LUẬN VĂN: Thực trạng quy trình chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại công ty sản xuất - xuất khẩu dệt may
lượt xem 28
download
Tính tất yếu Hiện nay, toàn cầu hoá đang là xu thế tất yếu, khách quan và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trên thế giới, các rào cản giữa các quốc gia đang dần được xóa bỏ, quá trình CNH - HĐH diễn ra mạnh mẽ làm cho các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Việt Nam cũng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, thể hiện ở việc các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng quy trình chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại công ty sản xuất - xuất khẩu dệt may
- LUẬN VĂN: Thực trạng quy trình chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiế tại công ty sản xuất - xuất khẩu dệt may
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu Hiện nay, toàn cầu hoá đang là xu thế tất yếu, khách quan và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trên thế giới, các rào cản giữa các quốc gia đang dần được xóa bỏ, quá trình CNH - HĐH diễn ra mạnh mẽ làm cho các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Việt Nam cũng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, thể hiện ở việc các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang vươn ra thị trường nước ngoài một cách mạnh mẽ thông qua đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Tập đoàn Dệt may Việt Nam la một doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu dệt may lớn của cả nước. Vinatex Imex là một công ty trực thuộc Tập Đoàn Dệt may, công ty đã va đang đong góp lớn vào kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, góp phần xây dựng đất nước, đưa đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm đề xuất các giải pháp thích hợp và có hiệu quả để chuyển đổi phương thức kinh doanh từ gia công sang xuất khẩu trưc tiếp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Công nghiệp dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay. Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt may là một đơn vị xuất khẩu Dệt may lớn trong cả nước. Tuy nhiên quá trình xuất khẩu lại chủ yếu dựa trên
- phương thức gia công. Do đó Công ty cần phải dần chuyển đổi phương thức kinh doanh từ gia công sang xuất khẩu trực tiếp để có thể thich nghi được với nhiều thị trường mới. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh... nhằm giải quyết vấn đề đặt ra. Nguồn thông tin thu thập được lấy từ: Báo cáo tài chính tổng kết hoạt động kinh doanh của Công ty VINATEX, các sách báo về kinh doanh và các trang web điện tử… 5. Kết cấu chuyên đề Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về việc chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Chương 2: Thực trạng quy trình chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiế tại công ty sản xuất - xuất khẩu dệt may Chương 3: Những giải pháp chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại công ty sản xuất. Xuất nhập khẩu dệt may CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC KINH DOANH VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ CHUYỂN TỪ PHƯƠNG THỨC GIA CÔNG XUẤT
- KHẨU SANG XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU MAY MẶC 1.1. Các lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế 1.1.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Adam Smith là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Trong tác phẩm nổi tiếng" của cải của các dân tộc" xuất bản năm 1776. Adam Smith đã đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế. Theo Adam Smith nếu mỗi nước tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên và cả hai quốc gia đều có lợi. Lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hoá vá trao đổi các mặt hàng, qua đó có thể giúp giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, mô hình của Adam Smith không giải thích được trường hợp tại sao thương mại vẫn có thể diễn ra khi một quốc gia có mức bất lợi tuyệt đối (hoặc lợi thế tuyệt đối) về tất cả các mặt hàng. Do vậy lý thuyết của Adam Smith không giải thích được. 1.1.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo Vào đầu thế kỉ 19 nhà kinh tế học người Anh là David Ricardo đã chỉ ra rằng thương mại có lợi cho tất cả các bên chỉ có thể xảy ra trên cơ sở lợi thế so sánh của
- các quốc gia: " lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi quốc tế, khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm có lợi thế là lớn nhất hoặc bất lợi là nhỏ nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi ". Tức là theo David Ricardo nếu một quốc gia bị bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế nếu họ lựa chọn mặt hàng có bất lợi là nhỏ nhất để xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng có bất lợi là lớn nhất và các quốc gia đều sẽ thu được lợi ích. 1.1.3.Lý thuyết Heckscher - Ohlin Vào đầu thế kỉ XX hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã đề xuất quan điểm cho rằng chính mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và hàm lượng các yếu tố sản xuất sử dụng để làm ra các mặt hàng khác nhau là những nhân tố quan trọng trong thương mại. Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên 2 khái niệm cơ bản là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố. Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều lao động nếu tỉ lệ giữa lao động và các yếu tố khác ( vốn, đất đai ) sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hang đó lớn hơn tỉ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai, tương tự nếu tỉ lệ giữa vốn và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao. Chẳng hạn mặt hàng Y được coi là có hàm lượng lao động cao nếu: Lx/Kx > Ly/Ky. Lx, Ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y. Kx, Ky là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y. Tóm lại, theo H-O "một quốc gia sẽ xuất khẩu các mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhièu một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó".
