoài
cũng có cháy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc thôi” [68, tr.302]. Có thể nói, bằng
kiến thức khoa học Nguyễn Tuân đã thuyết phục được người đọc: chính công dụng
hóa học của các khoáng chất đã tạo nên sự kì lạ, quái ảo của bức tranh chứ không hề
có một phép kì diệu nào cả.
Tác phẩm Người đàn bà trong trắng (Đỗ Huy Nhiệm), là một câu chuyện
đầy chất huyễn ảo, kỳ bí. Hình ảnh người đàn bà hiện lên đằng sau cửa sổ mỗi đêm
trăng đã gieo vào lòng Linh nỗi sợ hãi lẫn tò mò. Đêm nào cũng vậy, sau mỗi lần
ngồi đối ẩm với người thi sĩ già trở về phòng ngủ, Linh cũng bắt gặp “một hình ảnh
lãng đãng như làm bằng sương khói mong manh, huyền ảo dưới ánh trăng xanh”.
Nhưng khi Linh đến gần bên cửa sổ hình ảnh người đàn bà ấy vụt biến mất, chính
sự vụt hiện, vụt biến của người sau cửa gương tắm trăng khiến Linh nghĩ rằng: “Có
thể có một sự hiện hình của yêu tinh chăng?” hay “kiếp trước hoa là thiếu nữ và
thật có sự phục vãn trong kiếp luân hồi, hồn hoa lại hiện thành thiếu nữ chăng?”…
Đó là cách lý giải thường thấy của những người tin vào sự tồn tại của ma quỷ, oan
hồn. Nhưng sự thật, đó chỉ là hình ảnh người vợ của người thi sĩ già: “ngồi in bóng
vào cửa gương lâu năm, những chất lân tinh trên mặt thủy tinh phản chiếu ánh
sáng dần dần thấm in lấy hình ảnh. Trăng xanh huyền hoặc dội qua cửa gương làm
nổi cái hình ảnh người thiếu phụ lên” [18, tr.781]. Như vậy, bằng ánh sáng của
khoa học, Đỗ Huy Nhiệm đã giúp người đọc thoát ra khỏi cảm giác sợ hãi và sự mê
tín. Đồng thời, tác phẩm còn ẩn chứa nhiều thông điệp về tình yêu và cuộc sống.
Tác phẩm Ma đậu (Bùi Hiển) là truyện kể ly kì rùng rợn về ma đậu bắt
người. Câu chuyện bắt đầu từ gia đình chị Đỏ Câu. Chị Đỏ vốn chê chồng, nên về
nhà chồng đã năm sáu tháng, mà chị chỉ ở trọn đạo làm dâu, chứ không trọn đạo
làm vợ. Chị Đỏ vốn rất sợ ma và lo sợ ma đậu đến bắt mình. Một tối, lúc mơ màng
nằm ngủ, chị nghe thấy có tiếng cào tường, tiếp thứ tiếng khìn khìn như thốt từ mũi
ra: “Nhà ai đây? – Đỏ Câu – Vô hông? – Có trong giấy Đức Ngài phán bắt con mệ
– Rứa ta làm liền đi”. Thế là chị Đỏ Câu chạy tót vào buồng chồng nhảy đại lên
giường… Và cũng từ cái đêm ấy, chị Đỏ không dám ngủ riêng nữa mà chịu ngủ
chung với chồng. Thế là: “hơn một năm sau, người ta thấy chị bồng một đứa bé
hồng hào.
Lão Năm Xười đi qua trước cổng, thấy cảnh tượng ấy đứng lại chống nạnh
nhìn bằng đôi mắt nheo vui sướng và tự đắc. Lão nói to: “– Đó là công của tui đó,
cha”
Chị Cu đỏ mặt, trách: Biết rồi! nhắc mãi nạ!
Lão Năm cười khà khà: “Phải nhắc để anh Cu thêm tiền thưởng cho tui chớ.
Tui đóng trò có hệt hông? Đoạn, chạng chân, rút người xuống, lão vừa giậm bịch
bịch vưa bóp mũi, nói giọng khìn khịt: “Nhà ai đây?...” [18, tr.192]. Như vậy, yếu
tố kỳ ảo tham gia vào cốt truyện tạo nên một sự ma quái nhưng không phải để xác
tín niềm tin về ma đậu bắt người mà là giúp người đọc thấy rõ những cái hủ lậu, mê
tín của người nông dân. Đồng thời, tác phẩm còn ánh lên cái nhìn thân thương về
lối sống chân chất, thuần phát pha chút láu cá, tinh nghịch nhưng đậm nghĩa tình
của người dân xứ Nghệ.
Rùng rợn, ghê sợ và tin ma là có thật. Đó là cảm giác ban đầu khi người đọc
tiếp cận tác phẩm Ma của Trần Tiêu. Đặc biệt người đọc phải ú tim, khi, trong đêm
tối, anh Tíu (nhân vật tôi) đi chơi nhà ông giáo trở về nhà ngang qua cây đa làng,
bỗng : “Hú… ú… ú… Một tiếng hú ngân dài vang động cả một bầu trời đen, dầy
đặc, vừa ai oán vừa ghê rợn như tiếng… ma kêu. Tiếng liền sau, một chuỗi cười
khanh khách… lạnh lẽo, khô sắc, rắn chắc như hai ống xương gõ vào nhau (…)
Tiếng hú ngân dài và tiếng cười khanh khách vang lên lần nữa”. Nghe tiếng hú ấy,
Tíu tái nhợt người và chạy bán sống bán chết để về đến được nhà trong sự ngỡ
ngàng của người vợ: “Chết chửa! Cậu làm sao thế? Có việc gì thế cậu? (...) Ma!
ma! Mợ ạ… Tôi gặp ma” [18, tr.988]. Nhưng rồi một hôm đi thăm đồng về anh Tíu
thấy một đám đông, phần lớn là trẻ em, đứng bao bọc chung quanh gốc đa và một
người đàn bà điên: “quần áo lấm láp và rách để hở từng mảng da sém nắng. Đầu óc
rối bù, xõa xuống trông không rõ mặt” với “chuỗi cười khanh khách giòn tan, khô
xác, rắn chắc… ” [18, tr.995]. Tiếng hú và giọng cười ấy chính là tiếng hú ma quái
mà anh Tíu đã gặp mấy hôm trước. Vậy, thì ra sự thật không phải là ma hiện lên để
dọa nạt, trêu người mà đó là một người điên đi lang thang trong đêm. Vậy thì ra vì
một phút “thần hồn nát thần tính” mà anh Tíu đã nghĩ rằng đó là ma và tin ma là có
thật… Hình ảnh người đàn bà điên chính là lời chứng minh hợp lý cho những câu
chuyện về ma làng mà anh Tíu đã từng nghe trước đó. Đồng thời, nó còn như là lời
đáp cho những chuyện ma quỷ huyền hồ trong cuộc sống.
Tóm lại, với hình thức giả kỳ ảo, dùng yếu tố kỳ ảo để phủ định cái kỳ ảo,
siêu nhiên các tác giả thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 đã lý giải những hiện tượng thần bí một cách khoa học. Có điều, các tác giả
văn học học thời kì này không sử dụng yếu tố kỳ ảo như một cách phản ứng chống
lại thế giới tâm linh mà bao giờ cũng quan tâm đến tính mục đích của tác phẩm, mỗi
người mỗi vẻ và ở những mức độ khác nhau. Chính vì thế, những tác phẩm văn học
này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc.
Chương 3
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ
3.1. Kỳ ảo như một yếu tố mang giá trị mĩ cảm
3.1.1. Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng lãng mạn
Không có tưởng tượng thì không có gì hết! Nhu cầu tưởng tượng không phải
là của riêng ai. Nó là của cả nhân loại. Con người cần đến tưởng tượng để thăng hoa
và lạc quan hơn trong cuộc sống. Nhà nghiên cứu khoa học cần tưởng tượng để lập
nên những phát minh vĩ đại. Người nghệ sĩ cần đến tưởng tượng để tác tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Văn học là sân chơi của trí tưởng tượng, đặc biệt là trong văn học lãng mạn.
Trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tưởng tượng lãng mạn là một nhu cầu thiết yếu
không thể thiếu trong sáng tác của các nhà văn. Có lẽ, nhu cầu ấy xuất phát bởi sự
ra đời của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 diễn ra trong bối
cảnh có sự giao lưu văn hóa quốc tế rộng rãi. Đây là lần đầu tiên các nhà văn được
tiếp xúc với văn hóa phương Tây, được mở mang tầm nhìn, được thấy rõ không khí
tự do dân chủ trong văn hóa, văn học phương Tây. Từ đó họ ấp ủ một cái “tôi” lãng
mạn đầy cá tính và muốn được thể hiện cá tính ấy giữa cuộc đời. Nhưng xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ vẫn còn tồn tại những tư tưởng quân phiệt, độc đoán. Vì thế, cái
tôi cá nhân trong văn xuôi lãng mạn vừa ra đời đã hóa thành ngay “con bướm
trắng”. Một mặt vì nó không chấp nhận cái xã hội kim tiền ô trọc, mặt khác, nó lại
xa rời cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng, nên cái “tôi” đó rơi vào tình trạng
cô đơn, bơ vơ, không lối thoát… Để thoát ra khỏi hiện thực cuộc sống chật chội tù
túng ấy, các nhà văn đã dùng nhiều yếu tố để thoát ly. Có một con đường giúp
người ta thỏa mãn mong muốn ấy đó chính là thoát ly vào thế giới kỳ ảo. Thoát vào
thế giới kỳ ảo, chính là cách để nhà văn thỏa mãn được những khát khao giải phóng
cá tính và giải phóng tự do cá nhân của con người. Thoát vào thế giới kỳ ảo còn là
nơi để nhà văn cân bằng đời sống tinh thần. Vì thế, trong văn học giai đoạn này, yếu
tố kỳ như một liều thuốc có tác dụng kích thích năng lực tưởng tượng của nhà văn.
Đồng thời, nó như một phép màu cung cấp cho người đọc một thế giới bay bổng,
diệu kỳ, mở ra một không gian rộng rãi nhiều chiều.
Đọc các tác phẩm giai đoạn này, đặc biệt là những tác phẩm viết về tình yêu,
yếu tố kỳ ảo đã giúp cho các nhà văn: Nhất Linh, Hoàng Trọng Miên, Thế Lữ, Đái
Đức Tuấn… tưởng tượng, thêu dệt nên những câu chuyện tình yêu lãng mạn và đầy
mộng tưởng. Đó là cuộc tình thanh sạch giữa Quang và Sao (Lan rừng); là tình yêu
say đắm, mãnh liệt vượt mọi rào cản của Tuấn và Hoàng Lan Hương (Trại Bồ Tùng
Linh); là chuyện tình cảm động, thủy chung giữa Thế – Bích Trăng (Người bạn kỳ
dị)… Tất cả đều là những câu chuyện tình chỉ có trong mơ khó kiếm tìm giữa đời
thực…
Và, bằng đôi cánh tưởng tượng kỳ ảo, các nhà văn còn đưa người đọc thoát
ra khỏi cõi trần tục để phiêu bồng vào thế giới thơ mộng, huyền bí. Đó là thế giới
của thiên đình, thượng đế, tiên cảnh trong: Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân),
Trên bồng lai, Mặt trời, Đi tiêu dao (Cung Khanh). Hay là thế giới của cõi âm hồn:
Loạn âm (Nguyễn Tuân), Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái Đức Tuấn),
Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển)… Trong thế giới khác thường, kỳ
lạ ấy những câu chuyện về tình đời, tình người được tác giả gởi gắm một cách tài
tình thông qua những biến cố, sự kiện của tác phẩm. Đó chính là sức hấp dẫn của
truyện kể mà hiệu quả nghệ thuật của nó được tạo ra từ chính khả năng tưởng tượng
độc đáo của nhà văn…
Nói tóm lại, trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, yếu
tố kỳ ảo có tác dụng như một chất doping giúp nhà văn phát huy cao độ trí tưởng
tượng của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, nó còn giúp nhà văn thoát ly
ra khỏi chốn “bùn lầy nước đọng” nghèo nàn, tù hãm của cuộc sống hiện thực để
tìm vào chốn mộng ảo, cõi liêu trai…
3.1.2. Thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh
Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó con người có
niềm tin vào cái thiêng. Và, ở đó con người sống chủ yếu với phần tâm linh trong
mình và được thư giãn tinh thần, được cởi bỏ phiền muộn âu lo, cầu những điều tốt
đẹp cho mình và cho mọi người. Chính vì thế, sự có mặt của yếu tố kỳ ảo trong các
tác phẩm văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 không chỉ thỏa mãn nhu cầu
tưởng tượng của nhà văn mà còn thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con
người. Trong luận văn này, chúng tôi đi vào tìm hiểu đời sống tâm linh của người
Việt Nam qua những biểu hiện: niềm tin vào thế giới ma quỷ, thần thánh, phong tục
thờ cúng và một số tập tục: thờ thần, khấn nguyện, cúng tổ tiên…
Con người phương Đông luôn tin rằng hiện hữu bên cạnh thế giới hằng
thường là thế giới của các thế lực siêu nhiên: ma quỷ, thần linh... Qua thời gian, với
sự biến chuyển của lịch sử, xã hội niềm tin ấy có sự thay đổi dần nhưng nó vẫn duy
trì cho đến ngày hôm nay. Thậm chí, ở những dân tộc đã đạt đến một xã hội hiện
đại, sự xác tín về thế giới bên kia vẫn được bảo lưu dưới nhiều hình thức. Đời sống
tâm linh của người Việt cũng vậy. Tuy nhiên, do sự giao lưu ảnh hưởng các nền văn
hóa lớn như Ấn Độ, Trung Quốc cộng với văn hóa tâm linh bản địa đã làm cho quan
niệm của người Việt khá phong phú. Nói về thế giới bên kia bao gồm cả thiên đình,
âm phủ, tiên giới. Đây là kết quả của sự tích hợp nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật giáo
và đạo giáo. Trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 niềm tin ấy
được phản ánh rất rõ qua một số sáng tác của Thế Lữ, Đái Đức Tuấn, Thanh Tịnh,
Bùi Hiển… Truyện Ma xuống thang gác (Thế Lữ), Người con gái tỉnh Bắc (Phạm
Cao Củng)… chứa đựng những motif thường được kể trong dân gian đồng bằng
Bắc bộ như motif ma trêu người, ma giấu người. Truyện Tết trên Mường (Đỗ Huy
Nhiệm), Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn) thể hiện quan niệm tâm
linh của một số dân tộc thiểu số ở phía Bắc: đó là tục thờ ma xó, niềm tin vào sự tồn
tại của ma trành (linh hồn của người chết sau khi bị hổ ăn thịt), niềm xác tín vào sự
thành thông của hổ. Truyện Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển),
Làng (Thanh Tịnh) gắn liền với thế giới tâm linh của người dân vùng biển. Họ tin
rằng lòng đại dương bao la là nơi trú ngụ linh hồn của người tử nạn, vì thế mới có
những câu chuyện về thuyền ma và những bóng ma lúc ẩn lúc hiện trên mặt biển
bao la. Truyện Loạn âm là niềm tin của con người về âm giới và coi đó là nơi qui tụ
của linh hồn người chết. Vì thế, cứ vào dịp lễ tết, ngày rằm người ta thường đốt
những thứ được gọi chung là hàng mã: giấy tiền, vàng giấy, các vật dụng bằng
giấy… với mong muốn người ở suối vàng sẽ nhận được và dùng cho cuộc sống
dưới đó. Truyện Trên đỉnh non Tản, Một truyện không nên đọc lúc giao thừa
(Nguyễn Tuân) là quan niệm về sự bất tử của thần Sơn Tinh trên núi Ba Vì và về
thần giữ của ở những nơi cất giấu đồ vật quí của người xưa…
Bên cạnh niềm tin vào sự tồn tại của thần linh ma quỷ, đời sống tâm linh còn
được thể hiện qua tục thờ cúng. Thờ cúng là một phong tục có vị trí quan trọng
trong đời sống tâm linh của người Việt từ xa xưa. Trong văn học trung đại, tín
ngưỡng thờ cúng có mặt hầu khắp trong các tác phẩm: Lĩnh Nam chích quái của
Vũ Quỳnh – Kiều Phú, Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Văn chiêu hồn
của Nguyễn Du, Công dư nghiệp chí của Vũ Phương Đề, Lan Trì kiến văn lục của
Vũ Trinh… Bước sang thời hiện đại, trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 tín ngưỡng ấy vẫn ghi dấu qua các sáng tác của Nguyễn Tuân, Nhất
Linh, Đái Đức Tuấn, Thế Lữ… Nó như một biểu hiện của một nếp sống, phong tục
dung dị giàu tính nhân văn đã bám rễ sâu trong tâm thức của người Việt Nam.
Phong tục này trong văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam bao gồm: thờ tổ tiên, cúng
tế oan hồn, thờ nhiên thần (thần cây, thần rắn, thần hổ)…
Thờ tổ tiên, cúng giỗ cha mẹ là một mĩ tục có từ lâu đời. Tục lệ này thể hiện
ở việc thờ phụng lo chu tất vẹn toàn các ngày cúng giỗ của tổ tiên, ông bà. Đó là
trách nhiệm vừa là đạo lý của con cháu đối với nguồn cội. Tác phẩm Làng (Thanh
Tịnh) không chỉ miêu tả cảnh giỗ cúng linh nghiêm nơi am Cô giang mà còn gợi
nhắc con người về nghĩa vụ của hậu thế đối với quê hương, đối với ngày giỗ cúng
“ông bà”.
Cúng tế cũng là một tập tục khá quen thuộc trong đời sống tâm linh của
người Việt. Đó là nghi lễ thờ cúng hết sức trang nghiêm thể hiện tính nhân đạo và
mong muốn giải thoát cho các oan hồn trong quan niệm dân gian. Tâm thức dân
gian này được thể hiện khá rõ trong tác phẩm Khoa thi cuối cùng, Loạn âm của
Nguyễn Tuân, Ai hát giữa rừng khuya, Thần ho của Đái Đức Tuấn, Trại Bồ Tùng
Linh của Thế Lữ… Đọc tác phẩm Khoa thi cuối cùng (Nguyễn Tuân), chúng ta có
thể thấy rõ nguồn mạch của đời sống tâm linh truyền thống của dân tộc đó là: tục
lên đồng và tục cúng tam sinh tế lễ trời đất quỷ thần và các oan hồn.
Trong tác phẩm Làng (Thanh Tịnh) lễ cúng giao thừa tiễn đưa năm cũ đón
năm mới cũng được hiển hiện nơi Am Cô Giang: “Ngay lúc ấy ở triền núi Bạch Vân
có mấy ánh đèn của chùa Linh Sơn nổi lên trong đám cỏ cây trùng trùng điệp điệp.
Có lẽ chùa đang cúng lễ giao thừa” [41, tr.218].
Xuất phát từ tín ngưỡng bách thần, người Việt có tín ngưỡng thờ thần, bao
gồm cả “phúc thần” và “nhiên thần”. “Phúc thần” là những vị thần có công đức đối
với đời sống của nhân dân. Thờ thần Tản Viên ở đền thượng trên núi Ba Vì (Trên
đỉnh non Tản – Nguyễn Tuân), hay tục thờ Đức Bà Thánh Mẫu Liễu Hạnh sở Sòng
Sơn (Ai hát giữa rừng khuya – Đái Đức Tuấn)… là những minh chứng sinh động
cho niềm tin ấy. Thờ “nhiên thần” bắt nguồn từ quan niệm “vạn vật hữu linh” trong
đời sống tâm linh của dân tộc. Niềm tin ấy được hiện hữu trong các tác phẩm: Ông
rắn (Cung Khanh) – đó là tục thờ thần rắn; Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái
Đức Tuấn) – thờ thần hổ; Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân) – tục thờ thần cây…
Điềm báo cũng là một loại tín ngưỡng có thực và khá phổ biến trong đời
sống tâm linh của người Việt. Hiện tượng điềm báo giúp con người biết trước sự dỡ
– hay, may – rủi… sắp và sẽ xảy ra trong cuộc sống. Đó không phải là sự chiêm
đoán mà còn là sự chiêm nghiệm từ thực tế. Tìm vào kho tàng văn học cổ, chúng ta
sẽ nhận thấy có rất nhiều những tác phẩm in đậm dấu ấn của loại tín ngưỡng này.