- Qua các lý thuyết truyền thống của thương mại quốc tế có thể giải thích được: tại sao các quốc gia lại buôn bán với nhau, các loại hàng hoá dịch vụ nào được đưa vào trao đổi buôn bán , thương mại quốc tế sẽ đem lại lợi ích gì cho các quốc gia… Các quốc gia sẽ xuất khẩu các mặt hàng mà mình có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng còn thiếu, mỗi quốc gia muốn phát triển thịnh vượng thì xuất khẩu phải là một yếu tố được coi trọng hàng đầu. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó và xuất khẩu may mặc đang là một ngành được quan tâm và phát triển. 1.2. Vai trò của xuất khẩu trong các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc Việt Nam Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản và quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc mở rộng xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đặc biệt là việc xuất khẩu những mặt hàng chúng ta có thế mạnh như hàng may mặc. Vai trò của việc xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam là rất to lớn thể hiện ở chỗ: 1.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để phát triển kinh tế Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một bước đi tất yếu để phát triển kinh tế đất nước là một bước đi tất yếu để phát triển kinh tế đất nước, đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo. Muốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH. HĐH) đất nước diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả thì cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu các trang thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật. Một trong những nguồn thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu là thu từ xuất khẩu. Trên thực tế, để có nguồn vốn phục vụ nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng,
- các nước sẽ phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, nhận viện trợ, thu từ xuất khẩu... Nhưng các nguồn viện trợ đi vay... thường rất khó khăn và khi sử dụng cần phải gắn liền với trách nhiệm trả nợ. Bởi vậy, nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu, nhập khẩu tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu phát triển...xuất khẩu quy định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Do đó, trong kinh doanh phải luôn kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ngành dệt may nói chung và hàng may mặc nói riêng luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam. Trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước và tạo ra một lượng ngoại tệ lớn để đầu tư vào trang thiết bị, máy móc, cơ sở hạ tầng. Bảng 1.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần đây 2002 2003 2004 2005 2006 Chỉ Tỉ Tỉ Tỉ Tỉ Tỉ Lượng Lượng Lượng Lượng Lượng tiêu trọng trọng trọng trọng trọng (trUSD) (trUSD) (trUSD) (trUSD) (trUSD) % % % % % Tổng KN 16.705 100 20.176 100 26.003 100 29.330 100 32.132 100 XK Hàng 2.752 16,5 3.630 18,0 4.319 16,61 6.830 20,6 8.118 19,8
- dệt may (Nguồn: Tình hình kinh tế xã hội năm 2002 - 2006) Có thể thấy kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên khá nhanh cụ thể: Năm 2002 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 2.752 triệu USD, chiếm tỷ trọng 16,5% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2003 tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên đạt 3.630 triệu USD, tăng 31,9% so với năm 2002, chiếm tỉ trọng 18,0% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2004, 2005 tổng kim ngạch xuất kh?u đều tăng và đến năm 2006 tổng kim ngạch đã đạt. Có thể nói đây là một sự cố gắng rất lớn của ngành may mặc. 1.2.2. Xuất khẩu góp phần thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm thúc đẩy sản xuất phát triển Nhu cầu của con người ngày càng cao và luôn biến đổi. Ngày nay, quần áo không chỉ có ý nghĩa để mặc mà đòi hỏi phải đẹp, hợp thời trang... Hay nói cách khác chức năng làm đẹp của con người ngày càng có ý nghĩa và trở thành chủ yếu trong các yêu cầu đối với sản phẩm may mặc. Nhu cầu của người dân ở mỗi nước lại có sự khác biệt đáng kể, chỉ dựa vào khả năng sản xuất của một nước thì nhu cầu của người dân nước đó sẽ không được thoả mãn một cách tốt nhất và hiệu quả kinh doanh mang lại không cao. Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người dân trên toàn thế giới. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, một nước có thể