Trong tác phẩm Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề) là niềm tin vào điềm lạ chuột tha
lá phủ mặt báo trước con người sẽ gặp nạn. Trong Tang thương ngẫu lục (Phạm
Đình Hổ), cuộc đời oan khiên thảm khốc của Nguyễn Trãi được dự báo trước bởi
giọt máu của con rắn nhỏ đúng chữ đại và thấm qua ba tờ giấy trên cuốn sách ông
đọc… Trong các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 niềm tin vào điềm báo vẫn được bảo lưu qua một số tác phẩm: Thần hổ, Ai
hát giữa rừng khuya… Trong tác phẩm Thần hổ, điềm báo trước sự dữ về chuyến
đi xa của anh linh dõng thông qua chi tiết chuột ta lá phủ mặt: “Bỗng đâu, vừng
mây che lấp mặt trăng tan đi, ánh trăng tia thẳng vào đầu anh lình dõng. Liền lúc
ấy, một con chuột từ phía dưới nhà chạy thẳng lên hè, mồm tha một chiếc lá bàng
to. Con vật ấy rón rén lại gần dầu anh lính, phủ chiếc lá lên mặt người mê ngủ (…).
Ngài lại gần, nhặt chiếc lá bàng trên mặt anh ném ra ngoài (…). Chẳng bao lâu
con chuột tha chiếc lá khác lại phủ lên mặt anh ta (…). Ngài bèn nhặt chiếc lá vứt
đi chỗ khác. Quả nhiên con chuột lại tha chiếc lá khác nữa…” [66, tr.65,66]. Và
quả nhiên, trong chuyến đi đó anh lính dõng đã gặp một tại họa kinh hồn: bị thần hổ
phục bắt, nhưng may mắn thoát chết. Trong tác phẩm Ai hát gữa rừng khuya, nhân
vật Oanh Cơ trước khi bị hổ vồ chết cũng đã gặp những điềm báo kỳ lạ: “Trước khi
lên đường không hiểu vì sao, nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn khó tả, tựa hồ báo
trước cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ. Rửa mặt, nàng ngửi nước
thấy mùi tanh, ra cửa nàng bị vấp suýt ngã. Nàng ngồi ở đâu thì chỗ ấy có nhện đen
sa. Thực là những điềm quái dị vô cùng” [66, tr.248]. Từ đó, chúng ta có thể thấy
điềm báo là một loại tín ngưỡng có thực và khá phổ biến trong đời sống của người
Việt. Đó chính là sự cảm ứng kỳ lạ của cơ trời và con người trong mối quan hệ
“thiên nhiên tương dữ”. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, điềm báo vẫn tiếp tục tồn
tại trong đời sống tâm linh của con người: đó là niềm tin vào sự linh cảm và lẽ
huyền bí nhiệm màu của đất trời vạn vật.
Qua nghiên cứu các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy yếu tố kỳ ảo đóng một vai trò quan
trọng trong việc hiển hiện đời sống tâm linh tín ngưỡng của con người. Đó là niềm
tin mãnh liệt, thiêng liêng của con người vào phép nhiệm màu huyền bí của đất trời,
của thánh thần, của cuộc đời. Niềm tin ấy giúp còn người tin tưởng lạc quan và
hướng thiện hơn trong cuộc sống.
3.2. Kỳ ảo như một yếu tố, phương tiện kỹ thuật trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn.
3.2.1. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên cốt truyện
Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức của
tác phẩm văn học. Cốt truyện là kết quả của sáng tạo nghệ thuật, là tiền đề hình
thành nên thế giới sinh động trong tác phẩm tự sự của nhà văn. Để cho tác phẩm có
thêm phần mới lạ, hấp dẫn các tác giả thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 đã gia vị yếu tố kỳ ảo vào cốt truyện để tạo sức hút đối với độc
giả. Nghiên cứu cốt truyện của các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy yếu tố kỳ ảo đóng một vai trò
quan trọng trong việc tổ chức cốt truyện. Nhìn chung, yếu tố kỳ ảo có mối quan hệ
với cốt truyện như sau:
Yếu tố kỳ ảo đóng vai trò song hành cùng cốt truyện. Ví dụ một số truyện:
Rừng khuya (Lan Khai), Bữa rượu máu, Đới roi, Rượu bệnh, Tâm sự nước độc
(Nguyễn Tuân)... Ở loại truyện này, yếu tố kỳ ảo được tác giả lồng ghép vào cốt
truyện một cách có ý thức, tạo nên một kiểu thêm thắt, gia giảm, một kiểu đan lồng
giữa cái thực và cái ảo. Sự có mặt của yếu tố kỳ ảo không phải để kỳ ảo hóa cốt
truyện mà là để tôn tạo và soi sáng hiện thực. Góp phần làm cho tác phẩm có dáng
vẻ mới lạ và hấp dẫn hơn.
Tác phẩm Rừng khuya (Lan Khai) kể về mối tình trong trắng, tươi đẹp của
đôi trai gái Dua Phăn và Mai Kham. Khi tình yêu bị chia cắt, cả hai cùng tự sát để
bảo vệ tình yêu và lời thề thủy chung. Và, từ đó: “trong rừng khuya người ta bắt
đầu nghe có tiếng chim ai oán gọi đàn (…) người ta bảo đó là oan hồn của đôi tình
nhân xấu số đã hóa đôi chim để nghìn muôn năm ca khúc hận tình dưới trời đêm
lạnh” [59, tr.58]. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện ở phần kết của câu truyện tạo nên nhiều ẩn
nghĩa cho tác phẩm. Tuy nhiên nếu chúng ta gạt bỏ yếu tố kỳ ảo thì cốt truyện cũng
không hề thay đổi.
Tác phẩm Bữa rượu máu (Nguyễn Tuân), có cốt truyện kể về buổi hành
quyết tử tù theo lối “chém treo ngành” của đao phủ Bát Phẩm Lê cho quan Đổng lý
quân vụ và quan công sứ Nam kì xem. Trước khi quan công sứ Nam kì ra về, bỗng:
“…một trận lốc xoáy rất mạnh (…) xoắn giật, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh
đám tử thi, và đuổi theo các quan ra về.” [68, tr.84]. Yếu tố kỳ ảo trở như một thứ
gia vị để làm sáng rõ hơn hành động phi nhân tính của xã hội đương thời. Đồng
thời, thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng.
Trong tác phẩm Đới roi (Nguyễn Tuân), yếu tố kỳ ảo cũng xuất hiện ở cuối
tác phẩm. Nhân vật Ấm Đái sau khi treo cổ chết đã trở thành: “một ông mãnh rất
thiêng thường hiện ra để quấy những nhà chủ cô đào ở Khâm Thiên dám vô lễ với
vong hồn mình vẫn oán kết gần quanh kỹ viện. Nhiều nhà hát, những đêm không có
khách, đã khóa trái cửa gác rồi mà cứ vẫn nghe tiếng đánh trống trên đầu. Cúng thì
lại hết” [68, tr.291]. Nếu bỏ phần hậu kết, truyện ngắn Đới roi của Nguyễn Tuân
vẫn nguyên giá trị của một khúc ca về nhân cách sống cao đẹp của con người. Tuy
nhiên, sự góp mặt của yếu tố kỳ ảo ở phần hậu kết sẽ tạo nên một dư vang sâu đậm
và ám ảnh người đọc về tiết khí khẳng khái của một con người tài tử.
Ngoài các truyện kể trên, phần lớn các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có cốt truyện gắn bó mật thiết, hữu cơ
với yếu tố kỳ ảo. Nghĩa là yếu tố kỳ ảo là một thành tố quan trọng tạo nên ý nghĩa
của cốt truyện. Nếu gạt bỏ yếu tố kỳ ảo, tác phẩm sẽ bị tổn hại, hoặc không có giá
trị. Trong loại truyện này, yếu tố kỳ ảo có tác dụng tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn mọi
sự chú ý về nó buộc người đọc phải suy ngẫm, lý giải.
Trong các tác phẩm Người đàn bà trong trắng, Người bạn kỳ dị, Trăng
xanh huyền hoặc (Hoàng Trọng Miên); Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái
Đức Tuấn); Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển); Ngậm ngải tìm trầm
(Thanh Tịnh); Trên đỉnh non Tản, Loạn âm, Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân)… yếu
tố kỳ ảo đóng vai trò sự kiện bước ngoặt, vai trò đơn vị vận động đẩy cốt truyện
phát triển. Nếu gạt bỏ yếu tố kỳ ảo ra khỏi cốt truyện thì tác phẩm sẽ trở nên đơn
điệu vô nghĩa. Trong các tác phẩm này, hầu hết yếu tố kỳ ảo là những câu chuyện
truyền thuyết về ma (ma trành, ma xó, ma hổ, ma thuyền chài…) hoặc là những
quan niệm về thần linh trong tín ngưỡng dân gian đóng vai trò hạt nhân cơ bản của
cốt truyện để mọi sự kiện và nhận vật khác phát triển xoay quanh nó. Và thường cốt
truyện cũng không phát triển theo trật tự tuyến tính mà theo những dòng kể mang
tính hồi tưởng. Chính sự tác động của yếu tố kỳ ảo lên cốt truyện đã phá vỡ trật tự
thời gian và góp một phần không nhỏ vào việc thể hiện nội dung của tác phẩm.
Ở một số truyện kỳ ảo mang hơi hướng truyện trinh thám, kinh dị của
phương Tây: Vàng và máu, Một đêm trăng, Ma xuống thang gác, Tiếng hú ban
đêm, Một chuyện ghê gớm, Một truyện không nên đọc lúc giao thừa… (Thế Lữ),
yếu tố kỳ ảo có tác dụng tạo kịch tính và tăng sức hấp dẫn cho cốt truyện. Ở loại
truyện này, sự có mặt của yếu tố kỳ ảo thường xuất hiện ở phần thắt nút đẩy kịch
tính truyện lên đến đỉnh điểm. Đến phần mở nút, yếu tố kỳ ảo được giải mã và
thông thường là theo cách giải thích của tư duy khoa học biện chứng. Ví dụ, trong
truyện Vàng và máu (Thế Lữ) có sử dụng huyền thoại thần giữ của để làm nền cho
câu chuyện vị quan châu Nga Lộc đi tìm kho báu trong hang Văn Dú. Nhưng cuối
cùng, khi câu chuyện kết thúc, người đọc mới hiểu rằng không có huyền thoại nào ở
đây cả. Những kẻ đi tìm vàng không phải chết vì lời nguyền nào hết mà chết vì
trúng phải thuốc độc tẩm trên các viên đá trong đường vào hang. Và ai tìm được bí
mật đó thì chiếm giữ được kho báu. Yếu tố kỳ ảo, lạ thường ở đây có tác dụng tạo
kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho cốt truyện, khi bí ẩn được giải đáp thì sự kỳ ảo cũng
không còn nữa.
Các tác phẩm: Ông rắn (Đỗ Huy Nhiệm); Quyến rũ, Hoàng Kim Ốc, Đi tiêu
dao, Trên bồng lai, Mặt trời, Người con gái thần rắn (Cung Khanh); Đàn bồ câu
trắng (Hoàng Trọng Miên)… mang dáng dấp như những câu chuyện cổ tích. Vì thế,
yếu tố kỳ ảo đóng vai trò là trung tâm cấu trúc chi phối toàn bộ diễn biến của cốt
truyện. Yếu tố kỳ ảo trở thành cách nhìn con người, cuộc đời khách quan, chân xác,
không che lấp hiện thực.
Bên cạnh đó, đặt yếu tố kỳ ảo bên cạnh những câu chuyện đời thường đã làm
cho cốt truyện trở nên vừa hư vừa thực vừa lung linh huyền ảo vừa gia tăng tính
triết lý sâu sắc. Truyện Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ); Lan rừng, Câu chuyện mơ
trong giấc mộng, Bóng người trong sương mù (Nhất Linh); Làng, Tình trong câu
hát (Thanh Tịnh)… là những ví dụ cụ thể. Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), là một câu
chuyện tình lãng mạn, say đắm giữa Tuấn và Hoàng Lan Hương. Song, truyện được
huyền hoặc hóa, thi vị hóa bởi những chi tiết mang màu sắc kỳ ảo: Hoàng Lan
Hương (tên như một thần hoa) hiện đến vào lúc giữa đêm, sớm ngày lại đi mất, mỗi
sáng ra đi để lại một bông hoàng lan trên gối và cuối cùng để lại trước khi vĩnh biệt
một đôi hài thêu (là một gói cánh hoa và cỏ tóc tiên)… Tác phẩm Lan rừng (Nhất
Linh), sự xuất hiện và biến mất một cách kỳ lạ của Sao cũng đã làm cho câu chuyện
tình lãng mạn, dạt dào yêu thương giữa Quang và Sao trở nên huyền bí và đầy
mộng tưởng. Hay, tiếng hát và hình ảnh cô lái thuyền “thấp thoáng trong chiều
sương trông như bóng nhạn” (Tình trong câu hát – Thanh Tịnh) trên dòng sông
cũng là sự kết hợp của hai miền mơ và thực. Chính sự đan cài khéo léo ấy đã làm
cho tác phẩm trở nên lung linh thơ mộng và giàu ý nghĩa hơn.
Như vậy, yếu tố kỳ ảo góp một phần không nhỏ vào việc tạo dựng sự mới lạ
và sức hấp dẫn của cốt truyện. Đọc các tác phẩm kỳ ảo của văn học giai đoạn này,
ta thấy ảo xen thực, thực hòa vào ảo, ảo và thực đan bện vào nhau nhiều khi không
thể phân tách rõ ràng. Đó chính là cách làm nhoè ranh giới giữa hiện thực nhưng lại
cho ta một cảm giác rất thật về cuộc sống. Bởi cuộc sống có những điều không phải
lúc nào cũng lý giải được, và sự phi lý là một mặt không thể thiếu được của cuộc
sống.
3.2.2. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên thế giới nhân vật
Văn xuôi kỳ ảo lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 chịu sự chi phối của yếu tố
kỳ ảo trong việc xây dựng nhân vật. Thế giới nhân vật trong những tác phẩm kỳ ảo
thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 hết sức phong phú
và đa dạng. Đó là thế giới của tiên thần, ma quỷ, con người khác thường… cùng
đan xen tạo nên bức tranh đa diện nhiều màu sắc về cuộc sống. Bên cạnh kiểu nhân
vật truyền thống, trong các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 với sự tham gia của yếu tố kỳ ảo vào cấu trúc tác phẩm đã
tạo nên nhiều kiểu nhân vật mới lạ. Trong văn xuôi kỳ ảo, việc xây dựng thế giới
nhân vật kỳ ảo gắn liền với mục đích phản ánh đa chiều, sinh động của cuộc sống
hiện đại ở nhiều góc cạnh khác nhau. Mỗi loại hình nhân vật luôn tồn tại trong nó
quan điểm riêng của nhà văn về sự lý giải cắt nghĩa bản chất của con người. Nhân
vật kỳ ảo chính là đơn vị nghệ thuật có tính ước lệ thẩm mĩ cao trong thế giới nghệ
thuật tác phẩm. Thế giới nhân vật trong các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 rất phong phú gồm nhiều loại hình nhân
vật: thần tiên, ma quỷ, linh hồn, con người dị thường (là con người có những đặc
điểm khác người: hình dạng, lối sống, khả năng…), con người bình thường… Trong
bài viết này, chúng tôi giới hạn khảo sát ở những nhân vật kỳ ảo để thấy rõ đặc
trưng của loại hình nhân vật này. Đó chủ yếu là những nhân vật: ma quỷ, linh hồn,
con người dị thường.
Nghiên cứu các tác phẩm kỳ ảo kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy loại nhân vật ma – linh hồn người
chết hiện có mặt hầu khắp trong các truyện kỳ ảo. Có thể kể đến một số tác phẩm:
Làng, Am culy xe (Thanh Tịnh); Chiều Sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển);
Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn), Người con gái tỉnh Bắc (Phạm
Cao Củng)… Nhân vật ma – người chết hiện về xuất hiện nhiều trong các sáng tác
của văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 bởi theo quan niệm
của người phương Đông: con người có hai phần hồn phách và xác, khi chết đi hồn
phách rời khỏi xác, phách sẽ mất đi còn hồn biến thành ma. Ma là linh hồn của
người chết, là một thực thể tinh thần tồn tại lẩn khuất nhưng rất gần với con người.
Ma thường quay trở về cuộc sống ở chốn trần gian bởi những ràng buộc, níu kéo từ
cuộc sống người. Hoặc là những oan hồn do còn duyên nợ nơi trần gian hoặc chưa
thỏa nguyện ước trong lúc còn sống, nên vẫn vương vấn đi lại với cõi trần.
Nhân vật ma trong truyện Am culy xe (Thanh Tịnh) hiện về là để trả nợ cuộc
đời, để làm nốt phần việc dang dỡ trên cõi dương trần. Lúc còn sống ông lão mù
ngày ngày kéo xe miệt mài đón khách mưu sinh. Khi chết đi, linh hồn cứ ngỡ mình
đang mang trên vai gánh nặng áo cơm. Vì thế, đêm nào cũng vậy linh hồn ông vẫn
hiện lên kéo chiếc xe tay đi tìm khách. Những nhân vật ma trong Làng (Thanh
Tịnh), Một trận bão cuối năm, Chiều sương (Bùi Hiển) vì miếng cơm manh áo cho
bản thân và gia đình, họ đã bỏ mạng nơi biển khơi mênh mông sâu thẳm. Để rồi khi
chìm vào đại dương bao la, họ lại dồn hết sinh lực để hồn mình được gặp người
thân lần cuối để nói lời chào vĩnh biệt: “Anh em gởi lời chào bà con cả. Anh em ở
xa ghé về thăm nhà một tí, giừ đi đây” (Một trận bão cuối năm). Có lẽ, vì thế mà
những truyện ma này gây xúc động mạnh trong lòng người đọc và từ đó nỗi ám ảnh
lại được nhân lên.
Bóng ma Ấm Đái (Đới roi – Nguyễn Tuân) đánh trống chầu trên mái lầu kỹ
viện vào những đêm khuya, hay bóng ma anh em Lưu Trọng Việt (Ai hát giữa
rừng khuya – Đái Đức Tuấn) hiện ra múa võ diễu oai trong những ngày mưa giông
là hiện thân của những bóng ma tài tử. Họ trở về giữa cõi trần thế bởi với mong ước
được thỏa nguyện cái thú thanh cao, tao nhã mà họ thường đeo đuổi lúc còn sống.
Những bóng ma, oan hồn: Peng Slao (Thần hổ), Oanh Cơ (Ai hát gữa rừng
khuya), Ngọc Bách (Người con gái tỉnh Bắc), Hoàng Lan Hương (Trại Bồ Tùng
Linh), Sao (Lan rừng) … đều là các ma nữ. Họ trở về cõi sống với mục đích được
làm bạn hay gặp gỡ, chuyện trò, ân ái với các chàng trai do có tiên duyên. Các ma
nữ thường hiện ra hết sức xinh đẹp, quyến rũ như những trang tuyệt thế giai nhân.
Trong tình yêu họ luôn chủ động, rất cuồng nhiệt và cũng rất hy sinh, chung thủy.