- chuyên môn hoá vào việc sản xuất mặt hàng nào mà nước đó có lợi thế hơn, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước theo hướng chuyên môn hoá, nhờ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.2.3. Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu có một phần đóng góp của lực lượng lao động để làm ra các sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu. Trong số các ngành Công nghiệp thì ngành Công nghiệp sản xuất hàng may mặc tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động nhất bởi do đặc thù của ngành đòi hỏi một đội ngũ lao động khéo léo, cần cù và tỉ mỉ. Điều này rất phù hợp với lao động của Việt Nam. Tuy nhiên, lao động trong lĩnh vực may mặc không đòi hỏi có tay nghề cao. Vì vậy để góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước thì việc đầu tư phát triển ngành CN này là một việc làm rất cần thiết. 1.2.4. xuất khẩu hàng may mặc tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy các quan hệkt đối ngoại và quảng bá thương hiệu của mặt hàng trên thị trường thế giới Ngành công nghiệp may mặclà một ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước, do vậy việc thúc đẩy phát triển xuất khẩu mặt hàng này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển. 1.3. Các phương thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếucủa các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam Trong buôn bán quốc tế hiện nay tồn tại khá nhiều phương thức kinh doanh xuất khẩu, trong đó các doanh nghiệp Việt Nam thường áp dụng các phương pháp sau:
- 1.3.1. Gia công xuất khẩu 1.3.1.1. Khái niệm Gia công xuất khẩu là một phương thức giao dịch, trong đó bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm để bên nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất thành sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận về một khoản thù lao (gọi là phí gia công) theo thoả thuận. 1.3.1.2. Đặc điểm Gia công xuất khẩu là một phương thức uỷ thác gia công trong đó hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. Trong quá tình gia công, bên nhận gia công trong nước bỏ ra lao động, tiền chi phí gia công là thù lao lao động. Thị trường nướcngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm đó. a, Ưu điểm Giảm độ rủi ro, do các yếu tố đầu vào thị trường đầu ra do bên đặt gia công thực hiện. Tạo điều kiện giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với các trang bị kỹ thuật tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý, sản xuất từ bên ngoài. b, Nhược đểm Doanh nghiệp gia công thường bị động và phụ thuộc vào phía nước ngoài,
- thường bị ép giá và không chủ động trong kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, thu lợi ích. Hoạt động qua công không mở đường cho các ngnàh có liên quan phát triển vì các yếu tố đầu vào chủ yếu do bên đặt gia công cung cấp. 1.3.1.3. Các loại hình gia công. a, Phân theo quyền sở hữu nguyên liệu + Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại thành phẩm. b, Phân theo giá cả gia công + Hợp đồng thực thanh, thực chi + Hợp đồng khoán c. Phân theo số bên tham gia + Gia công hai bên + Gia công nhiều bên 1.3.1.4. Nội dung cơ bản của phương thức gia công xuất khẩu Sơ đồ 2.1. Quy trình thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu Ký hợp đồng Đăng ký mã Mở Thuê Mua bảo gia công số Hải Quan hiểm L/C tàu Làm thủ tục Cân Gia công chuẩn Kiểm tra Nhận Hải Quan đối bị hàng hoá hàng hoá hàng
- 1.3.2. Xuất khẩu trực tiếp 1.3.2.1. Khái niệm Xuất khẩu trực tiếp là phương thức xuất khẩu trong đó người mua và người bán trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gia công xuất khẩu gặp mặt thông qua cá phương tiện thông tin như thư từ, điện tín... để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán... và các điều kiện giao dịch khác. 1.3.2.1. Ưu nhược điểm a, Ưu điểm - Giảm được chi phí trung gian, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, từ đó tối đa được lợi nhuận. - Nâng cao hiệu quả đàm phán giao dịch dần tới nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- - Cho phép nhà kinh doanh có điều kiện trực tiếp, tiếp cận thị trường, để thích nghi với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất. - Mở rộng được quan hệ với bạn hàng nước ngoài. b, Nhược điểm - Đối với thị trường mới, mặt hàng mới thường khó khăn trong việc giao dịch do doanh nghiệp phải lo các yếu tố đầu vào và trực tiếp đối mặt với thị trường đầu ra. - Xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi khối lượng giao dịch hàng hoá phải lơn. - Đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ tiềm lực về tài chính để đứng vững được trên thị trường. 1.3.2.3. Nội dung cơ bản của phương thức xuất khẩu trực tiếp phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp được thực hiện qua các bước sau: + Nghiên cứu thị trường. + Lập phương án kinh doanh. + Giao dịch đàm phán và ký hợp đồng. + Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
- Sơ đồ 2.2. Quá trình giao dịch thương mại quốc tế Hỏi giá Chào hàng Chào hàng tự do Chào hàng cố định Chấp Hoàn Hoàn Chấp nhận giá giá nhận Hợp đồng Hợp đồng Không hợp đồng Không có xác nhận Xác nhận Sơ đồ 1.3. Quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu trực tiếp Xin giấy phép Chuẩn bị xuuất khẩu Ký hợp đồng Kiểm tra L/C hàng hoá ( nếu cần ) Mua bảo hiểm Thuê tàu Làm thủ tục hải Kiểm tra hàng ( nếu cần) ( nếu cần ) quan hoá Giao hàng lên Làm thủ tục Giải quyết tranh chấp tàu thanh toán ( nếu có )
- 1.4. Các điều kiện cơ bản để chuyển đổi phương thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp 1.4.1. Điều kiện về việc chủ động tìm thị trường may mặc xuất khẩu Trong hoạt động gia công xuất khẩu, công tác chủ động tìm kiếm thị trường không được chú trọng và đầu tư nhiều. Do đặc điểm và bản chất của nghiệp vụ gia công xuất khẩu là doanh nghiệp chỉ đóng vai trò của người làm thuê ăn lương, hầu hết các yếu tố đầu vào, toàn bộ sản phẩm đầu ra đều do bên đặt gia công đảm nhận, mọi rủi ro trong hoạt động gia công các doanh nghiệp không phải chịu, đổi lại doanh nghiệp luôn có môt khoản doanh thu nhất định thường rất thấp so với giá trị của toàn bộ hợp đồng. Khi doanh nghiệp tiến hành chuyển đổi phương thức từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp họ cần phải chủ động trong công việc, phải thực hiện tất cả các khâu từ việc mua nguyên vật liệu đến khâu cung ứng sản phẩm ra thị trường. Điều này đưa doanh nghiệp phải đối với những khó khăn và mức độ rủi ro cao. Sản phẩm may mặc là sản phẩm có chu kì sống ngắn và đặc biệt ngày càng thay đổi hết sức nhanh chóng. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày được nâng cao, đòi hỏi khắt khe hơn, tính thẩm mỹ cao hơn cùng với hàm lượng kỹ thuật cao trong sản phẩm. Do đó, buộc các doanh nghiệp may mặc trong nước phải chủ động để nắm bắt nhanh chóng, phù hợp với những nhu cầu và đòi hỏi đó. Doanh nghiệp cần hiểu rõ những đặc điểm thị trường tiêu thụ như phải quan tâm tới chất lượng của sản phẩm. Với phương thức gia công xuất khẩu: doanh nghiệp đảm nhận khâu làm ra sản phẩm. Do vậy, nếu sản phẩm gia công có chất lượng tốt thì sẽ làm tăng thêm uy tín, sự tin tưởng, tín nhiệm từ phía đối tác và có nhiều hợp đồng gia công được hợp ý.
- Hay nói cách khác, nếu chất lượng sản phẩm gia công được đánh giá là tốt thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngày càng phát triển. Hoạt động theo phương thức xuất khẩu trực tiếp thì ngược lại, doanh nghiệp trong nước phải chủ động trong việc lo các yếu tố đầu vào, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Tuỳ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi vùng, mỗi địa phương, tuỳ vào sở thích, yêu cầu của người tiêu dùng mà đáp ứng nhu cầu họ bằng các sản phẩm có chất lượng khác sản phẩm của doanh nghiệp được các thị trường chấp nhận thì đương nhiên sản phẩm làm ra sẽ được tiêu thụ và sẽ có đủ khả năng để cạnh tranh với các sản phẩm của đối thủ. Nhờ vậy mà doanh nghiệp sẽ duy trì và mở rộng được thị trường . Ngược lại, chất lượng sản phẩm không tốt thì sản phẩm đó sẽ bị đào thải, mang đến những khó khăn cho doanh nghiệp. Như vậy, khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao và họ cũng đòi hỏi sản phẩm phải đẹp, chất lượng cao... Trong điều kiện hiện nay khi các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc trong nước muốn chuyển đổi phương thức kinh doanh từ gia công sang xuất khẩu trực tiếp doanh nghiệp cần phải đặc biệt chú trọng tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp giữ vững được vị thế, uy tín, danh tiếng không ngừng tăng, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác phát triển thị trường. 1.4.2. Điều kiện về nghiên cứu mẫu mã, và phát triển sản phẩm mới Đây là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp khi vận hành phương thức kinh doanh mới có thể đứng vững và phát triển. Nó là một khâu góp phần để nâng cao chất lượng sản phẩm và là một trong những yếu tố tác động trực tiếp tới nhu cầu của sản phẩm.