Vì thế, sự hiện diện của họ chính là ước mơ được hưởng trọn vẹn tình yêu và hạnh
phúc lứa đôi trong cuộc sống trần tục, là tiếng nói đấu tranh về quyền bình đẳng tự
do của người phụ nữ.
Để khắc họa hình tượng một cách rõ nét, sinh động và ấn tượng, các nhà văn
thường chú trọng miêu tả những chi tiết đặc sắc gây ám ảnh tinh thần người đọc. Đó
là những chi tiết đặc tả về ngoại hình mang đặc trưng riêng của nhân vật ma:
Nhân vật Peng Slao: “Thiếu nữ đi như không bước, thế mà nàng tiến lại mé
đông người. Môi nàng đỏ thắm như hoa, cười một nụ cười say đắm. Hàm răng ai
trắng nõn như ngà. Trong bầu không khí ảm đạm mịt mờ, đôi con mắt đen sáng như
gương, dưới vành lông mày dài, vành cong bán nguyệt, chiếu ra một luồng quang
tuyến kỳ dị. Cũng là con mắt loài người sao đôi mắt nhi nữ kia quá sắc sảo, lạnh
lùng như vậy? Trông vào nó, như chạm phải một lưỡi dao mài sắc ngọt, như đương
đứng trong bóng tối mà ngẩng nhìn một tia chớp chói lọi, xanh trong” (Thần hổ –
Đái Đức Tuấn)
Hoàng Lan Hương:“Bàn tay “nàng ta” trắng nuột, nhỏ và dẻo một cách lạ,
đang nhẹ nhàng cầm giữ ở đầu ngón một lá cỏ dài và mập như một chiếc lá lan.
Nước da trên mặt, cũng trắng nuột – một màu trắng đẹp tưởng chưa từng thấy bao
giờ. Khuôn mặt thanh tú ở giữa những đường cong nét uốn hòa đối và mỹ lệ lạ
thường. Tất cả người “nàng ta” đều có một vẻ đẹp khác thường, một vẻ đẹp quá
chừng như không thể nào có được” (Trại Bồ Tùng Linh – Thế Lữ)…
Tất cả đều mang dáng vẻ mong manh hư ảo như sương khói. Một vẻ đẹp
quyến rũ nhưng lạnh lùng, bí hiểm làm ghê rợn lòng người.
Bên cạnh nhân vật ma quỷ, các truyện kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 còn là thế giới của những con người dị thường.
Đây là sản phẩm của trí tưởng tượng kỳ ảo của các nhà văn lãng mạn tạo ra dựa trên
sự “nhiễu nhại” hình ảnh của chính con người. Xây dựng hình tượng nhân vật dị
thường cho phép nhà văn nhìn nhận và đánh giá con người từ chiều ngược lại.
Trong truyện kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945,
nhân vật con người dị thường chính là ẩn dụ các mặt đối lập: thiện – ác, đẹp – xấu,
ánh sáng – bóng tối, nhân tính – dục vọng.
Nhân vật Bát phẩm Lê (Bữa rượu máu – Nguyễn Tuân) là nhân vật có khả
năng dị thường: chém đầu người (tử tù) theo lối treo ngành. Qua hình tượng nhân
vật này, cái trò quái ác, vô lương tâm của một thời đại được nhà văn Nguyễn Tuân
vẽ lên bằng một giọng văn sắc lạnh đến ghê người.
Nhân vật Ấm Đái (Đới roi), Bố Ô (Rượu bệnh) cũng là những nhân vật có
lối sống dị thường, khác lạ. Ấm Đái: sống nghèo “mà hay khái lắm đấy nhé”… chết
để khỏi phải “buộc một quả chì vào đời người ta để rồi mà chịu ơn đời đời”. Cái dị
thường khác lạ của Ấm Đái lại chính là lối sống cao đẹp của một tài tử: chết trong
sạch, thanh cao không muốn làm phiền lụy đến người khác. Dị nhân Bố Ô: “Mặt Bố
Ô bị rượu chuốt theo hình một cái hủ – cái cằm dài ra đúng đường lượn của cái hũ
– bụng chửa uốn lên như dáng chóe và hai cái chân thời thật là một đôi nậm: bắp
dùi thu ngắn và bạnh phồng lên, ống chân thì thót ngỗng dài mãi ra”. Nhưng chính
cái dị thường khác lạ của Bố Ô lại tạo nên một cốt cách ngông nghênh, khinh bạc
đầy nghĩa khí giữa cuộc đời.
Tuyết trong Câu chuyện mơ trong giấc mộng (Nhất Linh) luôn nghĩ và mơ
thấy kiếp trước của mình chính là bông hoa nhài. Tuyết tự nhận: “em cho rằng đời
em với bông hoa nhài có liên lạc với nhau”, “hoa nhài là bông hoa đĩ, vì hoa chỉ nở
ban đêm, thế mà đời em – em nói ra cũng không hổ thẹn – là đời một cô gái giang
hồ…” [33]. Số phận và cuộc đời kỳ lạ của Tuyết đã đem đến cho người đọc những
ray rứt, dằn vặt không nguôi về nhân cách và nhân phẩm của con người.
Thanh trong Người đẹp phương Đông (Hoàng Trọng Miên) là nhân vật dị
thường trong cách sống. Thanh yêu “một thiếu nữ trẻ đẹp chừng hai nghìn tuổi, mà
Thanh vẽ rồi yêu, tan ra vì khoái lạc trong lúc Thanh âu yếm. Vì thế mà Thanh trở
nên điên” [18]. Với kiểu nhân vật dị thường khác lạ này, Hoàng Trọng Miên đã
khám phá con người ở bình diện mới- cõi miền vô thức. Trong cõi miền ấy, những
ham muốn, dục vọng của con người được hiện rõ.
Để thấy hết những nét độc đáo trong xây dựng thế giới nhân vật của văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chúng tôi xin được nhắc lại lời của nhà
nghiên cứu văn học Trần Đình Sử: “Văn học phản ánh cuộc sống trong tính tổng
thể, trong khả năng biến đổi thường xuyên, vận động không ngừng, trong bản chất
tinh thần phong phú đầy bất ngờ, bí ẩn thì tư duy mơ hồ tỏ ra thích hợp và chính
xác hơn tư duy xác định. Và hình tượng ước lệ, không giống lại có khả năng thể
hiện rõ nét hơn, sâu sắc hơn hình ảnh như thật”. Truyện kỳ ảo của dòng văn xuôi
lãng mạn Việt Nam đã sáng tạo ra một thế giới nhân vật kỳ ảo có giá trị nghệ thuật
lớn. Thế giới nhân vật ấy không phải là một phương tiện nghệ thuật gây sốc mà trở
thành một biểu tượng nhiều tầng ý nghĩa trong cuộc sống. Nó không tách rời ra
ngoài quỹ đạo của cuộc sống mà là sự hiện diện trong chính cuộc đời và trong mỗi
con người. Muôn dạng khuôn mặt kỳ ảo chính là muôn dạng khuôn mặt người trong
cuộc sống thực tại, khám phá mỗi nhân vật kỳ ảo là khám phá chiều sâu tâm tưởng
trong mỗi con người. Từ đó có thể khẳng định, chính nhờ yếu tố kỳ ảo mà văn học
giai đoạn này đã dựng lên một thế giới nhân vật không hề trộn lẫn, có sức hấp dẫn
ma lực với mọi đối tượng độc giả yêu thích truyện kỳ ảo.
3.2.3. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên trần thuật
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là
phương tiện nghệ thuật có chủ đích của tác giả. Tùy vào khả năng sáng tạo và tầm
đón nhận của người đọc, yếu tố kỳ ảo có thể gây ra những hiệu ứng tâm lý như sự tò
mò, nỗi sợ hãi hoang mang, sự hoài nghi, niềm xác tín hay một cảm xúc thẩm mĩ
nào đó cho người đọc. Hiệu ứng tâm lý lại phụ thuộc rất lớn vào phương thức trần
thuật và điểm nhìn trần thuật. Chính vì thế, trong phần này chúng tôi sẽ đi vào tìm
hiểu một số đặc trưng về phương thức trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu
trần thuật của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Phương thức trần thuật
Nghiên cứu các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ có một số ít tác phẩm được kể ở ngôi thứ
nhất – ngôi “tôi” trải nghiệm và hành động: Ma xuống thang gác, Một chuyện ghê
gớm, Một đêm trăng (Thế Lữ), Ma (Trần Tiêu). Nhưng có điều, người kể chuyện
xưng tôi trong những tác phẩm này lại lấy sự trải nghiệm của mình để nhằm phủ
định cái kỳ ảo. Vì thế khi đọc xong tác phẩm, người đọc nhận ra rằng sự thật không
chút huyễn hoặc, ma quái, chẳng qua đó chỉ là những ảo giác hay là những câu
chuyện bí ẩn mà thôi.
Đặc điểm nổi bật về phương thức trần thuật của các tác phẩm kỳ ảo thuộc
dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đó là người kể chuyện
luôn đóng vai trò là người kể lại những trải nghiệm của người khác. Nói cách khác
đó là người kể chuyện ở ngôi thứ ba (người kể ẩn). Họ có thể không tham gia vào
bất cứ diễn biến sự kiện nào trong truyện hoặc có tham gia nhưng chỉ đóng vai trò là
người dẫn truyện.
Các tác phẩm: Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lam, Loạn âm, Một truyện
không nên đọc lúc giao thừa, Đới roi, Rượu bệnh (Nguyễn Tuân); Trên bồng lai,
Hoàng Kim Ốc, Quyến rũ, Người con gái thần rắn (Cung Khanh); Đàn bồ câu
trắng, Trăng xanh huyền hoặc (Hoàng Trọng Miên); Rừng khuya (Lan Khai),
Oan nghiệt (Đái Đức Tuấn)… người kể chuyện không nhập bất cứ vào vai nhân vật
nào xuất hiện trong truyện. Toàn bộ câu chuyện được kể theo điểm nhìn của các
nhân vật. Lời thoại trong truyện cũng rất ít, chủ yếu là lời kể của người kể chuyện.
Trong tác phẩm Khoa thi cuối cùng đoạn hội thoại chỉ xuất hiện ở bốn sự kiện: ông
Đầu Xứ Anh tiễn ông Đầu Xứ Em lên trường thi, hai anh em ông Đầu Xứ đến quán
cô Phương để mua giấy mực, khi ông Đầu Xứ Anh tỉnh cơn mê quái gở nơi quán trọ
xóm Cửa Trường và trong câu nói duy nhất của ông Đầu Xứ Anh giục em vào
trường thi. Truyện Trên đỉnh non Tản chỉ có ba đoạn hội thoại của nhân vật. Mỗi
lần hội thoại cũng chỉ có vài câu. Trong tác phẩm Quyến rũ (Cung Khanh) cũng chỉ
có ba đoạn hội thoại: hội thoại giữa cụ Huyên với người bạn cũ, giữa cụ Huyên với
cô gái, giữa cụ Huyên với đứa tiểu đồng. Thái độ của người kể gần như đứng ở vị
trí trung lập các hành động của nhân vật. Vì thế, buộc người đọc phải có sự suy
ngẫm mới biết được tư tưởng của tác giả
Làng, Ngậm ngải tìm trầm (Thanh Tịnh); Một chuyện lạ, Ngủ với ma (Đỗ
Huy Nhiệm), là những truyện ngắn có cấu trúc truyện kể hai tầng. Tầng trên là
người kể xưng tôi mang nhiệm vụ dẫn chuyện lúc ban đầu hoặc kể lại câu chuyện
mà mình được nghe. Tầng dưới cũng là người kể xưng tôi, nhưng là người trực tiếp
trải qua những biến cố trong truyện và kể lại câu chuyện của bản thân mình cho
người kể ở tầng trên nghe. Giữa hai tầng kể được phân định bằng những câu: “Dưới
đây là một câu chuyện do cụ già trường Sơn kể lại” (Làng); “Và cũng nhờ bà ta
chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây” (Ngậm ngải tìm trầm) “Bác sĩ Hàm, một
nhà chuyên khảo về môn thân linh học, mới kể cho tôi nghe một câu chuyện” (Một
chuyện lạ); “Chuyện của Thúy kể là một câu chuyện lạ lùng mà chính Thúy được
mục kích ít nhiều từ đầu đến cuối” (Ngủ với ma)... Chính kết cấu hai tầng kể đã làm
giảm độ tin cậy và tính khách quan. Mặc dù nhân vật xưng tôi ở tầng kể thứ hai là
người được tận mắt mục kích, chứng kiến những hiện tượng kỳ ảo và chính là người
là người kể chính, nhưng người đọc luôn ở trong tâm thế là chuyện của người đang
được kể lại của người kể ở tầng trên.
Các tác phẩm: Trại bồ Tùng Linh (Thế Lữ); Chiều sương (Bùi Hiển) có cấu
trúc truyện kể khá phức tạp. Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) ban đầu được kể bằng
ngôi “tôi” thông qua bức thư viết cho người bạn, nhưng phần sau lại được kể bằng
ngôi kể ẩn. Trong tác phẩm Chiều sương của Bùi Hiển có cấu trúc truyện kể hai
tầng nhưng qua ba điểm nhìn. Tầng một là người kể ẩn. Tầng hai là lão Nhiệm Bình
– người trực tiếp thấy thuyền ma ngoài biển khơi và kể lại cho chàng trai nghe câu
chuyện mà mình chứng kiến. Ba điểm nhìn là: một của người kể ẩn, hai là của
chàng thanh niên, và ba là điểm nhìn của lão Nhiệm Bình.
Nói tóm lại, phương thức trần thuật chủ yếu của các tác phẩm kỳ ảo thuộc
dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là ở ngôi gián tiếp, trong
đó người kể ẩn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chính đặc điểm này làm cho tác phẩm kém phần
hấp dẫn, sự linh dị ma quái vì thế cũng không gây ám ảnh mạnh trong lòng người
đọc.
So sánh phương thức trần thuật giữa các tác phẩm kỳ ảo của dòng văn xuôi
lãng mạn Việt Nam với một số truyện ngắn tiêu biểu của văn học phương Tây,
chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt. Trong truyện kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt
Nam chủ yếu được kể qua người kể ẩn thì ngược lại trong truyện kỳ ảo của phương
Tây, người kể chuyện xưng “tôi” trực tiếp trải qua những biến cố sự kiện trong tác
phẩm lại khá phổ biến. Các truyện ngắn của Edgar Allan Poe (Pháp) hầu hết được
kể ở ngôi “tôi”. Người kể chuyện trong các truyện: Con mèo đen, Trái tim mách
bảo, Thùng rượu Amontillado, Sự thật về vụ án Valdemar… vừa kể ở ngôi “tôi”,
đồng thời họ cũng là nhân vật chính trong truyện. Mọi hành động sự kiện đều tập
trung xung quanh người kể. Khảo sát 44 truyện ngắn kỳ ảo của Guy de Maupasant,
nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp cũng đã đưa ra nhận xét: “Đa số các truyện thuộc
dạng kỳ ảo của Maupassant đều có cấu trúc người kể chuyện ở ngôi thứ nhất”.
Trong 44 truyện của Maupassant thì có đến 14 truyện được kể bởi nhân vật tôi với
tư cách là người trực tiếp trải nghiệm, hành động. “Vai tôi trực tiếp trải nghiệm,
hành động” không chỉ xuất hiện trong truyện ngắn kỳ ảo mà còn xuất hiện trong cả
tiểu thuyết kỳ ảo của phương Tây. Cuốn tiểu thuyết Bá tước Dracula của Bram
Stoker có 27 chương với nhiều nhân vật và nhiều sự kiện, và đặc biệt là nhiều lời
kể, nhưng những lời kể trong truyện luôn được đặt vào vị trí của “vai tôi trải
nghiệm” trong thời gian hiện tại. Đây có lẽ chính là một trong những nhân tố quan
trọng tạo nên sức sống lâu bền và sự lan tỏa sâu rộng của các tác phẩm kỳ ảo
phương Tây so với văn học kỳ ảo Việt Nam.
Điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn trần thuật cũng là một phạm trù rất quan trong trong trần thuật
học. Trong thi pháp học, điểm nhìn trần thuật luôn được đặt trong mối quan hệ giữa
người sáng tạo và cái được sáng tạo. Điểm nhìn trần thuật phụ thuộc vào phương
thức trần thuật. Sự khác nhau của chủ thể trần thuật sẽ dẫn đến sự khác nhau về
điểm nhìn trần thuật.
Qua nghiên cứu phương thức trần thuật của các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng
văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 cho thấy rằng: chủ yếu được
trần thuật thông qua người kể ẩn. Nó tạo ra điểm nhìn luôn luôn ở vị trí bao quát ở
tầm xa giống như người đứng ở trên nhìn xuống. Điểm nhìn trần thuật vì thế được
mở rộng. Tính bao quát và sự mở rộng của điểm nhìn trong truyện đã làm cho
truyện kỳ ảo Việt Nam ít mang tính bất ngờ. Nó không lý thú và hấp dẫn bằng
phương thức trần thuật kiểu người kể chuyện xưng tôi trực tiếp trải nghiệm, chứng
kiến những sự việc kỳ lạ xảy ra. So sánh tác phẩm Lan rừng (Nhất Linh) với truyện
Người đàn ông vận đồ đen (Stepen King) chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt này.
Người kể trong Lan rừng (Nhất Linh) là người kể ẩn, còn người kể chuyện trong
Người đàn ông vận đồ đen là nhân vật tôi trực tiếp kể lại câu chuyện kinh hoàng
mà bản thân mình đã trải qua. Điểm nhìn trần thuật trong Lan rừng của Nhất Linh
trùng với điểm nhìn của người kể chuyện. Người kể ẩn lại dựa vào điểm nhìn của
nhân vật để triển khai truyện. Khi người đọc tiếp nhận tác phẩm sẽ trình tự theo
điểm nhìn của người kể, sau đó mới đến điểm nhìn của nhân vật. Như vậy, yếu tố
điểm nhìn đã tạo ra khoảng cách giữa người đọc và đối tượng được miêu tả. Trong
truyện Người đàn ông vận đồ đen, điểm nhìn trần thuật trùng với điểm nhìn của
nhân vật “tôi”. Nó cũng được cố định thông qua một điểm nhìn duy nhất là nhân vật
“tôi”. Sự cố định làm cho điểm nhìn trần thuật luôn bị giới hạn nhưng lại là yếu tố
tạo ra sự hồi hộp, bất ngờ trong truyện của Stepen King.
Tóm lại, điểm nhìn trần thuật trong các tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo của
văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có những nét khác biệt so với
truyện kỳ ảo của phương Tây. Đặc điểm này một mặt đã tạo nên nét riêng nhưng
mặt khác lại tạo ra những hạn chế nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn trần thuật chúng
ta có thể thấy rõ phần nào về sự kém hấp dẫn của các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi
lãng mạn Việt Nam so với truyện kỳ ảo phương Tây.
Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu trần thuật được xem là phạm trù thẩm mĩ và thuộc về đối tượng
của thi pháp học. Nó luôn thay đổi trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học.
Đến với thế giới giọng điệu trong các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là đến với một bản nhạc hòa tấu đa âm sắc. Nhìn
chung, có những đặc điểm đáng lưu ý sau:
Đặc điểm thứ nhất: Đó là giọng khẳng định về những trải nghiệm của đời
sống tâm linh. Nhờ nó, người kể trong truyện, ít nhiều gởi gắm niềm xác tín đến
người đọc, và muốn người đọc tin vào những điều mà mình đã được chứng kiến,
mục kích trong tác phẩm. Tchya Đái Đức Tuấn là người ý thức khá rõ về điều này.
Viết tác phẩm Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya, tác giả giảng giải để thuyết phục
người đọc tin vào những việc quái đản trong thế giới loài người mà mình đã từng
được nghe và chứng kiến. Đó là lời khẳng định: về sự linh thiêng của ma xó, niềm
tin vào sự tồn tại của ma trành, niềm xác tín vào sự thần thông của thần hổ cũng
như niềm tin vào sự báo ứng và quả báo… tất cả là có thật. Bên cạnh đó, cũng phải
kể đến Thế Lữ với các tác phẩm: Trại Bồ Tùng Linh, Ma xuống thang gác… cũng
tràn ngập chất giọng khẳng định. Mặc dù, tác phẩm Trại Bồ Tùng Linh vẫn chưa
tìm ra lời giải đáp cho những yếu tố kỳ ảo xuất hiện trong truyện, nhưng Tuấn, nhân
vật chính đã trải qua những hiện tượng kỳ ảo lại tỏ thái độ khẳng định vào những
điều mình thấy. Trước những nổ lực phân giải theo lý luận duy vật của Bình, Tuấn
vẫn “thản nhiên như trước một cảnh vô nghĩa lý”. Sau nhiều năm, Tuấn không quên
được mối tình kỳ ảo với cô gái Hoàng Lan Hương. Dưới con mắt của Tuấn, người
đàn bà đẹp duy nhất chỉ thuộc về Hoàng Lan Hương. Đưa ra chi tiết này, giọng điệu
người kể dường như cũng đứng về phía Tuấn để khẳng định những trải nghiệm của
nhân vật này. Trong truyện Ma xuống thang gác, giọng khẳng định lại càng được
thể hiện rõ hơn nhờ ngôi kể của nhân vật xưng “tôi”. Người kể trực tiếp thuật lại
việc bản thân mình cùng nhóm bạn đã gặp ma thế nào và lai lịch của nhân vật ma
ấy. Nó đẩy mức độ tin cậy ở câu chuyện lên cao. Nhờ đó, giọng khẳng định của
người kể có tác dụng hơn. Chúng tôi còn nhận thấy giọng điệu khẳng định ở nhiều
truyện ngắn kỳ ảo trong văn học giai đoạn này: Làng, Am culy xe (Thanh Tịnh);
Một trận bão cuối năm, Chiều Sương (Bùi Hiển); Ngủ với ma, Tết trên Muờng
(Đỗ Huy Nhiệm); Người con gái tỉnh Bắc (Phạm Cao Củng) Trăng xanh huyền
hoặc (Hoàng Trọng Miên); Một truyện không nên đọc lúc giao thừa (Nguyễn
Tuân); Bóng người trong sương mù (Nhất Linh)… Giọng khẳng định giúp truyền
tải niềm tin thẩm mĩ về thế giới tâm linh của người kể trong truyện. Đồng thời, tác
giả thuyết phục người đọc tin vào những điều kì lạ, hư ảo mà mình viết ra.
Đặc điểm thứ hai: Đó là giọng trân trọng ngợi ca kèm theo sự tiếc nuối về
những giá trị cao đẹp về nhân cách con người và những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Giọng điệu này xuất hiện nhiều trong các sáng tác của Nguyễn Tuân.
Những con người tài hoa, khí tiết, trọng tình trọng nghĩa, sống cương thường có
phẩm hạnh và luôn hướng thiện: vợ chồng ông Bá (Một truyện không nên đọc lúc
giao thừa); Ấm Đái (Đới roi);, Bố Ô (Rượu bệnh); ông Kinh Lịch họ Trịnh, viên
quan Ôn Lương (Loạn âm); hai anh em ông Đầu Xứ, cô Phương (Khoa thi cuối
cùng); cậu Năm, cô Dó, Chiêu Hiện (Xác ngọc lam); Bá Nhỡ, cô Tơ, Chánh Thú
(Tâm sự nước độc); tốp thợ mộc làng Chàng Thôn (Trên đỉnh non Tản) được hiện
ra với giọng điệu mang âm hưởng ngợi ca của người kể. Còn những nét đẹp có
trong truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc: hát ả đào, nghề làm giấy, nghề
mộc, những sản vật cổ của dân tộc được miêu tả với thái độ trân trọng. Vì thế, khai
phá những yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Nguyễn Tuân chính là sự ngược dòng để
tìm về cái đẹp, cái cao cả, cái thiện lương ngàn đời của đất Việt.
Đặc điểm thứ ba: Đó là giọng thương cảm cho thân phận khốn khó của
những con người lao động nghèo khổ trong những truyện: Am culy xe, Làng, Ngậm
ngải tìm trầm (Thanh Tịnh); Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển).
Thương cảm cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ: Tiếng hú ban đêm,
Một đêm trăng (Thế Lữ); Người con gái tỉnh Bắc (Phạm Cao Củng)… Chính vì
vậy, những truyện viết về ma, về những oan hồn nhưng lại gây xúc động người đọc.
Đặc điểm thứ tư: Đó là giọng điệu mang tính triết lý. Thông qua yếu tố kỳ
ảo, các nhà văn thể hiện thái độ khách quan, đứng ngoài cuộc với những diễn biến
của cốt truyện. Trong các tác phẩm: Hoàng kim ốc, Ông rắn, Trên bồng lai, Quyến
rũ, Mặt trời, Đi tiêu dao (Cung Khanh); Đàn bồ câu trắng (Hoàng Trọng Miên)…
người kể không tham gia vào bất cứ tình huống nào trong truyện. Giọng điệu cũng
không bộc lộ rõ cảm xúc chủ quan của người kể chuyện. Bạn đọc theo dõi toàn bộ
diễn biến của truyện, liên kết những chi tiết để đưa ra những cảm nhận của mình.
Chính giọng điệu khách quan của người kể đã để lại khoảng trống để người đọc tiếp
tục khám phá tác phẩm. Vì thế, mặc dù tác phẩm mang không khí hư ảo, hoang
đường, ma quái nhưng chứa đựng những triết lý sâu xa về cuộc sống.
Những câu văn sau đây là dẫn chứng cho giọng điệu mang đầy triết lý:
“Đúng là làm người thì không có mình, đã làm thần thì không có công, làm
thánh thì không có danh” (Trên bồng lai – Cung Khanh)
Hay:
“Ấy thế là tính chung của phần đông nhân loại các người. Họ đi chơi đâu
đâu trước đã rồi sau cùng mới nghĩ đến xứ sở của họ. Có kẻ không biết xứ sở mình
có gì, lại thấu rõ những sự đâu trên Hỏa tinh, Kim tinh, vân vân…” (Đi tiêu dao –
Cung Khanh)
Hoặc:
“Sống muôn thuở sao bằng sống một ngày, ánh muôn sao đâu sánh bằng măt
trời. Cực khổ vì muôn điều, sao bằng cực khổ vì chơn lý. Người đời ngục mặt vào
mảnh đất, còn mắt đâu nhìn bầu trời rộng rãi bao la. Tâm lo âu muôn việc lớn của
trần – tuy là nhỏ – còn đâu nhọc vì vũ trụ huyền bí, nhiệm mầu. Trí tính toan lợi
nhiều của thế giới – tuy là ít – còn đâu nghĩ tới vô biên” (Quyến rũ – Cung Khanh)
Chính cái giọng văn nhẹ nhàng mà sâu sắc ấy tạo nên chiều sâu của những
tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Nó
tạo nên như những nốt trầm trong một bản nhạc, buộc người ta phải nghiền ngẫm,
suy nghĩ. Đó là nốt trầm cần thiết cho những con người biết thưởng thức văn
chương, nhất là đối với những tác phẩm mang nhiều tầng nghĩa.
Đặc điểm thứ năm: Đó là giọng nhiễu nhại, hài hước. Giọng điệu này chính
là cảm quan của con người về cuộc sống hiện đại. Là một phản ứng chống lại hiện
thực cay đắng u ám và những lối mòn quen thuộc khuôn sáo trong cách nhìn của
con người về cuộc sống. Giọng nhiễu nhại chính là hành trình của người lữ khách đi
săn tìm cái đẹp giữa đời thực nhiều đắng cay. Với giọng điệu này, các tác giả văn
xuôi lãng mạn đã đưa nhân vật của mình bước vào những “tấn tuồng đời” vô tận,
chỉ bằng một nụ cười hài hước ngỡ như vô sự. Đọc các tác phẩm: Ma (Trần Tiêu),
Tết trên Mường (Đỗ Huy Nhiệm), Trên bồng lai, Đi tiêu dao (Cung Khanh)…
người đọc sẽ nhận rõ sự điêu luyện, thâm thúy của các nhà văn khi sử dụng chất
giọng này.
Các tác phẩm Ma (Trần Tiêu), Ma xuống thang gác (Thế Lữ), Tết trên
Mường (Đỗ Huy Nhiệm), Ma đậu (Bùi Hiển) bàng bạc một giọng nhiễu nhại.
Không khí truyện mất dần tính trang nghiêm, huyền bí, linh thiêng thay vào đó là
giọng điệu hài hước, mỉa mai. Nó làm mất tín ngưỡng, niềm tin thẩm mĩ chuyển dần
sang tiếng cười thẩm mĩ. Đó là tiếng cười vừa phủ định vừa tái sinh. Và, yếu tố kỳ
ảo, ma quái vì thế cũng bị phai nhạt dần. Những hiệu ứng tâm lý như hoang mang,
sợ hãi, nghi ngờ theo đó cũng mất dần.
Đặc điem thứ sáu: Đó là giọng điệu trữ tình. Giọng điệu này là âm sắc chủ
đạo trong các trang viết của văn xuôi lãng mạn Việt Nam. Đọc các truyện kỳ ảo của
văn học giai đoạn này chúng ta thường bắt gặp những câu văn mượt mà, duyên
dáng và rất lãng mạn. Nó như những bài thơ được viết bằng văn xuôi.
Đó là những đoạn văn miêu tả cảnh thiên nhiên đẹp, nên thơ và đầy tình tứ:
“Thuở ấy vạn vật đều sống trong không khí yêu đương. Đi đâu cũng thấy
chim âu yếm, thú đùa bỡn và hoa lả lơi để hương rơi theo gió mát. Trời bình minh.
Nơi màu xanh, không khí có tiếng nhạc, rót vui vào lòng mọi vật. Nơi màn liễu dịu
dàng tha thướt, vợ chồng nhà oanh thỏ thẻ cùng nhau câu chuyện ân tình” (Mặt
trời – Cung Khanh)
“Trăng xanh huyền hoặc làm cho cảnh trí đêm mơ hồ, chiêm bao. Không khí
cao nguyên trong vắt, lâng lâng. Thanh cảm giác nhẹ nhàng như đang mơ, để mặc
hai chân bước đi cũng như tâm hồn mọc cánh đang bay giữa trời trăng sáng. Qua
một quãng rừng lấp loáng ánh trăng và gió lá thì thầm, chàng đến trước dòng sông
trắng bạc” (Trăng xanh huyền hoặc – Hoàng Trọng Miên)
Qua ngòi bút trữ tình của các nhà văn tâm trạng của con người cũng được
khắc họa miêu tả với một giọng điệu đầy cảm xúc:
“Thế là hết. Rồi nàng đứng tựa gióng cửa sàn đờ mắt nhìn theo chàng mãi,
theo mãi, tới khi bóng chàng khuất sau rặng lau, bụi duối thì thôi. Ra đi chàng cũng
dùng dằng; lúc thất thểu trên đường; chàng cũng ngoái cổ nhìn lại, thấy bóng nàng
tựa cửa trông chàng. Trong tâm chàng, một cảm giác êm ái đầm ấm tự nhiên bừng
bừng nổi dậy, làm chàng một đôi phần thấm thía nỗi phân ly.” (Ai hát giữa rừng
khuya). Đó là tâm trạng của đôi trai gái “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, với
giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng nhà văn đã rót vào lòng người một nỗi xúc động lớn
lao. Dường như ai đó cũng khó cầm được dòng lệ tuôn rơi vì cảnh phân ly quá
nghẹn lòng.
Hoặc một đoạn văn trong tác phẩm Tình trong câu hát (Thanh Tịnh) cũng
chất chứa một nỗi niềm cảm xúc sâu lắng vô biên: “Đạt hồi hộp lo sợ thì chiếc
thuyền trước đã quay mũi về phía Kim Long. Đạt buồn rầu nhìn cánh buồm nâu
nghiêng mình theo chiều sông như cánh én. (…). Đạt muốn hò đáp lại, nhưng tự
nhiên thấy nghẹn ngào trước cảnh biệt ly. Nhớ đến liên, đến người bạn mới trong
đêm, Đạt ngục đầu ôm mặt khóc rưng rức” [18, tr.311]…
Tóm lại, chính yếu tố kỳ ảo đã đem đến cho văn học giai đoạn này những
tiếng nói đa giọng, nhiều chiều. Khám phá địa hạt của văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, người đọc cần phải có sự khám phá, dấn thân, suy
nghĩ và chiêm nghiệm. Bởi, ẩn đằng sau những trang viết đậm chất ma quái, liêu
trai là những cảm xúc khác nhau của nhà văn về cuộc sống: có lúc an tâm, có lúc
hoài nghi, có lúc bình yên, có lúc lo lắng… Tất cả tạo nên chiều sâu cho tác phẩm,
tạo nên những dòng chảy ngầm dưới văn bản, thế nên không phải người đọc nào
cũng lĩnh hội được.
3.2.4. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên không gian và thời gian nghệ thuật
Không gian
Không gian trong các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 là không gian của cuộc sống thường ngày: núi rừng,
bến sông, ngôi miếu, ngôi nhà, khu vườn bỏ hoang, bãi tha ma… Đó là không gian
của cõi trần thế mang không khí hư ảo, nhòe mờ để ma quỷ xuất hiện và người sống
có thể gặp người chết.
Sự hoang phế, tịch mịch của ngôi nhà hay khu vườn bị bỏ hoang là không
gian lý tưởng cho những chuyện lạ, kỳ bí xảy ra. Viết tác phẩm Người con gái tỉnh
Bắc, Phạm Cao Củng đã chọn không gian gác trọ để oan hồn Ngọc Bách hiện lên:
“Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây… Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ
được, thấy gian gác này trước bị bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò
mò nhìn vào… anh tha lỗi cho em nhé” [41, tr.414, 415]. Trong tác phẩm Trại Bồ
Tùng Linh, nhà văn Thế Lữ cũng đã khéo léo chọn khung cảnh biệt tịch của trại Bồ
để làm nền cho câu chuyện tình yêu kỳ bí giữa Tuấn và Hoàng Lan Hương. Đó là
“một cái trại rộng ngót hai mẫu và rậm như một khu rừng. Cây toàn là cây cỗi. Gần
hết là nhãn, mười gốc mít, và mấy thứ cây ăn quả mà người ta không nghĩ đến sự
lấy hoa lợi; lại thêm hai gốc đa cổ kính, buông từng súc rễ chằng chịt xuống lối đi.
Trên là bóng lá rườm rà, dưới là cỏ và hoa…” [34, tr.347].
Nghĩa trang, bãi tha ma luôn là nỗi ám ảnh con người với những câu chuyện
ma quái rùng rợn. Viết tác phẩm Ngủ với ma, Đỗ Huy Nhiệm đã chọn lấy cái không
gian: “Ở giữa bãi tha ma đó có bốn cái mả mới bốc được ít lâu, nước mưa đọng
như bốn cái giếng và gần đấy có một cái ví con đựng tiền giống cái ví của Sa vẫn
dùng mọi ngày” [41, tr.447] để kể về một câu chuyện lạ lùng, quái đản.
Không gian sông nước cũng là nơi thích hợp để yếu tố kỳ ảo xuất hiện. Các
tác phẩm: Làng (Thanh Tịnh); Một trận bão cuối năm, Chiều sương (Bùi Hiển) là
cả một không gian sông nước mênh mông vô tận: “Màu trắng sữa liếm dần bóng tối
của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến – dân
chài bảo từ Thủy phủ đùn lên – một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi
lạnh thấm thía (…). Rồi một bóng đen hiện ra trong sương (…) Quả nhiên trong
sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, thuyền lố nhố những bóng người
chèo” [41, tr.426, 427]. Đó là nơi hội tụ và trở về của những bóng ma thuyền chài.
Họ trở về không phải để “giận dữ oán hờn” mà để “tìm lại chút hơi ấm cuộc đời”,
“nghịch ngợm và trêu đùa người sống” [41, tr.430].
Không gian được miêu tả nhiều nhất trong các truyện kỳ ảo của văn xuôi
lãng mạn Việt Nam Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là không gian của núi rừng.
Núi rừng luôn ngự trị trong nó sự dữ dội, huyền bí, là nơi lưu giữ những câu chuyện
ly kỳ, rùng rợn. Có lẽ chính vì thế mà các tác giả: Thế Lữ, Đái Đức Tuấn, Nhất
Linh, Đỗ Huy Nhiệm đã sử dụng nó như một thủ pháp nghệ thuật để tạo tác nên
những câu chuyện hoang đường, huyễn hoặc nhưng thấm đẫm những triết ngẫm về
cuộc sống. Tác phẩm Vàng và máu (Thế Lữ), hiển hiện một không gian núi rừng u
quái: “Sừng sững giữa trời, bao quát đồi cây gò đất, núi ấy trong đường bệ hách
dịch như đứng làm chúa tể cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân thổ ở các
làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên những
hàng rừng anh chi chít um tùm. Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một
phía cũng như các ngày u dột âm u, Văn Dú lại hiện ra một vẻ riêng oai nghiêm và
màu nhiệm” [34, tr.5]. Chính cái u tịch, bát ngát của hang Văn Dú đã làm cho câu
chuyện tìm vàng trở nên đậm chất ma quái và rùng rợn. Trong tác phẩm Thần hổ,
Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn), không gian của núi rừng hiện ra với một
dáng vẻ đáng sợ: “Đền làm ở giữa một nơi rừng núi sâu thẳm, chung quanh toàn là
những cảnh rùng rợn hoang vu, hễ cứ khuất bóng mặt trời là nghe muôn vàn tiếng
kêu, tiếng hú, sợ đến sởn tóc gáy (…) Cả đêm chỉ nghe tiếng vượn hú, cú kêu, hòa
với muôn ngàn tiếng hú khác rất lạ; và, xé vừng không khí, trội hơn tất cả các thứ
tiếng, một tiếng “à uôm” rung động cả núi rừng, vang trong đêm tối, dội vào da thịt
và người sống mình một luồng khí lạnh, lạnh hơn hơi lạnh mùa đông” [67, tr.165].
Trong cái không gian ma mãnh, hoang dại ấy, Đái Đức Tuấn đã đem đến cho người
đọc những câu chuyện về các loại ma trành ma xó, ma hổ, ma cụt đầu, linh hồn
người chết hiện về để đàn ca hát xướng, để cùng thỏa ân ái với người dương gian….
Ở một số truyện ngắn của Nguyễn Tuân, không gian kinh dị, khác thường
như làm nền để xuất hiện những sự lạ. Tác phẩm Loạn âm có một không gian khác
thường: “Bầu trời cao khi nãy bắt đầu tỏa sương và trở nên thấp tức. Giữa ngày hè,
sương! Mà lại sương có chất mặn, thế có biến không? (…) Trong nhà càng lạ nữa.
Nồng lên một mùi khói chổi sể và khói đốt rác” [68, tr.304]. Chính trong cái không
gian khác thường ấy xảy ra một cuộc hội ngộ cũng vô cùng khác thường: ông Kinh
Lịch họ Trịnh gặp lại người bạn (Quan Ôn) từ cõi âm trở về. Hay trong tác phẩm
Khoa thi cuối cùng: “Trời đất tối sầm xuống. Ông đầu xứ em thấy bãi trường thi
hình như rộng lớn hơn cả kiếp người. Trường thi âm u và mông quạnh…”. Đó là
thời khắc mà oan hồn của người đàn bà hiện ra quấy phá không cho ông Đầu Xứ
Anh và ông Đầu Xứ Em thi.
Truyện Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân) có một không gian thực được
huyền ảo hóa để biểu đạt niềm tin và lòng tôn kính của con người đối với vị thần
Tản Viên bất tử. Đó là một không gian núi Tản (gồm có đền Thượng, Trung, Hạ)
vốn rất đẹp được sơn phủ một lớp sương khói mờ ảo, đầy huyền nhiệm: “Rừng Tản
thấm hút không hết làn sương núi. Sương cành trên đọng gieo xuống cành dưới. Chỉ
có một điệu chìm chìm tẻ tẻ. Rừng vắng và ẩm và mốc (…) Đây là một khu đá bằng
mặt rộng độ một mẫu mà chung quanh là những vách đá cao, trên mỗi chỏm nhọn
màu xanh cánh chả lại có mây trắng mây vàng đánh đai lấy (…) Tiếng nước róc
rách lưng đèo nghe gần mãi lại. Lúc đến bờ suối có lều cỏ bồng dựng sẵn thì dòng
suối Tịch Mịch nín bặt. Nó lửng lơ trôi ốm yếu và lửng lờ. Nó trông như pha lê
ngọt. Nó hiền lành…” [68, tr.177, 178, 179]. Trong tác phẩm Làng (Thanh Tịnh)
không gian nơi Am Cô Giang cũng hiện lên một vẻ đẹp cổ kính, thiêng nghiêm:
“Đèn am vừa bật lên, một cảnh đẹp kỳ dị đã phơi ngay trước mắt tôi. Lẩn trong
sương mù mấy chiếc thuyền Làng đều lên đèn một lượt. Ngọn đèn xao động trông
hơi mờ và xanh nhạt.” [41, tr.218].
Bên cạnh không gian của cõi trần thế, văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 còn chú ý đến không gian siêu trần. Đó là không gian thần
tiên thoát tục, không gian ở chốn bồng lai: Đi tiêu dao, Mặt trời, Trên bồng lai…
Trong tác phẩm Trên bồng lai (Cung Khanh), không gian của chốn non bồng
tiên cảnh hiện ra với một vẻ đẹp tôn nghiêm, tĩnh mặc: “Ánh sáng nơi đây mờ mờ
như lúc bình minh. Những cây thông đứng nghiêm nghị hơn mấy buổi hội tiên nữ,
và không reo hát vang lừng như mấy buổi ấy. Thỉnh thoảng có gió nhẹ, màu xanh
lợt và mát mẻ của lá đong đưa se sẽ. Dòng suối trong hơn mọi khi và chậm rãi chỗ
nước quanh mình đá. Liễu bên dòng buông tơ êm ái như ru, in bóng lặng lẽ trên
dòng suối trong veo” [10, tr.383]. Trong không gian của chốn bồng lai, khác thường
ấy hiện ra những con người siêu trần, khác thường cùng với một lễ hội cũng siêu
trần. Đó chính là buổi quần tiên tụ hội của linh hồn các hiền sĩ: Mạnh Kha, Hoa Đà,
Tào Tháo, Trương Tử Phòng.
Trong tác phẩm Đi tiêu dao cái không gian siêu trần, kỳ ảo cũng xuất hiện:
“Ở đây cây cỏ tốt không biết nơi đâu mà sánh. Trời chốn này lúc nào cũng bình
minh và mát mẻ. Người ở đây vui vẻ họ chỉ trồng hoa hồng mà ăn. Trọn thế giới chỉ
có một con sông, nước trông từ nguồn đến biển. Con sông ấy tưới những thành thị
đông đảo, những cánh đồng ánh cỏ màu hoa” [10, tr.406].
Tóm lại, không gian nghệ thuật là một thành tố quan trọng tạo nên sự huyền
bí, kỳ ảo của tác phẩm. Trong các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945, các nhà văn đã tận dụng tối đa ưu thế của các loại không
gian: không gian đời thường (rừng núi, gác trọ, ngôi nhà, khu vườn bỏ hoang, bãi
tha ma…), không gian tiên giới để biểu đạt ý đồ nghệ thuật của mình. Trong không
gian đời thường trần thế, các nhà văn thường khoác lên một làn sương khói mờ ảo
để nhân vật và những sự việc kỳ lạ xuất hiện. Còn trong không gian siêu trần bao
giờ cũng mang một vẻ đẹp huyền bí, nhiệm màu như những câu chuyện cổ tích
nhưng giàu triết lý nhân sinh… Chính trong những không gian nghệ thuật ấy đã soi
chiếu được tâm hồn người, đồng thời biểu đạt một điều gì đó trong cảm thức nghệ
thuật của nhà văn…
Thời gian
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Trong các tác phẩm kỳ ảo
thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, thời gian được các
nhà văn chú ý miêu tả đó là thời gian vào lúc trời tối, đêm khuya. Đây là thời khắc
để ma quỷ hiện hình, để những chuyện lạ, kỳ quái xảy ra.
Thời gian chủ đạo trong tác phẩm Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) là thời gian
vào lúc giữa đêm khuya. Đó là khoảng yên lặng cần thiết để Hoàng Lan Hương
(một cô gái có tung tích bí ẩn) hiện ra gặp Tuấn: “Mười hai giờ rưỡi là khoảng thời
giờ người đẹp vẫn hiện đến. Anh chắc lúc ấy sớm hơn cũng đã hơn một giờ (…) Một
người thiếu phụ, – người hai đêm trước – vấn tóc trần, mặc hàng lụa xanh phơn
phớt, ngồi bắt chéo chân trong chiếc nghế bành gian giữa, bình yên, lặng lẽ, tự
nhiên như người trong nha” [34, tr.362]. Trong tác phẩm Am culy xe (Thanh Tịnh),
linh hồn của ông già mù kéo xe tay cũng hiện về: “vào khoảng 11 giờ khuya, sau
chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái
bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc. Người làm giữa ruộng dưới
đêm trăng, các em mục đồng và sư cụ chùa Linh Hải đều nhận thấy nhiều lần như
thế. Và giữa đêm mưa lạnh, ông Từ làng Thanh Trúc còn nghe tiếng nhạc xe trước
cổng đình nữa…” [41, tr.215].
Trong các tác phẩm: Lan rừng, Bóng người trong sương mù (Nhất Linh);
Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái Đức Tuấn); Một truyện không nên đọc lúc
giao thừa, Loan âm, Đới roi (Nguyễn Tuân); Ma xuống thang gác, Tiếng hú ban
đêm, Một đêm trăng (Thế Lữ); Làng (Thanh Tịnh); Một trận bão cuối năm, Chiều
sương (Bùi Hiển)… yếu tố kỳ lạ, ma quái đều xuất hiện vào lúc đêm tối. Đó là
những đêm bầu trời vằng vặc ánh trăng xanh huyền ảo hay những đêm trời đầy
sương. Hoặc là những đêm trời nổi mưa phùn gió bấc, bầu trời nhuộm một màn
đêm huyền bí… Trong không khí mờ ảo, lung linh ấy tác giả đưa người đọc vào thế
giới của những câu chuyện hoang đường, yêu ma.
Quang (Lan rừng của Nhất Linh) gặp nàng Sao xinh đẹp vào thời khắc:
“trăng đã lên cao, sương đã tan hết. Trời trong lắm, nên những ngọn núi trông như
ở sát ngay cạnh nhà, mấy giải rừng đen trên ngọn núi in rõ trên nền trời đầy sao”
[41, tr.203]. Đó là một đêm trăng của tình yêu đôi lứa, đêm trăng của sự hẹn hò giữa
một chàng trai đa cảm và một cô gái sơn thôn (hiện thân của một bóng ma, hay hóa
thân của tinh vật). Thời gian huyền ảo của ánh trăng đêm là lớp sương mờ bao bọc
lấy sự xuất hiện và biến mất của cô gái, đồng thời tạo nên một không khí lãng mạn,
là sự đan kết giữa mộng và ảo, giữa hư và thực.
Trong tác phẩm Người đàn bà trong trắng (Hoàng Trọng Miên), nhân vật
Linh thường bắt gặp hình ảnh người đàn bà đẹp cũng vào lúc: “ánh trăng len lén
tràn vào phòng, sau làn khói thuốc mờ Linh thấy hiện ra một người đàn bà kỳ ảo
(…). Đó là một người như thực như hư, thanh thoát, tế nhị tắm trong màu trăng
xanh huyền hoặc. ” [18, tr.778]. Tác phẩm Trăng xanh huyền hoặc (Hoàng Trọng
Miên), hình ảnh những sơn nữ cùng giọng hát kỳ bí huyền hoặc trên dòng Cửu
Long Giang cũng xuất hiện vào lúc: “Trăng lên như trái ngọc giữa trời lưu ly (…)
trong đêm nhuốm màu hư ảo của trăng xanh bát ngát mỗi lúc càng sáng lạnh thêm
(…) bỗng nghe tiếng hát lạ lùng (…) lấp loáng những suối tóc tuôn chảy trên thân
lau, những cánh tay mềm mại cử đông, những khuôn mặt phản chiếu ánh trăng
trong xa như thực như hư” [18, tr.734].
Tác phẩm Người con gái thần rắn (Cung Khanh) cũng chọn lấy thời khắc
đêm trăng để dệt nên câu chuyện tình yêu đầy kỳ ảo giữa Thần rắn và hoa anh đào.
Đó là: “Một đêm trăng nồng, giai nhân hiện ra tha thướt. Nàng cất tiếng hát. Rắn
thần đang yên giấc thức dậy lắng nghe. Đêm trong, ngàn sao lóng lánh, từng trận
gió thoảng rải hương ngào ngạt, Thần rắn nhìn giai nhân đang nhởn nhơ bên
những cành đào, lòng thần hồi hộp. Rồi uốn thân mình hóa thành một trang thanh
niên tuấn tú. Chàng là một tài tử, tiếng sáo véo von, nhịp nhàng với lời ca thanh tao
của giai nhân…” [10, tr.410]
Đêm khuya cùng với những cơn mưa dầm rả rích cũng chính là lúc xuất hiện
những sự lạ, khó tin ở trên cõi đời: “cứ những đêm mưa dầm gió bấc, những đêm u
ám không trăng, trên quãng đèo Ô Quí Hồ lại vẳng văng có giọng đờn ca não nuột,
ai bạo gan xông xáo trông đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn
hát cho con cọp lớn ngồi nghe” [67, tr.248]. Đó là lúc oan hồn (ma trành) của ba
anh em Oanh Cơ hiện lên đàn hát giữa rừng khuya.
Như vậy, đêm khuya là loại thời gian tràn ngập trong các tác phẩm kỳ ảo của
văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Chính loại thời gian này đã
góp phần tạo nên không khí kỳ ảo, hoang đường của câu chuyện. Trong cái thời
khắc tĩnh lặng, yến ắng của vũ trụ và của cuộc sống dương trần chính là giờ
“thiêng” để xảy ra các sự việc kỳ lạ, khác thường. Đó là thời khắc con người tạm
dừng cuộc sống bề bộn của đời thường để sống với chính mình. Nói như nhà nghiên
cứu Hoàng Thị Văn: “Thời gian đêm thường thích hợp để cho mỗi người được sống
với chính mình. Chìm trong thế giới vô thức, trực giác, linh cảm… “tâm” trong mỗi
người “thức” và nhiều sự khác thường không bình thường xảy đến” [71]. Vì thế,
đọc các tác phẩm kỳ ảo văn học giai đoạn này, khi chúng ta bốc bỏ đi cái lớp vỏ kỳ
ảo bên ngoài sẽ hiển hiện một hiện thực cuộc sống tươi rói, nhiều màu sắc.
KẾT LUẬN
1.1. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
không phải là hiện tượng đột xuất. Nó là một khuynh hướng văn học có mạch chảy
từ trong văn học truyền thống. Trong văn xuôi trung đại Việt Nam, yếu tố kỳ ảo gắn
liền với thể loại văn học truyền kỳ. Đó là những câu chuyện mang đậm yếu tố siêu
nhiên huyền bí: hồn ma, điềm báo, hóa kiếp, đạo sĩ làm bùa phép phù chú, nhà sư
có phép thần thông… Chính những yếu tố kỳ ảo, khác thường ấy đã thể hiện một
niềm tin thiêng liêng và lòng tôn sùng ngưỡng mộ của con người và thời đại đối với
lực lượng ấy. Đồng thời, thông qua đời sống tâm linh của mình, của người, các tác
giả trung đại còn thể hiện nguyện vọng ước mơ của họ về nhiều vấn đề trong cuộc
sống. Đến văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, các nhà văn đã vận
dụng cái dưỡng chất truyền thống của văn học dân tộc kết hợp với yếu tố kinh dị
của văn học phương Tây để tạo nên một thủ pháp nghệ thuật đắc địa góp phần
không nhỏ vào quá trình đổi mới nghệ thuật văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong các
tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 yếu tố kỳ ảo
như là một bút pháp nghệ thuật độc đáo, một phương thức huyền thoại hóa. Vận
dụng yếu tố kỳ ảo vào trong sáng tác của mình, các nhà văn không chỉ thể hiện nỗ
lực tìm tòi hình thức biểu đạt mới mà còn là sự thay đổi tư duy văn học, đổi mới bút
pháp “tả chân” phiến diện, một chiều. Yếu tố kỳ ảo làm cho tác phẩm văn học trở
nên lung linh huyền ảo, mang nhiều chiều kích đòi hỏi người đọc phải có một năng
lực thẩm mĩ nhất định để tiếp nhận tác phẩm.
1.2. Dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có rất nhiều
tác phẩm sử dụng yếu tố kỳ ảo. 50 tác phẩm và 12 tác giả chưa phải là con số thống
kê chính xác, nhưng chừng ấy cũng đủ nói lên rằng: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã tạo nên một dòng, một nhánh riêng.
Yếu tố kỳ ảo xuất hiện trong cả tiểu thuyết lẫn truyện ngắn, tuy nhiên, truyện ngắn
sử dụng yếu tố kỳ ảo chiếm dung lượng lớn hơn tiểu thuyết do những đặc trưng về
thể loại. Các dạng thức chủ yếu của truyện kỳ ảo trong văn học giai đoạn này: Kỳ
ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh, kỳ ảo kỳ bí. Yếu tố kỳ ảo đã trở thành hình thức đắc
dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm
bắt của con người, từ đó “thấu” phần nhân tính mơ hồ và huyền diệu ấy. Nhìn
chung, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 thể
hiện quan niệm của nhà văn tập trung ở một số phương diện như: Sự hiện hữu hóa
cái ác và giấc mơ về những giá trị Chân – Thiện – Mĩ; là những khát khao về hạnh
phúc lứa đôi; là những khám phá về cõi bí ẩn tâm linh; là những lý giải khoa học về
các hiện tượng thần bí; và là những cảm hứng triết luận về con người. Chính yếu tố
kỳ ảo đã đem đến cái nhìn đa diện nhiều chiều về con người và cuộc sống, nó góp
phần làm cho dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 trở nên đa
hương đa sắc.
1.3. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
đã giúp các nhà văn phát huy cao độ trí tưởng tượng lãng mạn trong sáng tác, đồng
thời nó còn làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người. Đọc các tác
phẩm văn học thời kỳ này, ở một khía cạnh nào đó, người đọc được hòa mình vào
không khí của đời sống tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc: đó là niềm tin vào ma
quỷ, thánh thần, tục thờ cúng tổ tiên ông bà, cúng oan hồn, hay niềm tin vào điềm
báo, mộng báo… Trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm, yếu tố kỳ ảo giữ một vai
trò quan trọng tạo nên những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Trong quan hệ với cốt
truyện, yếu tố kỳ ảo song hành hoặc gắn bó hữu cơ với tác phẩm tạo nên tính ly kỳ,
hấp dẫn của truyện. Trong thế giới nhân vật, yếu tố kỳ ảo đã tạo nên một thế giới
nhân vật độc đáo không hề trộn lẫn: thế giới của nhân vật ma, thần linh, thế giới của
những con người dị thường, khác lạ… Yếu tố kỳ ảo cũng đã góp phần tạo nên
những nét riêng biệt trong phương thức trần thuật (so với truyện kỳ ảo của phương
Tây) đưa truyện ngắn Việt Nam tiếp cận với hệ thống thi pháp truyện hiện đại. Thời
gian và không gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng được phủ một bức màn huyền
bí, quái lạ nhờ sự xuất hiện của yếu tố kỳ ảo.
1.4. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 là
sự nối kết giữa truyền thống với hiện đại, là sự giao hòa giữa cái kỳ trong văn
phương Đông và cái kinh dị trong văn học phương Tây. Dẫu còn mang đậm chất kỳ
ảo hồn nhiên của phương Đông, song yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã mang lại những giá trị thẩm mỹ thực sự, tạo nên sự
đa dạng trong phong cách nghệ thuật của nhà văn. Yếu tố kỳ ảo cũng là một trong
những nhân tố đa dạng hóa tư duy nghệ thuật và phong phú hóa các phương pháp
tiếp cận hiện thực cũng như phương thức thể hiện của văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945. Nó giúp cho văn học phản ánh được sự đa dạng, phức tạp
cũng như đem đến cái nhìn đa diện nhiều chiều hơn về cuộc sống. Chính điều này
đã mang lại sự sinh động nhiều màu vẻ cùng sức quyến rũ, nét nhân văn của văn
xuôi lãng mạn Việt Nam. Đồng thời, thể hiện khao khát, mong mỏi mãnh liệt của
những người cầm bút trong việc cải tạo xây dựng cuộc sống, giúp con người nhận
thức được chính mình và thế giới. Quả thật, yếu tố kỳ ảo là chất “men say”, là thứ
chẳng đặng đừng đối với nhiều thế hệ văn nhân. Vì thế, nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo
trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng và trong văn
học Việt Nam nói chung rất cần sự quan tâm nhiều hơn của giới nghiên cứu văn
học. Trong luận văn này, người viết đã cố gắng tìm hiểu yếu tố kỳ ảo ở những góc
nhìn khác nhau nhưng tất cả chỉ là những thể nghiệm bước đầu, rất hy vọng trong
tương lai sẽ có dịp mở rộng và nghiên cứu ở cấp độ cao hơn.
Chương 1
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN LỊCH SỬ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm “yếu tố kỳ ảo”
Nguồn gốc tên gọi thuật ngữ kỳ ảo
Yếu tố kỳ ảo (tên gọi thường dùng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam) là
một thuật ngữ có nguồn gốc từ phương Tây. Trong sách lý luận nước ngoài, từ
fantastic (tiếng Anh) có nội hàm đã được qui ước với hai tiền đề: Yếu tố siêu nhiên;
Một phản ứng lưỡng lự giữa cái thực và cái huyền hoặc của nhân vật và độc giả.
Thuật ngữ fantastic (tiếng Anh), fantastique (tiếng Pháp) hoặc “Phantastiscus”
(tiếng La-tinh) là một tính từ xuất hiện trong từ điển nước ngoài vào thế kỉ XIV, bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp “Phantastikos” có nghĩa là trí tưởng tượng phóng túng.
Thuật ngữ fantastic (tiếng Anh) hay fantastique (tiếng Pháp) khi chuyển nghĩa sang
tiếng Việt có nhiều cách biểu đạt khác nhau. Ông Nguyễn Văn Khôi dịch từ
“fantastic” (tiếng Anh) có nghĩa là “kỳ dị, kỳ quái, dị thường”. Còn theo Nguyễn
Văn Dân, Đào Duy Anh trong Pháp – Việt từ điển đã dịch từ “fantastique” là “hư
huyễn, huyễn hoặc, kì dị, quái dị” và dịch cụm từ “recits fantastique “ là “truyện
linh dị, truyện huyễn hoặc”, còn ông Đào Đăng Vỹ gọi nó là “truyện dị thường”.
Trong các cách dịch trên, cách dịch fantastic sang tiếng Việt là “kỳ ảo” được giới
nghiên cứu đồng thuận cao nhất. Vì vậy, trong luận văn này chúng tôi dùng tên gọi
thuật ngữ “yếu tố kỳ ảo” theo qui ước đã được chấp nhận.
Lịch sử nghiên cứu
Thuật ngữ “yếu tố kỳ ảo” xuất hiện trong lý luận nghiên cứu văn học thế giới
vào thế kỉ XVIII. Người đặt nền móng cho lý thuyết về yếu tố kỳ ảo là một học giả
người Pháp tên Joseph Addison (1672 – 1719). Trong bài luận bàn về “Những
khoái cảm của sự tưởng tượng” đăng trên tờ The Spectator (1712), ông đã gián
tiếp đề cập đến thuật ngữ yếu tố kỳ ảo (fantastic) khi gọi “lối viết truyện cổ tích
thần kì” (the fairy way of writing) là một phương thức sáng tác “tạo ra một loại
khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thỏa mãn trí tưởng tượng của
độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được
miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những câu chuyện
mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những
nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên” [30]. Nhưng
phải đến thế kỉ thứ XIX, giới nghiên cứu mới bắt đầu định hình một lý thuyết về
yếu tố kỳ ảo. Vào năm 1828, một dịch giả vô danh (Người Pháp) đã dịch tập truyện
Fantasiestucke của nhà văn Hoffmann (người Đức) sang tiếng Pháp dưới tiêu đề
Những truyện kể kỳ ảo (Contes fantastique). Dịch giả này đã định nghĩa fantastic
như là một thể loại được đặc trưng bởi những tính chất mơ hồ, yếu tố làm cho
chúng không thể xác định được liệu các sự kiện này diễn ra trong thế giới thực hay
phạm vi của cái siêu nhiên. Kể từ đây, trong đời sống văn học thế giới xuất hiện
nhiều hơn những công trình nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo.
Đặc biệt, vào thế kỉ XX, nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo trở nên sôi nổi hơn và
nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu phê bình trên thế giới. Các tác
phẩm sử dụng yếu tố kỳ ảo ngày càng nhiều. Những công trình nghiên cứu lý luận
về yếu tố kỳ ảo trong văn học cũng nhiều hơn. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu đáng chú ý: Hợp tuyển văn chương kỳ ảo, Từ truyện thần tiên đến
truyện khoa học kỳ ảo của R Cailois, Dẫn nhập văn học kỳ ảo của Todorov, Cái
kỳ ảo trong văn học của Eric Rabkin, Văn học kỳ ảo Pháp của M.Schneider,
Truyện ky ảo Pháp từ Nodier tới Maupassant của Castex, Nghệ thuật và Văn
chương kỳ ảo của Vax …
Ở Việt Nam, tính thời sự của “yếu tố kỳ ảo” cũng được mổ xẻ hết sức sôi nổi
trong các trang viết chuyên ngành, đặc biệt là trên Tạp chí Nghiên cứu văn học.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam đã đưa ra được một cơ sở lý
thuyết khá xác thực về yếu tố kỳ ảo. Một số công trình nghiên cứu công phu, có
chất lượng và uy tín khoa học cao đã giới thiệu cho bạn đọc thêm những cách hiểu
cơ bản về khái niệm “kỳ ảo” như: Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học
cổ trung đại và cận đại Đông Tây của Nguyễn Huệ Chi, Dư ba của truyện truyền
kỳ, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại của Vũ Thanh, “Yếu tố kỳ ảo trong
truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau 1975” của Phùng Hữu Hải, Đi tìm nguyên
nhân hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn học đương đại Việt Nam của Bùi Thanh
Truyền, Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo của Lê Huy Bắc, Về khái niệm cái kỳ ảo
và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học của Lê Nguyên Long, hoặc Những
hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỉ XX của Phùng Văn Tửu…
Nội hàm khái niệm “yếu tố kỳ ảo”
Về khái niệm, tên gọi yếu tố kỳ ảo vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi trong
giới nghiên cứu văn học, mỗi học giả đưa ra mỗi cách hiểu khác nhau. Vì thế, việc
tìm ra một khái niệm chính danh là hoàn toàn không đơn giản. Để tiện cho công
việc nghiên cứu chúng tôi điểm qua một vài ý kiến về yếu tố kỳ ảo trong các bài
viết, công trình nghiên cứu văn học, từ đó lựa chọn, sử dụng một khái niệm mang
tính khái quát nhất.
Chuyên gia kỳ ảo Roger Cailois gọi yếu tố kỳ ảo trong văn học là “Mọi cái
kỳ ảo đều là một sự vi phạm trật tự quen thuộc, một sự đảo lộn của cái không thể
tiếp nhận được trong lòng những qui luật bất biến của đời thường” [57]. Còn Vax
thì nhận định: “Truyện kỳ ảo… thích giới thiệu những con người giống như chúng
ta, sống trong thế giới thực tại mà ta đang sống, họ đột nhiên bị đối diện với cái
không thể giải thích được” [57].
Todorov cho rằng: “Trong một thế giới chính là thế giới của chúng ta này,
thế giới như chúng ta vẫn biết là chẳng có quỷ dữ, thiên thần hay ma cà rồng, xảy
ra một sự kiện không thể giải thích được bằng các qui luật của thế giới thân thuộc.
Người chứng kiến sự kiện này phải chọn lựa một trong hai giải pháp có thể xảy ra:
hoặc anh ta là nạn nhân của một ảo giác trong nhận thức, một sản phẩm của trí
tưởng tượng và những qui luật của thế giới do vậy vẫn tiếp tực tồn tại, hoặc sự kiện
này đã thực sự xảy ra, nó là một bộ phận trọn vẹn của hiện thực – nhưng thế thì
hiện thực này bị kiểm soát bởi những qui luật mà chúng ta không biết … Cái kỳ ảo
diễn ra trong một khoảnh khắc của sự không xác định được này (…) Cái kỳ ảo là sự
do dự được cảm nhận bởi một người đang đối mặt với một sự kiện có vẻ siêu nhiên,
mà anh ta lại chỉ biết các qui luật tự nhiên” [57].
Tác giả Lê Nguyên Cẩn lý giải: “Cái kỳ ảo… được tạo ra nhờ trí tưởng
tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc
đáo…” [5].
Phùng Hữu Hải định nghĩa: “Cái kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng …
được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lí
tính của con người.” [22].
Lê Huy Bắc thì cho rằng: “ Thế giới của văn học huyễn ảo là thế giới của trí
tưởng tượng, nơi sự khác lạ hoang đường, thần diệu,… luôn ngự trị. Có lúc nó giúp
người đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến người đọc hoang mang khiếp đảm và có
lúc khiến họ hoài nghi, bối rối…” [3].
Tác giả Lê Nguyên Long nhận xét: “Cái kỳ ảo là cái không thể cắt nghĩa
được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận thức hiện tại. Chính cái
không thể cắt nghĩa bằng lý tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy trong chuỗi liên kết
vũ trụ”, gây ra tâm trạng hoang mang cho những người nào đối diện với nó, bởi
theo Vax, khi con người không còn xem những mê tín của mình là điều nghiêm túc
nữa thì họ sử dụng chúng để sáng tạo nên nghệ thuật” [30].
Có thể thấy rằng, làn sóng luận bàn về yếu tố kỳ ảo không chỉ nóng bỏng
trên các tạp chí chuyên ngành ở phương Tây mà còn thu hút được sự quan tâm của
rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Sự xuất hiện phong phú các công trình
nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn học cho thấy biên độ nội hàm khái niệm có độ
dãn nở tự do, vì thế khó có thể thiết lập một khái niệm có sức thuyết phục hoàn
toàn. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở chỗ: cái kỳ ảo phải
đề cập đến cái siêu nhiên (supernatural), cái không thể xảy ra (impossible). Sự
tranh cãi chủ yếu diễn ra ở các bình diện sau: Thứ nhất, yếu tố kỳ ảo kỳ ảo xuất hiện
từ văn học dân gian hay hiện đại? Thứ hai, sự khác biệt giữa cái kỳ ảo (fantastic)
cái huyền diệu (marvellous) và cái phóng túng hư huyễn thuần tuý (fantasy). Thứ
ba là, quan niệm về "cái không thể xảy ra" và "cái không có thực".
Trước hết, chúng tôi cho rằng, văn học dân gian đã xuất hiện yếu tố kỳ ảo,
“nó phản ánh nhận thức còn ngây thơ, niềm tin lý tưởng của người cổ đại về thế
giới. Yếu tố kỳ ảo thành một dòng chảy liên tục trong dòng chung của lịch sử văn
học nhân loại từ thời cổ đại qua trung đại đến cận đại” [30]. Tuy nhiên, ý nghĩa
biểu hiện và quan niệm về yếu tố kỳ ảo ở mỗi thời kì là không giống nhau. Yếu tố
kỳ ảo trong văn học dân gian và văn học trung đại là những bóng ma, quỷ dữ, oan
hồn, thần thánh, tiên nữ… nói chung là “thế giới bên kia” xuất hiện ở trong thực tại
cuộc sống với những năng lực bí ẩn, siêu phàm chi phối toàn bộ đời sống con
người. Những yếu tố siêu nhiên, kỳ ảo này xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm:
Lĩnh Nam chích quái của Vũ Đình và Kiều Phú, Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ… Ngược lại, yếu tố kỳ ảo ở trong văn
học hiện đại là những sự kiện, con người trên thế gian được kỳ ảo hóa qua sự tưởng
tượng phóng túng của nhà văn. Và, lẽ dĩ nhiên ở đó chẳng có thế lực siêu nhiên,
thần linh hay ma quái, quỷ dữ nào chi phối nhân vật và sự kiện. Việc sử dụng yếu tố
kỳ ảo là nằm trong tư duy nghệ thuật có chủ đích của nhà văn. Họ sử dụng chúng
như là một phương thức nghệ thuật để gây nên cảm giác mãnh liệt, sức hấp dẫn của
tác phẩm.
Bên cạnh đó cũng không nên đồng nhất “cái không thể xảy ra” với “cái
không có thực”. Theo nhà nghiên cứu Lê Nguyên Long: “trong việc đi tìm một định
nghĩa cho cái kỳ ảo, không nên đồng nhất cái kỳ ảo với cái huyền diệu, và tất cả các
dạng thức tưởng tượng huyễn hoặc đối lập với hiện thực, theo đó văn học kỳ ảo đã
ra đời từ xa xưa, và các hình thức cụ thể của nó thì bao trùm một lĩnh vực rộng lớn
từ kiểu truyện cổ tích thần kì (fairy tale) đến văn học viễn tưởng trong thời hiện
đại. Cái kỳ ảo phải diễn ra trong một môi trường có tính hiện thực ở đó, sợ tưởng
tượng được phép phát triển ồ ạt và đi cùng với điều đó thì tính chất mơ hồ, lưỡng
trị là đặc trưng của thể loại. Cái kỳ ảo chỉ tồn tại khi đối diện với nó, người ta luôn
ý thức về một sự độc lập giữa những cái siêu nhiên, hư huyễn với thế giới thực
tại”[30]. Và ông cũng cho rằng: “Cái kỳ ảo không đơn thuần là cái siêu nhiên, cái
không thể xảy ra. Cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra ấy muốn trở thành cái kỳ ảo
thì phải có tác dụng tạo ra hiệu ứng hoang mang cho những người đối diện với nó,
bởi theo Vax, khi con người không còn xem những mê tín của mình là điều nghiêm
túc nữa thì họ sử dụng chúng để sáng tạo nghệ thuật” [30].
Trên tinh thần tiếp nhận những điểm tương đồng trong nội dung khái niệm
của các nhà nghiên cứu văn học, chúng tôi nhận diện yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm
văn học qua các biểu hiện sau:
Thứ nhất: Yếu tố kỳ ảo chỉ có trong thế giới tinh thần. Yếu tố kỳ ảo là sản
phẩm của trí tưởng tượng và được tiếp nhận qua trí tưởng tượng.
Thứ hai: Yếu tố kỳ ảo tồn tại dưới dạng: thần linh, ma quỷ, phi thường, phi
lý…
Thứ ba: Hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo là tạo ra một sự do dự, phân
vân lưỡng lự trong lòng độc giả… Sự phân vân lưỡng lự này không đưa độc giả vào
một thế giới rùng rợn, khủng khiếp, kinh dị… mà thường để tạo ra cảm giác mới lạ,
đầy hấp dẫn và lôi cuốn.
Từ cơ sở nhận diện các biểu hiện của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm văn
học, chúng tôi tạm thời đi đến kết luận: Yếu tố kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng
tượng, là phương thức sáng tạo nghệ thuật xuất phát từ chính thế giới tinh thần, thế
giới nội tâm của con người. Là sự phát triển “vượt ngưỡng của tư duy lãng mạn lẫn
tư duy hiện thực sang vùng siêu thực”. Yếu tố kỳ ảo tồn tại dưới hình thức huyền bí,
thần linh, ma quỷ, phi thường, siêu tự nhiên... Nó không chỉ nhằm mục đích tạo ra
sự hoang mang, rùng rợn, li kì trước sự xâm nhập của cái siêu nhiên, cái không thể
xảy ra vào thế giới tự nhiên mà còn là phương tiện để chuyển tải tư tưởng, ước mơ,
khát vọng, bài học nhân sinh, đạo lý cuộc đời. Là chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn về
thế giới vô thức của con người, là sự lý giải hợp lý cho những khiếm khuyết của tư
duy lý tính trước các hiện tượng không thể dùng qui luật thông thường để giải thích.
Trên đây là quan điểm nhận thức sơ bộ của chúng tôi về khái niệm yếu tố kỳ
ảo. Chúng tôi không có tham vọng đề xuất một khái niệm chính danh, nhưng hy
vọng nó sẽ phục vụ tốt cho công việc nghiên cứu đề tài.
1.1.2. Khái niệm “văn xuôi lãng mạn Việt Nam”
Trước khi đi vào tìm hiểu về khái niệm văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945, chúng tôi xin được điểm qua một đôi nét về chủ nghĩa lãng mạn.
Thiết nghĩ đây là một công việc cần thiết, bởi nó sẽ là nên tảng giúp ta hiểu rõ hơn
về văn xuôi lãng mạn Việt Nam.
Về chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn vừa có nghĩa là một trào lưu văn học, vừa là một
phương pháp sáng tác mang một nội dung lịch sử, xã hội cụ thể được hình thành ở
Tây Âu sau cách mạng Pháp năm 1789. Chủ nghĩa lãng mạn chia làm hai khuynh
hướng: chủ nghĩa lãng mạn tích cực và chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực, giữa chúng có
mối liên hệ qua lại khá phức tạp với nhau. Trong bài viết này chúng tôi không bàn
luận sâu về chủ nghĩa lãng mạn tích cực và tiêu cực chỉ đi vào tìm hiểu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nhìn chung, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện
qua những nguyên lý cơ bản như sau:
Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ánh những khuynh hướng mâu thuẫn của xã
hội và những khuynh hướng tiến bộ của thời đại. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao thế
giới nội tâm của con người, trước hết là thể hiện những khuynh hướng tự do cá
nhân. Họ đã miêu tả những yếu tố khác thường của thế giới tình cảm và yếu tố trữ
tình trong nghệ thuật. Các chủ đề về tình yêu, nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lý tưởng
không đạt được...
Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người
muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống
mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn "cái tôi" bị tổn
thương cái tôi của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn là thế giới
mộng tưởng. Tùy vào sự phản ứng khác nhau của hai khuynh hướng tiêu cực và tích
cực. Đối với những người lãng mạn tiêu cực thì họ có thái độ bi quan trốn chạy
cuộc đời, họ thường tìm về quá khứ vào mộng ảo hay thu mình vào "cái tôi" bí ẩn,
thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái chết (Nỗi lòng chàng Werther của Johann
Wolfgang von Goethe). Đối với những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa
hoãn thỏa hiệp với thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới đảm bảo
hạnh phúc cho con người, họ thường vẽ nên một xã hội lý tưởng (Nhà thờ Đức Bà
Paris, Những người khốn khổ của Victor Huygo).
Chủ nghĩa lãng mạn còn được gọi là chủ nghĩa tình cảm, vì ở đây tình cảm
của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa lãng mạn chính là sự
phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sùng lý trí với những quy tắc
duy tâm nghiêm ngặt (không đề cập đến tình cảm của của con người, không đưa
thiên nhiên vào tác phẩm ...) đã siết chặt tính sáng tạo và tình cảm của con người.
Nên trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người được khai thác ở mọi phương
diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất, trở thành nơi phản ánh
nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của con người.
Chủ nghĩa lãng mạn đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn
hướng đến một cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Ở chủ nghĩa lãng mạn
người nghệ sĩ được trả lại tất cả mọi quyền tự do để họ thỏa sức sáng tạo và tưởng
tượng. Nên đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường, vì chủ
nghĩa lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt, nên nó đã tự cho
phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được
thể hiện rõ nét qua các phương diện sau:
Chủ nghĩa lãng mạn không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Nếu trong
chủ nghĩa cổ điển đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lý tưởng cao
cả của những ông hoàng bà chúa hoàn toàn không đề cập đế những khía cạnh đời
sống của những tầng lớp dưới (những người bình dân). Thì ở chủ nghĩa lãng mạn
mọi vấn đề của cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đều ngang nhau trở thành đề
tài cho văn học nghệ thuật. Mọi người dù ở bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng đều
được phản ánh qua các tác phẩm của chủ nghĩa lãng mạn, không phân biệt giai cấp,
mọi người đều có quyền bước chân vào văn học. Văn học lãng mạn đã thành công
khi thể hiện hình ảnh "đám đông" quần chúng với những kiếp người đau khổ. Ví dụ:
Hình ảnh đám đông trong Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo.
Chủ nghĩa lãng mạn sử dụng những câu văn uyển chuyển, phóng túng giàu
hình ảnh, nhạc điệu, màu sắc, giàu tính hội họa. Các phương tiện diễn đạt được mở
rộng, các biện pháp nghệ thuật: tỉ từ, ẩn cụ, ngoa dụ, tương phản được sử dụng rộng
rãi, tạo nên một văn phong truyền cảm, thống thiết gây ấn tượng mạnh trong lòng
người.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Khuynh hướng
văn học này đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học Việt Nam vào những năm
30 của thế kỉ XX, đặc biệt là trong thơ và văn xuôi. Trong phạm vi của bài viết này
chúng tôi chỉ đề cập đến những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn trong văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
* Về văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (là những tác phẩm viết bằng văn xuôi thỏa
mãn những yêu cầu của chủ nghĩa lãng mạn) hình thành và phát triển trên văn đàn
hợp pháp Việt Nam thời kì trước những năm 1945, là tiếng nói của tầng lớp trí thức
thanh niên tư sản và tiểu tư sản, gắn liền với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân trong
đời sống thành thị đương đại. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam được thai nghén từ
những năm đầu của thế kỉ XX với những tác giả và tác phẩm mở đường: Thề non
nước, Giấc mộng lớn… (Tản Đà), Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách)… Nhưng phải đến
những năm 1930, văn xuôi lãng mạn Việt Nam mới thật sự khai sinh, phát triển và
đạt được những đỉnh cao về nghệ thuật. Ngự trị trên văn đàn văn xuôi lãng mạn lúc
bấy giờ là đội ngũ các nhà văn tuổi đời còn rất trẻ. Họ thuộc tầng lớp thanh niên
Tây học được đào tạo ở các trường Pháp – Việt, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
văn hóa của phương Tây (Pháp), đồng thời lối sống, sinh hoạt thành thị đã Âu hóa
mạnh mẽ. Những Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Đái Đức Tuấn,
Thế Lữ… là những tên tuổi không thể không nhắc đến của dòng văn học này.
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là sự hợp thành của
nhiều yếu tố, hoàn cảnh và tâm lý xã hội, sự tiếp thu chất lãng mạn trong văn
chương quá khứ, ảnh hưởng của văn chương lãng mạn phương Tây. Mặt khác, sau
cuộc khủng bố trắng 1930 – 1931 của thực dân Pháp, phong trào cách mạng tạm
lắng xuống, không khí xã hội trở nên nặng nề và buồn chán. Một bộ phận tầng lớp
thanh niên tư sản và tiểu tư sản trí thức đã rút lui khỏi con đường đấu tranh chính trị
với đế quốc, con đường văn chương lúc bấy giờ đối với họ là một lối thoát ly trong
sạch, là một nơi có thể gởi gắm nỗi niềm tâm sự yêu nước. Trong Nhật ký ngày 19
tháng 12 năm 1930, Nguyễn Huy Tưởng đã từng tâm sự: “Phận sự một người tầm
thường như tôi, muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn Quốc ngữ thôi”.
Điều đó chứng minh rằng, văn chương lãng mạn trở thành cứu cánh tinh thần của
tầng lớp dân chúng thành thị, vừa tiếp tục hướng đấu tranh chống lễ giáo phong
kiến lại vừa tạo nên thế giới lãng mạn nhiều mộng tưởng làm dịu đi những trăn trở
nhức nhối của tình hình thời cuộc. Tác phẩm của văn xuôi lãng mạn được người đọc
tiếp nhận như một hướng đi tới, có mục tiêu đấu tranh lại tiếp tục mở ra những khát
vọng và mơ ước về quyền cá nhân, cho dù đó chỉ là cá nhân của những con người
dưới chế độ nửa thực dân phong kiến. Xuất phát từ những ý tưởng, mục đích chính
đáng ấy, nhiều tác giả muốn bộc lộ, phát biểu quan điểm sáng tác của mình. Trên
con đường mười lăm năm với biết bao những biến cố, sự kiện chính trị xã hội phức
tạp nhưng các nhà văn vẫn luôn cố giữ lập trường trường đúng đắn, tích cực. Từ các
sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng đến các tác phẩm của
Lan Khai, Thế Lữ, Trần Tiêu, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh… luôn có sự tìm tòi, đổi
mới theo hướng hiện đại làm cho văn xuôi lãng mạn Việt Nam ngày càng mới mẻ,
giàu có và phong phú thêm. Hơn thế, còn tạo dựng được nhiều phong cách cá nhân
độc đáo.
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 phát triển trong một
thời kì lịch sử có nhiều biến động sâu sắc nên ngày càng phân hóa phức tạp thành
những khuynh hướng khác nhau. Theo Nguyễn Hoành Khung: “Trên đại để, văn
xuôi lãng mạn Việt Nam có hai khuynh hướng chủ yếu nổi bật, phản ánh tư tưởng
tâm lý của hai tầng lớp xã hội khác nhau, tuy cả hai đều có sự thức tỉnh ý thức cá
nhân và đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa phương Tây. Khuynh hướng thứ
nhất có chủ thuyết cải cách gia đình, xã hội theo hướng canh tân tư sản rõ ràng,
tiêu biểu là nhóm Tự Lực văn đoàn với Khái Hưng, Hoàng Đạo. Khuynh hướng thứ
hai chỉ muốn thoát ly chính trị xã hội mà họ sợ hãi, từ đó tìm vào quá khứ, vào tình
yêu đủ mọi sắc thái, và giải phóng cá nhân đòi hỏi quyền sống, tiêu biểu là các thi
sĩ của phong trào “Thơ mới” và các nhà văn Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Lan
Khai… Nhìn chung, hai khuynh hướng văn học này có nhiều chỗ thống nhất khá
căn bản, nhưng về thái độ chính trị, tâm lý, nguyện vọng, nghệ thuật biểu hiện, sức
chinh phục đối với độc giả, vị trí lịch sử trong từng giai đoạn… cũng có sự khác
biệt tương đối rõ rệt” [11, tr.1959]. Nhìn chung, văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 phát triển qua ba chặng đường sau:
Thời kì 1930 – 1935 là chặng đường cực thịnh của văn xuôi lãng mạn, Tự
Lực văn đoàn ra đời và ngự trị trên văn đàn, đem lại hơi thở và sức sống mới cho
văn học dân tộc. Như một yêu cầu bức thiết của thời đại, các tác phẩm văn xuôi thời
kì này tập trung phê phán đại gia đình phong kiến trên các vấn đề tình yêu, hôn
nhân, gia đình, đấu tranh giành quyền sống, quyền cá nhân, quyền hạnh phúc cho
thế hệ trẻ và tạo dựng được nhiều hình ảnh đẹp về một số thanh niên có chí hướng
hoạt động chính trị: Dũng (Đôi bạn, Đoạn tuyệt – Nhất Linh), Trúc (Đoạn tuyệt),
những cô gái tân học có bản lĩnh và biết vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống để
bảo vệ nhân cách và danh dự của mình: Loan (Đôi bạn), Mai (Nửa chừng xuân).
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều tác phẩm mang chất lãng mạn thoát ly khi đi sâu vào
miêu tả những mối tình lãng mạn, ảo tưởng, những bi kịch của số phận không rõ
căn nguyên xã hội, những tính cách cá nhân không phổ biến.
Thời kì 1936 – 1939, văn xuôi lãng mạn Việt Nam không còn thống nhất
dưới lá cờ của Tự Lực văn đoàn, nó đã phân hóa thành những khuynh hướng khác
nhau. Một số sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo vẫn tiếp tục đấu tranh
bài xích những hủ tục cổ hủ của lễ giáo phong kiến (Lạnh lùng, Thừa tự, Thoát ly,
Gia đình…) và đi sâu vào tình yêu, lối sống nhiễm triết lý cá nhân chủ nghĩa cực
đoan hưởng thụ (Đời mưa gió, Trống mái, Dưới ánh trăng, Đẹp). Mặt khác, các
tác phẩm văn xuôi lãng mạn thời kì này còn quan tâm đến xã hội và đời sống của
những người dân nghèo khổ, cần lao. Họ đưa ra chủ đề cải cách xã hội qua những
tiểu thuyết luận đề, qua những nhân vật hăng say cải cách xã hội có tính chất cải
lương (Gia đình, Con đường sáng).
Bước vào thời kì 1940 – 1945, trong một hoàn cảnh xã hội vô cùng bức bối
và văn xuôi lãng mạn cũng bước vào thời kì thoái trào. Tổ chức Tự Lực văn đoàn
bắt đầu phân hóa và tan rã, các tác phẩm của nhóm cũng không còn thuần túy mang
tính chất lãng mạn nữa mà đã nhiễm triết lý hiện sinh, lối sống hưởng thụ... Trong
thời kì này, chúng ta chứng kiến sự xuất hiện của Nguyễn Tuân, Lan Khai, Lê Văn
Trương… Chính họ đã đem đến nhiều giọng điệu, nhiều phong cách mới lạ và độc
đáo, đem đến cái tôi cá nhân mang nhiều khuôn dáng, cái tôi cao ngạo, khinh bạc…
đem đến một tấm lòng hướng đến cái thiện cái cao cả, cái hoàn mĩ. Tất nhiên cả
những tâm sự u uất, bất bình với lối sống bụi bẩn xung quanh.
Mặc dù văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có nhiều khuynh
hướng phát triển không thuần nhất. Nhưng, nhìn chung các tác phẩm văn học thời kì
này có những đặc trưng chuẩn mực sau:
Thứ nhất, văn xuôi lãng mạn mang tính chất thoát ly: thoát lý khỏi hiện thực
cuộc sống, khỏi không khí ngột ngạt và yêu cầu bứt thiết và những sự kiện quan
trọng của xã hội. Các tác giả văn xuôi lãng mạn thường tưởng tượng nên những câu
chuyện xa rời thực tế: đó là một mối tình đầy ảo mộng trong cảnh chùa dưới bóng
Phật tổ (Hồn bướm mơ tiên), đó là câu chuyện tình giữa một cô gái Hà Nội trưởng
giả với một anh dân chài nghèo chất phác (Trống mái – Khái Hưng)… Có tác giả
tìm vào quá khứ của lịch sử dân tộc để dệt nên những chuyện tình say đắm mà
không bị hiện thực cuộc sống kiềm tỏa (Tiêu sơn tráng sĩ – Khái Hưng, Đỉnh non
thần – Lan Khai). Viết về truyện đường rừng, chốn rừng thẳm nước thiêng chứa
đựng nhiều bí ẩn, các nhà văn đã thêu dệt nên những mối tình đặc biệt, những câu
chuyện ly kỳ ở chốn sơn lâm hoang dã: Tiếng gọi nơi rừng thẳm, Suối đàn, Hồng
thầu… (Lan Khai), Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái Đức Tuấn). Cũng có
những tác giả tập trung miêu tả cuộc sống riêng tư cùng những ràng buộc giữa cá
nhân và xã hội, số phận của nhân vật đi theo con đường riêng của nó mà không phụ
thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Đó chính là những cách thoát ly của nhà văn khỏi hiện
thực bức bối của xã hội để đi vào hướng lãng mạn phiêu bồng.
Thứ hai, mọi định hướng mọi chuẩn mực trong các tác phẩm văn xuôi lãng
mạn đều do cái tôi quyết định. Nghĩa là: “Nhà văn không dựa vào quy luật của xã
hội, không nghiên cứu khảo sát hoàn cảnh mà lấy cái tôi làm quyền lực tôi cao
quyết định tất cả. Thế giới nghệ thuật không được tổ chức song song với cuộc đời
như một tấm gương phản chiếu mà theo vòng tròn hướng tâm” [20, tr.708].
Thứ ba, văn xuôi lãng mạn giàu cảm xúc trữ tình. Mạch nguồn cảm xúc
chính là phương thức biểu hiện của tác phẩm. Theo dòng cảm xúc, câu chuyện
thường được tô điểm nhấn mạnh, thậm chí cường điệu để tạo nên nhiều khác biệt,
nhiều tương phản gây ấn tượng rõ rệt với người đọc. Dấu ấn cá nhân người viết với
nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau nhiều khi in đậm qua các trang viết. Bạn đọc có
thể nhận thấy: “lối văn gọn ghẽ chặt chẽ của Thế Lữ, chải chuốc và tình cảm của
Khái Hưng, trong sáng, gợi cảm của Thạch Lam, cầu kỳ và độc đáo của Nguyễn
Tuân, thương cảm của Hồ Dzếch,…” [20, tr.708].
Tóm lại, đánh giá về thành tựu của dòng văn học này tuy vẫn còn nhiều ý
kiến khác biệt nhau. Nhưng có điều không thể phủ nhận là non hai thập niên tồn tại
và phát triển, văn xuôi lãng mạn Việt Nam đã khẳng định được vị thế của mình trên
bước đường hiện đại hóa văn học nước nhà. Hơn thế, nó còn sản sinh ra nhiều tên
tuổi xứng danh: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Lan Khai… Và,
“vẫn còn lại mãi mãi với thời gian những trang viết nhiều màu sắc và những phong
cách sáng tạo, hấp dẫn, độc đáo” [20, tr.718].
1.2. Yếu tố kỳ ảo – từ văn xuôi trung đại đến văn xuôi hiện đại Việt Nam trước
1945.
1.2.1. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi trung đại Việt Nam
Văn xuôi trung đại Việt Nam tồn tại và phát triển từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX
trong một môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ Nho giáo, lực lượng sáng tác
chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người được đào tạo từ “cửa Khổng sân Trình”.
Văn học giai đoạn này gắn liền với cảm hứng yêu nước, cảm hứng nhân đạo và thế
sự. Theo quan niệm của các văn nhân nho sĩ đương thời loại văn chương kỳ ảo, linh
dị là loại văn chương thấp kém, hạ lưu, phi chính thống, là đi ngược lại với những
tín điều của Nho giáo. Nhưng không phải vì thế mà sức sống của yếu tố kỳ ảo trong
đời sống văn học trung đại trở nên khô cằn. Bất chấp sự kìm kẹp của hệ tư tưởng
Nho giáo các đệ tử ưu tú của “cửa Khổng sân Trình” đã tìm đến yếu tố linh dị, kỳ
ảo với một sức hút kì lạ. Đi tìm nguyên nhân trỗi dậy của “mảng độc” văn chương
này, nhà nghiên cứu Bùi Thanh Truyền cho rằng: “một phần là do những cảm xúc
nghệ thuật mạnh mẽ mà yếu tố kỳ ảo mang lại cho người viết. Nó còn là biểu hiện ý
thức “trước thư lập tôn” của tác giả. Mặt khác không loại trừ sự gặp gỡ giữa yếu
tố kỳ ảo trong sáng tác văn học với những chủ trương chính trị tích cực của Nho
giáo. Với đăc trưng nhận thức và phản ánh cuộc sống bằng những yếu tố thần linh
linh dị, kỳ ảo dễ dàng giúp cho lớp nho sĩ vốn chịu không ít những kìm tỏa bức bối
của tam cương ngũ thường tìm được con đường để giải tỏa những ẩn ức dồn nén
đồng thời thông qua đó bộc lộ những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời” [60]. Bên
cạnh đó, ông còn cho rằng: "cái kì trong truyền thống văn học phương Đông còn
gắn bó chặt chẽ với triết học Phật giáo và phần nào triết học Lão Trang, hai học
thuyết đối trọng với Nho giáo nhưng lại khá dung hoà với tín ngưỡng gốc dân gian
để góp phần tạo ra bản sắc dân tộc Việt Nam (… ). Chính là nhờ hai học thuyết
này, cộng với văn hoá dân gian mà đời sống văn học của phương Đông thời trung
đại giữ được thế quân bình cần thiết giữa một bên là cách nhìn hiện thực – thực
dụng, khô khan của nhà nho và một bên là trí tưởng tượng bay bổng qua các truyện
truyền kỳ, các truyện ngụ ngôn kỳ ảo” [60]. Đó là những cơ sở thiết yếu lý giải về
sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi trung đại Việt Nam.
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi trung đại gắn liền với thể loại truyện truyền kỳ
(tiểu thuyết truyền kỳ): Truyền kỳ mạn lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ tân
phả… Vậy truyền kỳ là gì? Truyền kỳ có nghĩa là truyền đi một sự lạ. Hạt nhân cơ
bản của loại truyện này là “kì”. Cái kì – lạ trong truyện truyền kỳ không đơn thuần
chỉ là ghi chép những “kì sự”– “kì nhân”. Ở một trình độ cao hơn, kì là một
phương thức tư duy nghệ thuật kiểu phương Đông để tạo nên những “kì văn”. Đặc
trưng của truyện truyền kỳ là miêu tả những câu chuyện lạ, kỳ ảo.
Trên bước đường mười thế kỉ hình thành và phát triển, văn xuôi trung đại đã
để lại rất nhiều những tác phẩm đậm chất kỳ ảo, hoang đường. Có thể kể đến những
tác phẩm tiêu biểu: Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của
Vũ Đình và Kiều Phú, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ,
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm…
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi trung đại là địa hạt của những điều siêu nhiên
huyền bí: hồn ma, điềm báo, hóa kiếp, đạo sĩ làm bùa phép phù chú, nhà sư có phép
thần thông… Chính những yếu tố kì lạ, khác thường ấy thể hiện một niềm tin thiêng
liêng và lòng tôn sùng ngưỡng mộ của con người và thời đại đối với lực lượng ấy.
Đồng thời thông qua đời sống tâm linh của mình, của người, các tác giả trung đại
còn thể hiện nguyện vọng ước mơ của họ về nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Động cơ sáng tác kỳ ảo của các tác giả trung đại cũng không vượt khỏi
phạm vi “tải đạo ngôn chí” của quan niệm sáng tác văn chương trung đại. Bởi, theo
lời hé lộ của tác giả Lĩnh Nam chích quái: "Chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác,
bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục mà thôi". Tuy nhiên, “họ tải đạo bằng
con đường khác – con đường nhỏ (tiểu đạo), và đã thoáng nói đến những cái khác –
những ước muốn bị coi là cấm kị, cả sự bất đắc chí… mà dù có cố gắng chính thống
hóa nó đến mấy chăng nữa cũng nổi lên như một giấc mộng đẹp, một nổi khắc
khoải chân thành” [53]
Như vậy, yếu tố kỳ ảo đã góp một phần quan trọng trong việc tạo nên những
thành tựu cho văn xuôi trung đại Việt Nam, nhất là ở thể loại truyền kỳ. Trong suốt
quá trình phát triển đó, yếu tố kỳ ảo đã được các tác giả sử dụng như một thủ pháp
nghệ thuật mang tính đặc trưng thể loại. Nó còn là phương tiện thẩm mĩ, nghệ thuật
tạo nên sức hấp dẫn bề nổi cho những câu chuyện và tác phẩm như được khoác
thêm chiếc áo sặc sỡ bắt mắt. Mặt khác, sự xuất hiện của yếu tố kỳ ảo trong các tác
phẩm văn xuôi trung đại Việt Nam như là những bước chạy đà quan trọng để hình
thành nên dòng văn xuôi kỳ ảo Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi hiện đại Việt Nam trước 1945
Trọng tâm của mục này chủ yếu chúng tôi đi vào tìm hiểu sự có mặt của yếu
tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Song để có cái
nhìn tổng thể về yếu tố kỳ ảo từ văn xuôi trung đại đến văn học hiện đại Việt Nam,
chúng tôi thiết nghĩ cần phải điểm qua đôi nét về yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi giai
đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1930.
Như chúng ta đã biết, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi Việt Nam là mạch chảy
xuyên suốt từ truyền thống đến hiện đại. Tuy nhiên khoảng 30 năm đầu thế kỉ XX
(cụ thể là từ đầu thế kỉ XX đến 1920), yếu tố kỳ ảo đột nhiên vắng bóng trong các
sáng tác của các nhà văn. Nghiên cứu giai đoạn văn học này, chúng tôi nhận thấy số
lượng tác giả, tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo là rất ít. Người mặn mà nhất với thể
loại truyện kỳ ảo đó chính là Tản Đà. Ngoài việc dịch Liêu trai chí dị của Bồ Tùng
Linh (Trung Quốc) sang tiếng Việt, ông còn được biết đến với những tác phẩm đầy
mộng tưởng nơi chốn thần tiên: Giấc mộng con I, Giấc mộng con II, Giấc mộng
lớn… Bên cạnh đó, còn phải kể đến: Giấc mộng (Bửu Đình), Lời than vãn của bà
Trưng Trắc (Nguyễn Ái Quốc). Tuy nhiên, dấu ấn thẩm mĩ của yếu tố kỳ ảo trong
văn học giai đoạn này là không nhiều. Vì thế, có rất nhiều ý kiến (của các nhà
nghiên cứu phê bình văn học) cho rằng đây là giai đoạn văn xuôi kỳ ảo có sự đứt
quãng, không liền mạch.
Bước sang những năm 1930 – 1945, xã hội Việt Nam có sự biến chuyển khá
mạnh mẽ so với ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Nhiều đô thị lớn mọc lên, tầng lớp trí
thức tiểu tư sản ngày càng một lớn mạnh và khẳng định được vị thế nhất định của
mình trong xã hội. Thị hiếu thẩm mĩ tiếp nhận văn học của công chúng cũng có
nhiều thay đổi. Trước những đổi thay của cuộc sống hiện đại, văn học cũng có sự
“lột xác” mới mẻ. Dấu ấn sinh động nhất của đời sống văn học thời kì này chính là
sự ra đời của văn học lãng mạn Việt Nam. Chính sự ra đời của văn xuôi lãng mạn
Việt Nam cùng với việc tiếp thu những thành tựu của văn học phương Tây mà nhiều
thể loại văn học mới đã ra đời (thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói…), nhiều
phong cách sáng tác độc đáo, phá cách được hình thành. Cuộc sống đương đại với
những con người hiện đại tràn ngập trong tác phẩm. Nhưng không vì thế mà những
gì thuộc về truyền thống lại bị gạt bỏ, cắt đứt. Nghiên cứu văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những tác phẩm lãng
mạn thấm nhuần tư duy thẩm mĩ hiện đại vẫn còn rất nhiều trang viết âm thầm tiếp
nối quá khứ. Cái mới và cái truyền thống cùng hòa điệu để tạo nên nét độc đáo của
văn học giai đoạn này. Cái mới tạo năng lượng cần, đủ để các nhà văn bước ra khỏi
những khuôn sáo của cái truyền thống. Cái truyền thống là nguồn mạch nuôi dưỡng
hồn cốt của dân tộc. Chính sự giao thoa giữa Đông – Tây đã tạo điều kiện thuận lợi
cho thể loại văn học kỳ ảo tiếp tục phát triển.
Xét ở một góc cạnh nào đó, nói đến yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn
1930 – 1945 là một điều phi lý. Bởi, đây là thời đại của văn minh, thời đại của
những phát kiến khoa học, thời đại của chủ nghĩa duy lý. Nhưng, không phải vì thế
mà thế giới huyễn tưởng, ma quái, thần linh bị đẩy lùi vào quá khứ. Mảnh đất hiện
đại vẫn là bầu sữa mát dung dưỡng dòng văn học kỳ ảo phát triển. Sức vóc của nó
được tác tạo, bồi đắp bởi những cây bút chuyên nghiệp: Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Đái
Đức Tuấn, Lan Khai, Phạm Cao Củng… Đây là những phong cách tài hoa, sắc sảo
được nuôi dưỡng bởi hai luồng văn hóa Đông – Tây. Chính sự xuất hiện của những
phong cách “truyền kỳ đời mới” này đã làm sinh động đời sống văn học lúc bấy giờ.
Non hai thập kỉ hình thành và phát triển, văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 đã trình làng rất nhiều những trang viết kỳ ảo: Rừng khuya – Lan
Khai, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya – Tchya Đái Đức Tuấn, Vàng và máu,
Trại Bồ Tùng Linh – Thế Lữ, Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lam, Loạn âm… –
Nguyễn Tuân, Lan rừng, Bóng người trong sương mù – Nhất Linh, Ngậm ngải
tìm trầm – Thanh Tịnh… Tác phẩm của họ “đã trở thành món “khoái khẩu” đối với
cái dạ dày “ăn tạp” của độc giả thành thị thích săn tìm cái lạ” [65, tr.86]. Đồng
thời, qua lăng kính kỳ ảo hiện đại, thế giới ma quỷ: ma trành, ma xó, ma khách, ma
mường, hùm tinh, ma báo oán, ma tài tử… và những truyền thuyết dân gian về quan
ôn bắt lính, chuột tha lá phủ mặt, ngậm ngải tìm trầm… khiến không khí truyện trở
nên chập chờn ma mị, đậm chất liêu trai nhưng đánh thức nhiều quan niệm mới về
tình yêu và cuộc sống.
“Chất men” của yếu tố kỳ ảo không chỉ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các
cây bút có sở trường: Nguyễn Tuân, Lan Khai, Đái Đức Tuấn, Phạm Cao Củng…
mà còn quyến rũ tất thảy những người cầm bút khác. Nhất Linh ngoài vị thế chủ
soái của những trang tiểu thuyết tình cảm lãng mạn chủ trương cổ vũ cái mới còn
được biết đến với một Nhất Linh đầy rùng rợn ly kỳ, ma quái trong các tác phẩm:
Lan rừng, Bóng người trong sương mù… Hay, Thế Lữ không chỉ là cây đàn muôn
điệu ru đời, ru tình bằng những vần thơ lãng mạn, say đắm mà còn là một nhà văn
đầy kinh dị, ma quái qua các tác phẩm: Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh, Ma
xuống thang gác…
Có thể thấy rằng yếu tố kỳ ảo mang một sức hút không cưỡng đối với đông
đảo đội ngũ cầm bút đương thời. “Mảng độc” văn chương này ngày một đơm hoa
kết trái và trở thành một dòng, một nhánh riêng trong tiến trình hiện đại hóa của văn
học dân tộc. Đóng góp của dòng văn học này vào thành tựu chung của văn xuôi
lãng mạn là một điều không thể phủ nhận. Nó không chỉ nối lại nguồn mạch của
mảng văn học truyền kỳ truyền thống có lúc bị đứt quãng khoảng 30 năm đầu của
thế kỉ XX mà còn tạo ra một cuộc bức phá ngoạn mục so với văn học truyền thống
để giúp dòng văn học kỳ ảo Việt Nam hòa vào quĩ đạo của văn học thế giới.
1.2.3. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi hiện đại Việt Nam trước 1945 – sự kế thừa
và cách tân
Nếu 30 năm đầu thế kỉ XX yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi Việt Nam có sự đứt
mạch thì đến những năm 1930 – 1945 mạch chảy ấy đã được nối lại trong các tác
phẩm của văn xuôi lãng mạn. Tuy có sự gián đoạn như thế nhưng yếu tố kỳ ảo trong
văn xuôi lãng mạn Việt Nam không phải là những “kì hoa dị thảo” đột ngột xuất
hiện như một sự "thất cước với giống nòi" mà là mạch chảy được khơi nguồn từ văn
học truyền thống có sự sáng tạo bổ sung. Dấu ấn của văn hóa dân gian và văn học
trung đại vẫn còn in đậm trong cảm thức của các chủ thể sáng tác. Các sáng tác của
Thế Lữ, Nhất Linh, Bùi Hiển, Thanh Tịnh, Tchya Đái Đức Tuấn, Nguyễn Tuân,
Phạm Cao Củng… là những cuộc “về nguồn” có ý thức. Chất liệu mà các nhà văn
này dùng để tạo ra yếu tố kỳ ảo phần lớn được chiết lọc từ những quan niệm về tâm
linh, tín ngưỡng trong dân gian. Cốt truyện cũng được thu nhặt, gợi ý từ các truyền
thuyết và chuyện kể dân gian có tính chất ly kỳ, rùng rợn. Tuy nhiên, chúng lại
được kể bằng bút pháp tiểu thuyết hiện đại và phản ánh qua tâm trạng và bối cảnh
của con người hiện đại. Tạo nền cho những cốt truyện về sự kiện, con người, xã hội
hiện đại, các tác giả thường tìm đến những câu chuyện được lưu truyền trong dân
gian. Các tác phẩm Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn), Ngậm ngải
tìm trầm (Thanh Tịnh), Vàng và máu, Một đêm trăng (Thế Lữ)… đều là những câu
chuyen ly kỳ, hấp dẫn có nguồn gốc từ các truyện ma (ma hổ, ma trành, ma xó, ma
cụt đầu, ma thắt cổ, ma nhà hoang), truyện thần (thần giữ của, khách để của) kết
hợp với các truyền thuyết dân gian (quan ôn bắt lính, chuột tha lá phủ mặt). Nhưng
nếu cứ bám chặt vào “dưỡng chất của truyền thống” mà không có sự sáng tạo thì
dòng văn học ấy sẽ sớm “đoản mệnh”. Ý thức được luật chơi của sáng tạo nghệ
thuật, các nhà văn kỳ ảo giai đoạn này luôn biết cách bứt phá khỏi những khuôn
mẫu. Ví dụ, khi viết về các truyện ma quỷ, thần linh các tác giả dân gian và trung
đại thường gởi gắm niềm tin, sự tín ngưỡng của mình và cộng đồng vào trong tác
phẩm. Không chỉ nham mục đích khuyên lành, lánh dữ và xác tín thế giới tâm linh
như một biểu tượng văn hóa tinh thần của người Việt như trong các tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục, Thánh Tông di thảo… mà các tác phẩm kỳ ảo thuộc dòng văn
xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 còn muốn chuyển tải những trăn trở, xúc cảm
của con người trong thời đại mới. Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) là minh chứng cho
sự kế thừa và cách tân ấy. Tác phẩm viết về một chuyện tình đắm say, mơ mộng,
ngọt ngào ái ân, bất chấp khuôn phép. Một cuộc tình tự do phóng khoáng đầy bí ẩn
đậm chất ma quái. Bối cảnh, tung tích nhân vật, sự xuất hiện, những buổi hò hẹn,
những lần hoan lạc của đôi trai gái… đều in đậm dấu ấn của truyện truyền kỳ, liêu
trai. Có điều, câu chuyện thường được kể bằng bút pháp hiện đại, bằng khả năng
đào sâu vào cái tôi nội cảm nhân vật của các nhà văn hiện đại. Chính sự tìm tòi và
đổi mới về nghệ thuật của các chủ thể sáng tác đã giúp cho văn học giai đoạn này có
được khuôn diện mới khắc hẳn với truyền thống.
Sự nở rộ của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945
không chỉ là sự tiếp nối văn học truyền thống mà còn là cuộc bén duyên với văn học
phương Tây. Như chúng ta đã biết, ở thế kỉ XIX trong đời sống văn học phương
Tây đã hình thành nên dòng truyện kỳ ảo với những tên tuổi: Hoffmann (Đức),
Edgar Allan Poe (Mỹ), Balzac (Pháp)… Sáng tác của họ là sản phẩm của xã hội văn
minh hiện đại. Nhạy cảm trước những biến chuyển của thời đại, các tác giả đã dùng
phương thức kinh dị – “bất khả giải”, “bất khả tri” để chuyển tải quan niệm của
mình về cuộc sống mới. Ngọn gió kỳ ảo Tây phương từ sáng tác của các nhà văn
như thế, đã thổi vào khu vườn văn học Việt Nam những hạt mầm kỳ ảo hiện đại.
Trong khu vườn văn học ấy, những người thợ làm vườn (là những trí thức Tây học)
tâm huyết đã ra sức vun xới cho hạt giống kỳ ảo ngày một tốt tươi. Có điều, hạt
giống ấy sinh trưởng trong mảnh đất vốn giàu tính dân tộc nên hương sắc của nó, vì
thế, đậm chất vị phong thổ bản địa hơn. Có đi sâu vào tìm hiểu các tác phẩm kỳ ảo
giai đoạn này chúng ta mới thấy hết được sự tiếp biến tài tình đó. Sáng tác Vàng và
máu, Trại Bồ Tùng Linh, Thế Lữ chịu ảnh hưởng khá rõ nét truyện trinh thám của
Edgar Allan Poe nhưng cách đặt tên truyện và nội dung lại rất gần gũi với truyền
thống tâm linh người Á Đông. Tác phẩm Tâm sự nước độc của Nguyễn Tuân, Trên
bồng lai, Quyến rũ, Người con gái thần rắn của Cung Khanh, Người đàn bà trong
trắng, Người bạn kì dị của Hoàng Trọng Miên… đậm tính triết lý, óc khoa học của
truyện kinh dị Hoffmann nhưng ẩn chứa một niềm tin về sự tương thông, tương
giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới thực tồn và thế giới siêu nhiên.
Chính những ảnh hưởng đó đã góp phần tạo nên một diện mạo đặc trưng cho văn
xuôi kỳ ảo lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi hiện
đại trước 1945, đặc biệt là trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 là sự kết
hợp khá nhuần nhị các yếu tố truyền thống và hiện đại. Một mặt, chúng mang bóng
dáng truyền thống, vì phần lớn cốt truyện đều xuất phát từ các truyền thuyết và
chuyện kể dân gian. Mặt khác, chúng được thể hiện bằng bút pháp của truyện ngắn
hiện đại và phản ánh qua tâm trạng và bối cảnh của con người hiện đại. Phần lớn
những truyện này đều hướng vào thực tại sôi động, ở đó yếu tố kỳ ảo là nhân tố
quan trọng mang lại những giá trị thẩm mĩ thực sự cho tác phẩm chứ không chỉ
nhằm mục đích kích thích nhu cầu chuộng lạ đơn thuần của người đọc. Bút pháp kỳ
ảo, phi thực đa dạng, nhiều biến ảo này đã khiến văn học trở nên phong phú, sinh
động hơn và người viết bước đầu cũng đã có được gương mặt riêng, sức cuốn hút
riêng của mình. Hơn nữa, yếu tố kỳ ảo trong văn học giai đoạn này còn chịu ảnh
hưởng của văn học kinh dị phương Tây. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp nhận yếu tố
ngoại lai, hiện đại các nhà văn luôn biết tự khẳng định và làm mới để không trở
thành cái bóng của những bậc thầy kinh dị phương Tây khi điểm tô vào trang viết
của mình chút kỳ dị của phương Đông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Đình Ân (giới thiệu và tuyển chọn) (2007), Thế Lữ – về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục.
2. Bakhtin, M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển
chọn, giới thiệu và dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Lê Huy Bắc (2006), Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo, Tạp chí nghiên cứu văn
học số 8.
4. Ngô Vĩnh Bình (1996), Thanh Tịnh – văn và đời (sưu tầm và tuyển chọn),
NXB Thuận Hóa.
5. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, NXB Giáo dục
6. Nguyễn Cừ, Nguyễn Hoành Khung, Phong Hà, Trần Hồng Nguyên (1998),
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945 (8 tập), H. Khoa học xã hội.
7. Nguyễn Huệ Chi (1999), Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học trung
đại và cận đại Đông Tây (in trong Những vấn đề lý luận và lịch sử văn
học, Viện Văn học).
8. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 2, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 3, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Từ điển văn
học (bộ mới), NXB Văn hóa.
12. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, NXB Sự thật, in
lần hai, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, Lý luận và ứng dụng, NXB
giáo dục.
14. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa tâm linh, NXB Thông tin.
15. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
16. Phan Cự Đệ, Tuyển tập (tập 3), NXB Giáo dục.
17. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí
Dũng, Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nhà xuất
bản giáo dục.
18. Hà Minh Đức (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (truyện ngắn trước 1945
– quyển II, tập 3), NXB Văn học, Hà Nội, 2002.
19. Hà Minh Đức (1999) Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học
20. Hà Minh Đức, Khải luận về văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945
(trong Hà Minh Đức tuyển tập – tập 2), NXB Giáo dục.
21. E.M.Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch),
NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
22. Phùng Hữu Hải (2006), “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam từ sau
1975”, Tạp chí nghiên cứu văn học.
23. Đoàn Trọng Huy, Hình tượng không gian đa dạng trong văn xuôi nghệ thuật
Nguyễn Tuân, Đại học sư phạm Hà Nội.
24. Đào Duy Hiệp (2006), “Cấu trúc cái kì ảo trong truyện ngắn Maupassant”, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 9.
25. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.
26. Vũ Ngọc Khánh (2001), “Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo dục con
người”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 10.
27. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2004), Từ điển Việt Nam văn hóa tín
ngưỡng phong tục, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
28. Ngô Tự Lập, Những đường bay mê lộ, www.viet-studies.info/NgoTuLap-
Melo.htm.
29. Ngô Tự Lập, Ma với tư cách là nhân vật văn học, www.viet-
studies.info/NgoTuLap-Melo.htm.
30. Lê Nguyên Long (2006), “Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong
nghiên cứu văn học”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9.
31. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong
văn chương xưa và nay”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
33. Nhất Linh, Câu chuyện mơ trong giấc mộng, vantuyen.net.
34. Thế Lữ (1997), Truyện ngắn, NXB Hội nhà văn.
35. Thế Lữ (1999), Vàng và máu, NXB Văn học.
36. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Đăng Mạnh, “Tinh tuyển văn học Việt Nam (Tập 7 – quyển 1) – Văn
học giai đoạn 1900 – 1945”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
38. Nguyễn Đăng Mạnh, Lý luận và phê bình văn học, NXB Đà Nẵng.
39. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn hiện đại Việt Nam – Chân dung và
phong cách, Nhà xuất bản trẻ.
40. Trần Thanh Mại (1961), “Những câu chuyện thần linh ma quái”,Tạp chí
nghiên cứu văn học số 2.
41. Lưu Sơn Minh (2007), Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa (tuyển tập
truyện ma Việt Nam), NXB Văn học.
42. Nguyễn Trà My (2008), “Yếu tố kì ảo trong tác phẩm của Nguyễn Tuân”, Báo
Văn nghệ, số 51.
43. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Tuân – về tác giả và tác
phẩm, NXB Giáo dục, 2007.
44. Tôn Thảo Miên (2006), “Nguyễn Tuân - Dấu ấn của cá tính sáng tạo”, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 2.
45. Nguyễn Nam (2006), “Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo liên văn bản trong văn
chương và điện ảnh”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 12.
46. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
47. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 3), NXB giáo dục.
48. Vũ Ngọc Phan, Một tiểu thuyết gia có biệt tài, trong Thế Lữ về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, 2007.
49. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (2003), Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn học.
50. S.Iu. Nekliudov (2007), “Những hình ảnh của thế giới bên kia trong tính
ngưỡng dân gian và văn chương cổ điển” (Phạm Vĩnh Cư dịch), Tạp chí
nghiên cứu văn học số 11.
51. Trần Đình Sử, Tự sự học (một số vấn đề lí luận và lịch sử), NXB Đại học
sư phạm.
52. Vũ Thanh, “Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện
đại” (in trong Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học,
1999).
53. Bùi Thị Thiên Thai, Truyện kì ảo hiện đại – dư ba của truyện truyền kì truyền
thống (luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn), trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn Hà Nội.
54. Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Anh Thư (2003), Đồng hồ báo tử (tập truyện ngắn
kinh dị – Nhiều tác giả), NXB Văn học.
55. Nguyễn Minh Thái (2007), Người săn đuổi và thờ phụng cái đẹp (trong Thế
Lữ – Về tác gia và tác phẩm), NXB Giáo dục.
56. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
57. Tzevan Todorov, Dẫn luận về văn chương kỳ ảo (Lê Hồng Sâm, Đặng Anh
Đào dịch), NXB Đại học sư phạm, 2008.
58. Nguyễn Thành Thi, “Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam - Nhìn từ quá trình
hình thành và tương tác thể loại, Đại học sư phạm TP. Hồ Chí
Minh.
59. Trần Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Trường (2004), Lan Khai - Truyện đường
rừng (Tác phẩm và chuyên khảo), NXB Thông Tin, Hà Nội.
60. Bùi Thanh Truyền (2006), “Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương
đại Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.
61. Bùi Thanh Truyền (2007), “Song đề truyền thống – hiện đại trong điểm nhìn
nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại đời mới”, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 2.
62. Bùi Thanh Truyền (2001), Cái kì ảo trong văn học Việt Nam: Từ truyền thống
đến hiện đại, Thông báo khoa học trường ĐHSP Huế.
63. Bùi Thanh Truyền (2004), “Kiểu nhân vật ma trong văn xuôi đương đại Việt
Nam”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.
64. Bùi Thanh Truyền (2006), Đi tìm nguyên nhân hồi sinh của yếu tố kì ảo trong
văn xuôi đương đại Việt Nam, Hội thảo Văn học kì ảo, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
65. Bùi Thanh Truyền (2005), “Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam
đương đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học.
66. TchyA – Đái Đức Tuấn (2007), Thần hổ, NXB Thanh Hóa
67. TchyA – Đái Đức Tuấn (2007), Ai hát giữa rừng khuya, NXB
68. Nguyễn Tuân (2004), Truyện ngắn, NXB Văn học.
69. Phùng Văn Tửu (2006), “Những hướng đổi mới của văn học kì ảo thế kỉ XX”,
Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
70. Phùng Văn Tửu (2007), “Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học”,
Tạp chí nghiên cứu văn học số 10.
71. Hoàng Thị Văn (2008), Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau 1975 (Đề tài nghiên cứu khoa học ấp Bộ), Trường ĐHSP TP. Hồ
Chí Minh.
72. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), “Cái “kì” trong tiểu thuyết truyền kì”, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 10.
73. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phê Bình văn học Việt Nam (Nửa đầu thế kỉ XX
1900 – 1945), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.