- Hiện tại các doanh nghiệp trong nước tiến hành hoạt động theo phương thức gia công xuất khẩu do đó mọi mẫu mốt đều do khách hàng cung cấp, các doanh nghiệp thiếu chủ động trong khâu thiết kế sản phẩm mới. Đây là một khó khăn rất lớn khi muốn chuyển đổi phương thức kinh doanh. Đối với phương thức xuất khẩu trực tiếp các doanh nghiệp phải tự nghiên cứu thiết kế mẫu mốt và phát triển sản phẩm mới. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dần làm chủ được thị trường không phụ thuộc vào khách hàng nước ngoài. Có như vậy thì việc chuyển đổi phương thức kinh doanh trong các doanh nghiệp đang thực hiện phương thức gia công xuất khẩu mới đem lại hiệu quả. Tóm lại, việc nghiên cứu mẫu mốt phát triển sản phẩm mới kịp thời, nhanh chóng, phù hợp với thị trường là điều kiện không thể thiếu trong phương thức xuất khẩu trực tiếp. Nó là điều kiện hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp khi muốn chuyển đổi phương thức kinh doanh. 1.4.3. Điều kiện về năng lực của doanh nghiệp Điều kiện này thực chất là xem xét điều kiện của doanh nghiệp xuất khẩu may mặc như về máy móc, thiết bị công nghệ; điều kiện về vốn; điều kiện về trình độ lao động có thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường hay không, để có thể chuyển đổi được phương thức kinh doanh. 1.4.3.1. Điều kiện về máy móc, thiết bị công nghệ Máy móc, trang thiết bị công nghệ là yếu tố vận hành hoạt động trong các doanh nghiệp. Nó là một trong các yếu tố tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đầu tư mua các máy móc thiết bị tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.3.2.Điều kiện về trình độ lao động Con người là yếu tố quan trọng nhất cần có để tiến hành bất cứ một hoạt động
- nào, có lao động thì mới tạo ra được sản phẩm, mới có thể duy trì được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao người lao động phải có trình độ chuyên môn và tay nghề tinh thông. Chính vì vậy, trong bất kỳ phương thức kinh doanh nào thì yếu tố lao động cũng cần được chú trọng vì nếu có được một đội ngũ cán bộ năng động, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ và kinh nghiệm thì sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển ngày càng lớn mạnh. 1.4.3.3. Điều kiện về vốn Vốn là điều kiện không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Vốn là điều kiện có tính xương sống, là “điều kiện cần” cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi phương thức hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp muốn chuyển đổi phương thức kinh doanh từ gia công sang xuất khẩu trực tiếp cần phải có nhiều vốn để đầu tư, đổi mới thiết bị, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên cho phù hợp. Để có thể tự chủ trong việc mua nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào, cũng như tăng cường công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường nhằm chủ động trong việc tìm nguồn tiêu thụ sản phẩm. Điều đó chỉ có thực hiện được trong các doanh nghiệp có vốn.
- CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VIỆC CHUYỂN ĐỔI TỪ PHƯƠNG THỨC GIA CÔNG XUẤT KHẨU SANG XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP TẠI CÔNG TY SẢN XUẤT - XUẤT NHẬP KHẨU DỆT MAY (VINATEX IMEX) 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may la doanh nghiệp nhà nước, là thành viên hạch toán phụ thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước, các quy định hiện hành của pháp luật và các điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty. Công ty được thành lập theo quyết đinh số 253/TTg ngày 29 tháng 04 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tổng Công ty Dệt – May Việt Nam và Nghị định số 55/CP ngày 06 tháng 09 năm 1995 của Chính phủ phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Căn cứ nghị định số 180/2004/ND ngày 28/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập mới, tổ chức lại và giai thể Công ty Nhà nước và Thông tư 04/2005 thị trường – BKH Ngày 17/08/2005 của Bộ Kế hoạch Đầu tư hướng dẫn trình tự thủ tục thành lập mới, tổ chức lại, đăng ký kinh doanh và giải thể Công ty nhà nước, thực hiện quyết định của hội đồng quản trị Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, theo đề nghị của Tổng Giám Đốc Tổng công ty đã quyết định hợp nhất công ty xuất nhập khẩu Dệt may và Công ty dịch vụ Thương mại số 1 thành: Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt may, đợ vị hạch toán phụ thuộc Tập Đoàn Dệt May Việt Nam. Tên giao dịch Quốc tế:
- The Garment - Textiles Import - Export and Prodvction Corporation. Tên viết tắt là: VINATEXIMEX. Trụ sở được đặt tại: Số 20 đường Lĩnh Nam - Quận Hoàng Mai. TP Hà Nội. 2.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Theo điều lệ tổ chức và hoạt động, Công ty có các chức năng và hoạt động chính như sau: Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may, nguyên liệu, phụ liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng, sản phẩm dệt may và các hàng hoá khác liên quan đến ngành dệt may. Kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển, tư vấn và đại lý bán hàng; liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế; tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ khác do Tập đoàn giao. Là công cụ của Tập đoàn trong tham mưu về thị trường nội địa, thị trường nước ngoài trong nước chế độ, chính sách phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp các nhà máy còn yếu về nghiệp vụ xuất khẩu. Thực ra, hệ thống khách hàng, quan hệ thị trường rộng lớn và các quan hệ đa dạng, lâu năm với các cơ sở sản xuất của công ty hiện nay phải biết rõ từ những năm 70, khi đó Nhà nước còn nắm độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu với các Tổng công ty chuyên ngành, trong đó có Tổng công ty xuất nhập khẩu dệt. Đầu những năm 80, khi Đảng và Nhà nước chủ trương lưu thông gắn với sản xuất thì Tổng công ty xuất nhập khẩu Dệt chuyển về trực thuộc bộ Công nghiệp nhẹ, rồi Liên hiệp Dệt. Sau đó cùng Liên hiệp May sáp nhập thành Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Các phòng xuất nhập khẩu nằm ở trong ban xuất nhập khẩu và là một
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Thực trạng quy trình nhập khẩu tại công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Phong
71 p | 369 | 147
-
Luận văn: Thực trạng quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay
42 p | 505 | 135
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng lao động tại Công ty Quy Chế Từ Sơn
67 p | 370 | 129
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý quỹ tiền lương tại Công ty vật liệu xây dựng Cẩm Trướng
56 p | 320 | 118
-
Luận văn “Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động của BHXH thành phố Vinh”
71 p | 619 | 110
-
Luận văn - Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quy trình sản xuất và xuất khẩu tại công ty sản xuất và xuất khẩu PROSIMEX
45 p | 232 | 99
-
Luận văn "Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay"
80 p | 196 | 92
-
Luận văn "“Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)”"
64 p | 250 | 82
-
Luận văn: Thực trạng thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quỹ bảo hiểm xã hội
77 p | 242 | 78
-
Luận văn Thực trạng thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội tại phòng bảo hiểm xã hội huyện Giao Thuỷ
65 p | 348 | 77
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quy trình sản xuất và xuất khẩu tại công ty sản xuất và xuất khẩu Prosimex
45 p | 205 | 61
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)
68 p | 163 | 32
-
Luận văn: Thực trạng và một số kiến nghị đẩy mạnh ứng dụng thanh toán diện tử ở Trung tâm Thông tin Thương mại
28 p | 164 | 25
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất
29 p | 123 | 22
-
LUẬN VĂN: Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới
24 p | 157 | 22
-
Luận văn: Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay
70 p | 136 | 19
-
LUẬN VĂN: Thực trạng quy trình lập kế hoạch kiểm toán dự án do Công ty Hợp danh Kiểm toán và Tư vấn STT thực hiện
115 p | 129 | 16
-
Luận văn: Thực trạng và phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
41 p | 151 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn