ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

––––––––––––––

LÊ THU HƯỜNG

TIẾNG HÁT LÀM DÂU TRONG DÂN CA

DÂN TỘC MÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––

LÊ THU HƯỜNG

TIẾNG HÁT LÀM DÂU TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG

Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh

Thái Nguyên, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Ngọc Anh và sự giúp đỡ của

các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Các

kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng

được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

i

Lê Thu Hường

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh - người đã

tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ Văn,

phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận

tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu

để hoàn thành luận văn.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên tôi

trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

ii

Lê Thu Hường

MỤC LỤC

Trang bìa phụ

Lời cam đoan .................................................................................................................. i

Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii

Mục lục ......................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8

6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 9

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 9

NỘI DUNG.......................................................................................................... 10

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10

1.1. Dân ca Mông trong không gian văn hóa, văn học Mông .............................. 10

1.1.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học ........................................................ 10

1.1.2. Dân ca Mông - giai điệu giàu bản sắc trong văn hóa, văn học Mông. .............. 15

1.2. Hình ảnh người phụ nữ Mông trong dân ca dân tộc Mông ........................... 23

* Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 27

CHƯƠNG 2. TIẾNG LÒNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM DÂU TRONG

DÂN CA MÔNG ................................................................................................ 29

2.1. Tâm trạng nhớ thương khi làm dâu .............................................................. 30

2.1.1. Nỗi nhớ về gia đình ................................................................................... 30

2.1.2. Nỗi nhớ về thời thanh xuân tươi đẹp......................................................... 32

2.2. Sự phiền muộn trong phận làm dâu ............................................................. 37

2.2.1. Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé .................................................... 38

2.2.2. Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng .......................... 41

iii

2.3. Ước vọng của người phụ nữ khi làm dâu ..................................................... 46

2.3.1. Ước vọng trở về với cuộc sống tự do ........................................................ 46

2.3.2. Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận ................................................. 50

* Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 53

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TIẾNG HÁT LÀM DÂU

TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG ............................................................ 55

3.1. Ngôn ngữ ...................................................................................................... 55

3.1.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của

người dân tộc Mông ............................................................................................ 56

3.1.2. Một số biện pháp nghệ thuật trong ngôn ngữ dân ca Mông ..................... 60

3.2. Hình tượng nghệ thuật .................................................................................. 64

3.2.1. Hình tượng về loài vật (trâu, bò) ............................................................... 65

3.2.2. Hình tượng nước mắt ................................................................................ 67

3.2.3. Hình tượng lá ngón .................................................................................... 69

3.3. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông ....................................... 71

3.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người ......................................................... 71

3.3.2. Quan niệm về hiện thực cuộc sống khắc nghiệt nhiều hủ tục đối với người

phụ nữ .................................................................................................................. 78

* Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 83

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 84

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ....................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 87

iv

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên

nét vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, dân ca của đồng

bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những bộ phận quan trọng để tạo

nên bức tranh hoàn chỉnh đó. Nó là nét phác họa cơ bản giúp ta hình dung được

đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc đó

từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn dân ca giống như một trung tâm

lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng

của nó là hình thành và tồn tại trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca

cũng có nghĩa là hiểu tâm tư, tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của

dân tộc đó. Đặc biệt trong một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số

đa dạng mà chủ yếu là người dân tộc Mông thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các

dân tộc ở đây lại càng cần được chú trọng hơn. Thông qua lời văn trong dân ca,

người Mông đã lưu giữ lại những giá trị văn hóa truyền thống do ông cha truyền

lại, đồng thời thể hiện ước mơ về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc. Khi

nghe và cảm nhận dân ca Mông, chúng tôi bị hấp dẫn bởi nội dung phong phú,

sự phản ánh những phong tục tập quán truyền thống đa dạng sinh động cùng

nghệ thuật biểu hiện độc đáo, mộc mạc mà đậm triết lí sống sâu xa của tộc người

Mông.

1.2. Đồng bào dân tộc Mông thường được biết đến với nhiều nét văn hoá

độc đáo và nơi đây cũng chính là một kho tàng ca dao, dân ca vô cùng phong

phú đa dạng. Nhận xét về giá trị của dân ca Mông, Chế Lan Viên từng viết: “Có

hàng trăm bài có thể nằm không hổ thẹn trong những tập thơ hay của thế giới”

[24; tr. 16]. Đó là kho tàng văn hóa phi vật thể vô cùng quý báu của dân tộc

Mông nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Cũng như người Việt, ngay từ

thuở nằm nôi, người Mông đã quen với dân ca qua lời ru tiếng hát của bà, của

mẹ. Lời ca tiếng hát sẽ theo họ trong suốt cuộc đời từ lúc bé cho đến khi nhắm

mắt xuôi tay. Dân ca Mông đã làm tròn sứ mệnh trong việc lưu giữ nỗi lòng của

người bình dân. Trong thế giới đó, nổi bật lên là những bài dân ca về đời sống

tinh thần của người phụ nữ Mông đặc biệt phận làm dâu của người phụ nữ với 1

nội dung chính yếu được phản ánh là nỗi thống khổ, bế tắc của kiếp làm dâu.

Nghiên cứu những bài dân ca ấy, chính là tìm hiểu và khám phá về niềm vui

cũng như những đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ. Người phụ nữ Mông luôn

là nạn nhân của chế độ phong kiến, của bọn cường hào và chúa đất. Họ bị thủ

tiêu quyền tự do, quyền hạnh phúc và thậm chí cả quyền sống, quyền làm người.

Dân ca chính là nơi họ gửi gắm biết bao nỗi niềm. Ẩn đằng sau mỗi câu hát là

biết bao niềm vui, nỗi buồn, với rất nhiều những sắc thái, cung bậc tình cảm

khác nhau đồng thời thể hiện tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào trong

cuộc sống thường ngày. Điều đó giúp các nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc hiểu

rõ hơn về đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông, đặc biệt trong tục hôn

nhân. Từ đấy, giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống

và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam hôm nay, đồng thời

xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp trong đời sống văn hoá tinh thần

nhân dân là một yêu cầu ngày càng cấp thiết, góp phần xây dựng nền văn hóa

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

1.3. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang rất quan tâm tới vấn đề văn hoá

miền núi đặc biệt là khu vực các dân tộc thiểu số vùng cao. Trong Nghị quyết

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá

trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”

[33]. Vì vậy, việc sưu tầm, khai thác di sản dân ca của vùng dân tộc thiểu số, đặc

biệt là đồng bào Mông sẽ giúp các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa,

văn học dân tộc thiểu số ngày càng phát triển. Góp phần giữ gìn và phát huy các

phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn

con người Việt Nam hôm nay, đồng thời xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không

phù hợp trong đời sống văn hoá tinh thần nhân dân là một yêu cầu ngày càng

cấp thiết, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục

vụ sự nghiệp Cách mạng hiện nay cũng như lâu dài.

1.4. Trong quá trình nghiên cứu về đời sống tinh thần của người phụ nữ,

đặc biệt người phụ nữ khi làm dâu, đã có nhiều tác giả quan tâm đến việc tìm

hiểu hình ảnh người phụ nữ Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ

dừng lại ở việc tuyển chọn và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông

2

trong các tuyển tập thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc những bài viết

riêng lẻ của một số tác giả, ít có công trình nghiên cứu một cách quy mô. Nhìn

chung, tất cả các công trình nghiên cứu về người phụ nữ Mông trong văn học

mới chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện

và hệ thống, chưa làm nổi bật được thân phận người phụ nữ Mông đối với nền

thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam nói chung. Do đó,

rất cần thiết phải có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nghiên cứu một

cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra được hình ảnh người phụ nữ khi làm dâu

đặc biệt là nỗi lòng của họ để độc giả có cái nhìn cụ thể về phận làm dâu người

phụ nữ Mông. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Tiếng hát làm dâu

trong dân ca dân tộc Mông” cho luận văn của mình. Thực hiện luận văn này,

chúng tôi mong muốn hiểu rõ hơn về thân phận làm dâu của người phụ nữ trong

dân tộc Mông, qua đó hiểu được quan niệm về hôn nhân của người Mông cũng

như phong tục tập quán và bản sắc văn hóa của dân tộc này thông qua các làn

điệu dân ca. Mặt khác, qua việc thực hiện luận văn, chúng tôi muốn góp thêm

công sức vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời

góp phần kiến nghị, đề xuất xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với xã

hội hiện đại ngày nay.

2. Lịch sử vấn đề

Tìm hiểu về dân ca Mông không còn là vấn đề mới trong việc nghiên cứu

văn học dân tộc thiểu số nói chung nhưng cần tìm hiểu, nghiên cứu rộng và sâu

hơn nữa những vấn đề về nội dung cũng như nghệ thuật trong dân ca Mông để

làm sáng tỏ hơn những giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu số, vị trí của dòng

văn học cổ truyền trong dòng chảy chung của nền văn học nước nhà. Điểm lại

lịch sử nghiên cứu về dân ca Mông có thể thấy rằng, đã có hàng trăm bài viết

đăng trên các báo và tạp chí cùng rất nhiều những chuyên luận, công trình

nghiên cứu về vấn đề này.

Tiến trình nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông theo nhiều tác giả mới chỉ

được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây. Đầu tiên, công trình

sưu tầm của nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với ba tập

Dân ca Mông ở Hà Giang đã đặt những viên gạch đầu tiên cho diện mạo thơ ca

3

dân tộc Mông. Trong các công trình nghiên cứu, Hùng Đình Quý đã công bố

những bài dân ca Mông Hà Giang (cả bằng tiếng Mông, cả bản dịch tiếng Việt),

đó là những bài dân ca do tác giả sưu tầm từ một số nghệ nhân người Mông ở

các huyện vùng cao Hà Giang như: Đồng Văn, Quản Bạ, Mèo Vạc... Đây là cơ

sở để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về vốn văn hóa, văn học của đồng bào dân tộc

thiểu số, cụ thể dân tộc Mông.

Trên cơ sở sưu tầm, dân ca Mông bắt đầu được các nhà văn, nhà nghiên

cứu quan tâm tìm đến và giới thiệu trong các công trình nghiên cứu, trong các

luận văn, đề tài nghiên cứu. Dân ca Mông đã được tìm hiểu trong một số giáo

trình của các tác giả: Đỗ Bình Trị, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên, Hoàng

Tiến Tựu với những đặc trưng riêng qua sự khái quát từng tác giả. Năm 1965,

nhà văn Tô Hoài với bài viết Tiếng hát làm dâu, tiếng đau thương căm hờn,

tiếng thiết tha hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo đã góp phần làm phong phú

thêm bức tranh dân ca đân tộc Mông. Trong bài viết, tác giả đã tập trung đến chủ

đề tiếng hát làm dâu của dân ca Mông. Tô Hoài cắt nghĩa về số phận bất hạnh

của những người phụ nữ Mông trong xã hội cũ. Trong phần Lời giới thiệu cuốn

Dân ca Mèo, nhà sưu tầm Doãn Thanh đã có một số nhận xét về Tiếng hát làm

dâu và phụ nữ Mông: “Tiếng hát làm dâu, tiếng Mèo gọi là Gầu ua nhéng (Gâux

uô nhangs) diễn tả mọi nỗi khổ đau uất ức của người phụ nữ trong xã hội cũ. Xã

hội dân tộc Mèo ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị người phụ nữ rất

thấp kém. Những nạn tảo hôn, cưỡng hôn, những cảnh làm dâu bị đầy đoạ như

trâu ngựa. Suốt đời người phụ nữ bị buộc chết vào nhà chồng. Người phụ nữ vô

cùng đau khổ, hầu như không có quyền sống. Tình cảm họ bị chà đạp, thể xác bị

dập vùi, họ chỉ còn biết dùng lời hát mà kể lể, thở than cho cảnh ngộ đau

thương oan trái của mình. Họ cũng dùng lời hát để nguyền rủa cái chế độ bất

công khắt khe của xã hội cũ. Tiếng hát làm dâu thể hiện sự đấu tranh chống tập

tục và lễ giáo phong kiến của các nàng dâu Mèo trong xã hội cũ…” [23]. Bằng

vài nét phác thảo, Doãn Thanh đã cho người đọc những hiểu biết cơ bản về số

phận người phụ nữ Mông xưa qua dân ca.

4

Công trình mang tính chất chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về dân ca

Mông là luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân gian H’mông

(Hà Nội 2003). Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca dân gian Mông về giá trị nội

dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa. Đây là công trình có ý nghĩa khái

quát về thơ ca Mông nói chung, tuy nhiên luận văn chưa đi sâu vào nghiên cứu

một phương diện cụ thể trong thơ ca Mông. Có thể nhận thấy ở những phương

diện trên, các tác giả chủ yếu tập trung khảo sát dân ca Mông về nội dung biểu

hiện và một số yếu tố thi pháp. Các tác giả có nhắc đến lời văn nghệ thuật trong

dân ca Mông nhưng mới chỉ là gợi dẫn mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể.

Bằng những nét phát họa về nội dung cũng như nghệ thuật trong thơ ca dân gian

Mông, chúng tôi nắm rõ hơn những đặc điểm về thể loại này. Đây sẽ là cơ sở để

chúng tôi tìm hiểu về đặc điểm dân ca Mông với những mảng đề tài chính của nó.

Công trình gần đây nhất là luận án tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Kiến Thọ

(ĐHSP Thái Nguyên) về Thơ ca dân tộc Mông - từ truyền thống đến hiện tại

(2012) hay luận văn thạc sĩ về Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kì hiện

đại (2008). Luận án tiến sĩ của Bùi Xuân Tiệp (ĐHSP Hà Nội) về Dân ca Gầu

Plềnh và lễ hội Gầu Tào của người HMông ở Lào Cai - truyền thống và biến đổi

(2015). Đây là các công trình có ý nghĩa khái quát về thơ ca Mông nói chung,

tác giả đã đưa ra những nhận xét quan trọng về phương diện nội dung, nghệ

thuật của dân ca Mông. Trong luận văn, tác giả đã nhắc đến một vài khía cạnh

trong nội dung tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông. Mặc dù những nhận xét đó

chỉ mang tính chung nhất, với những khám phá ban đầu nhưng sẽ là cơ sở để

chúng tôi triển khai những nội dung chính về thân phận làm dâu của người phụ

nữ Mông. Hay là luận văn thạc sĩ của Vũ Hồng Cường (ĐHSP Thái Nguyên) về

vấn đề Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca Mông Hà Giang (2010). Đây

là một đề tài nghiên cứu đi sâu vào các khía cạnh giá trị nội dung và nghệ thuật

của dân ca Mông Hà Giang ở đề tài về tình yêu lứa đôi. Dựa vào kết quả nghiên

cứu của luận văn này, chúng tôi rút ra được những đặc điểm về người phụ nữ

Mông, đồng thời hiểu được những ước mơ khát vọng và nỗi lòng của họ trong

cuộc sống thường ngày. Ngoài ra, có luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Hoa 5

(ĐHSP Thái Nguyên) về vấn đề Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông

(2013). Đề tài này đi sâu nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ Mông, từ đó

thấy được một cách cụ thể toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần, số phận và mối

quan hệ của họ với xã hội người Mông. Đồng thời phát hiện và tôn vinh ý thức

tự tôn, tự hào và khả năng vượt thoát của người phụ nữ Mông trước hiện thực

đời sống xã hội. Đề tài này giúp chúng tôi thấy được vai trò và vị trí cũng như số

phận của người phụ nữ Mông nói chung. Phụ nữ Mông xưa chịu nhiều tầng hủ

tục và định kiến. Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu và sâu chuỗi lại đặc điểm

tâm lí của người phụ nữ khi làm dâu, đặc biệt là nỗi lòng của phụ nữ Mông trong

phận làm dâu.

Ngoài ra, có thể điểm qua một số công trình mang tính chất tập hợp và giới

thiệu thơ văn dân tộc Mông như: tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ

XX (Nxb Văn hóa dân tộc, 2000); Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam

1945 – 1985 (Nxb Văn hóa, 1981); các tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu: 40 năm

văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb Văn hóa Dân tộc, 1985);

Vấn đề đặt ra với các nhà thơ văn học thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hóa Dân

tộc, 2002); Những đỉnh núi du ca của Nguyễn Mạnh Tiến (Nxb Tri thức, 2017)...

Nhìn chung, các công trình này đã giới thiệu những nét khái quát về dân ca Mông

nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung. Có thể khẳng định, dân ca Mông

đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học

và đội ngũ những người nghiên cứu trẻ hiện nay. Nhiều công trình, đề tài, bài viết đã

tìm hiểu dân ca ở nhiều phương diện khác nhau như: nội dung, nghệ thuật, hình thức

diễn xướng, hình ảnh biểu tượng trong dân ca. Tất cả những công trình trên sẽ là

nguồn tài liệu vô cùng quý giá để chúng tôi tìm hiểu đặc điểm về văn hóa và dân ca

Mông, là nguồn tư liệu để chúng tôi có cơ sở đi sâu phân tích về đời sống tinh thần

của người phụ nữ Mông, nhất là trong phận làm dâu.

Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông, chúng tôi nhận thấy,

chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về mảng đề tài này mà đặc biệt là hướng

nghiên cứu với góc nhìn tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông. Nhìn chung, vấn đề

người phụ nữ trong dân ca Mông chưa được khảo sát một cách tỉ mỉ, có hệ thống. 6

Mặc dù người phụ nữ trong dân ca đã được nhắc tới ở một số công trình và bài báo

của nhiều tác giả, tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu mới chỉ đề cập đến vấn

đề này một cách khái quát qua một số công trình hay một số ý kiến ngắn hoặc qua

một vài chuyên mục nhỏ trong chuyên luận. Trên cơ sở tham khảo, tiếp thu những

ý kiến, những định hướng quý báu trong các công trình nghiên cứu đi trước, chúng

tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống hơn vấn đề Tiếng

hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông. Chúng tôi khẳng định kết quả nghiên cứu

đề tài này sẽ giúp độc giả có một cách nhìn toàn diện và sâu sắc về bản sắc văn hóa,

văn học vô cùng độc đáo của người dân tộc thiểu số góp phần vào việc bảo tồn và

phát huy những giá trị văn hóa dân tộc đồng thời xoá bỏ những yếu tố lạc hậu,

không phù hợp với xã hội hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Tiếng hát làm dâu trong dân ca

dân tộc Mông.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cuốn Dân ca H’Mông, Doãn

Thanh - Hoàng Thao - Chế Lan Viên (1984), Nxb Văn học, Hà Nội. Ngoài ra, đề

tài còn sử dụng ba tập dân ca Mông Hà Giang do nhà nghiên cứu văn hóa dân

gian Hùng Đình Quý sưu tầm: Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang,

Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang (tập 1, 2, 3).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài: “Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông” – luận

văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật về tiếng hát làm dâu

trong dân ca của người Mông. Qua đó làm rõ số phận của người phụ nữ khi làm

dâu và tục lệ hôn nhân của người Mông.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đối với luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông, chúng tôi

xác định nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu là khảo cứu những giá trị về nội dung và 7

nghệ thuật của những bài dân ca dân tộc Mông viết về tiếng hát làm dâu, qua đó

làm nổi bật những nét đặc sắc của những thể loại đó trong văn học dân gian. Từ

việc nghiên cứu tìm hiểu Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông, luận

văn đi đến khẳng định những giá trị của của dân ca dân tộc Mông nói riêng và

dân ca dân tộc thiểu số nói chung.

5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: Đây là phương pháp được sử

dụng trong vệc khảo sát dân ca Mông, nhằm có được những cứ liệu xác đáng cho

các luận điểm của người viết. Chúng tôi sử dụng phương pháp này để nghiên cứu

các vấn đề một cách khoa học và cụ thể, nhằm có một cái nhìn toàn diện và rõ

ràng, theo hệ thống những khía cạnh khác nhau về tiếng hát làm dâu trong dân ca

Mông.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các

tài liệu lý luận về lời văn nghệ thuật, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích

tác phẩm văn học để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề

nghiên cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu. Đây là phương

pháp không thể thiếu khi nghiên cứu tác phẩm văn học. Phương pháp này giúp

chúng tôi mô tả và thể hiện đối tượng nghiên cứu được sâu sắc, toàn diện và

khách quan hơn.

- Phương pháp nghiên cứu so sánh: Phương pháp này chúng tôi sử dụng để so

sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu văn hóa Mông với văn

hóa các dân tộc khác để tìm ra nét riêng bản sắc trong dân ca dân tộc Mông.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và

phỏng vấn sâu về các vấn đề liên quan đến luận văn, đi sâu vào mục đích nghiên

cứu, gắn với thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng phương pháp này

nhằm tìm hiểu những hủ tục còn tồn tại trong đời sống của người Mông, từ đó đề

xuất các biện pháp cụ thể nhằm bài trừ các hủ tục để cuộc sống của người dân tộc

trở nên văn minh hơn, để khi nhắc đến tiếng hát làm dâu sẽ không còn những

tiếng than thân, trách phận nữa.

8

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Việc tìm hiểu tiếng hát làm dâu

trong dân ca Mông cần có sự phối kết hợp kiến thức chuyên môn của nhiều ngành

khoa học khác như: xã hội học, văn hoá học, dân tộc học… Sử dụng phương pháp

này, đề tài sẽ tiếp cận dân ca Mông dưới góc độ văn hóa, dân tộc để nghiên cứu, lí

giải những qui luật đặc thù cũng như những nét đặc thù trong đời sống tinh thần

của người phụ nữ Mông, đặc biệt là thân phận làm dâu của họ. Bởi vậy, phương

pháp nghiên cứu liên ngành đóng vai trò then chốt, là chìa khoá cơ hữu để giải mã

những thông điệp khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu.

6. Đóng góp của đề tài

Luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông là công trình đầu

tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tiếng hát làm dâu trong dân ca của

người Mông, với mục tiêu làm rõ những nhận thức về giá trị và vẻ đẹp tâm hồn,

vẻ đẹp văn hóa của người dân tộc Mông thông qua hình ảnh người phụ nữ trong

dân ca Mông. Nghiên cứu luận văn này, chúng tôi muốn đóng góp thêm tiếng nói

trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời xoá

bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với xã hội hiện nay để khẳng định sự bền

vững của bản sắc văn hóa dân tộc trong nét đẹp của dân ca Mông. Đây cũng là

một công trình nghiên cứu có thể làm tư liệu thiết thực cho giáo viên để giảng dạy

cho học sinh trong những tiết văn học địa phương.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Tiếng lòng của người phụ nữ làm dâu trong dân ca dân tộc Mông

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông

9

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Dân ca Mông trong không gian văn hóa, văn học Mông

1.1.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình,

biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Văn

học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con

người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể

hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Trong mối quan hệ giữa

văn hóa và văn học, văn hóa là đề tài, là chủ đề mà văn học muốn phản ánh, còn

văn học là không gian để các giá trị văn hóa tồn tại và phát triển.

Dân tộc Mông có nhiều tên gọi và cách viết khác nhau trên sách báo, các

văn bản của cơ quan Nhà nước như: Mèo, HMông, H’Mông, Mông, HMông.

Vậy cách đọc và viết như thế nào mới đúng? Tại hội nghị cốt cán năm 1978 đã

chính thức gọi tên dân tộc này là dân tộc Mông. Sau đó, các văn bản của Đảng và

Nhà nước đều viết là Mông. Công văn số 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2011 tại Hội

đồng Dân tộc của Quốc hội (khóa X) có công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc

Mông, nếu viết bằng chữ phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì viết là dân tộc Mông”. Vì vậy, nhà nước ta đã

thống nhất phiên âm tên gọi đồng bào là “Mông” và cách phát âm là “Mông”. Do

đó, luận văn sử dụng cách viết và cách đọc là “Mông”. Tuy nhiên, để tôn trọng

các công trình nghiên cứu trước đó, chúng tôi xin giữ nguyên cách viết của các

nhà nghiên cứu về dân tộc Mông trong các tài liệu trích dẫn.

Dân tộc Mông cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa

bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến

Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam

như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...

10

“Người Mông là dân tộc có số dân đông nhất chiếm trên 31% các dân tộc

trong tỉnh, với 2 nhóm chính là Mông trắng và Mông hoa. Người Mông Trắng sống

tập trung ở các huyện phía Bắc như: Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ. Người Mông

Hoa lại sinh sống chủ yếu ở các huyện phía Tây như: Hoàng Su Phì, Xín Mần và rải

rác ở một số địa phương khác.” [29]. Đặc điểm để phân biệt sự khác nhau cơ bản

giữa người Mông Hoa và Mông Trắng chỉ là ở trang phục của người phụ nữ. Ngôn

ngữ của họ thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao. Người Mông nổi tiếng với truyền

thống canh tác nương đá, trồng lúa, ngô và các loại hoa màu khác. Sản xuất thủ

công của đồng bào Mông đạt đến trình độ khá cao như dệt, đan lát, làm đồ gỗ, rèn

đúc... Cây lương thực chính của họ là cây ngô và cây lúa, trong đó chủ yếu là những

sản phẩm làm từ cây ngô. Sản phẩm chăn nuôi là dê, bò, ngựa, lợn, ong... tuy nhiên

các sản phẩm này mới chỉ dừng ở mức độ tự cung, tự cấp, do đó đời sống của người

Mông nơi đây còn rất nghèo nàn, khó khăn.

Mặc dù đời sống vật chất không cao nhưng người Mông lại có một cuộc

sống tinh thần tương đối phong phú và đa dạng, tạo nên truyền thống văn hóa với

những nét đặc sắc. Truyền thống ấy không chỉ thấy ở những tập quán canh tác,

chăn nuôi, ăn ở… mà còn ở trong toàn bộ tín ngưỡng, tâm linh, phong tục tập

quán, trong các mối quan hệ dòng họ, gia đình, xã hội… và chúng được thể hiện

rõ nét trong văn học. Văn học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phản ánh

nền văn hóa dân tộc trên nhiều bình diện như phong tục tập quán, lễ hội, tôn giáo,

tín ngưỡng, tri thức dân gian, truyền thống văn hóa, các danh thắng, đền đài,…

Như vậy, xét về một ý nghĩa nào đó, các tác giả là người đã viết nên lịch sử tâm

hồn văn hóa dân tộc mình bằng văn học để thức nhận những ký ức văn hóa dân

tộc. Tiếp xúc với tác phẩm văn học cũng chính là tiếp xúc với những giá trị văn

hóa được nhà văn phản ánh trong đó, nhất là những tác phẩm văn học mà đối

tượng phản ánh là những vấn đề văn hóa như tác phẩm văn học viết về phong

tục, tôn giáo, tín ngưỡng, các truyền thuyết lịch sử, lễ hội….

Đọc các tác phẩm văn học Mông, ta có thể cảm nhận được những giá trị

văn hóa của người Mông. Cũng giống như các đồng bào khác, đồng bào Mông

11

rất coi trọng và đề cao mối quan hệ gia đình. Gia đình chính là cái nôi hình thành

và phát triển các quan hệ trong xã hội. Trong gia đình người nam giới được coi

trọng và chủ trì những công việc lớn như cưới xin, ma chay, thờ cúng tổ tiên...

Nam giới người Mông luôn là trụ cột, người chủ chính trong gia đình, được

quyền quyết định mọi việc quan trọng và đảm nhiệm những công việc đòi hỏi

sức dẻo dai trong lao động. Còn người phụ nữ Mông thì đảm nhiệm công việc

nhà từ đi chợ, nấu cơm đến làm nương rẫy và chăm sóc con cái. Tuy nhiên các cô

gái Mông chịu nhiều thiệt thòi do luật tục, định kiến trong xã hội Mông xưa, họ

bị trói buộc bởi các tục lệ: ép hôn, cưỡng hôn, tảo hôn, nối dây... Chính vì vậy

mà người Mông luôn mong có nhiều con trai hơn con gái. Tâm lí này đã ăn sâu

vào nhiều phong tục tập quán, nhiều lĩnh vực của đời sống người Mông.

Gia đình người Mông vừa được coi là một đơn vị kinh tế, vừa được coi là

một đơn vị văn hóa. Ngay từ nhỏ các bé gái đã được dạy thêu thùa, dệt vải, còn

các bé trai thì được làm quen với súng săn, thổi sáo, thổi kèn, bắn nỏ. Người

Mông thường cư trú độc lập thành các bản. Mỗi bản thường có một, hai dòng họ.

Mỗi dòng họ đều có quy ước, kiêng kị riêng trong đời sống. Chính những quy

ước này là sợi dây gắn bó các thành viên cư trú nhỏ lẻ, phân tán thành một lực

lượng làm nên sức mạnh đoàn kết đấu tranh để bảo vệ dòng họ. Người Mông rất

coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có

cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu

mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ

đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau.

Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy

tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Trong phong tục tập quán của người Mông, cưới xin và tang ma để lại

những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều hơn cả.

Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân vì họ quan niệm

mùa xuân là mùa vạn vật sinh sôi nảy nở, tuyệt đối không tổ chức đám cưới vào

những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người Mông phải trải qua các bước như

12

dạm hỏi, dẫn cưới và lễ đón dâu. Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông

thuộc các bài hát nghi lễ cưới xin, kết nối hai nhà để làm thủ tục dạm hỏi và hẹn

ngày đón dâu. Để chuẩn bị cho đám cưới, nhà trai phải tổ chức họp gia đình mời

những người trong dòng họ để bàn bạc và chuẩn bị kỹ lượng từ việc tổ chức đến

đồ sính lễ. Vào ngày trọng đại, người thân và những người tham dự lễ cưới

thường mặc trang phục truyền thống đẹp nhất do chính người phụ nữ Mông thêu

và may. Đám cưới người Mông bao giờ cũng phải có ông mối, chú rể, phù dâu,

phù rể và những người đại diện cho họ nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục và

nghi lễ để đón cô dâu về. Sau khi nhà trai xin phép, phù dâu sẽ vào buồng và dắt

cô dâu ra ngoài. Phù rể sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên, vái lạy cha mẹ nhà gái

trước khi rước dâu đi. Sau khi hoàn tất các thủ tục cô dâu được hai người anh em

trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho người đón dâu. Theo phong tục, khi cô dâu,

chú rể đã ra khỏi cửa thì không được quay đầu nhìn lại nhà cha mẹ cô dâu nữa và

nhà gái cũng không được đưa dâu đến nhà trai. Đoàn đón dâu đi đến nửa đường

phải dừng lại nghỉ, bày đồ ăn thức uống ra để ông mối làm lễ mời các vị thần,

đồng thời cô dâu cũng phải thay đồ mới trước khi về nhà chồng. Cô dâu về tới

trước cửa nhà trai còn phải làm một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới được vào

cửa: bố chú rể ra đón cặp vợ chồng, trên tay cầm một con gà trống đưa sang trái

và phải ba cái để xua đuổi những điềm không may, đón những điều may mắn,

sau đó làm lễ nhập gia cho cô dâu mới. Trước đây người Mông rất phổ biến tục

“bắt vợ”. Tục cướp vợ có nhiều ở một số dân tộc thiểu số ở nước ta, nhưng ở

người Mông tục này được tồn tại lâu hơn. Thanh niên tổ chức đón đường kéo

người con gái đó về, dù người đó không bằng lòng. Sau khi cướp được hai hôm

nhà trai cử người báo cho nhà gái biết và tiến hành bàn việc cưới. Do đó nhiều cô

gái phải lấy người không vừa ý, vì người con gái đã qua lễ nhập môn thì phải lấy

người con trai đã kéo mình.

Tang lễ của người Mông là một nghi lễ thể hiện sự tri ân giữa người sống

với người đã mất đồng thời phản ánh những quan niệm lịch sử, xã hội và đời

sống tâm linh của đồng bào Mông. Đây được coi là một hiện tượng văn hóa đặc

sắc của người Mông. Khác hẳn với các dân tộc khác, người Mông thường tổ 13

chức hai đám tang: đám ma tươi, đám ma khô. Khi có người chết gia đình bắn

chỉ thiên ba phát súng báo hiệu cho dân bản biết có người chết, con cháu trong

gia đình đi mời gọi anh em dân bản, thầy khèn, thầy trống, thầy cúng. Sau khi

phát tang sẽ tiến hành các nghi lễ: trước tiên là lễ chỉ đường để người chết tìm

đến tổ tiên. Đặc biệt, trong lễ tang ma của người Mông có lễ “đám ma khô”.

Người Mông quan niệm nếu chưa được làm ma khô thì người chết sẽ không hòa

nhập được với tổ tiên, người chết không thể hóa kiếp, hồn người chết sẽ quanh

quẩn đâu đây để có thể phù hộ nhưng cũng có thể quấy nhiễu con cháu, mọi tội

lỗi của người chết lúc sống chưa được tha thứ. Làm lễ ma khô giúp người chết

rửa sạch hết tội, được siêu thoát và và đi đầu thai kiếp khác. Tất cả những người

có mặt trong tang lễ không được ngủ để tránh hồn người sống đi theo người chết

sang cõi âm. Nét đặc sắc trong tang lễ của người Mông là có nhiều loại tang ca,

mỗi loại tang ca lại có từng kiểu nghi lễ, kiểu người chết khác nhau. Có thể nói,

tục tang lễ của người Mông đã phản ánh tín ngưỡng, đời sống tâm linh, phong

tục tập quán cũng như văn hóa dân tộc Mông.

Sinh hoạt cộng đồng của người Mông rất đa dạng và phong phú với những

làn điệu dân ca cổ truyền, những truyện cổ dân gian, những nhạc cụ truyền thống

và các lễ hội độc đáo như: đón Tết, cưới xin, hát giao duyên, chợ tình ... Đặc biệt

là những lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá tinh thần của người Mông như lễ hội:

Gầu tào (gruôv taox), Nào Sồng, các phiên chợ vùng cao... được tổ chức hàng

năm. Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương

tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên

dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ

đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước. Có thể nói, những phong tục tập

quán, đời sống tâm linh, sinh hoạt cộng đồng,... là một kho tàng phong phú và bí

ẩn tạo nên những dấu ấn riêng trong dân ca Mông.

Có thể khẳng định, giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ gắn bó chặt

chẽ, tác động lẫn nhau. Văn hóa giữ vai trò là nguồn cội của văn học, để cung

cấp chất liệu, vốn sống, tri thức, cảm hứng, nhằm tạo nên những dự phóng sáng

tạo của nhà văn. Văn học là tấm gương phản chiếu văn hóa. Văn học là một 14

thành phần của văn hóa, phản ánh diện mạo, bản chất của văn hóa và chịu sự tác

động của văn hóa. Nghiên cứu văn học phải được tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa

và ngược lại.

1.1.2. Dân ca Mông - giai điệu giàu bản sắc trong văn hóa, văn học Mông.

Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Dân ca là một loại hình sáng tác dân

gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với

nhau trong diễn xướng” [6, tr. 105].

Kho tàng văn học dân gian Mông rất phong phú về đề tài, dồi dào về số

lượng các thể loại: truyện thần thoại và truyện cổ tích, từ việc giải thích các hiện

tượng thiên nhiên như trời, sao, trăng, mây, mưa... đến việc lí giải nguồn gốc loài

người, nguồn gốc các loài vật, thể hiện những ước mơ về công lí của người xưa

(Khua kê, Giàng Dua – Giáng Dự, Hai chị em...); truyện thơ – những câu chuyện

đầy éo le và bất hạnh, tràn đầy nước mắt nhưng cũng đầy màu sắc lãng mạn

mang âm hưởng của núi rừng (Cô Mỷ - Chàng Pao, Nàng Dợ - Chà Tăng, A

Thảo – Nù Câu). Bên cạnh đó còn có một kho tàng tục ngữ, câu đối... và chiếm

số lượng nhiều hơn cả là dân ca. Dân ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời

sống thường ngày của người Mông, kể cả hội hè, cưới xin, ma chay và tỏ tình.

Dân ca Mông đậm đà tính trữ tình duyên dáng, thuần phác, hồn nhiên trong sáng.

Đó là những bài hát mang nội dung trữ tình, biểu lộ tình cảm, tâm tư, nguyện

vọng của đồng bào trong cuộc sống thường ngày. Dân ca là món ăn tinh thần

không thể thiếu trong các dịp lễ hội và trong sinh hoạt hàng ngày của người

Mông. Dân ca giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ

xã hội trong một cộng đồng, một dân tộc, góp phần hình thành nhân cách, tâm

hồn của mỗi con người và cả thế giới con người. Người Mông yêu dân ca với

tình cảm bản năng. Với họ, cuộc sống chính là một bài dân ca trường thiên bất

tận. Có thể nói dân ca Mông là tấm gương phản chiếu diện mạo văn hóa của dân

tộc Mông.

Dân ca Mông là những bài hát do nhân dân tự sáng tác và lưu truyền trong

dân gian. Những bài ca này có phần lời ca, âm nhạc và cả nghệ thuật diễn xướng.

Dân ca trước hết tự nó phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ 15

những đặc điểm của một tác phẩm văn học. Từ đó thể hiện mối quan hệ giữa văn

hóa và văn học thông qua lời ca tiếng hát trong dân ca Mông. Sự tồn tại của

phương thức dân ca bên cạnh phương thức trữ tình đã phản ánh quy luật tất yếu là

văn học nghệ thuật phải tiếp cận và tái tạo hiện thực đời sống một cách toàn diện.

Nếu vương quốc riêng của tiểu thuyết là những mảng không gian bề bộn, nhiều

tầng, nhiều vỉa, của kịch là những xung đột gay gắt, những va chạm, đụng độ

quyết liệt đòi hỏi phải được giải quyết bằng hành động thì dân ca là những cung

bậc cảm xúc trữ tình sâu lắng. Dân ca vừa có cái riêng của văn học lại vừa có cả

cái chung của sân khấu. Phần lời của các bài hát chính là phương diện văn học của

âm nhạc, nghĩa là cái gốc của dân ca là văn học, phần thuộc về sân khấu là nghệ

thuật trình diễn. Dân ca Mông có nhiều loại, với 5 mảng đề tài chính: tiếng hát tình

yêu, (gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (gầu xống), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng),

tiếng hát mồ côi (gầu tú giua) và tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).

Tiếng hát mồ côi: gồm những bài hát về nỗi đau cơ cực của những người

bất hạnh có cha mẹ mất sớm. Những bài dân ca này không chỉ nêu lên nghịch

cảnh và tâm sự đau thương của kẻ mồ côi mà còn tố cáo sự bất công của chế độ

xã hội cũ với những kẻ thân cô thế cô, mất cha mất mẹ:

Gà mái không may chết sớm

Bố mẹ tôi cũng đi cả

Để lại tôi đây con ma mồ côi

Như gá mái bỏ ổ trứng ôi [18; tr. 143]

Những đứa trẻ kém may mắn không cha không mẹ, đói khổ rách nát, mồ

côi chịu cảnh côi cút và cô độc. Cha mẹ ra đi, để lại mồ côi vật vờ như bóng ma

không nơi nương tựa. Mồ côi chỉ là quả “trứng ôi”, là thứ bỏ đi, không chút giá

trị. Nếu như các tộc người lân cận ở miền núi, trẻ mồ côi luôn được chia cho gia

đình họ hàng cưu mang, thì người Mông, trái lại, không tồn tại tục lệ ấy. Đứa trẻ

mồ côi Mông phải tự mình lăn lóc kiếm tìm cái ăn, thế nên, thân phận mồ côi

trong xã hội Mông vô cùng bi đát:

16

Hết bố lẫn mẹ đều chết

Để lại tôi đây một mình không mẹ cha

Tựa con gà không lông đang bới đất

Để mình tôi đi đâu không có nổi đôi giày rách mà đi [18; tr. 144]

Có đủ cái ăn, cái mặc là điều hết sức bình thường với nhiều người nhưng lại

là niềm ao ước của kiếp mồ côi. Hình ảnh “con gà không lông đang bới đất” diễn

tả nỗi khổ cực của những đứa trẻ mồ côi. Những đứa trẻ không có nổi miếng cơm

manh áo, sống bơ vơ trơ trọi giữa cuộc đời, không người nương tựa phải tự mình

kiếm ăn kiếm sống. Những bài ca về tiếng hát mồ côi phản ánh thực tế những

đứa trẻ sinh ra bơ vơ không cha không mẹ, hoặc cha mẹ chết sớm phải chịu sự

khinh miệt, coi thường của mọi người. Bởi thế, họ chỉ biết ai oán khóc thương

cho số phận mình:

Khi làm người bắt ma mồ côi làm quá,

Khi ăn người bắt ma mồ côi đi cắt lúa,

Khi làm người bắt ma mồ côi làm ghê,

Khi ăn người bắt ma mồ côi đi tỉa kê [20; tr. 164]

Những nghịch cảnh do sự giàu nghèo gây nên, những nỗi thống khổ vì cô

đơn, vì áp bức, vì đói rét do xã hội nghèo nàn lạc hậu làm con người ngày càng

cạn tình cạn nghĩa, thậm chí cạn cả tình máu mủ, ruột thịt. Bên cạnh giá trị tố

cáo, tiếng hát mồ côi cũng phần nào nói lên được tinh thần tự tin của những kẻ

mồ côi. Nỗi thống khổ đã biến thành một ý thức phản kháng quyết liệt thể hiện

khát vọng tự do và tìm đường vươn ra ánh sáng của những thân phận bất hạnh.

Tiếng hát tình yêu: là loại bài hát phong phú và đa dạng nhất trong kho tàng

dân ca người Mông. Từ lúc bắt đầu làm quen tìm hiểu, ướm lòng đến chỗ gắn bó

xe kết với biết bao hi vọng tươi đẹp, những nghịch cảnh éo le, oan trái trong tình

yêu... tất cả những cung bậc ấy đều được thể hiện sâu lắng trong các bài dân ca.

17

Đặc biệt những cung bậc của nỗi nhớ được khắc họa rõ nét với những khắc khoải

khi xa cách, những lo lắng buồn phiền khi nhớ nhung chia li:

Đrâu Mông trở về chốn

Ruột gan vẫn nhớ nhung

Ở gầu Mông yêu thương

Đrâu Mông trở về nhà

Ruột gan vẫn nhớ đến ở gầu Mông yêu mến [18; tr. 124]

Đrâu Mông nhớ Gầu Mông - Đó là nỗi nhớ trải dài theo thời gian, tưởng

rằng sẽ không bao giờ hết nhớ. Thời gian có thể làm thay đổi vạn vật nhưng

không thể thay đổi được tình cảm đôi lứa, và khoảng cách địa lý chỉ ngăn cách

được bước chân con người chứ không ngăn được nỗi nhớ người yêu của chàng

trai. Những hành động quyết liệt thể hiện tâm trạng nhớ nhung đến cháy bỏng

của đôi lứa đang yêu.

Cái đích của tình yêu là hôn nhân, hai người yêu nhau bao giờ cũng mong

được sống bên nhau trọn đời, một mối tình son sắt, thủy chung tạo nên một gia

đình êm ấm, hạnh phúc. Đó không chỉ là niềm ao ước của đôi trai gái Mông mà

còn là niềm khát khao của tất cả đôi lứa yêu nhau trên thế giới. Yêu nhau, có đôi

khi họ vẽ ra bức tranh tươi đẹp về tương lai:

Giá hai đứa lấy được nhau

Hai đứa làm mùa cho đầy gác

Nuôi lợn cho đầy chuồng

Xây nhà như nhà Hán

Đóng bàn như bàn khách [19; tr. 147]

Họ hy vọng cùng nhau xây dựng tổ ấm, xây dựng cuộc sống sung túc “mùa

đầy gác”, “lợn đầy chuồng”. Thiếu nữ Mông chẳng ước giàu sang tiền bạc, lụa

là gấm vóc để hưởng thụ. Bức tranh đẹp đẽ ấy là biểu tượng cho hạnh phúc của

đôi vợ chồng được sống hòa thuận, đầy đủ về vật chất và cả tinh thần. Chẳng có

gì cao sang và xa rời hiện thực trong niềm mong mỏi của người con gái. Mơ ước

thì ai cũng có, nhưng phụ nữ Mông thú vị ở chỗ họ chẳng giấu diếm ước mơ ấy

cho riêng mình, mà vô tư hát lên, ca lên cho mọi người cùng nghe. Coi trọng

18

hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính, ước mơ của họ tuy giản dị

nhưng thật say đắm. Nhưng trong tình yêu không phải lúc nào cũng suôn sẻ,

ngọt ngào mà còn phải gặp nhiều trắc trở:

Guồng xa xe sợi lanh

Xe được sợi chỉ xoắn

Dù mình biết biến ta biết hóa

Thì cũng đến mặt trời ghẹo mặt trăng trên tít đỉnh núi. [24; tr. 158]

Tác giả dân gian ví tình yêu với chuyện xe lanh, dệt vải. Lẽ thường, guồng

xa xe lanh thì lại được sợi chỉ xoắn – nghịch cảnh, trắc trở trong tình yêu đôi lứa.

Qua đó tác giả muốn khẳng định: Tình yêu muốn đạt tới thắng lợi phải trải qua

nhiều khó khăn, thử thách thậm chí tốn thời gian công sức mà vẫn không thành.

Điều này khiến người ta không khỏi buồn phiền, hờn giận. Nhưng cái hờn giận

ấy tuy xót xa nhưng vẫn đầy ắp tình người. Tất cả những đôi trai gái yêu nhau

đều mong muốn đến được với nhau và các chàng trai cô gái Mông cũng như

vậy. Nhưng đôi khi thực tế cuộc sống lại không cho họ thỏa lòng mong ước. Yêu

nhau nhưng cuối cùng họ lại phải chia xa, yêu nhau mà không lấy được nhau, do

cha mẹ không ưng, do hoàn cảnh ngang trái:

Đrâu làng Pủa lòng dạ buồn phiền

Đrâu làng Pủa

Leo lên đồi cao núi rau dớn

Giơ tay làm bóng râm nhìn xuống đồng nương

Nào thấy gì đâu

Chỉ thấy Pàng Chai giáo mặc đồ vóc gấm [20; tr. 254]

Một trong những nguyên nhân gây nên sự chia li cho đôi trai gái yêu nhau

là do người Mông xưa có tục lệ thách cưới khá nặng nề, khiến cho nhiều chàng

trai nghèo không lấy được người mình yêu. Chàng trai trong bài ca trên phải

ngẩn ngơ, đau xót khi đứng nhìn cảnh người yêu đến làm dâu nhà khác do mình

quá nghèo. Sự phân biệt giàu nghèo, tư tưởng phải môn đăng hộ đối là hiện thực

khắc nghiệt chia rẽ đôi lứa, là duyên cớ dẫn đến mối tình đẫm nước mắt. Không

đến được với nhau, cô gái ước mơ:

Lúc này đôi ta đau buồn

Không lấy được nhau

19

Đôi ta ước gì biết biến

Biến thành đôi chim cắt

Thung thăng lượn mười chín vòng quanh núi lớn

Chẳng còn lo gì. [24; tr. 66]

Đôi lứa yêu nhau muốn biến thành đôi chim cắt để họ được bay trên bầu

trời tự do, tìm kiếm hạnh phúc. Rồi họ cùng nhau thề nguyền: “Anh cứ cắt ngón

tay/ Em sẽ cắt ngón chân” [18; tr. 128]. Đôi trai gái cắt máu ăn thề nguyện cùng

nhau yêu đến hết cuộc đời. Thậm chí họ còn tìm đến cái chết như một sự giải

thoát khỏi những ràng buộc của xã hội, tìm kiếm tình yêu tự do. Nhìn chung giá

trị chủ yếu của tiếng hát tình yêu là ở chỗ đã phản ánh trung thực những tình

cảm, những ước mơ, khát khao trong sáng, giản dị, mãnh liệt của người dân

Mông. Những khát vọng đẹp về tình yêu hôn nhân: yêu là tiến tới xây dựng gia

đình, có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhau, cũng như với cha mẹ, con cái.

Coi trọng hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính, ước mơ của họ tuy

giản dị nhưng thật say đắm.

Tiếng hát cưới xin: là những bài hát chỉ do nam giới hát nhân dịp dám cưới.

Loại hát này gồm hát nghi thức và hát vui chơi trong đám cưới. Hát nghi lễ gồm

nhiều bài bản khá ổn định về nội dung và nhạc điệu mà nam giới phần đông đều

biết hoặc thuộc lòng, nhất là những người làm ông mai ông mối. Lễ thức nào có

bài hát của lễ thức ấy, người hát phải tuân theo quy tắc chặt chẽ. Hát trong đám

cưới là những bài hát vui:

Rượu đắng rượu cay

Em uống được hãy uống một liều

Không uống được hãy cất để dành

Ta cảm ơn già bản Mông nhiều nhiều [20; tr. 218]

Bài ca chúc mừng dâu rể hai họ, mời nhau uống rượu kể chuyện vui nhộn,

hát đố hát giải, hát trêu chọc đùa cợt nhau. Nội dung đều xoay quanh việc cưới

xin vui mừng, mang ý nghĩa lạc quan, yêu đời.

Tiếng hát cúng ma: là một trong những loại bài ca đặc biệt chỉ dùng trong

đám ma. Loại bài hát này không phổ biến trong nhân dân mà khi già cần thiết thì

20

người ta mới học. Hầu hết những bài hát này có tính chất lễ ca, ít nhiều tồn tại

yếu tố lạc hậu, mê tín:

Nay tôi gọi hồn

Cho cả nhà hãy mau mau về ngay

...Về với bố mẹ, anh em con cháu

Sống yêu thương nhau tưng bừng [19; tr. 189]

Thầy cúng đang làm nghi lễ và hát bài ca gọi hồn. Ta thấy những bài hát

cúng ma đều có tính chất giáo huấn, kể lại công ơn cha mẹ, nguồn gốc tổ tiên, thể

hiện tình cảm của người sống với người đã khuất. Qua đó thể hiện khá sâu sắc

nhiều quan niệm, đời sống tinh thần của người Mông.

Tiếng hát làm dâu: Diễn tả nỗi đau khổ uất ức của người phụ nữ trong xã

hội Mông xưa. Người phụ nữ hầu như không có quyền sống, thể xác bị vùi dập,

tình cảm bị trói buộc. Họ phải chịu đựng nhiều tệ nạn: tảo hôn, cưỡng hôn, phải

làm cực nhọc mà vẫn bị đầy đọa như trâu ngựa, cả cuộc đời trói buộc vào nhà

chồng. Ép gả chồng sớm là thực tế phổ biến xuất hiện trong dân ca Mông:

Bố mẹ gầu Mông

Phải chăng thích người ta con bò trắng chân

Đem gầu Mông gả đi làm dâu

Con đường lạ không biết tên. [18; tr. 102]

Vì hủ tục mà vô tình bố mẹ gầu Mông đã đẩy thiếu nữ Mông đi vào con

đường làm dâu đầy khổ ải. “Con đường lạ không tên” chỉ một con đường xa lạ,

cô gái không biết gì về nơi ấy mà phải đến ở làm dâu, phải phục vụ nhà người.

Câu chuyện làm dâu là tiếng hát muôn đời và không bao giờ dứt với người phụ

nữ. Thể xác bị vùi dập, tình cảm bị chà đạp, hiện tại đau khổ, tương lai tối tăm...

họ chỉ biết dùng lời hát mà than thở, kêu gào, nguyền rủa đồng thời tố cáo cái xã

hội đầy áp bức, bất công.

Địu nước đặt cạnh chạn

Nước mắt gầu Mông đua nhau rụng

Địu nước đặt cạnh bếp

Nước mắt gầu Mông đua nhau rơi 21

...Gầu Mông rằng Đrâu Mông

Anh không biết đường làm dâu đường đen tối. [19; tr. 121]

“Nước mắt” – giọt nước mắt của tủi nhục, khổ đau. Những giọt nước mắt

nhỏ xuống tận sâu tâm hồn, xa lắng lại trong dân ca thành những dòng cảm xúc

trào dâng mãnh liệt như tiếng vỡ òa trong đau đớn. Cảnh làm dâu là “con đường

đen tối”, là con đường của cực nhọc của đau thương và nó trải dài nước mắt. Đối

mặt với cuộc sống nhà chồng, với một gia đình hoàn toàn không chung máu mủ

với nếp sống xa lạ không dễ để người dâu mới hoà nhập và thích nghi. Tiếng hát

làm dâu là lời ca không bao giờ dứt của thân phận làm dâu.

Bước chân về nhà chồng, người con dâu bắt đầu guồng quay với công việc

mới. Công việc đầu tiên trong ngày là làm bữa sáng cho cả nhà. Cô gái có nhỡ

làm cơm chưa chín, anh lớn em bé đã lục đục mâm bát, gọi ầm ĩ. Nấu cơm không

nếm thì không biết sống chín, mà nếm thì mẹ chồng mắng nhiếc “đồ chó tham

ăn”. Dọn cơm lên, nàng chưa kịp ngồi vào mâm mọi người đã ăn xong, phần việc

tiếp là phải một tay lau chùi, dọn dẹp… Bưng được bát cơm thì mẹ chồng nhòm

ngó, lườm nguýt và cay nghiệt hơn, thậm chí còn rủa:

Mày vội ăn để trèo lên đòn ma

Mày vội ăn để chui vào mả. [24; tr. 280]

Sống cảnh đời cơ cực, cô nàng cũng không còn muốn bưng bát cơm

“chan đầy nước mắt” nhưng nghĩ đến sự sống nên đã cố nuốt. Có lẽ sống mãi

trong cái khổ thành quen, người ta chán cũng chẳng buồn chết nữa. Kể chuyện

với mẹ gặp thuồng luồng, mẹ chồng không an ủi mà còn cay nghiệt:

Ôi, sao con thuồng luồng sao không cắn chết mày

…Sao con thuồng luồng không bắt mày đi. [24; tr. 273-274]

Cô gái chỉ biết ngậm đắng nuốt cay:

Nước mắt em chảy tràn, ướt hết thành giường

… Nước mắt em chảy tràn, ướt sạch góc chiếu. [24; tr. 274]

Người phụ nữ đã trở thành một thứ công cụ, một thứ đồ vật trong cuộc sống

nhà chồng. Họ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu và người được đánh giá dựa

trên những giá trị sử dụng như các món hàng, vật dụng tầm thường khác. Không

thể chịu được mãi khổ đau, phụ nữ Mông tự giải thoát mình ra khỏi cuộc sống tù

túng bằng cách tìm đến cái chết:

22

Em ơi! Chị ngắt lá thuốc đắng thật cay

Đưa lên mồm, nuốt ực cho nát quách lá gan. [24; tr. 227]

Họ tìm đến cái chết một cách nhẹ nhàng, không chút lo lắng. Không phải

người phụ nữ coi thường mạng sống của mình mà họ đang giành lấy hạnh phúc

cho chính bản thân mình. Bởi theo những người phụ nữ, chỉ có ở thế giới bên kia,

họ mới có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những bài hát dân ca này còn

cho thấy ý thức phản kháng đã le lỏi, nguyện vọng táo bạo muốn thoát khỏi ràng

buộc của lễ giáo phong kiến đối với người phụ nữ Mông. Cũng từ tiếng hát làm

dâu, người ta còn thấy đức tính thuỷ chung như nhất của người phụ nữ như cây

lanh chịu mọi sương sa giá rét của thời gian và thời tiết để hun đúc khát khao

được xây dựng gia đình với người mình yêu, mình lựa chọn. Qua đó, ta thấy

được những nét đẹp trong phẩm chất của người phụ nữ Mông. Có thể nói tiếng

hát làm dâu và tiếng hát mồ côi trong dân ca Mông là những tiếng hát đầy lòng

nhân ái và giàu tính nhân văn cao cả.

Nhìn chung, nội dung phản ánh trong dân ca Mông đã thâu tóm được hầu

như toàn bộ đời sống xã hội và nhân sinh quan của tộc người này. Dường như

dân ca chính là tiếng hát tâm tình, là nơi sâu thẳm trái tim họ gửi gắm những

tiếng lòng chất chứa ưu tư về nhân tình thế thái. Dân ca chính là mảnh đất chất

chứa bao mơ ước giản dị, mộc mạc, chân thành và thể hiện tinh thần lạc quan

trong cuộc sống của những con người nơi địa đầu tổ quốc. Có thể nói dân ca

Mông đã thể hiện đầy đủ những cung bậc đời sống tinh thần của người Mông,

nổi trội là cuộc sống của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu. Họ hiện lên

với vẻ đẹp về hình thể, về tâm hồn nhưng lại chịu số phận nhiều đau khổ bởi

những hủ tục lạc hậu trong xã hội xưa. Đó là một trong những lí do chúng tôi

chọn đề tài nghiên cứu Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông. Đây chính

là bản sắc văn hóa của đồng bào Mông.

1.2. Hình ảnh người phụ nữ Mông trong dân ca dân tộc Mông

Một hình ảnh thường xuyên xuất hiện và chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca

Mông là hình ảnh người phụ nữ. Có thể nói, người phụ nữ Mông là một đề tài có

vị trí và vai trò chủ đạo trong dân ca Mông nói riêng và thơ ca dân gian Mông nói 23

chung. Đề tài này được triển khai ở nhiều khía cạnh: người phụ nữ đã có gia đình,

người bà, người mẹ, người em gái,…; các bài hát trong lao động sản xuất; bài hát

nói về hủ tục; tình yêu đôi lứa;… Người phụ nữ Mông trong dân ca Mông thường

được coi là hiện thân của cái đẹp:

Dáng hình em xúng xính trong váy áo rung rinh

Thanh thản như con ốc bò trên mặt đất

Hình dáng hình em xúng xính trong váy áo rung rinh

Thong dong như con ốc bò bên khe suối. [24; tr. 90-91]

Vóc dáng của cô gái Mông hiện lên vô cùng đẹp và độc đáo. Những cô gái

xinh đẹp xúng xính váy hoa, nụ cười chúm chím trên môi với dáng điệu “thanh

thản”, “thong dong” chuyển động chậm chãi. Dường như, các cô gái duyên dáng

hơn, yểu điệu hơn, thướt tha hơn trong những bộ váy áo rực rỡ sắc màu. Nói về

trang phục, so với các dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Mông có phần cầu kì

và tỉ mỉ hơn. Bộ quần áo của phụ nữ dân tộc Mông gồm có khăn quấn đầu, khăn

len (cũng là khăn đội đầu) được dệt bằng tay, váy, yếm được thêu bằng tay. Các

hoa văn, họa tiết trên trang phục của người Mông thiên về màu sắc. Vẻ đẹp của

chiếc váy là sự phối kết hợp giữa các màu nóng, tạo sự nổi bật, ấn tượng. Phụ nữ

Mông đã tự tạo nên cho họ một vẻ đẹp vừa dịu dàng vừa khỏe khoắn bền bỉ làm

bừng lên sức sống mãnh liệt của những con người nơi núi rừng hoang vu.

Ta thấy em mặt trắng nõn nà

Đẹp tươi như cành hoa lả lướt bên non…

Ta thấy em mặt trắng mượt mà

Đẹp tươi như cành hoa lả lướt bên núi. [24, tr. 104]

Trong đôi mắt của chàng trai Mông, hình ảnh cô gái Mông hiện lên vô

cùng đẹp đẽ với khuôn mặt trắng nõn nà, xinh tươi như cành hoa bên núi. Vẻ

đẹp của người phụ nữ không chỉ dừng lại ở bên ngoài, đó còn là biểu hiện của

vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp bên trong với tấm lòng giàu tình yêu thương, hết lòng vì

chồng, vì con, nhẫn nhịn, hy sinh,… những đức tính cần cù, chịu thương chịu

khó. Người Mông vốn có đức tính cần cù và sáng tạo trong lao động, nhạy cảm

và thích ứng nhanh với hoàn cảnh sống khắc nghiệt, như những con người nơi 24

đây vẫn hết sức lạc quan, họ vẫn không thôi mơ ước. Đó là ước mơ về một cuộc

sống hạnh phúc giản dị, về một mái ấm gia đình với một người vợ khéo léo thêu

hoa, dệt vải còn chồng thì giỏi thổi sáo, múa khèn:

Đầu nhà ta sán giấy vàng

Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy áo

Đầu nhà là nơi anh thổi sáo múa khèn. [24; tr. 150]

Bao đời nay, trang phục cả nam và nữ, già hay trẻ, của người sống và người

chết đều ra đời từ đôi bàn tay người bà, người mẹ, người chị, người vợ:

Anh mở toang cửa chính cho vợ ngồi thêu thùa

Thêu được một chiếc đem mặc

Mãi mãi không biết rách,

... Mở toang cửa chính cho vợ ngồi thêu hoa

Thêu được một cái đem bận

Bận mãi không biết sờn. [19; tr. 154]

Vẻ đẹp người phụ nữ Mông ánh lên trong không gian lao động, từ sự thành

thục đến độ nhuần nhuyễn của đôi bàn tay khiến trang phục của người chồng mãi

không rách, không sờn. Nếu sản phẩm ấy đẹp, bền, chắc cũng có nghĩa người tạo

ra nó là người đảm đang, giỏi giang và có thể lo toan được công việc. Bởi việc

tạo ra tấm vải lanh tốn rất nhiều thời gian do xưa kia công cụ thô sơ, kĩ thuật thấp

nên đòi hỏi người làm phải hết sức tỉ mỉ, cẩn thận trong từng công đoạn thì thu

hoạch lanh cho tới làm sợi, xe lanh, dệt vải. Xuất phát từ quy trình khá cầu kỳ và

nhiều công đoạn để cho ra thành phẩm, việc làm lanh, dệt vải từ lâu đã trở thành

một tín hiệu tính hiệu tin cậy để lựa chọn bạn đời.

Cô quấn xà cạp gọn xinh như trôn ốc vặn

Cô lấy chồng lo toan được việc cửa nhà

Cô quấn xà cạp gọn đẹp như trôn ốc xoáy

Cô lấy chồng cáng đáng được gia đình [24; tr. 53]

Tiêu chuẩn hàng đầu khi chọn vợ của các chàng trai Mông là sự khéo léo,

tinh tế của người phụ nữ. Đối với họ, nhan sắc không phải là tiêu chuẩn duy nhất

khi chọn vợ mà nó còn nằm ở phẩm chất, sự khéo léo của người con gái. Thậm

25

chí, người Mông rất ghét những kẻ lười biếng: “Đất pha cát không ưu phân/

Lười biếng không có ăn” (Ca dao Mông). Có thể nói, đàn ông Mông rất tỉnh táo

và tinh ý khi chọn vợ. Ta thấy, người Mông không ngại ngần khẳng định tiêu

chuẩn đối với phụ nữ qua dân ca, đó là sự chăm chỉ, đảm đang, khéo léo. Đó còn

là bài học cha mẹ truyền cho con cái, ông bà, tổ tiên truyền cho cháu chắt, thế hệ

trước để lại cho thế hệ sau những đức tính vốn có và đại diện cho phái đẹp mình.

Tiếng hát đã góp phần quan trọng cổ vũ, động viên sự tồn tại, duy trì và phát

triển của những phẩm giá tốt đẹp tới ngàn đời.

Xã hội phong kiến xưa đầy rẫy bất công khắt khe, một xã hội dành mọi ưu

ái cho người đàn ông và vùi người phụ nữ xuống đáy tầng xã hội. Người phụ nữ

Mông từ khi sinh ra đã không có quyền làm chủ cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc

cho bản thân. Ở nhà thì phải nghe theo mẹ, lấy chồng thì phải theo chồng,

chồng chết thì theo con trai. Xã hội không thừa nhận vai trò, tài năng của người

phụ nữ. Tài, trí chỉ dành cho những đấng quân tử, trượng phu. Người con gái

không được học hành:

Em đây, cái nghiên không ở trong tay, cái bút không ở trong tay

Em không biết đọc, biết viết. [24; tr. 124]

Chàng trai thì “cái nghiên không ở trong tay, cái bút không ở trong tay

chàng – biết đọc biết viết”, chàng sẽ có quyền lựa chọn được người xứng đôi

vừa lứa. Còn em đây thân phận hèn mọn, không được ăn học nên “chọn bạn

đời, không được người vừa lứa”. Ý thức được số phận đầy cực khổ của mình,

người phụ nữ chỉ biết gửi gắm nỗi niểm đau đớn vào những câu dân ca:

Trời ơi! Thân chị như thân ngựa

Không biết tự mình hạ bao hạ túi. [24; tr. 227]

Người phụ nữ tự nhận mình là “thân ngựa” để nói lên sự vất vả, nhọc nhằn

trong cuộc sống gia đình. Họ phải làm việc nhà quần quật, quanh năm suốt tháng

vậy mà vẫn bị khinh rẻ, sống kiếp nương nhờ vào người khác. Địa vị thấp cổ bé

họng trở thành số phận chung cho người phụ nữ trên mọi miền đất nước. Phụ nữ ý

thức được thân phận nhỏ bé và chịu phụ thuộc trước cánh đàn ông, trước lề thói xã

hội. Bởi vậy, không dừng lại ở việc than thân trách phận, những câu ca, bài hát

chính là sự tố cáo và phản kháng mạnh mẽ, trực diện vào những hà khắc, cổ hủ của

chế độ phong kiến bấy giờ.

26

Nhưng vượt lên tất cả, phụ nữ trong văn học dân gian luôn có những khát

vọng và ước mơ chính đáng. Khát khao và mộng tưởng sẽ giúp họ có thêm động

lực để tồn tại. Người phụ nữ trong dân ca đã không ngại ngần khi thổ lộ mong

muốn của mình với người thương:

Giá thân em là sợi lanh, sợi tơ

Anh cuốn vào người để sợi cùng anh ở

Giá thân em là thân sợi lanh, sợi chỉ

Anh cuốn vào người để sợi cùng anh đi [24; tr. 116]

Ước mong của cô gái là muốn mình trở thành “sợi lanh”, “sợi tơ” nhỏ bé

mà bền chắc luôn theo người mình yêu, quấn quýt không rời. Tình yêu trong trái

tim nhỏ bé của cô gái có sức mạnh phi thường, đem lại khao khát cháy bỏng đâu

chỉ được gặp gỡ, hẹn hò, tâm tình…mà là sự gắn quyện thể xác. Những cô gái

Mông đã nói lên ước vọng chính đáng của mình, đó là khát khao tự do, khát

khao mưu cầu hạnh phúc của bản thân. Mặc dù bị trói buộc bởi các luật tục của

xã hội phong kiến nhưng người phụ nữ vẫn thể hiện ước vọng mãnh liệt của

mình. Đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Mông.

Nhìn chung, hiện thực đã cho thấy, dân ca là nơi thổ lộ những giá trị, phẩm

chất, những hi vọng, ước mơ của người phụ nữ. Họ hiện lên với vẻ đẹp bình dị,

mộc mạc với một chút hoang dã của rừng núi phương bắc và thể hiện sự gắn bó

với thiên nhiên và cuộc sống lao động của đồng bào dân tộc thiểu số. Nói về

hình ảnh người phụ nữ, một trong những điều gây ra sự trăn trở cho tác giả dân

gian là nỗi lòng của người phụ nữ khi làm dâu. Không phải ngẫu nhiên tiếng hát

làm dâu là một trong những nét văn học tiêu biểu của dân tộc Mông. Chúng tôi

sẽ làm rõ vấn đề này ở phần sau.

* Tiểu kết chương 1

Qua việc nghiên cứu một cách tổng quan về điều kiện tự nhiên, xã hội, văn

hóa, phong tục và dân ca dân tộc Mông, chúng tôi nhận thấy dân ca Mông mang

nét đặc sắc riêng khác biệt với các dân tộc khác. Dân ca Mông chính là mảnh đất

chứa đựng nhiều tiềm năng cho công việc khám phá, kiếm tìm và sáng tạo. Môi

trường diễn xướng của dân ca Mông mang những hình thức diễn xướng của dân

27

ca nhưng lại có những độc đáo riêng biệt, cho thấy nét sinh hoạt văn hóa của

người Mông. Đó là sự phong phú về các giá trị văn hóa, là địa bàn cư trú với

những phong tục tâp quán, đời sống tinh thần của người dân tộc. Qua đó, ta biết

được những phong tục nào cần gìn giữ và phát huy, đồng thời loại bỏ những hủ

tục lạc hậu gây ảnh hưởng cho cộng đồng và xã hội.

Trong số các thể loại của văn học dân gian Mông, dân ca là thể loại đặc biệt

được người Mông yêu thích, sử dụng và lưu truyền. Dân ca Mông với sự phong

phú về số lượng và chủ đề tác phẩm đã phản ánh rõ nét con người và cuộc sống của

người Mông qua năm mảng đề chính. Và một hình ảnh thường xuyên xuất hiện và

chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca Mông là hình ảnh người phụ nữ. Trong dân ca,

người phụ nữ bộc lộ phẩm chất, khả năng, tình cảm cũng như cách thức phản

kháng cùng với những ước mơ, khát vọng của bản thân. Họ biết nhận ra cái bất lực,

cái tù túng của xã hội đang đè lên đôi vai họ, để rồi khao khát được tự do yêu

đương và kiếm tìm hạnh phúc chân chính.

28

CHƯƠNG 2

TIẾNG LÒNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM DÂU

TRONG DÂN CA MÔNG

Tiếng hát làm dâu phần lớn là những câu hát diễn tả những đau khổ uất ức

của người phụ nữ Mông trong xã hội xưa. Người phụ nữ hầu như không có

quyền sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, thể xác bị vùi dập, tình cảm bị trói

buộc. Họ chỉ biết dùng lời hát mà than thở, kể lể, kêu gào, nguyền rủa, tố cáo cái

xã hội đầy áp bức, bất công. Tiếng hát làm dâu còn cho thấy ý thức phản kháng

đã trỗi dậy cùng với nguyện vọng táo bạo muốn thoát khỏi ràng buộc của lễ giáo

phong kiến của người phụ nữ Mông. Người phụ nữ chịu trăm ngàn ách thép của

xã hội đè lên trên vai nên một thân phận cay đắng, sống thân trâu ngựa là không

tránh khỏi. Họ không có vị thế xã hội, vị thế trong gia đình và đặc biệt là vị thế

trong gia đình nhà chồng với thân phận như người ở, người làm thuê, họ phải

làm đủ mọi công việc lao động nặng nhọc nhưng nỗi vất vả và khổ cực ấy không

ai biết, không ai hay thậm chí còn bị cả xã hội thẳng tay đàn áp và vùi dập.

Trong dân ca Mông cũng như dân ca của một số dân tộc khác, hình ảnh người

phụ nữ bao giờ cũng chịu sự nhẫn nhục, cam chịu. Chắc chắn không phải vì

người phụ nữ không làm được những công việc như đàn ông mà họ bị định kiến

của xã hội đè nén. Những lễ giáo, luật tục khắt khe khiến người phụ nữ từ khi

sinh ra đến lúc trưởng thành cho tới khi nhắm mắt xuôi tay cũng không có quyền

làm chủ cuộc đời mình. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, ở

nhà phải theo cha “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, đến khi lấy chồng phải theo

chồng, khi chồng chết thì phải theo con. Với họ cuộc sống trong gia đình nhà

chồng như là sự ban ơn mà đời đời kiếp kiếp họ phải gồng mình gánh trả. Ảnh

hưởng của chế độ phụ quyền cùng tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn lối cô gái

Mông vào con đường hôn nhân bế tắc. Chính vì sự lẽ đó mà phụ nữ Mông

không có hạnh phúc trong tình yêu cũng như trong hôn nhân. Trong phạm vi của

luận văn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu số lượng tác phẩm thể hiện tiếng lòng

của người phụ nữ làm dâu trong dân ca Mông. Nhìn vào bảng khảo sát, chúng

tôi nhận thấy, người phụ nữ khi làm dâu đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, đó

là tâm trạng nhớ thương về gia đình, về thời thanh xuân tươi đẹp; đó là nỗi lòng

29

về thân phận làm dâu nhỏ bé và sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng;

đó là ước vọng được trở về với cuộc sống tự do và sự mạnh mẽ vượt lên số

phận. Tất cả những cung bậc cảm xúc đó đã thể hiện rất rõ trong dân ca dân tộc

Mông. [Phụ lục bảng 1]

2.1. Tâm trạng nhớ thương khi làm dâu

2.1.1. Nỗi nhớ về gia đình

Trong dân ca, những cô gái Mông luôn là người con chịu thương, chịu

khó, giúp đỡ cha mẹ làm việc nhà:

Gầu Mông

Dọn dẹp bát đũa rửa xong

Cầm luôn nắm lanh sợi cuốn lên khuỷu [19; tr. 212]

Công việc rửa bát, xe lanh, dệt vải, nội trợ… vốn đã trở nên thân quen

với phụ nữ Mông từ tấm bé. Công việc nhà khiến cô gái Mông “luôn tay luôn

chân”, vừa dọn dẹp, rửa xong bát đũa mà đã ngồi để xe lanh, xe sợi. Sợi lanh

như một vật biểu trưng cho sự chăm chỉ của cô gái Mông. Con gái ở nhà đảm

nhiệm công việc nội trợ nay con gái đã đi làm dâu nhà người thì:

Bố mẹ ở nhà sẽ mất đi cái chảo nước rửa chân

...Bố mẹ ở nhà sẽ mất đi cái chảo nước rửa tay [24; tr. 204]

Con gái ở nhà, mỗi sáng sớm đều xuống địu nước về cho cha mẹ thức dậy

rửa mặt, rửa chân tay. Những cô gái Mông hiếu thảo, đảm đang biết bao. Nhưng

năm nay đã khác, con gái đi lấy chồng, cha mẹ vắng đi người đảm nhiệm, quán

xuyến công việc nhà. Cô gái Mông hiện lên trong bài dân ca vô cùng chịu thương,

chịu khó; đồng thời thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó với cha mẹ.

Có lẽ vì tình cảm gắn bó sâu đậm ấy mà cô gái Mông sẽ khó tránh khỏi nỗi

nhớ gia đình, nhớ cha mẹ khi mới bước chân về nhà chồng, làm dâu xứ lạ. Đây

cũng là đặc điểm tâm lí chung của rất nhiều cô gái khi mới lập gia đình, chỉ khác là

cô gái Mông đã gửi gắm nỗi nhớ ấy vào dân ca. Mỗi lời ca, câu hát đều bộc lộ

những tâm sự trong cuộc sống hôn nhân mà người con gái giữ kín trong lòng.

Mưa phùn thấm mưa ngâu

Mưa ngâu thấm lên cây

30

Gầu Mông trầm ngâm làm con dâu đường xa

Chẳng biết tin bố mẹ ở nhà

Đã lâu có được khỏe không ? [18, tr. 102]

Ngoài trời mưa lâm thâm, cô gái Mông ngồi đó ngắm những hạt mưa rơi

cùng với nỗi nhớ cha mẹ với hàng vạn câu hỏi: không biết ở nhà cha mẹ có khỏe

không? Phải “làm dâu đường xa”, không có in tức gì ở nhà, cô gái trầm ngâm, suy

nghĩ với bao câu hỏi tự đặt ra. Bởi theo tập tục của người Mông, khi bước chân ra

khỏi nhà cha mẹ đẻ, người thiếu nữ lập tức trở thành người xa lạ, không còn bất cứ

mối liên quan gì tới gia đình. Sống hay chết, sướng hay khổ chẳng ai quan tâm:

“Chỉ khóc vì họ hàng thân thích/ Đem thân con gả quàng gả xiên/ Đến ở đất người

cách bao rừng gai/ Con đã đi đầy năm, không một bà con anh em thăm hỏi” [24, tr.

223]. Nếu cô dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ thì phải được sự cho phép của gia đình

nhà chồng và phải có chồng đi cùng nên họ rất ít khi được về thăm gia đình. Không

chỉ khắc khoải với nỗi nhớ nhung khôn xiết mà người phụ nữ Mông còn phải đối

mặt với nỗi cô đơn:

Gầu Mông là dâu đường xa

Chẳng có ai thân thích gần

Đành nhận người lạ

Làm nơi thăm hỏi

Đành nhận người xa

Làm nơi qua lại [18, tr. 103]

Về làm dâu một nơi xa lạ, không một người thân quen, một số cô dâu

Mông đành nhận “người lạ” làm “nơi thăm hỏi”, nhận “người xa” làm “nơi qua

lại”. Cuộc sống của cô gái Mông dường như bắt đầu lại từ đầu, lại làm quen với

mọi thứ: nơi ở, sinh hoạt và thậm chí là người thân. Có lẽ, vì thế, họ sẽ khó tránh

khỏi tâm trạng bâng khuâng, da diết khi nhớ về gia đình, nhớ về những người

thân yêu của mình:

Gầu Mông làm dâu đường dài

Vì không nội ngoại

Nên nhận ta làm người quen

31

Người không biết nghĩ bảo

Không biết có phải vì không nội ngoại

Hay vì miếng thịt bát cơm mình. [18; tr. 103]

Dường như nỗi lòng của cô gái không ai có thể thấu hiểu. Người con gái

muốn làm quen, muốn bắt đầu một cuộc sống mới nơi xứ lạ, vậy mà người trong

nhà lại không hiểu và tỏ thái độ nghi ngờ cô là trẻ mồ côi “không nội ngoại”,

không có nổi miếng cơm hàng ngày nên mới “nhận ta làm người quen”. Vừa

mới bước chân vào cuộc sống gia đình chồng mà cô gái đã phải chịu điều tiếng,

chịu những lời nói, ánh nhìn săm soi không chút thiện cảm. Qua đó, người nghe

có thể thấy được số phận làm dâu đầy cực nhọc của cô gái Mông. Rồi đây họ sẽ

phải đối mặt, phải ứng xử như thế nào trước những tình thế éo le như trên?

Bằng nét phác họa chân thật, giản dị mà hết sức gần gũi, thân thuộc,

những cô gái Mông đã diễn tả chân thực nỗi lòng của mình khi phải làm dâu ở

một gia đình xa lạ. Khi sống ở một nơi hoàn toàn xa lạ, con người ta không thể

không nhớ về nơi mình từng sinh ra, nơi gắn bó tình cảm với người thân yêu. Và

cô gái Mông cũng vậy, bước chân vào nhà chồng, mọi thứ với cô gái nhỏ còn

quá lạ lẫm, không người thân quen, không họ hàng và nỗi nhớ cha mẹ, gia đình

là điều không thể tránh khỏi.

2.1.2. Nỗi nhớ về thời thanh xuân tươi đẹp

Trong xã hội xưa, người phụ nữ Mông thường không được quyết định số

phận, cuộc đời mình, họ bị lệ thuộc vào gia đình, xã hội. Nỗi bất hạnh của họ là bị

tước bỏ quyền yêu và được chung sống cùng người mình yêu, bị xâm phạm và

chà đạp quyền tự do cá nhân của thiếu nữ Mông. Họ dám yêu nhưng lại không thể

thoát khỏi vòng vây ép duyên của gia đình, của hủ tục.

Em đang ở nhà, em không hề rõ

Nhà trai vác dù, vác ô lừng lững vào

Họ chẳng biết chôc để ô, mắc ngay vào cột gác

Thế là năm nay em phải đi làm dâu. [24, tr. 213]

Lễ giáo Mông xưa quy định, con gái sinh ra phải phục tùng cha mẹ: “cha

mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, yêu thương tự do là điều không thể có. Biết là vậy nên

32

người con gái đã dùng mọi cách để khỏi bị ép duyên. Bắt đầu từ khóc lóc, van

xin: “Mẹ ơi! Ăn, con không ăn, đi con chẳng đi”. Nhưng những lời cầu xin của cô

gái đều vô nghĩa, xin không nổi, van không xong, cô lại còn bị trận đòn thừa sống

thiếu chết: “Con không đi cha vác dao sả thịt”, “Mẹ cha nắm roi đồng quất con

vun vút – Đuổi con như chia rẽ gia đình”. Người con gái hoàn toàn bị phụ thuộc

vào gia đình và bắt buộc phải nghe theo sự sắp đặt của bố mẹ. Có thể nói, họ là

nạn nhân thảm khốc và đau thương của tục “cha mẹ đặt đâu ngồi đấy” mà đến giờ

có lẽ vẫn còn tồn tại trong một số bộ phận của tộc người Mông. Phần lớn cô gái

Mông bị ép gả từ rất sớm:

Bây giờ bà nuôi gầu lía lớn tới

Tôi mới bắt nó gả cho họ

Đem mổ làm đám cưới,

Bây giờ nuôi gầu lía lớn lên

Tôi mới bắt nó gả cho người

Đem thịt làm đám rượu. [20, tr. 150]

Con gái Mông khi lớn lên không có quyền được lựa chọn hạnh phúc của

mình, hoàn toàn dựa vào sự sắp xếp của cha mẹ, mặc cho cha mẹ “gả”, “làm đám

cưới”, phận làm con chỉ biết nghe theo. Tìm hiểu về tiếng hát làm dâu, chúng tôi

nhận thấy trong xã hội xưa địa vị người phụ nữ rất thấp kém, họ thường chịu thiệt

thòi trong mọi phương diện của đời sống, đặc biệt là trong hôn nhân. Họ là nạn

nhân của các lệ tục tục thách cưới nặng nề, cha mẹ gả bán sắp đặt:

Thân em như hoa trân trâu nở không nổi

Anh em chỉ vì tham đồ sính lễ của họ Giàng

Gả phăng giao bừa em qua rừng gai đến ở đất người [24; tr. 223]

Hình ảnh “rừng gai” là hình ảnh tượng trưng cho kiếp làm dâu cực khổ, xót

xa, chỉ có ngày đi chứ không có ngày trở về. Đã vậy lại không anh em họ hàng

đến thăm. Người con gái trở nên lạc lõng, cô đơn ở nhà chồng - nơi cô mới đến.

Cô gái chỉ biết khóc thương cho số phận hẩm hiu của mình. Người phụ nữ không

những bị ép duyên mà còn là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn:

Bé Mỷ đi làm vợ, còn trẻ thơ

Ngủ, mẹ còn phải gối đầu tay

33

Ăn, mẹ còn phải ăn một miếng nhả một miếng

…Đi, bố còn phải cõng trên lưng. [24; tr. 202]

Một cô bé vẫn còn là đứa trẻ thơ dại, ăn ngủ vẫn phải nhờ đến bàn tay

chăm sóc của cha mẹ vậy mà giờ đây đã phải đi làm dâu, làm vợ. Người con gái

chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì đã phải chịu cảnh làm dâu trăm điều canh

đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc, non nớt ấy. Bé

Mỷ trong bài dân ca đại diện cho hàng ngàn, hàng vạn em gái Mông lúc bấy giờ.

Rồi cảnh “gái lớn lấy chồng bé” cũng được dân ca Mông khắc họa rõ nét:

Con cun cút mái vẫy đuôi,

con cun cút non cứ đỗ trên cành.

Gái lớn lấy chồng bé,

chồng bé phụ lòng em xe sợi tước đay. [24, tr. 272]

Vì lấy phải người chồng nhỏ tuổi nên người phụ nữ phải gánh vác tất cả

công việc gia đình, còn người chồng chỉ đóng vai trò phụ giúp vợ. Làm vợ trong

hoàn cảnh này chẳng khác chi làm “bảo mẫu” phải dỗ dành thậm chí là cõng

chồng đi chơi, như ca dao người Kinh đã mỉa mai sâu cay:

Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Không chỉ có ca dao, dân ca, những bài hát đồng dao về cảnh “gái lớn lấy

chồng bé” đã tạo nên tiếng cười cho độc giả. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy lại là

nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận người phụ nữ, là tiếng nói đanh thép tố cáo nạn

tảo hôn trong xã hội xưa. Sự ép duyên này được cả gia đình, dòng họ ủng hộ.

Anh họ đứng phắt dậy cầm tay lôi

Em họ đứng phắt lên nắm tay kéo

Kéo phăng ra ngoài cửa

Em nước mắt như mưa sấm mưa gió lã chã ứa [24, tr. 61]

“Anh họ”, “em họ” là những người thân trong gia đình, chủ động, quyết liệt

“cầm tay lôi”, “nắm tay kéo” cô gái Mông nhỏ bé không thể tự vệ. Dù cho “nước

mắt như mưa sấm mưa gió lã chã ứa”, nước mắt lã chã kêu khóc ai oán thì vẫn cố

ý đẩy người em mình vào tay người xa lạ, gây ra một thảm cảnh vô hình với chuỗi

34

ngày đau khổ đang chờ đợi cô gái ở phía trước. Đồng bào Mông có quan niệm và

kiêng kị dành cho con dâu mà đến nay vẫn còn tồn tại. Nếu là con gái trong nhà

thì được tự do đi lại và ăn uống không phải giữ ý. Còn con dâu thì không được

ngồi ăn cùng mâm với cả gia đình, đặc biệt là với bố chồng với anh chồng, họ

đóng vai trò như người ở, người làm trong nhà bị hắt hủi, coi thường. Những cuộc

trao đổi, thách cưới đều do cha mẹ hai bên và ông mối thống nhất.

Những cuộc hôn nhân gả ép chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bi kịch

cho người phụ nữ. Một tâm lí chung của con người, khi thực tại bé tắc, đau khổ

thì thường nghĩ tới quá khứ vui tươi, hạnh phúc. Phụ nữ Mông cũng vây, họ nhớ

về thời thanh xuân tươi đẹp với những mối tình lãng mạn, tự do: “Gầu Mông nói

đrâu Mông/ Hai ta chung nhịp thở/ Nếu buộc phải chết đi/ Nên chôn cùng một

mộ” [18; tr. 129]. Đôi lứa yêu nhau đến từng nhịp thở, thậm chí khi chết đi họ

nguyện chết cùng nhau, chôn cùng một mộ, cùng một quan tài. Tình yêu của họ

thật đáng ngưỡng mộ. Trong tình yêu, người con gái Mông lúc nào cũng hiện lên

với trái tim son sắt, thủy chung, họ nguyện làm “Con gái son chờ đợi anh” [20; tr.

208]. Mặc dù yêu thiết tha, say đắm nhưng phần lớn phụ nữ Mông đều không lấy

được người mình yêu do cha mẹ không ưng, do hoàn cảnh trái ngang… Những

cuộc hôn nhân sắp đặt, gượng ép cùng với phận làm dâu đầy nhọc nhằn, vất vả,

lấy chồng mà vẫn phải thui thủi một mình, cô nhớ về mối tình xưa:

Hai ta yêu nhau không lấy được

Kể ra ngày ấy

Em thôi không cầm tay ôm lưng anh

Chẳng nằm dựa nhau trong giấc lành

Ngày mai anh dạo bước về

Để em nhớ anh không biết bao tháng năm mới mờ

Chẳng nằm dựa nhau trong giấc hay

Mai ngày anh dạo bước đi

Cho em nhớ anh

Chẳng biết bao tháng năm mới phai [19, tr. 162]

35

Yêu nhau không đến được với nhau, để rồi khi đã là dâu nhà người cô gái

Mông nhớ về người tình cũ với những cái ôm mặn nồng, cái nắm tay thắm thiết.

Tuy nhiên, tất cả chỉ dừng lại nỗi nhớ nhung, người con gái không thể làm gì để

khắc phục hoàn cảnh thực tại. Qua đó, ta thấy được nỗi đau của những người

phụ nữ - những nạn nhân của hủ tục phong kiến lạc hậu: tảo hôn, cưỡng hôn,…

Còn nỗi đau nào thấm thía hơn, chua xót hơn khi yêu mà không được bên cạnh

người mình yêu thương:

Ve ơi!

Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật nhớ

Tim ta buồn như cây lanh bị người sắp chặt

…Lòng ta đau như cây lanh bị người ta sắp cắt [24, tr. 114]

Nàng đã làm dâu nhà người nhưng vẫn không quên được mối tình nồng

mặn khi xưa với chàng học trò. Được ve mang điếu thuốc chàng gửi làm vật

thương mà lòng nàng càng thêm đau đớn “buồn như cây lanh bị người sắp

chặt”, phần vì nuối tiếc, luyến lưu tình xưa nghĩa cũ, phần vì chua xót cho cảnh

đời thực tại. Giờ đây, người con gái chỉ còn biết khuyên chàng hãy đi tìm người

yêu mới – chúc phúc cho người mình yêu. Cô gái Mông nhớ về những kỉ vật mà

mình đã từng tặng chàng:

Gầu mông rằng cái gì em cũng chẳng có

Em chỉ có chiếc khăn nhiễu tặng anh [20; tr. 160]

Hay:

Em hãy tặng ta chiếc dây lưng lanh để làm vật ghi nhớ tình anh

Chiếc dây lưng lanh thêu hoa hình con ốc

Sợi to sợi nhỏ đều do bàn tay em xe.[24; tr. 51]

“Khăn nhiễu”, “dây lưng lanh” là những vật dụng được thêu hoa rất cầu kì,

tỉ mỉ. Để thêu được những vật này, người phụ nữ Mông phải mất rất nhiều thời

gian, công sức. Đối với người Mông những vật này được làm để dùng chứ ít khi

đem trao đổi mua bán. Người được tặng thường gìn giữ nó rất cẩn thận bởi đây là

biểu tượng thiêng liêng cho tình yêu nam nữ Mông, một thứ đồ vật quý vừa có giá

trị vật chất vừa có giá trị tinh thần. Nó là vật chứng cho tình yêu thủy chung, son 36

sắt, là nhân chứng cho tình yêu nam nữ. Nhận được kỉ vật người con gái trao tặng

cũng là sự ràng buộc vô hình giữa hai tâm hồn. Nhưng giờ đây, tất cả mọi thứ đã

trở nên vô nghĩa khi cô gái đã đi lấy chồng, sự ràng buộc đó đã không còn nữa và

lời thề nguyền trước đây cũng không còn:

Anh cứ cắt ngón tay

Em sẽ cắt ngón chân

Đem pha cùng một bình

Uống để cho chứng minh

Đẹp lạ một mối tình! [18; tr. 128]

“Cắt máu ăn thề” là một cách để chứng minh lời thề chung thủy, thành thực

của đôi trai gái trong tình yêu. Đó là cách thức biểu hiện một tâm trạng, một tính cách

người Mông thật mạnh mẽ, dứt khoát. Tình yêu của họ thật đẹp khi hai người cùng

ước nguyện một lòng, cùng nhau chứng minh một tình yêu đẹp. Trong truyện thơ

dân gian “Nàng Dợ - Chà Tăng”, đã từng vào rừng cắt máu ngón tay pha rượu cùng

uống để ước nguyện chung sống bên nhau trọn đời. Đây là một cách chứng minh lời

thề được coi là mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất và đã được đôi trai gái trong dân ca

Mông sử dụng để chứng tỏ tình yêu. Nhưng đến cuối cùng đôi trai gái yêu nhau vẫn

không thể chiến thắng được những định kiến của xã hội, người con gái phải đi lấy

chồng và họ phải rời xa nhau.

Người con gái khi đã làm dâu nhà người, chỉ biết ngồi đó nhớ về những kỉ

niệm, những kỉ vật và lời thề với chàng trai mình yêu. Vẫn biết rằng, điều mà con

người mong mỏi nói lên nhiều nhất là những tình cảm, những ước mơ lành mạnh,

một tình yêu chân thành, một gia đình hạnh phúc... Nhưng không phải ai cũng đạt

được ước mơ đó, đặc biệt là người cô gái Mông. Tiếng hát làm dâu của những

người phụ nữ dân tộc Mông còn chất chứa rất nhiều đắng cay, chua xót, nó thấm

đẫm trong những lời dân ca của người xưa, chất chứa những ân tình, đậm đà giá

tri ̣nhân văn.

2.2. Sự phiền muộn trong phận làm dâu

Chấp nhận những cuộc hôn nhân ép buộc, về làm dâu ở một gia đình xa lạ

chịu bao đắng cay, tủi nhục…khi đó người phụ nữ Mông thường buông lời thở 37

than, trách móc qua lời ca, tiếng hát. Viết về tiếng hát làm dâu trong dân ca dân

tộc Mông, ta thấy phổ biến nhiều hơn cả là những bài hát viết về nỗi phiền

muộn, sự thở than, trách móc của người phụ nữ Mông khi phải làm dâu. Ở đây

người phụ nữ có thể giãi bày, tâm sự mọi cung bậc cảm xúc cũng như nỗi lòng

của mình: “Xã hội dân tộc Mèo ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị

người phụ nữ rất thấp kém. Những nạn tảo hôn, cưỡng hôn, những cảnh làm

dâu bị đầy đoạ như trâu ngựa. Suốt đời người phụ nữ bị buộc chết vào nhà

chồng. Người phụ nữ vô cùng đau khổ, hầu như không còn quyền sống. Tình

cảm họ bị chà đạp, thể xác bị dập vùi, họ chỉ còn biết dùng lời hát mà kể lể, thở

than cho cảnh ngộ đau thương oan trái của mình” [23; tr. 12]. Trong những bài

dân ca về tiếng hát làm dâu, người phụ nữ Mông thể hiện rõ nỗi lòng của mình,

đó là nỗi buồn bị gả ép, nỗi phiền muộn về thân phận làm dâu nhỏ bé và nỗi thất

vọng cùng sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng.

2.2.1. Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé

Khi tìm được bến đỗ, cứ ngỡ hạnh phúc sẽ mỉm cười với người phụ nữ,

nhưng lại phải đối mặt với vô vàn điều ngang trái, bất công và nhiều hủ tục kèm

theo. Vì xây dựng gia đình sớm nên người phụ nữ phải nhanh chóng có con và

phải làm nhiều công việc nhà nên rất vất vả. Nếu người phụ nữ có chửa phải

kiêng không được đi xa nhà, không được ăn thức ăn mà dòng họ kiêng kị, kiêng

bước qua dây buộc ngựa, bước qua suối. Chính vì những luật tục, những điều

bất công mà người con gái khi về nhà chồng phải chịu đựng nên đã có rất nhiều

câu chuyện làm dâu. Hầu hết chúng được kể, được hát và lưu truyền qua dân ca,

dân ca. Mặc dù có rất nhiều câu chuyện xoay quanh con đường làm dâu của

người phụ nữ Mông nhưng chúng đều có một điểm chung là những người phụ

nữ đều có một tâm trạng chung, một nỗi khổ chung và cùng chịu một chế độ áp

bức chung. Có lẽ vì thế khi nhắc đến hai chữ “làm dâu” là người ta đã nghĩ ngay

đến sự vất vả, khổ cực mà người con gái phải chịu khi về nhà chồng. Và những

cô gái Mông cũng vậy, họ đã ý thức được thân phận làm dâu đầy tủi cực của

mình. Họ ý thức được rằng, con đường làm dâu không phải là con đường rộng

38

mở, hạnh phúc thênh thang mà thay vào đó là con đường tăm tối chật hẹp như

“ống đũa”, “ống tre”:

Đrâu Mông rằng gầu Mông

Đường làm dâu con đường như ống đũa

Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,

Đường làm dâu con đường như ống tre

Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [19, tr. 128]

Hay:

Con đường làm dâu gầu Mông

Như là tre mọc đan chéo

Như là cây mọc đan xen. [19; tr. 122]

Bài ca ví con đường làm dâu sẽ đầy nước mắt, cuộc đời bị bó hẹp, tăm tối

như “ống đũa”, “ống tre”. Hình ảnh cái cây trong bài ca được diễn tả một cách

không bình thường. Thông thường cây phải mọc thẳng vậy mà ở đây lại mọc

chéo, mọc đan xen nhau ám chỉ cuộc sống làm dâu sẽ không bằng phẳng. Con

đường làm dâu của cô gái Mông trong bài hát cứ giằng co, rậm rạp như “tre mọc

đan chéo”, như “cây mọc đan xen”. Cây cối tầng tầng lớp lớp đan vào nhau tạo

nên một bức tranh hỗn độn. Câu hát còn thể hiện nỗi niềm hoang mang, rối bời

của người hát, tâm trạng lo lắng và sợ sệt. Những khúc mắc cứ chồng lên nhau,

chằng chịt và vô phương gỡ nổi. Người phụ nữ Mông than thở về phận làm dâu

đầy oan trái, bất công. Rồi đây, họ phải đối mặt với muôn vàn đắng cay, nỗi khổ

này ai thấu và họ chỉ biết gửi gắm vào những bài hát dân ca để giãi bày, tâm sự.

Làm dâu là con đường của kiếp người hèn mọn và thấp bé, không quyền lợi,

không tiếng nói và phụ thuộc hoàn toàn vào chồng và cha mẹ chồng một cách

tuyệt đối. Bài ca đại diện cho số đông những thân phận đang hàng ngày hàng giờ

làm ống đũa, ống tre cho nhà chồng, rồi nhận lại là những giọt nước mắt. Và

như đoán trước được tương lai mịt mờ nên hành trình về nhà chồng của cô gái

Mông cũng hết sức gian nan:

39

Gầu Mông leo hết đèo

Mưa phùn mưa lớt phớt

Đôi mối cho ăn trưa

Gầu Mông nước mắt trào

Gầu Mông vượt hết núi [18, tr. 99]

Bài ca nói về đám cưới người Mông trên đường đi rước dâu bao giờ cũng

có một bữa phụ gọi là ăn trưa, để cúng khấn thần linh phù hộ cô dâu, cũng để cô

dâu thay đồ mặc mới trước khi bước vào nhà chồng. Biết được con đường phía

trước đầy vất vả, khó khăn vậy mà cô dâu vẫn phải vượt qua đèo, qua núi và

những giọt nước mắt lăn trên má người thiếu nữ. Cô gái phải kìm chế, nín nhịn

để đi tới nhà chồng. Vậy mà khi đến nhà chú rể thì:

Gầu Mông đi đến nhà chú rể

Người ta có nơi đứng

Gầu Mông không chỗ đứng

Buồn bã cạnh cửa chính

Lòng ruột lá gan như bị dính.

Gầu Mông đi đến nhà chú rể

Người ta có nơi nghỉ

Gầu Mông không chỗ nghỉ

Buồn tênh cạnh cửa phụ

Lòng ruột lá gan như bị nổ. [18, tr. 109]

Mệt mỏi vì phải đi một chặng đường dài, vậy mà khi đến nhà chồng cô dâu

không có một chỗ đứng, một chỗ nghỉ ngơi khiến cô gái Mông buồn bã và vô cùng

tức giận, trong lòng như lửa đốt. Mặc dù tức giận nhưng người con gái không thể

làm gì chỉ biết đứng cạnh cửa chính. Dường như, sự xuất hiện của cô dâu như thừa

ra, không được quan tâm, chú ý. Nói về nỗi khổ của người phụ nữ Mông khi làm

dâu đều bắt nguồn từ mối quan hệ với chồng, với gia đình chồng. Nếu như ca dao,

dân ca của các dân tộc khác ví số phận người phụ nữ như “hạt mưa sa”, “hạt mưa

rào” (ca dao Việt) hay chỉ bằng “thân con bọ ngựa” (ca dao Thái) thì trong dân ca

Mông thân phận người phụ nữ được ví như là hoa phong lan, hoa dại trên rừng 40

hoặc như cây lanh. Họ đem lại hương sắc cho núi cho rừng nhưng mong manh

trước song gió cuộc đời, hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác:

Hạt lanh ruộng tra vào đám nương hạt lanh mới nát

Em lấy phải người chồng không xứng đôi. [24, tr. 151]

Theo kinh nghiệm trồng lanh của người Mông, nếu trồng lanh để lấy sợi

dệt vải người ta gieo hạt lanh vào nơi đất tương đối bằng phẳng (lanh ruộng).

Nhưng nếu trồng lanh để lấy hạt giống cho vụ sau thì người ta thường gieo lanh

trên các nương dốc với mật độ gieo hạt lanh thưa hơn để lanh to phát triển nhiều

cành ra hoa kết trái cho nhiều hạt lanh vì thế “lanh ruộng tra vào đám nương”

có nghĩa là việc làm không hợp lí, chắc chắn kết quả không thu hoạch sẽ không

như ý muốn. Cũng như cô gái Mông bị gả vào không đúng nơi đúng chỗ, lấy

phải chồng không xứng đôi vừa lứa thì cuộc sống phải chịu nhiều khổ đau, bất

hạnh. Đây cũng là cách nói rất hình ảnh, rất gần gũi với người Mông nên nó vừa

dễ hiểu, vừa thấm thía sâu sắc.

Lấy chồng và làm dâu là con đường đi không bằng phẳng với bất cứ người

phụ nữ ở dân tộc và quốc gia nào. Với nhiều hủ tục lạc hậu, người phụ nữ Mông

sống trong hôn nhân với nỗi tủi nhục và khổ cực. Phần lớn phụ nữ Mông khi bước

vào cuộc sống hôn nhân đều tự nhận thấy khổ đau chồng chất cùng với nỗi thất

vọng tràn trề. Trên con đường nhiều gập ghềnh, nhiều chông gai và những ngã rẽ

không ngờ ấy, dường như người phụ nữ đã ý thức được số mệnh của bản thân. Vì

là những cuộc hôn nhân gả ép, cưỡng hôn nên người phụ nữ càng rơi vào tuyệt

vọng, hạnh phúc của bản thân mà không được quyền lựa chọn. Nỗi đau ấy ai có thể

thấu hiểu và càng không thể giãi bày cùng ai, họ chỉ biết gửi gắm nỗi lòng mình

vào dân ca để khi tuyệt vọng và buồn tủi nhất, họ cất lên tiếng hát như thể một thứ

thuốc tinh thần, xoa dịu mọi cơn đau trong lòng. Và dường như chỉ có dân ca mới

giúp họ giải tỏa được nỗi lo trong lòng, đồng thời cũng để người đời sau hiểu được

nỗi lòng của người phụ nữ Mông khi đã lập gia đình.

2.2.2. Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng

Có được một gia đình hạnh phúc là ước mong lớn nhất của mỗi người phụ

nữ. Và có hạnh phúc hay không thì lại phụ thuộc rất nhiều vào người chồng. Bài 41

ca là lời than thân của cô gái lấy phải người chồng không xứng đôi vừa lứa,

không biết trân trọng giá trị người phụ nữ. Kết quả của những cuộc hôn nhân bị

gả ép là cuộc sống gia đình không hạnh phúc dù rằng người phụ nữ đã cố gắng

làm mọi thứ cho gia đình chồng:

Thằng chồng ác, chân đá tay đánh

Thân con chẳng khác con trâu đám nhà người [24, tr. 276]

Cảnh ngộ cô gái Mông thật đáng thương, lấy phải thằng chồng vũ phu, tàn

nhẫn. Tại sao người phụ nữ lại cất lên tiếng than đầy ai oán, chua xót cho thân phận

làm dâu của mình? Chắc chắn có lý do của nó. Họ lấy chồng mà lại trở thành một

thứ công cụ lao động đa năng. Bước chân về nhà chồng, người con dâu bắt đầu

guồng công việc mới, nhiều hơn, nặng nhọc hơn và vất vả hơn so với thời còn là

“con gái son của bố mẹ”:

Vừa mới cất bước tới nhà chồng

Gầu Mông đã đi địu nước ngay

Địu về chưa tới chân tường nhà

Đã nghe nhà chồng chửi la cà.

Vừa mới cất bước tới nhà chồng

Gánh về chưa đến gần chân vách

Đã nghe nhà chồng to nhỏ trách. [18, tr. 94]

Bố mẹ chồng không nghĩ con dâu đi “địu nước”, “gánh nước” mà là đi chơi

“la cà” nên không tiếc lời trách móc. Hết lòng chăm sóc cho gia đình nhà chồng

nhưng người con dâu luôn bị nghi ngờ, nghĩ xấu, không một ai tin tưởng. Đã

vậy, người phụ nữ luôn bị mẹ chồng tìm cớ để buông lời cay nghiệt, độc đoán.

Người mẹ chồng chính là nỗi ám ảnh của biết bao nàng dâu, và là nguồn căn nỗi

thống khổ:

Nước đun chưa kịp sôi

Nếm thử tí một ở đầu môi

Bố mẹ chồng rằng gầu Mông

Ăn hết cả tạ cả sinh ngô

Nếm thử tí một ở đầu răng 42

Bố mẹ chồng rằng gầu Mông

Ăn sạch cả tạ cả yến gạo [19, tr. 122]

Nàng dâu bỗng biến thành kẻ có tội, tham lam và xấu tính trong gia đình

bởi sự thổi phồng, thêu dệt của mẹ chồng. Nấu cơm mà không thử thì khác gì

người mù vẽ tranh, đâu biết đậm nhạt, đường nét ra sao. Vậy mà, cái tất nhiên là

trở thành cái cớ ngẫu nhiên cho lòng dạ độc ác. Sống giữa dối trá và oan ức,

người phụ nữ chỉ biết kêu than qua những câu hát trong dân ca. Tiếng hát đau

thương không chỉ dành để ca thán, đó còn là lời tố cáo đanh thép giáng vào chế

độ phụ quyền, coi thường phụ nữ mà đặc biệt là người con dâu. Tiếng hát làm

dâu đã phản ánh mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu hết sức tồi tệ, mọi cử chỉ,

hành động của con dâu luôn bị mẹ chồng theo dõi, bất cứ việc làm nào của con

dâu cũng không làm bà mẹ chồng hài lòng:

Gầu Mông về sát bờ rào

Bà nhà Mông lạ dùng tiếng Di tiếng Hán gào

Gầu Mông về sát bờ dậu

Bà nhà Mông là dùng tiếng Di tiếng Hán rủa. [20,tr. 188]

Người phụ nữ không chỉ chịu nhiếc móc, chửi rủa của mẹ chồng mà còn

chịu sự ghẻ lạnh của anh em và cả gia đình chồng:

Em bé mắng con không biết công việc không đáng chị dâu

Anh lớn nhiếc con vụng về làm ăn, không đáng em dâu. [24, tr. 261]

Hay:

Sợ hãi anh em nhà người ta, mặt em tái xám

Sợ hãi anh em nhà người ta, mặt em tái xanh. [24, tr. 279]

Cuộc đời của phụ nữ Mông xưa ở nhà chồng là một vòng tròn khép kín

phủ màu u tối. Họ cứ thế, loanh quanh, ngổn ngang trong cái đường vòng ấy mà

cũng đủ bận rộn, tất bật. Ranh giới rõ ràng nhưng cũng rất mong manh, họ

không được phép ngơi nghỉ. Đáp lại sự cần cù, chịu khó của người con dâu

Mông là thái độ lãnh cảm, khinh miệt và tàn ác của mẹ chồng cùng gia đình nhà

chồng. Đối với người con dâu, ở đâu có mẹ chồng là ở đó sẽ có tiếng chửi rủa.

Bất cứ việc gì nàng dâu làm đều khiến mẹ chồng khó chịu, không vừa ý. Đối 43

mặt với những ràng buộc và áp bức từ nhiều phía đặc biệt là gia đình chồng, phụ

nữ Mông nhận định và đánh giá được mức độ bất công mà mình đang phải gánh

chịu, biết được độ nông sâu của tầng tầng lớp lớp hủ tục và định kiến đang đè

nặng lên đôi vai chính mình.

Khi làm dâu, người phụ nữ Mông quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công

việc: “làm chín ngày mười thời gian”, chỉ có mùa làm chứ không có mùa nghỉ.

Hết việc nhà đến việc nương rẫy, rảnh rỗi lúc nào lại xe lanh dệt sợi. Đọc những

bài dân ca, dường như có sự đồng nhất giữa thân phận người con gái vô danh

với cô gái tên Mị của Tô Hoài trong văn học hiện đại. Cuộc sống gần như vô

nghĩa. Tâm hồn người phụ nữ bị héo mòn, chai sạn “lùi lũi như con rùa nuôi

trong xó cửa”. Thân trâu ngựa làm việc còn có lúc được nghỉ, đằng này, sáng

sớm tinh mơ khi sao trời vẫn còn lấp lánh, rồi cả khi lạnh buốt đến nát gan, nát

tim nhưng người phụ nữ vẫn phải trở dậy đi địu nước dưới suối cho mọi người

rửa mặt, rửa chân tay khi ngủ dậy. Đến cả bữa ăn cũng không được tử tế:

Gầu Mông ăn sáng ăn chả ngon

Đưa thìa vục luôn tận đáy soong,

Gầu Mông ăn trưa ăn chẳng trôi

Đưa thịt vục luôn tít đáy nồi [20, tr. 186]

Thông thường, khi con người ta lao động vất vả, nặng nhọc thì phải được

ăn nhiều, ăn ngon ăn một cách thảnh thơi, chậm rãi vì đây là lúc được nghỉ ngơi,

thoải mái vậy mà cô dâu Mông lại phải ăn nhanh ăn vội, cơm ăn không ngon

nuốt không trôi, phải “đưa thìa vục luôn tận đáy soong”, “đưa thịt vục luôn tít

đáy nồi”. Trước hoàn cảnh đó, người phụ nữ Mông không thể làm gì ngoài sự

nhẫn nhục, cam chịu. Có lẽ vì sống lâu trong cái khổ nên họ đã quen khổ rồi.

Mặc dù sống khổ cực và làm lụng vất vả nhưng họ vẫn không được coi trọng mà

đáp lại luôn là sự coi thường và bị đối xử không khác gì người ở trong nhà thậm

chí như con trâu, con ngựa:

Người ta ăn xong bát đũa vứt lại

Một mình gầu Mông khác đem rửa sạch

Người ta ăn xong bát đũa vứt sau

44

Một mình gầu Mông khác đem chùi lau. [20, tr. 188]

Dọn cơm lên, nàng chưa kịp ngồi vào mâm mọi người đã ăn xong, phần

tiếp theo là phải một tay lau chùi, dọn dẹp. Người phụ nữ thành một thứ công

cụ, một thứ đồ vật trong cuộc sống nhà chồng. Sống cảnh đời cơ cực, phụ nữ

Mông chắc hẳn cũng không muốn bưng bát cơm “chan đầy nước mắt” nhưng

nghĩ đến sự sống, giữ gìn hòa khí trong gia đình nên đã cố gắng cam chịu, nhẫn

nhục. Có lẽ sống mãi trong cái khổ thành quen, người ta chán cũng chẳng buồn

chết nữa. Ta thấy người phụ nữ phải đơn độc đối diện với sự ghẻ lạnh của bố mẹ

chồng, gia đình chồng mà không xuất hiện hoặc rất mờ nhạt hình bóng người

chồng - người đàn ông đáng lẽ phải là chỗ dựa tin cậy của đời họ.

Phụ nữ Mông đã hi sinh tất cả cho gia đình nhà chồng để nhận lấy một sự

vô ơn, phụ bạc phũ phàng. Lúc ốm đau chỉ có một thân một mình, không ai ngó

ngàng hỏi han. Đã cơ cực lại muôn phần tủi hờn, những dòng nước mắt tủi hờn

thấm đẫm trong dân ca:

Nàng ốm lăn trên giường dưới đất

Nàng ốm vật dưới bếp trên nhà

Mẹ chồng không nhìn

Người chồng không ngó

Thân thể như đau nhừ

Đầu óc nàng nhức nhối. [24; tr. 265]

Có lẽ nếu con ngựa, con trâu trong nhà ốm đau người ta còn chăm sóc,

cứu chữa vì tiếc của. Còn người phụ nữ kia có ai thừa nhận vai trò của họ, chết

vợ này ta lấy vợ khác chăng? Người phụ nữ đã bị chà đạp một cách thảm hại cả

thể xác lẫn tâm hồn. Thậm chí, cả lúc chết đi rồi người chồng vẫn thản nhiên

như không. Nghe tiếng khèn đám ma vợ mình mà chồng cứ nghĩ là tiếng cành

nứa đua nhau gãy, thi nhau rơi. Vậy thử hỏi tình nghĩa vợ chồng ở đâu? Chắc

hẳn đến đây chúng ta đã hiểu vì sao người con gái phải cất lên tiếng khóc ai oán:

phận làm dâu mà “thân khác gì trâu măn đeo ách”. Người ta khi nào bị đi tù thì

mới phải đeo gông. Con trâu khi kéo kéo xe, kéo cày nặng nhọc thì phải đeo

ách… Càng cho thấy những phũ phàng, đau đớn của cánh làm dâu: bị trói buộc 45

từ nhiều phía. Số phận nghiệt ngã, họ đã vùng dạy để trốn chạy. Ai ngờ trốn

không nổi mà thêm vào đó là họ nhận được trận đòn thừa sống thiếu chết:

Người ta bắt được trói chị bằng dây thừng

Đánh chị ba trăm sáu mươi lăm gậy

Chị chạy tháo thân. [24; tr. 227]

Vì bỏ trốn mà những cô gái trong bài dân ca bị trói bằng sợi dây thừng,

dây mây, bị đánh đến “ba trăm sáu mươi lăm gậy”, những vết gậy, vết roi in hằn

trên cơ thể. Cô gái Mông không chỉ chịu những nỗi đau về mặt tinh thần mà còn

phải chịu nỗi đau về thể xác. Họ sống mà như chết, sống không có hạnh phúc,

hạnh phũ là hư vô, là ảo ảnh, là thứ quá xa xỉ đối với những người phụ nữ

Mông. Bất an vô định, người phụ nữ gửi trọn những đau đớn ấy vào câu dân ca,

đó là “tiếng hát làm dâu”, làm thành chất bi có tính đặc trưng cho những bài hát

than thân. Bên cạnh đó, nói tới bi kịch hôn nhân của người phụ nữ Mông không

thể không nhắc tới tục “nối dây” khắc nghiệt. Tục nối dây của người Mông:

người con gái đã về làm dâu tức là được nhập ma nhà người. Chồng chết thì

phải lấy anh, em trong họ. Nếu như không có người để lấy thì phải ở vậy suốt ba

năm rồi lúc đó mới được đi lấy chồng khác. Khi đó nhà chồng sẽ là người đặt và

thu tiền thách, tiền cheo. Mà “Ba năm trực tiết còn gì là xuân”. Số mệnh người

phụ nữ khi xuất giá đã an bài trong bàn tay nhà chồng. Sống thì làm trâu làm

ngựa phục vụ nhà chồng, có chết cũng làm ma nhà chồng, không gì cứu vãn.

Bức tranh làm dâu đầy tửi cực của người phụ nữ Mông hiện lên sống

động, biết bao cảnh đời cơ cực, khốn khổ vì bị ép duyên, ép phận. Số phận long

đong, “bảy nổi ba chìm” không nơi nương tựa, lênh đênh, trôi nổi, không hướng

đi trong chính cuộc đời mình, người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, áp đặt vào

gia đình chồng. Có thể coi nó như cái “nợ truyền kiếp” mà những người phụ nữ

phải chấp nhận để rồi chỉ biết cất lên những tiếng than ai oán cho số phận hẩm

hiu của đời người con gái.

2.3. Ước vọng của người phụ nữ khi làm dâu

2.3.1. Ước vọng trở về với cuộc sống tự do

Điều đáng trân trọng và ngợi ca ở người phụ nữ Mông chính là ý chí kiên

cường và một tinh thần mạnh mẽ không gì khuất phục. Trước những bất công và

46

oan trái đến cùng cực, họ không ngậm ngùi nuốt giọt nước mắt để êm cửa êm

nhà, trái lại họ đứng lên để giành “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu

hạnh phúc”. Cuộc đấu tranh diễn ra dữ dội ở nhiều cấp độ và đa phần người phụ

nữ luôn giành lấy quyền quyết định số phận vào tay mình. Ta nhận thấy người

phụ nữ Mông đi làm dâu nhưng thực chất là đi làm mướn, ở đợ nhưng ảm đạm

thay lại “mướn không công” và “tức nước vỡ bờ” – quy luật của tự nhiên và

cũng là quy luật của xã hội. Sự mạnh mẽ quyết liệt của người phụ nữ Mông đã

được thể hiện qua dân ca từ ngàn đời xưa:

Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi tới nói cho bõ thật chân,

Buông thật tay

Tôi sẽ theo chân họ nhà tôi, tôi đi

…Lúc ấy tôi sẽ vỗ tay nhảy

Vui mừng như người đi làm ăn. [24, tr. 222]

Người con dâu đã thẳng thừng chống đối mãnh liệt với mẹ chồng để đòi

tự do, được thoát khỏi cảnh làm dâu ở gia đình đầy cay nghiệt. Cô thẳng thắn

bày tỏ quan điểm muốn chấm dứt cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Khi ấy cô sẽ

đi thẳng, sẽ “vỗ tay nhảy”, không lưu luyến, hối tiếc, thậm chí còn khoan khoái

vui mừng “như người đi làm ăn”. Những câu dân ca trên quả là rất hiếm gặp

trong những câu dân ca, ca dao xưa, đặc biệt đối với các dân tộc anh em. Thông

thường, vì sợ điều tiếng, sợ mang vết nhơ cả đời nên hiếm người con gái nào

dám chủ động đề xuất cuộc chia cắt này. Vậy mà người phụ nữ Mông trong bài

dân ca lại bộc trực, thẳng thắn và tự tin đến lạ. Ở họ vừa có sự liều lĩnh, táo bạo,

vừa có sự ham sống và yêu đời đáng ngưỡng mộ. Dường như ở họ thấm đẫm

chất Mông, bản lĩnh Mông, tính cách Mông mạnh mẽ, thẳng thắn, yêu ghét rạch

ròi…mà không phải dân tộc nào cũng có được. Phải chăng hoàn cảnh sống khắc

nghiệt, quanh năm mây mù bao phủ và thường xuyên phải đối mặt với núi đá

cheo leo đã tôi luyện bản lĩnh mạnh mẽ của những cô gái Mông.

Trong gia đình người Mông, nếu vợ chồng xảy ra bất hòa, thì thông

thường con dâu không được phép trở về nhà bố mẹ đẻ mà chỉ được lánh sang

hàng xóm ở tạm. Nếu con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng 47

và được chồng đưa về tận nhà mới được coi là hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người

đàn bà không được trở về sống với bố mẹ đẻ mà đến ở nhờ nhà chức dịch cho

tới khi tái giá. Phong tục và quy định là vậy, nhưng không chịu nổi điều bất

công, các cô gái Mông vẫn trốn về nhà cha mẹ đẻ, nhằm kêu gọi sự cứu trợ của

gia đình:

Gầu Mông lòng dạ hết đường nghĩ

Đành quay lại nhà bố mẹ mình

…Gầu Mông toan tính quay lại nhà

Cố nuôi đàn lợn béo đầy chuồng

Cho xua đi bao nỗi u buồn

Cố làm cho mùa vụ đầy gác

Cho xua đi bao nỗi u uất [18, tr. 95]

Với người con gái đi làm dâu chịu nhiều tủi nhục, niềm an ủi duy nhất là

bến bờ yêu thương của cha mẹ. Bởi vậy mà cô gái Mông định quay lại nhà bố

mẹ mình và bắt đầu lại cuộc sống. Cô sẽ cố “nuôi đàn lợn béo đầy chuồng”,

“làm cho mùa vụ đầy gác” để xua đi những buồn khổ, u uất mà bản thân phải

chịu đựng bấy lâu nay. “Đàn lợn”, “vụ lúa” là thứ tượng trưng cho cuộc sống ấm

no, sự khởi sắc của cuộc đời. Và đây cũng chính là khao khát của cô dâu Mông,

khao khát được tìm lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no mà không phải chịu bất cứ

một tủi nhục nào. Với cô, trở về với cha mẹ là về với yêu thương và tránh xa

khổ ải. Về tới nhà, gặp được cha được mẹ, người con gái Mông được dịp dốc

bầu tâm sự:

Hỡi mẹ ơi

Người ta cố làm con tan nát

Gạo giá nát vụn đáy cối

Người ta cố ý làm cho thối,

Người ta cố làm cho tan tành

Gạo giá nát vụn mới thôi

Người ta cố tình làm cho con ôi. [20, tr. 189]

48

Có thể nói được trở về với cha mẹ như được trở về với sự bình yên, sự che

chở và người phụ nữ đã trải hết nỗi lòng của mình. Cô đã giãi bày, tâm sự mọi

nỗi thống khổ phải chịu đựng khi ở gia đình chồng, bị người ta vùi dập không

thương tiếc. Sống trong một gia đình không ai thấu hiểu, không có sự cảm

thông, chia sẻ nên người con gái thổ lộ hết nguyện vọng của mình:

Hỡi trời mẹ ơi!

Tiền người còn không?

Chắc phải đem tiền người trả người

Con mới hết đường than với đời,

Lợn họ còn không

Chắc phải đem lợn họ trả họ

Con mới hết đường khóc với nợ. [20, tr. 189]

Trong đám cưới của người Mông, nhà trai khi đến đón dâu phải đem đầy

đủ tiền và đồ sính lễ bao gồm: một con lợn khoảng 90kg đến 100kg; 40 lít rượu

nấu bằng ngô hay thóc; bốn con gà đã luộc chín; một túi xôi to để ăn khi nghỉ

dọc đường; một ít thuốc lá và một ít tiền đề phòng phát sinh. Giờ đây, khi trốn

về nhà bố mẹ đẻ, cô dâu Mông muốn xin cha mẹ trả lại sính lệ nhà người để cô

có được cuộc sống tự do như xưa. Nhưng đáp lại tiếng kêu khẩn thiết và ai oán

là sự chối bỏ trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ:

Mẹ gầu Mông rằng

Bố con bàn tay không chắc

Đã đem tiền người tiêu hết sạch

Bố con bàn tay không chặt

Đã đem lợn người bán hết cả. [20, tr. 189]

Vì lòng tham mà cha mẹ đã vô tình đẩy cô gái vào bước đường làm dâu

khổ cực, giờ đây, một lần nữa chính họ đóng sập lối thoát cuối cùng cho đứa con

của mình. Tiền, bạc của người ta mẹ cha đã tiêu hết, lợn đã bán sạch, lấy đâu mà

trả người bây giờ. Phải chăng quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật

cản bước chân người phụ nữ trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc, lại một lần nữa

khao khát ấy không thể thực hiện. Trước bi kịch cuộc đời, có những người phụ 49

nữ chỉ biết cam chịu, nín nhịn. Song không ít những người phụ nữ đã vùng lên

phản kháng, nhưng cuối cùng họ vẫn phải nhận hai chữ “khổ đau”.

Có thể nói, những người phụ nữ Mông bước đầu đã có sự phản kháng

trước những bất công, những định kiến của gia đình, của xã hội. Họ đã vùng lên

đấu tranh giành lại cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nhưng dường như sự vùng lên

ấy lại không được ai ủng hộ, kể cả bố mẹ đẻ của mình, người phụ Mông muốn

thoát ra “địa ngục trần gian” nhưng lại không thể phá bỏ được sự ràng buộc của

gia đình chồng.

2.3.2. Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận

Người phụ nữ Mông bị bủa vây bởi cái số mệnh mà giai cấp phong kiến

chà đạp phụ nữ. Người phụ nữ luôn ở địa vị thấp kém, cuộc đời họ bị lệ thuộc

vào gia đình, vào xã hội, vậy nên khi đã làm dâu nhà người họ không có quyền

lựa chọn, tất cả đều trở nên vô ích và người phụ nữ phải chấp nhận số mệnh của

mình. Không thể chịu được cuộc sống tù túng, bó buộc ở gia đình chồng, cô gái

chạy trốn về nhà bố mẹ đẻ:

Gầu Sênh càng nghĩ càng đau lòng

Gầu Sênh liền quay về nhà bố mẹ đi rong,

Gầu Sênh càng nghĩ càng đau tim

Gầu Sênh liền quay lại nhà bố mẹ nằm im. [20, tr. 276]

Người phụ nữ chạy về nhà bố mẹ đẻ nhằm thoát khỏi sự ngột ngạt, bế tắc

khi sống ở gia đình chồng. Trái lại với mong ước của cô gái, người mẹ khuyên

con gái mình quay về nhà chồng bởi: “Bố con đem tiền người tiêu hết rồi/…Bố

con đem vật người bán hết lâu” [20; tr. 277]. Cha mẹ cô gái không thể thỏa được

nguyện ước của cô gái bởi sính lễ nhà trai đã dùng hết, không thể trả lại. Cha mẹ

không chứa chấp, về nhà chồng cũng không xong, người con gái Mông trở nên

lạc lõng và hoang mang giữa cuộc đời. Dường như cái khổ là một hằng số bất

biến đeo đẳng cả cuộc đời người phụ nữ. Trên thế gian này, không còn nơi nào

cho họ trú ngụ, không ai muốn họ sinh tồn. Vậy thì họ cũng không thiết tha tới

bất cứ điều gì. Cuộc đời họ lại tiếp tục bài ca ai oan, khổ đau.

50

Nhắc đến dân ca Mông, ta nghĩ ngay đến bài ca tình yêu của Nhàng Dợ và

Chà Tăng. Nhàng Dợ bị cha mẹ ép gả, về sống ở nhà chồng nàng bị gia đình

chồng đối xử độc ác, cay nghiệt khiến Nhàng Dợ vô cùng đau khổ. Vì quá phẫn

uất cùng nỗi đau không thể chia sẻ với ai, Nhàng Dợ trốn về nhà bố mẹ đẻ để

mong tìm được cuộc sống hạnh phúc, tự do trước kia nhưng đáp lại khát vọng và

hy vọng của nàng là sự thờ ơ và nàng không được cha mẹ bao bọc. Và nơi

Nhàng Dợ có thể bấu víu lúc đấy là trái tim, là tình yêu của Chà Tăng và chính

tình yêu đã giải thoát cho nàng, đưa nàng đến với cuộc sống, tương lai tốt đẹp

hơn:

- Chàng ơi em theo chàng băng núi băng đèo

Mồ hôi đổ chan chan

Quàng túi lanh ngang vai, em sẽ theo chàng nhịn đói say nắng

Đeo túi lanh dọc vai em sẽ theo chàng nhịn đói mệt sức

Lén chạy theo chàng đôi ta cùng trốn [24, tr. 248]

Vì hạnh phúc, vì khát vọng tự do Nhàng Dợ sẵn sàng cùng Chà Tăng bỏ

trốn, nàng chấp nhận “nhịn đói say nắng”, “nhịn đói mệt sức” chỉ cần được ở

bên người mình yêu thì bất cứ việc gì nàng cũng có thể làm được. Người con gái

ấy tưởng chừng như yếu ớt, như cam chịu nhưng thẳm sâu trong tâm hồn của họ

vẫn là sự phản kháng, sự vươn lên mạnh mẽ. Nhờ có ý chí kiên cường cùng với

khát vọng vô cùng cháy bỏng và nhờ có tình yêu mà cuộc đời người thiếu phụ

đã sang trang mới, mở ra tương lai tươi sáng hơn, đó là hạnh phúc là yêu

thương.

Câu chuyện tình yêu giữa Nhàng Dợ và Chà Tăng đã khích lệ khát vọng

tự do của những đôi trai gái yêu nhau nhưng không phải đôi trai gái nào cũng

được như họ và phần lớn cô gái Mông phải đối mặt với hậu quả của cuộc bỏ trốn

không thành:

Người ta bắt được trói chị bằng dây thừng

Đánh chị ba trăm sáu mươi lăm gậy. [24; tr. 227]

Thật xót xa, thật ai oán cho những người phụ nữ làm dâu mà phải sống

cùng dây thừng, cùng với gậy gộc. Có lẽ cuộc đời của họ còn không bằng con 51

trâu, con ngựa khi phải chịu trận đòn roi vô cùng tàn nhẫn từ gia đình chồng.

Sống mà cứ như chết, những người phụ nữ bị hành hạ cả về tinh thần lẫn thể

xác. Giờ đây, họ không gia đình, không tình yêu nên đa phần các cô gái Mông

lựa chọn cái chết để kết thúc mọi đau khổ của bản thân, để giải thoát, trốn chạy

tất cả. Theo phụ nữ Mông, tìm cái chết chính là tìm tự do, tìm hạnh phúc, họ sẽ

không bị ràng buộc bởi bất cứ thứ gì và họ tin rằng ở thế giới bên kia họ sẽ có

được điều mình muốn. Bởi vậy, người phụ nữ tìm mọi cách để được sang thế

giới bên kia:

Gầu Mông lại nhà

Vớ dây thừng quàng lên cành đa

Định thế cho vĩnh viễn biệt tăm

Vớ dây thừng quàng lên cành lim

Định vậy cho vĩnh viễn biệt tin. [20, tr. 190]

Đứng trước con đường làm dâu thăm thẳm và hun hút, người phụ nữ

Mông đã tìm ra hướng hoá giải. Cô đã tìm đến cuộn dây thừng để giải thoát cho

bản thân, để ra đi vĩnh viễn. Khát vọng tự do của người phụ nữ Mông vô cùng

lớn, họ tìm mọi cách để thoát khỏi cuộc sống ê chề, tủi nhục. Ngay cả cái chết

cũng không làm họ run sợ bởi chỉ có chết thì mới được thoát xác, được hóa kiếp

gột bỏ mọi ưu phiền, buồn não. Có khi người phụ nữ Mông tìm đến nắm lá ngón

để được chết:

Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc

Nhưng làm sao khỏi được đau tim

Nuốt thì lá độc thật đắng kinh

Lá ngón tan gầu Mông hết thở [18, tr. 96]

Nắm lá đắng dễ kiếm, dễ tìm là vật dẫn đưa phụ nữ sang thế giới bên kia.

Với họ, cái chết không có gì to tát và đáng sợ. Ngược lại rất nhẹ nhàng và cũng đến

rất nhanh, cái chết “nhẹ tựa như lông hồng”. Những cái chết đầy bi thảm ấy là

những nỗi oan ức bị dồn nén đến đỉnh điểm: tảo hôn, cưỡng hôn, bị ngược đãi, phụ

bạc,… Tìm đến cái chết nhẹ nhàng không phải vì họ coi thường mạng sống mà họ

đã làm tất cả những gì có thể để giành lấy hạnh phúc, tự do cho bản thân. Nhưng tất

52

cả lại trở nên vô nghĩa ở thực tại phũ phàng. Trong thơ ca dân gian Mông, con

người khi bất lực thường tìm đến cái chết bởi đối với họ cái chết như một sự cứu

cánh, một sự giải thoát. Trong thực tế cũng như trong văn học, hình như chỉ có dân

tộc Mông là có một thứ lá cây như một phương thuốc, nhưng không phải tìm đến

sự sống mà tìm đến cái chết – cây lá ngón. Hình tượng cây lá ngón thường xuyên

xuất hiện trong thơ ca dân gian Mông với vẻ lạnh lùng, cay nghiệt tạo nên những

câu ca ướt đẫm nước mắt. Cây lá ngón trở thành thứ cây đặc trưng của dân tộc

Mông trên con đường tìm khát vọng tự do. Hạnh phúc đối với người phụ nữ Mông

là ảo ảnh, là hư vô. Họ hóa kiếp cho mình mong muốn ở kiếp sau sẽ được hạnh

phúc: “Em đầu thai làm con gái út một người Hán gần chợ”. Những cái chết đầy

oan ức đấy là lời tố cáo đầy căm phẫn xã hội phong kiến với những hủ tục đã chà

đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Đồng thời tô đậm thêm khát vọng đấu tranh cho

hạnh phúc cá nhân, tình yêu, hôn nhân. Cái chết bi thảm của họ phần nào có tác

dụng cảnh tỉnh người thân và lên án xã hội bất công. Những người con gái xấu số

trở về với tổ tiên nhưng nỗi oan của họ thì ngàn vạn đời sau vẫn còn nhớ tới. Và

chừng nào những hủ tục kia còn tồn tại thì xã hội sẽ vẫn gặp những cảnh bi thương,

ai oán như vậy.

* Tiểu kết chương 2

Dân ca Mông đã khắc họa bức tranh toàn diện những cung bậc đời sống

tinh thần của người Mông với những nét phác đậm nhạt về số phận người phụ

nữ. Đó tiếng hát tâm tình, là nơi sâu thẳm trái tim họ gửi gắm những tiếng lòng

chất chứa ưu tư về nhân tình thế thái, những tiếng hát đầy đau đớn, xót xa của

những người phụ nữ Mông trong phận làm dâu. Họ không có vị thế xã hội, vị

thế trong gia đình và đặc biệt là vị thế trong gia đình nhà chồng với thân phận

như người ở, người làm thuê, họ phải làm đủ mọi công việc lao động nặng nhọc

nhưng nỗi vất vả và khổ cực ấy không ai biết, không ai hay.

Làm dâu nhà người nơi xứ lạ, họ phải đối mặt với muôn vàn đắng cay, tủi

nhục, từ nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ thậm chí nhớ người yêu cũ nhưng người phụ

nữ vẫn không thể làm gì ngoài sự cam chịu, nhẫn nhục. Mặc dù phải chịu sự ép

duyên, phải xa gia đình, xa bố mẹ nhưng những phụ nữ Mông hết lòng vì chồng,

vì gia đình chồng, làm việc quần quật từ sáng tới trưa, như một thứ công cụ lao

động vậy mà lại luôn bị mẹ chồng, bố chồng, anh em chồng thậm chí người

53

chồng chì chiết, soi mói, đổ oan buông lời cay nghiệt, độc đoán. Bị dồn đến

hoàn cảnh bi đát, họ đã phản kháng, đấu tranh cho khát vọng tự do, tìm kiếm

hạnh phúc ở thế giới bên kia. Tiếng hát làm dâu của những người phụ nữ Mông

chính là lời cảnh tỉnh với những người làm cha, làm mẹ, làm chồng,… Những

cái chết đầy oan ức là lời tố cáo đầy căm phận xã hội phong kiến với những hủ

tục đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Đồng thời tô đậm thêm khát vọng

đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, tình yêu, hôn nhân.

54

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TIẾNG HÁT LÀM DÂU

TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG

Để làm nên giá trị tư tưởng thẩm mĩ, mỗi loại hình nghệ thuật đều được sáng

tạo bằng những chất liệu riêng biệt. Chất liệu của hội họa là đường nét, hình khối,

màu sắc; chất liệu của âm nhạc là giai điệu, âm sắc; còn chất liệu của văn học là

ngôn từ. Mỗi bài dân ca là tâm hồn của người nghệ sĩ dân gian. Người nghệ sĩ đã

cất lên những tiếng hát hồn nhiên, yêu đời với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc

khác nhau của con người, có những niềm vui nhưng cũng có những nỗi buồn thậm

chí cả những dòng nước mắt tuôn trào cũng đi vào dân ca tạo nên điểm nhấn lắng

đọng trong tâm trí người nghe.

"Nghệ thuật của dân ca về mặt văn học là nghệ thuật biểu hiện bằng ngôn

ngữ và hình tượng phục vụ được tích cực nhất nội dung bài ca, còn nghệ thuật

của dân ca theo tính tổng hợp của nó là nghệ thuật vừa thể hiện vừa biểu diễn

với tất cả khả năng ca nhạc vũ kịch" [13; tr. 550]. Do đó, tiếng hát làm dâu

trong dân ca Mông hay không chỉ ở nội dung mà còn ở nghệ thuật độc đáo.

Chúng tôi sẽ làm rõ nội dung nghệ thuật ở các phương diện: ngôn ngữ, hình

tượng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông. Sở dĩ,

chúng tôi lựa chọn các phương diện này bởi đây là những phương diện thể hiện

rõ đặc trưng trong đời sống tinh thần cũng như văn hóa của đồng bào dân tộc

Mông.

3.1. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của

văn học. Không có ngôn từ thì không có tác phẩm văn học. Trong tác phẩm văn

học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện chủ đề và

tư tưởng tác phẩm. Và nhằm giúp người đọc có cái nhìn khách quan về ngôn

ngữ của người Mông, chúng tôi nghiên cứu văn học trong bối cảnh dịch. Theo

sự khảo sát tại địa phương, chúng tôi nhận thấy các văn bản dịch phản ánh tương

đối đúng đời sống tinh thần của người Mông và khoảng cách giữa bản dịch và 55

bản nguyên tác không có sự chênh lệch nhiều. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu

trước đó đều thừa nhận các văn bản dịch và coi đó là di sản và cho đến nay,

chưa có công trình nghiên cứu nào phản đối các văn bản dịch tiếng dân tộc. Vì

vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ thể hiện tiếng hát làm dâu trong

dân ca dân tộc Mông trên các văn bản dịch.

3.1.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng

ngày của người dân tộc Mông

Ngôn ngữ là sản phẩm của đời sống văn hoá tinh thần. Đặc trưng của người

miền núi hay đồng bào dân tộc thiểu số là sự chân thật, chất phác, giản dị. Đọc

những bài dân ca miền núi, ta như có cảm giác các tác giả dân ca họ nghĩ gì viết

thế, mộc mạc, chân thực, giản dị và dễ hiểu. Có thể nói, ngôn ngữ mộc mạc, dễ

hiểu là đặc trưng của dân ca. Điều này cũng thường thấy trong dân ca Mông. Suy

cho cùng, ngôn ngữ mộc mạc dễ hiểu sẽ có độ chân thực cao mà chân thực là một

điều kiện cần thiết của dân ca. Nghiên cứu về đời sống tinh thần của người phụ nữ

Mông trong dân ca đặc biệt là nỗi lòng làm dâu của người phụ nữ, chúng tôi nhận

thấy người Mông diễn tả nỗi lòng của mình một cách chân thực, giản dị. Có lẽ,

người phụ nữ khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm

“xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa

quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nỗi nhớ khi nghĩ về cha mẹ:

Gầu Mông trầm ngâm làm con dâu đường xa

Chẳng biết tin bố mẹ ở nhà

Đã lâu có được khỏe không ? [18; tr. 102]

Cô dâu Mông trực tiếp bộc lỗ nỗi nhớ về quê hương, về gia đình, về cha mẹ.

Cô trầm ngâm, suy nghĩ và tự hỏi lòng mình rằng, đã lâu không về thăm nhà liệu

bố mẹ, người thân trong nhà có được khỏe không? Qua những bài dân ca, người

nghe biết được nỗi sầu tư trong lòng cô gái. Qua đó, ta thấy cách diễn đạt tâm tư,

tình cảm của cô dâu Mông rất giản dị, dễ hiểu. So với cách viết trong ca dao Việt:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”, “ruột đau

chín chiều” diễn tả người con gái đang cảm thấy lẻ loi nơi quê người, nỗi thương

nhớ quê hương, nhớ cha mẹ da diết không nguôi với thói quen: chiều nào cùng như 56

chiều nào, cô gái một mình “ra đứng ngõ sau”, lúc hoàng hôn để nhìn về quê mẹ

phía chân trời xa. Cùng diễn tả về nỗi nhớ nhưng ở hai dân tộc đã có sự diễn tả

khác nhau, không chỉ khác nhau về ngôn ngữ hình ảnh mà chính là sự khác nhau về

đặc trưng tâm lí của hai dân tộc. Người miền núi chỉ nói cái gì nhìn thấy, nghe thấy

và cảm thấy, tức là lối biểu đạt bằng từ ngữ cụ thể chứ không dùng từ ngữ hoa mĩ

như người Kinh. Diễn tả con đường làm dâu mờ mịt, đen tối của người phụ nữ,

người Mông dùng những hình ảnh rất giản dị, cụ thể:

Đường làm dâu con đường như ống đũa

Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,

Đường làm dâu con đường như ống tre

Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [18; tr. 128]

“Ống đũa”, “ống tre”, “nước mắt” là những hình ảnh so sánh liên tưởng

hết sức gần gũi với cách nói hàng ngày về nỗi thồng khổ của người phụ nữ

Mông, xuất hiện trong thơ Mông những từ ngữ đó với một tần xuất khá lớn. Bài

ca ví con đường làm dâu sẽ bị bó hẹp, tăm tối như “ống tre”, “ống đũa” khiến

người phụ nữ phải rơi lệ. Những giọt nước mắt ấy nhỏ xuống tận sâu tâm hồn họ

và lắng lại trong dân ca khiến người đọc không khỏi xót xa, ngậm ngùi. Với

hình ảnh cụ thể cùng lối diễn đạt dễ hiểu, ta cảm nhận được nỗi khổ của người

phụ nữ khi làm dâu. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vô định ngoài tầm tay với

của họ. Dẫu biết con đường phía trước mịt mờ, không tương lai, hạnh phúc

nhưng người phụ nữ vẫn phải bước đi trên con đường ấy. Qua đó, ta thấu hiểu

được nỗi bất an, vô định của người phụ nữ Mông trong dân ca. Cách sử dụng

ngôn ngữ hàng ngày của người Mông trong dân ca làm cho dân ca Mông chiếm

được tình cảm của đồng bào, tạo sự dễ hiểu dễ nghe, dễ đọc cho độc giả. Bởi lẽ

các nhà thơ đã nghĩ hộ, nói hộ được tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của người phụ nữ

Mông trong cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên cách nói mộc mạc dân dã theo đặc

trưng sử dụng ngôn ngữ của người Mông cũng có hạn chế nhất định, làm cho

các bài dân ca vì thế phần nào mất đi sức cảm, sức gợi.

Để diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ, khẩu ngữ của người dân tộc Mông

cũng được đưa vào dân ca một cách nhuần nhị, tự nhiên. Người phụ nữ Mông 57

không thể chịu được cuộc sống ngột ngạt, tù túng ở gia đình chồng, họ giống

như con trâu con ngựa là công cụ lao động chứ không phải con người, người phụ

nữ trốn về nhà bố mẹ đẻ để xin cha mẹ trả lại sính lệ nhà người để cô có được

cuộc sống tự do như xưa. Nhưng ý nguyện của cô là điều không thể vì:

Trời, con gái của mẹ!

Cha con, tại cha con cái tay không chắc

Tiền của người ta làm nát hết rồi

Cha con, tại cha con cái tay không chặt

Tiền của người ta làm nát hết rồi. [24, tr. 280]

“Gầu Mông” là chỉ cô gái Mông, đây là cuộc hội thoại giữa mẹ gầu Mông

và gầu Mông. Tính khẩu ngữ trong bài dân ca được thể hiện qua đại từ xưng hô:

mẹ - con. Người mẹ đang đáp trả lại lời thỉnh cầu của cô con gái bằng lời tâm sự

rất chân thực: tiền, bạc của người ta mẹ cha đã tiêu hết, tan hết, lấy đâu mà trả

người bây giờ. Qua lời giãi bày chân thực và dễ hiểu, ta thấy được phần nào lòng

tham vô độ của cha mẹ đẩy cô gái vào bước đường làm dâu khổ cực, giờ đây, một

lần nữa chính họ đóng sập lối thoát cuối cùng cho đứa con của mình. Trong dân

ca Mông, các cặp đại từ xưng hô thường gắn kết với hình thức đối thoại nhằm

trao đổi tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của chủ thể trữ tình. Chính điều đó làm

thơ Mông trở lên giàu bản sắc mang những đặc trưng riêng của dân tộc Mông.

Trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu, ngôn ngữ lời ca là sự kết tinh

của chất thơ với đời sống. Cách nói không cầu kì bóng bẩy, nhưng cũng rất ví

von, hình ảnh. Nét độc đáo trong ngôn ngữ dân ca Mông là ngôn ngữ của nhân

vật trữ tình tồn tại trong 2 hình thức cơ bản: Độc thoại; Đối thoại. Độc thoại là:

“phát ngôn dài dòng, rườm rà, không dự tính có một lời đáp nào xuất hiện tức

khắc, hoặc hoàn toàn không nhằm nói với ai cả” [1; tr. 56]. Trên các văn bản

của dân ca Mông, thì hình thức độc thoại chiếm số lượng rất lớn. Đó là một vế

lời ca của chàng trai hoặc cô gái. Ở những bài ca độc thoại này, dấu ấn của lối

trò chuyện, lối đối đáp vẫn đậm nét qua cách gọi, cách nhắn nhủ, cách dùng các

đại từ nhân xưng. Ví dụ bài ca sau chỉ có một vế của cô gái:

Gầu Mông nói với đrâu Mông:

Anh sinh thành làm bố mẹ chàng trai 58

Anh cân đong đo đếm

…Gầu Mông nói với đrâu Mông:

Em sinh ra làm con gái bố mẹ [18; tr. 138]

Số phận của những người phụ nữ Mông muôn phần tủi cực, chua xót và

họ chỉ biết giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình qua những câu hát trong dân ca.

Vì thế hình thức độc thoại trong dân ca chiếm tỉ lệ vô cùng lớn. Bên cạnh ngôn

ngữ độc thoại còn có hình thức đối thoại, nó được hiểu là:

(1) Sự giao tiếp bằng lời nói giữa hai người (hoặc nhiều hơn) với nhau.

(2) Một phần của văn bản ngôn từ nghệ thuật, một thành tố mà chức năng

là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân vật. [1; tr. 128]

Trong dân ca Mông đặc biệt là những bài ca nói về tiếng hát làm dâu, hình

thức đối thoại chiếm tỉ lệ không nhiều nhưng khá tiêu biểu. Bài ca tồn tại cả 2 vế

nhưng thường là đối thoại giữa cha mẹ và người con (con gái) bởi những người phụ

nữ đi làm dâu thường bộc bạch, giãi bày trực tiếp nỗi lòng với cha mẹ mình:

Hỡi trời mẹ ơi!

Tiền người còn không

Chắc phải đem tiền người trả người

…Mẹ gầu Mông rằng

Bố con bàn tay không chắc

Đã đem tiền người tiêu hết sạch [20; tr. 189]

Qua hình thức đối thoại giữa người mẹ và cô gái Mông ta hiểu ngay rằng:

cô gái Mông đi làm dâu nhà người chịu nhiều đắng cay, tủi nhục nên đã quay lại

nhà mẹ đẻ để cầu xin cha mẹ trả lại sính lệ lấy lại tự do cho mình. Nhưng ước

muốn đấy đã không thể thực hiện vì mẹ cô gái đã thành thực rằng: bố con đã

đem tiền tiêu hết sạch và cô gái không còn con đường nào khác ngoài quay trở

lại nhà chồng.

Ngôn ngữ thơ là phương tiện để con người biểu lộ tình cảm, cảm xúc một

cách hữu hiệu nhất. Dân ca nói chung, dân ca Mông nói riêng bao giờ cũng đòi

hỏi ngôn ngữ hàm súc, gợi cảm, có sức liên tưởng đối với người đọc. Kết hợp

59

lời ăn tiếng nói hằng ngày với chất thơ của đời sống đã tạo ra một phong cách

riêng gợi cho người đọc, người nghe cảm giác gần gũi và ấm áp.

3.1.2. Một số biện pháp nghệ thuật trong ngôn ngữ dân ca Mông

Tồn tại trong cuộc sống dưới hình thức sinh hoạt diễn xướng, thơ ca dân

gian Mông mang đậm lối đối đáp, dù bài dân ca còn giữ nguyên kết cấu hai vế

hay chỉ còn lưu lại hình thức một vế thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in khá rõ

trong cách thể hiện. Khi nghiên cứu về dân ca Mông, chúng tôi nhận thấy hai

biện pháp nghệ thuật nổi bật góp thành công lớn vào việc khắc họa nỗi lòng của

người phụ nữ Mông trong phận làm dâu là kết cấu trùng điệp và thủ pháp so

sánh.

Chúng tôi tiến hành khảo sát 61 tác phẩm sử dụng thủ pháp nghệ thuật so

sánh và kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu. Bảng khảo

sát cho thấy, số lượng tác phẩm sử dụng biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp

dày đặc. Trong đó, mật độ xuất hiện nhiều nhất là thủ pháp kết cấu trùng điệp

với 59/61 bài dân ca chiếm 96,7%. Còn thủ pháp nghệ thuật so sánh chiếm 82%

tương đương với 50/61 bài dân ca. Điều đặc biệt là trong dân ca Mông luôn có

sự kết hợp hài hòa giữa hai biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp, góp công

lớn trong việc khắc họa một cách chân thực, giản dị mà không kém phần sinh

động về đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông, đặc biệt là trong phận làm

dâu. [Phụ lục bảng 2]

Biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp xuất hiện hầu hết trong dân ca các

dân tộc chỉ khác ở mức độ sử dụng. Nếu như ở ca dao, dân ca người Việt kết cấu

trùng điệp có sử dụng nhưng với tần số không nhiều thì ở dân ca Mông biện

pháp này được sử dụng nhiều, chiếm ưu thế nổi trội cả về số lượng cũng như

hiệu quả nghệ thuật. Có thể nói biện pháp này được sử dụng ở mức độ đậm đặc

trong hầu hết các bài dân ca tạo nên đặc trưng riêng trong lối diễn đạt. Kết cấu

trùng điệp hai, ba dòng thơ, điệp cả khổ thơ tạo nên sự tràn đầy trong mạch cảm

xúc của nhận vật trữ tình, tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất quán của

hình tượng thơ. Tác giả dân gian đã diễn tả cuộc sống làm dâu của người phụ nữ

Mông bằng kết cấu này:

60

Gầu Mông nhấc thùng nước lên lưng

Mồ hôi nước mắt thi nhau tuôn

Gầu Mông nhấc thùng nước lên chạn

Mồ hôi nước mắt thi nhau cạn. [20; tr. 187]

Kết cấu trùng điệp hai dòng thơ đã nhấn mạnh nhiều công việc từ việc gánh

nước, đến nấu cơm, nương rẫy,… Công việc gánh nước cùng hình ảnh “mồ hôi”

lặp đi lặp lại khiến ta hình dung về công việc hàng ngày của cô với những giọt

mồ hôi vất vả mà không thể than vãn hay chia sẻ với bất kì ai và điều tất yếu

“nước mắt thi nhau tuôn”. Với biện pháp điệp, người đọc đã hình dung ra được

công việc cũng như sự vất vả trong bức tranh sinh hoạt ở nhà chồng của cô dâu

Mông. Người nghe không chỉ hình dung mà còn cảm nhận được nỗi khổ của

người phụ nữ:

Vừa mới cất bước tới nhà chồng

Gầu Mông đã đi địu nước ngay

Địu về chưa tới chân tường nhà

Đã nghe nhà chồng chửi la cà.

Vừa mới cất bước tới nhà chồng

Gầu Mông đã đi gánh nước liền

Gánh về chưa đến gần chân vách

Đã nghe nhà chồng to nhỏ trách. [18, tr. 94]

Kết cấu trùng điệp cả khổ thơ tạo nên sức gợi trong câu thơ làm tăng mạch

cảm xúc của nhân vật trữ tình. Những câu dân ca diễn tả nỗi lòng của người phụ

nữ khi bước chân về làm dâu nhà người, đâu có được nghỉ ngơi mà phải lao vào

làm công việc nhà ngay, vậy mà vẫn bị nhà chồng chửi mắng. Hình ảnh cô gái

Mông đi địu nước cùng với tiếng chửi của bố mẹ chồng lặp đi lặp lại khiến độc

giả không khỏi thương cảm, xót xa cho phận làm dâu đầy tủi cực.

Nghiên cứu về biện pháp kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông, chúng tôi

nhận thấy nghệ thuật biểu đạt bằng biện pháp kết cấu trùng điệp được vận dụng

theo nhiều cách khác nhau. Một ý hay một sự vật, thường được diễn tả bằng hai vế,

61

mỗi vế gồm nhiều câu dài hoặc ngắn. Hai vế nhấn mạnh lẫn cho nhau bằng cách

chỉ đổi khác một vài từ:

Gầu Mông làm dâu

Buồn bã con đường đầy mây đặc

Khác nào người mù không biết lối

Để lại bố mẹ ở phương trời sau

Không biết tháng năm hay mãi mãi dài lâu,

Buồn bã con đường đầy mây mù.

Khác nào người đui không biết đường

Để lại bố mẹ ở phương trời trước

Không biết tháng năm hay mãi mãi lỡ bước. [19; tr. 129]

Việc sử dụng kết cấu trùng điệp: dòng thơ, khổ thơ… cũng chính là sự phản

ánh rõ nét tâm lý của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu: chăm chỉ, đảm

đang, khéo léo nhưng luôn bị gia đình chồng khinh ghét, đối xử thậm tệ thật thà,

chất phác. Sự lặp lại những câu thơ, hình ảnh, từ ngữ tạo những cảm xúc nối

tiếp, vô tận khiến người nghe bị cuốn hút vào mạch cảm xúc ấy. Nhờ có kết cấu

trùng điệp đó mà dân ca Mông trở nên dễ thuộc dễ nhớ và gần gũi với đời sống

đồng bào hơn bao giờ hết.

Điểm đặc biệt trong dân ca Mông là khi diễn tả đời sống tình thần của

người phụ nữ trong phận làm dâu có sự kết hợp chặt chẽ của biện pháp kết cấu

trùng điệp và biện pháp so sánh. Biện pháp nghệ thuật so sánh trong dân ca

Mông mang những nét đặc sắc riêng: Diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ Mông

trong thân phận làm dâu với những gì gần gũi, thân thuộc, gắn bó với cuộc sống

quanh họ để làm nổi bật lên số phận của người phụ nữ: ống đũa, ống tre, con

trâu, con ngựa,… Việc kết hợp hai biện pháp này giúp người đọc thấm thía sâu

hơn nỗi lòng của người phụ nữ:

Đrâu Mông rằng gầu Mông

Đường làm dâu con đường như ống đũa

Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,

62

Đường làm dâu con đường như ống tre

Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [18, tr. 128]

Tác giả dân gian kết hợp hài hòa ví con đường làm dâu bị bó hẹp, thu nhỏ

như “ống đũa”, “ống tre” cùng với thủ pháp kết cấu trùng điệp ở câu thứ ba và

thứ năm càng khắc sâu ấn tượng trong lòng độc giả về thân phận làm dâu của

người phụ nữ Mông. Con đường ấy sẽ nhiều nước mắt, nhiều khó khăn bởi cuộc

đời của cô gái Mông đã rẽ sang một hướng khác kể từ lúc họ bước chân trên con

đường đó. Một tương lai tăm tối, chật hẹp nhưng họ không thể thay đổi được

bước đi của mình và chân cứ bước, nước mắt cứ rơi. Người nghe đã bị thuyết

phục bởi sức gợi tả mạnh mẽ trong cách so sánh cụ thể, lối phô diễn cảm xúc

bộc trực, chân thành thì với thủ pháp điệp, sức gợi ấy lại tăng gấp bội giúp độc

giả hình dung được nỗi khổ của người phụ nữ. Rồi hình ảnh những cô gái bị ép

duyên được diễn tả hết sức sinh động:

Ve ơi!

Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật nhớ

Tim ta buồn như cây lanh bị người ta sắp chặt

Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật niệm

Tim ta buồn như cây lanh bị người ta sắp cắt. [24; tr. 114]

Những hình ảnh: tim, gan, cây lanh sắp bị chặt, cây lanh sắp bị cắt – sự

sống gần như sắp lịm tắt…trở đi trở lại trong bài dân ca thể hiện nỗi đau của cô

gái bị ép duyên. Người đọc như hình dung được hoàn cảnh hiện tại của cô gái

Mông, đã làm dâu nhà người nhưng vẫn không thể quên được mối tình với

chàng trai mà cô đã đem lòng yêu thương. Giờ đây, trong lòng người con gái ấy

có chút gì đó vừa như nuối tiếc, lưu luyến mối tình xưa vừa như đau xót cho số

phận hẩm hiu của mình. Nỗi lòng của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu

được tác giả diễn tả không chỉ qua thủ pháp kết cấu trùng điệp mà còn có sự kết

hợp với thủ pháp so sánh vừa giản dị vừa giàu sức thuyết phục. Sự xuất hiện của

kết cấu trùng điệp và thủ pháp so sánh đã tạo ra những lớp nghĩa thể hiện nỗi tủi

cực trong đời sống của người phụ nữ. Đời sống của con người vốn khó hiểu,

trừu tượng, vậy mà dưới cách diễn đạt của dân ca lại trở nên gần gũi, hữu hình.

63

Các tác giả dân gian Mông đã vận dụng thật tài tình và khéo léo biện pháp

kết cấu trùng điệp trong các bài dân ca về tiếng hát làm dâu. Nó như những âm

điệu, nốt nhạc làm tăng độ ngân vọng của các làn điệu dân ca, tạo nên nét đẹp

trong văn hóa cộng đồng. Việc sử dụng kết cấu này giúp các bài dân ca về tiếng

hát làm dâu mang những nét đặc sắc riêng, không thể trộn lẫn với bất cứ bài dân

ca của các dân tộc khác. Qua đó, ta thêm hiểu được tính cách, cuộc sống sinh

hoạt và số phận của những người phụ nữ Mông.

3.2. Hình tượng nghệ thuật

Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, hình tượng là: “Sự phản ánh hiện

thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ

thể, sinh động, điển hình, được nhận thức chủ yếu bằng cảm tính” [17; 550].

Còn trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật chính là các

khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác

phẩm nghệ thuật” [6; tr. 147]. Có thể nói ở bất kì dân tộc nào, hình tượng trong

văn học luôn là những sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với đời sống hàng

ngày của người dân. Qua lăng kính của người nghệ sĩ dân gian, những sự vật

bình dị ấy được nâng lên trở thành những hình tượng đẹp đẽ, mang màu sắc kì

bí, huyền ảo. Tuy nhiên, không phải cứ mang nghĩa trừu tượng cho sự vật, sự

việc khác mà một hình ảnh trở thành hình tượng. Được gọi là hình tượng khi

hình ảnh, sự vật đó phải được trở đi, trở lại, xuất hiện với tần số lớn, có ý nghĩa

biểu đạt, giá trị nội dung và nghệ thuật nhất định. Trong dân ca Mông đã có khá

nhiều công trình nghiên cứu ở góc độ hình tượng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ

của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát các hình tượng gắn với tiếng hát làm

dâu của người phụ nữ trong dân ca Mông. [Phụ lục bảng 3]

Nhìn vào bảng khảo sát, chúng tôi nhận thấy, hệ thống hình tượng tiếng

hát làm dâu dân ca dân tộc Mông khá đa dạng. Các hình tượng đa dạng về loại

hình và cách biểu hiện, có khi là hình ảnh các con vật: con gà, con bò,…rồi các

loại cây, loại hoa: hoa tình, lanh… hay các đồ vật như: váy, áo…, có khi là các

hiện tượng: nước mắt, ăn lá ngón,… Một đặc điểm dễ nhận thấy là các sự vật,

64

hiện tượng này ở ngoài rất gần gũi, gắn bó với số phận làm dâu của người phụ

nữ. Và qua lăng kính của nghệ sĩ dân gian thì sự vật nhỏ bé ấy đã trở thành hình

tượng thể hiện số phận của người phụ nữ Mông khi làm dâu. Bởi phương thức

biểu hiện trong ngôn ngữ dân ca Mông có quan hệ đến môi trường, tín ngưỡng

và cảm quan thẩm mỹ của dân tộc Mông. Vì thế hình tượng thơ trong dân ca

Mông luôn gắn bó mật thiết với môi trường, điều kiện sống của đồng bào. Hầu

như trong dân ca Mông về đề tài tiếng hát làm dâu tất cả là những bài hát của

những người phụ nữ mộc mạc, giản dị, chân thật và hồn nhiên. Việc khảo sát,

đánh giá, phân tích toàn bộ hệ thống hình tượng nằm ngoài phạm vi cho phép

của luận văn, vì thế, trong quá trình tìm hiểu chúng tôi tiến hành lựa chọn và

xem xét hình tượng theo các tiêu chí tiếng hát làm dâu đã phân tích ở trên về

người phụ nữ Mông.

3.2.1. Hình tượng về loài vật (trâu, bò)

Trong quá trình tìm hiểu tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông,

chúng tôi đặc biệt lưu tâm tới hình ảnh con trâu, con bò. Trâu, bò là loài động

vật quen thuộc, gần gũi và thân thiết với con người, đặc biệt là người nông dân.

Trong ca dao dân ca người Kinh, trâu, bò được nói đến nhiều vì chúng đóng vai

trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc

đồng áng, tình yêu nam nữ...: “Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà/ Trong ba việc ấy thật

là khó thay”. Công việc chính của nhà nông như cày bừa, vận chuyển thóc

gạo…. đều do trâu, bò đảm nhiệm. Trâu, bò không chỉ là phương tiện di chuyển,

cho con người sức kéo mà còn là nguồn cung cấp thực phẩm. Mặc dù thay người

làm hết việc nặng nhọc, vất vả nhưng đối với đồng bào dân tộc Mông loài trâu,

bò ít được quan tâm, chăm sóc và coi trọng. Có lẽ vì vậy, trong dân ca Mông, dù

không xuất hiện với tần số dày đặc, nhưng trâu, bò dường như sinh ra để được ví

với thân phận làm dâu đầy khổ cực của người phụ nữ.

Phụ nữ Việt trong ca dao thường ví von thân phận mình là “hạt mưa sa”,

“tấm lụa đào”,… phụ nữ Thái “bằng con chão chuộc”, “chỉ bằng con bọ

ngựa”,… thì phụ nữ Mông thường ví mình như con trâu, con bò trong nhà và

đây được coi như là biểu tượng đặc trưng cho phận làm dâu của những người 65

phụ nữ Mông. Đa phần phụ nữ gắn bó kiếp mình với những cay nghiệt và tủi

hờn nơi cửa nhà chồng. “Trâu măng đã có chuồng” là hình ảnh tượng trưng cho

cảnh làm dâu bị bó buộc, gò ép. Con trâu bị con người thuần chủng, đem về nhốt

vào chuồng để phục vụ cho lợi ích của con người thì còn biết gì tới tự do. Người

phụ nữ Mông cũng vậy, khi họ đã lập gia đình thường mất đi sự tự do cá nhân

và bị hạn chế các mối quan hệ xã hội, mối bận tâm của họ là chăm sóc con cái

và lo toan công việc nhà. Giờ đây, họ đã bị ràng buộc với gia đình chồng bởi

một sợi dây vô hình mà không thể thoát ra được. Sống trong nhà chồng, làm

việc quần quật như con trâu, con ngựa mà nàng dâu vẫn bị đay nghiến, bị khinh

ghét là điều bình thường trong dân ca Mông. Đối với người phụ nữ, cuộc đời

làm dâu chưa bao giờ là con đường thuận lợi và dễ dàng:

Thấy phương trời bố mẹ trong sáng

Thấy phương đất nhà chồng tối mù

Tựa bò đực sắp phải kéo cày. [18, tr. 94]

Đường về nhà chồng u tối, người phụ nữ Mông dường như đã đoán được

trước thân phận của mình, cũng giống như con bò biết được sức nặng của cái

cày và khó khăn đang đè trên đôi vai, biết được rất rõ nguồn căn và gốc rễ mọi

khổ ải nhưng tự họ không thể cởi trói cho mình. Giống như con bò chỉ biết lầm

lũi mang vác gánh nặng trên lưng theo sự sắp đặt của con người. Thân phận làm

dâu của phụ nữ Mông khiến người đọc xót xa, thương cảm. Làm dâu nghĩa là bị

tước bỏ sự tự do thậm chí mất đi quyền làm người thiết yếu nhất.

Không thể đắm chìm mãi trong đau khổ, người phụ nữ Mông đã biết vươn

lên bằng những ước mơ và khát khao chân thực:

Giá em là con trâu hay con ngựa

Anh nhằm theo hồ nước trong

Anh sẽ túm lấy đầu dây quàng

Anh nhằm theo lối hồ nước đục

Anh sẽ túm lấy đầu dây kéo [20, tr. 241]

Đọc nhưng câu hát dân ca trên, ta như thấm thía được nỗi khổ đau của

người phụ nữ. Điều ước của họ nghe qua thật buồn cười bởi lại ước mình là

66

“con trâu”, “con ngựa”. Nhưng khi biết được mục đích là để được “anh túm đầu

dây kéo theo hồ nước đục, nước trong”, nghĩa là được người mình yêu dắt đi mà

chẳng sợ bất cứ một ai, tự do, thong thả bên hồ nước với chàng trai thì ta mới

thấy được khát khao cháy bỏng của người phụ nữ. Họ ước mơ về cuộc sống bình

dị, yên ấm bên người mình yêu thương. Họ không bị hoàn cảnh khuất phục hoàn

toàn mà bù lại họ được người mình yêu lựa chọn.

Với những đặc tính riêng biệt, mối quan hệ gần gũi và quen thuộc với

đồng bào dân tộc miền núi trâu, bò đã trở thành biểu tượng cho phận làm dâu

của người phụ nữ Mông. Thân trâu bò phải làm công việc nặng nhọc thay cho

người, thân phận nàng dâu cũng vậy phải làm việc quần quật từ sáng tới đêm,

hết công việc này đến công việc khác, từ địu nước, dệt sợi đến làm nương rẫy,

người phụ nữ lúc nào cũng tất bật, quanh quẩn với công việc nhà. Nhưng đáp lại

sự cần cù, chăm chỉ, chịu khó đấy lại là sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của chồng, của

bố mẹ chồng. Vô hình dung người phụ nữ trở thành một thứ công cụ thậm chí bị

vật hóa trong cuộc sống nhà chồng. Họ đã hi sinh tất cả cho gia đình nhà chồng

để nhận lại một sự vô ơn, phũ phàng. Đó cũng chính là nỗi lòng của người phụ

nữ trong dân ca Mông. Họ luôn phải chịu cảnh làm dâu đầy đắng cay, tủi nhục

mà không ai thấu hiểu, sẻ chia.

3.2.2. Hình tượng nước mắt

Nước mắt là sự phản ánh chân thật nhất những cảm xúc của con người.

Khi người ta rơi vào một cảnh huống, một trạng thái nào đó thì dễ nảy sinh tâm

trạng, mà đỉnh cao của trạng thái tình cảm thường biểu lộ bằng những giọt nước

mắt. Có giọt nước mắt sung sướng, có giọt nước mắt ân hận, có giọt nước mắt

đau đớn, xót xa,... Đối với những bài dân ca về tiếng hát làm dâu, giọt nước mắt

chính là hiện thân của nỗi thống khổ và bất hạnh. Giọt nước mắt là sự đau đớn,

tuyệt vọng của người con gái phải chia tay người mình thương, phải theo sự sắp

đặt của cha mẹ:

Gầu Mông nói đrâu Mông

Anh nói tạm biệt em

Làm em nước mắt trào

Anh bảo tạm biệt ta

Làm ta nước mắt ra. [18; tr. 126]

67

Giọt nước mắt của sự chia li, đôi trai gái không thể đến được với nhau do

nhiều nguyên nhân và họ phải nói lời tạm biệt. Hình ảnh “nước mắt trào” thể

hiện nỗi khổ tâm trong lòng cô gái. Còn nỗi đau nào day dứt hơn khi phải nói lời

chia li với người mình thương, kể từ đây mỗi người một phương, anh đi đương

anh, em đi đường em. Cô gái đau lòng đến ứa nước mắt là điều không tránh

khỏi. Các tác giả dân gian không chỉ nhìn thấy bi kịch tinh thần đau đớn, day dứt

của người con gái khi không được yêu và lấy người mình yêu mà họ còn tiếp tục

nỗi đau phải lấy và chung sống với người “lạ” theo tục “cha mẹ đặt đâu con ngồi

đấy” của người Mông:

Gầu Mông leo hết đèo

Mưa phùn mưa lớt phớt

…Gầu Mông nước mắt trào

Gầu Mông vượt hết núi

…Gầu Mông nước mắt rơi. [18; tr. 99]

Đường về làm dâu nhà người gập ghềnh, khó khăn khiến cô dâu Mông

phải vượt qua dãy núi này đến dãy núi khác. Không được quyền quyết định hạnh

phúc cá nhân, không được đi cùng đường với người mình yêu thương, biết được

tương lai mịt mờ đang chờ đợi mình phía trước và giọt nước mắt tuôn rơi - cô

gái khóc thương cho số phận của mình. Đây là giọt nước mắt khổ đau khi ý thức

được thân phận làm dâu của mình. Giọt nước mắt còn tô đậm thêm bi kịch cuộc

đời người phụ nữ trong cuộc sống sinh hoạt ở gia đình chồng:

Địu nước đặt cạnh chạn

Nước mắt gầu Mông đua nhau rụng,

Địu nước đặt cạnh bếp

Nước mắt gầu Mông đua nhau rơi. [19; tr. 121]

Đây là giọt nước mắt của sự vất vả, không người quan tâm, chia sẻ. Cô

dâu Mông mới bước chân vào nhà chồng nhưng phải gồng mình làm tất cả các

công việc nhà. Vất vả là thế, nhưng người phụ nữ đâu được gia đình chồng coi

trọng, ngược lại họ bị mắng nhiếc, chửi rủa: “Địu nước đến cạnh nhà/ Bố mẹ

chồng dùng tiếng Di tiếng Hán chửi/ Địu nước đến cạnh cửa/ Bố mẹ chồng dùng 68

tiếng Di tiếng Hán rủa”[19; 121]. Số phận của người con gái thật khiến độc giả

chua xót, cảm thương. Nước mắt như một hình ảnh gắn liền với cô dâu Mông,

cứ nhắc đến phận làm dâu là nước mắt lại tuôn rơi:

Bước vô về tới

Bố mẹ gầu Mông cái cổng nách

Đâu thấy gầu Mông cất tiếng vui

Chỉ nghe gầu Mông những tiếng khóc. [19; tr. 115-116]

Trong các bài dân ca, đặc biệt là những bài về tiếng hát làm dâu, tác giả

dân gian đã nhiều lần đề cập đến nỗi đau của người phụ nữ trong cảnh làm dâu

qua hình tượng nước mắt. Nước mắt không chỉ thể hiện cuộc sống tinh thần đầy

đắng cay tủi nhục của cô dâu Mông mà còn mở ra một tương lai ảm đạm phía

trước. Đấy chính là số phận của người phụ nữ, họ không có tự do, không có

hạnh phúc. Trong các bài dân ca, hình ảnh người phụ nữ trong phận làm dâu

hiện lên chỉ là những “tiếng khóc”, chứ không có “tiếng vui”.

Nước mắt là giọt châu của loài người, là tấm kính biến hình vũ trụ để cho

nhân vật giải toả nỗi đau, sự bi phẫn đến cùng cực. Nhưng nước mắt vẫn chỉ là

nước mắt. Liệu những người phụ nữ Mông có thể thoát ra khỏi cuộc sống tù

túng đấy không? Qua đó, các tác giả dân gian đưa lời tố cáo xã hội mạnh mẽ,

dồn đẩy con người đặc biệt là người phụ nữ vào bước đường cùng, để cuộc đời

của họ là một tấn bi kịch. Người phụ nữ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cá

nhân, lấy người mình không thương và phải sống kiếp làm dâu đầy đắng cay, tủi

nhục. Nước mắt chính là hiện thân cho tấn bi kịch của người phụ nữ Mông.

3.2.3. Hình tượng lá ngón

Ở xã hội người Mông xưa, với bao tập tục lạc hậu đã tước bỏ quyền mưu

cầu hạnh phúc của mỗi con người, đặc biệt là người phụ nữ. Vì cuộc sống muôn

bề khổ đau, tương lai tăm tối mịt mờ, phụ nữ Mông thường tìm đến cái chết như

một sự giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, chật hẹp. Họ tin rằng thế giới bên kia

sẽ giúp họ tìm kiếm được tự do, hạnh phúc. Đối với người phụ nữ, cái chết

không phải sự tiêu cực mà cái chết với họ như một sự cứu cánh, một sự giải

thoát. Hầu như các bài dân ca Mông thường để những người phụ nữ tìm đến cái 69

chết bằng nắm là ngón. Nắm lá ngón xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại trở thành

hình tượng tiêu biểu trong dân ca Mông. Nó là hiện thân của ước mơ, khát vọng

đối với những người phụ nữ. Chỉ có cái chết mới giúp họ thoát khỏi cuộc sống

bất công tù túng mà con đường nhanh nhất đến với cái chết là ăn lá ngón. Ta

thấy khát khao tự do, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ vô cùng mạnh mẽ.

Họ tìm đến cái chết như một điều tất yếu:

Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón

Nhưng làm sao hết được đau lòng

Ăn thì lá ngón thật đắng ngông.

Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc

Nhưng làm sao khỏi được đau tim

Nuốt thì lá độc thật đăng kinh

Lá ngón tan gầu Mông hết thở. [18; tr. 96]

Thực tế, dân tộc Mông có trồng loại cây rất độc và rất đắng lá ngón, độc

tố của cây rất mạnh, ai ăn phải có thể mất mạng ngay lập tức. Lá ngón mọc

hoang dại đầy các sườn núi. Nếu ai gặp lần đầu, có thể sẽ choáng ngợp trước vẻ

đẹp rực rỡ của loài cây này, lá thon dài, hoa vàng nhỏ tươi thành chùm, nó có

thể tước đoạt sinh mạng con người chỉ bằng vài ba lá. Đây là loại thuốc độc dễ

kiếm, dễ tìm và cũng rất dễ đưa con người sang thế giới bên kia. Trong dân ca

Mông, sự xuất hiện của những cái chết chủ yếu là của người phụ nữ thường gắn

liền với hình ảnh lá ngón. Có lẽ, họ đã quá chán nản, thất vọng với cuộc sống

thực tại. Ngay cả cái chết họ cũng không hề khiếp sợ bởi chỉ có chết thì mới

được hóa kiếp, gột rửa mọi khổ đau:

Lòng nghĩ mãi tới cùng đường tận lối

Tay vơ nắm thuốc đắng đặt gối đầu

Em theo thuốc đăng đi biệt năm. [24; tr. 227]

Tìm đến cái chết không phải người phụ nữ coi thường mạng sống của

mình mà họ chỉ có thể làm như vậy để giành lấy tự do, hạnh phúc của bản thân.

Không ai nghĩ rằng, cuộc đời mình cũng phải có lúc dùng đến nó, nhưng khi bị

dồn vào bước đường cùng, không còn đường đi nước bước, họ phải dùng đến lá 70

ngón, quên đi cái đắng, cái sợ để được chết. Đối với người phụ nữ, chỉ có cái

chết mới hóa giải được nỗi khổ đau đeo đẳng cuộc đời họ. Phụ nữ Mông hóa

kiếp cho mình mong muốn ở kiếp sau sẽ được hạnh phúc. Nhắc đến cái chết với

hình ảnh lá ngón, ta không thể không nhớ đến nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ

chồng A phủ của Tô Hoài. Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống

kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền

xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị

cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón.

Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng

trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi

đến Hồng Ngài xa xăm. Với những người phụ nữ Mông cũng vậy, để bảo vệ

quyền mưu cầu hạnh phúc của mình, họ tìm đến cái chết như điều tất yếu. Cái

chết là hành động thể hiện sự phản kháng cao độ của con người trước xã hội bất

công với nhiều hủ tục đè nặng lên đôi vai người phụ nữ. Cây lá ngón trở thành

thứ cây đặc trưng của dân tộc Mông trên con đường tìm kiếm khát vọng tự do.

Các tác giả dân gian tô đậm nét xanh của màu lá ngón vào bức tranh cuộc

sống của người phụ nữ. Cây “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng,

là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Cái độc của lá ngón

vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho

sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao, đặc biệt là của người phụ nữ. Nó

tô đậm thêm khát vọng đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, cho tình yêu, cho khát

vọng tự do và hạnh phúc đồng thời tố cáo xã hội bất công đã tước bỏ quyền

sống, quyền hạnh phúc của con người. Những cái chết thương tâm, những cảnh

đời bất hạnh,…chỉ có thể chấm dứt khi những hủ tục của xã hội phong kiến

không còn tồn tại.

3.3. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông

3.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người

Theo GS. Trần Đình Sử trong cuốn “Dẫn luận thi pháp học văn học” thì

“Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con

người trong nghệ thuật” [22; tr. 87]. Con người trong tác phẩm văn học là con 71

người là con người được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Văn

học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng

chủ yếu trong văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật hoặc đơn giản

là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Quan niệm nghệ thuật về

con người là sự cắt nghĩa, lí giải, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành

các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên

giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Nghiên cứu về

dân ca Mông, đặc biệt là tiếng hát làm dâu của người phụ nữ, chúng tôi nhận thấy,

quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ dân gian luôn hướng vào người phụ nữ

trong mọi chiều sâu của vấn đề. Cho nên đây được coi là tiêu chuẩn quan trọng

nhất để đánh giá giá trị nhân văn mà tác giả đem lại.

3.3.1.1. Người phụ nữ có ý thức cá nhân

Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi

bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con

người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của

tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Trong các bài

dân ca nói về tiếng hát làm dâu của người phụ nữ Mông, chúng tôi nhận thấy

quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ được tác giả dân gian phản ánh trước hết

là sự tự ý thức giá trị bản thân. Phụ nữ Mông chưa kết hôn, phần đa họ có đời

sống tinh thần lạc quan, giàu niềm tin và mơ ước. Đó là đặc trưng của tuổi trẻ,

của khát vọng và đam mê. Với nét rạng rỡ thuần khiết, thoảng mùi hoa cỏ hương

rừng, trong vắt như nước suối giặt lanh, duyên dáng như nếp váy mèo xập xoè

mỏm đá, phụ nữ Mông có đủ phẩm chất để tự tin và kiêu hãnh với vẻ đẹp vốn

có. Vẻ đẹp của người phụ nữ được cất lên thành câu hát dân ca:

Gầu Mông xinh đẹp như

Hoa mạch hoa lan nở lưng đồi

Làm cho đrâu Mông đứng là nhớ

Nằm là mê thấy ngay bên người [20; tr. 290]

Hình ảnh “hoa mạch hoa lan nở lưng đồi” chỉ những bông hoa tinh khôi hé nở

trong ánh bình minh trong làn sương nhẹ nhẹ lúc ẩn lúc hiện làm say lòng biết bao 72

người. Những cô gái Mông cũng vậy, họ hiện lên với hình ảnh tinh nguyên, trong

sáng và đáng yêu đang ở tuổi xuân thì tràn đầy sức sống. Cô gái Mông đã chiếm

trọn cảm tình, đã làm cho bao chàng trai phải say đắm đến nỗi “nằm là mê thấy

ngay bên người”. Câu hát ngợi ca tinh tế mà không khoa trương, ẩn ý, không kiểu

cách, màu mè.

Không chỉ ý thức được vẻ đẹp của bản thân mà cô gái mông còn ý thức

được khả năng và sự khéo léo của mình:

Ngón tay em quay khéo như xoáy trôn ốc

Lanh lợi cũng do em xe

Bàn tay em làm khéo như trôn chén

Sợi lanh cuốn cũng do tay em cuốn [24; tr. 65]

Đôi bàn tay với những ngón tay mềm mại không chỉ đẹp khi đeo nhẫn mà

còn như đẹp hơn trong lao động, nhất là công việc xe lanh dệt sợi, luôn cần tới

sự tỉ mỉ, nhịp nhàng. Cô gái Mông tự ví ngón tay mình xe lanh khéo như “xoáy

trôn ốc”, đều đặn, nhịp nhàng đi về một tâm điểm nhất định. Đời sống tự cung

tự cấp tự đặt ra cho người phụ nữ những quy chuẩn riêng. Người phụ nữ vừa

đảm đang, vừa khéo léo hoàn toàn có quyền được tự hào, được bày tỏ. Bài ca

thừa nhận tài năng của cô gái Mông và họ kiêu hãnh, tự hào với tài năng của

mình.

Chính vì ý thức được giá trị bản thân nên cô gái Mông chẳng ngại ngần

bày tỏ khi đứng trước đứng trước người mình thương:

Chỉ riêng em

Mới xứng chăm sóc giúp anh một gia đình

… Chỉ mình em mới đáng

Chăm lo cho anh một gia quyến [19; tr. 134]

Thiếu nữ Mông không hề e dè, ngập ngừng mà khẳng định ngay với

chàng trai, chỉ có cô gái mới có thể chăm sóc chàng và gia đình chàng trai. Ta

thấy sự mạnh mẽ và tự tin toát lên từ cô gái. Họ không chỉ nhìn nhận và đánh giá

mà còn dám khẳng định những giá trị của bản thân. Một điều quan trọng, phụ nữ

Mông đã dám khẳng định mình để đoạt được những điều mình mong muốn.

73

Ý thức được giá trị của bản thân song người phụ nữ Mông cũng ý thức

được số phận của mình. Họ có tài, họ khéo léo và họ thấy mình xứng đáng có

được những điều tốt đẹp trong tương lai. Đó là sự thật hiển nhiên và là mong

muốn hết sức bình dị nhưng hiếm khi thành hiện thực đối với phụ nữ Mông. Lấy

chồng và làm dâu là con đường đi không bằng phẳng với bất cứ người phụ nữ

Mông nào. Họ nhận thức được những đau khổ và ê chề trên con đường làm dâu

nhiều gập ghềnh, chông gai:

Con đường làm dâu gầu Mông

Như là tre mọc đan chéo

Như là cây mọc đan xen [19; tr. 121]

Cô gái Mông đã đoán trước được tương lai của mình, con đường làm dâu

rậm rạp như “tre mọc đan chéo”, như “cây mọc đan xen”. Cây cối tầng tầng lớp

lớp đan vào nhau tạo nên một bức tranh hỗn độn. Những khúc mắc cứ chồng lên

nhau, chằng chịt không thể gỡ nổi. Câu hát đã thể hiện sự hoang mang, rối bời

của cô gái cùng với tâm trạng lo lắng, sợ sệt. Đối với người phụ nữ Mông khi

làm dâu, gia đình chồng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với họ:

Gầu Mông đi được nửa con đường

Quay đi xem vòng quay lại ngắm

Thấy phương trời bố mẹ trong xanh

Thấy phương đất nhà chồng tối mịt [18; tr. 93]

Cô dâu Mông đã ý thức được tương lai trên con đường cô đang đi: “Thấy

phương đất nhà chồng tối mịt”. Đối mặt với những ràng buộc và áp bức từ nhiều

phía, phụ nữ Mông nhận định và đánh giá được mức độ bất công mà mình đang

phải gánh chịu với những hủ tục và định kiến đang đè nặng lên đôi vai họ. Điều

đáng sợ nhất là sự chai lì cảm xúc, sự vô cảm trước đau hương. Người phụ nữ

Mông đối mặt trực diện với khổ đau và bất công trong gia đình và xã hội.

Đối với quan niệm sáng tác của các tác giả dân gian Mông, nói về hình ảnh

người phụ nữ đặc biệt trong thân phận làm dâu, họ là những con người ý thức

được giá trị bản thân. Cô gái Mông ý thức được vẻ đẹp, giá trị của bản thân, họ

có đời sống tinh thần lạc quan, có ước mơ và khát vọng. Họ dám bày tỏ tình 74

cảm, thái độ của bản thân trước người mình yêu, dám khẳng định mình để đạt

được điều mong muốn. Đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của

cô gái Mông. Khi bước vào hôn nhân, mặc dù bị gả ép, theo sự sắp đặt của cha

mẹ nhưng người phụ nữ đã ý thức được con đường làm dâu đầy khổ cực của

mình. Những cô gái Mông khéo léo, chăm chỉ, có tài xứng đáng có được cuộc

sống bình yên, tốt đẹp nhưng đó chỉ là mơ ước mà thôi.

3.3.1.2. Người phụ nữ với ước mơ và khát vọng mãnh liệt

Có được tình yêu tự do là ước muốn của bất kì cô gái ở dân tộc nào và cô

gái Mông cũng vậy. Họ ước ao được sống với người mình yêu đến hết cuộc đời.

Thông thường, về mặt tình cảm, người đàn ông đóng vai trò chủ động và người

phụ nữ bị đặt trong tình thế bị động. Người con gái nắm thế chủ động, không

giữ mình sẽ bị xã hội lên án, mang điều tiếng cả đời. Nhưng trong dân ca dân tộc

Mông, ta lại thấy chàng trai cô gái Mông không theo lẽ thông thường. Cô gái

Mông liều lĩnh nói dối mẹ cha cùng chàng trai hẹn hò:

Nói dối người mẹ rằng

Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời lên,

Nói dối người mẹ rằng

Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời bay. [19; tr. 112]

Cô gái Mông không bị bó buộc trong tâm thế chờ đợi và bị động, cô sẵn

sàng nói dối cha mẹ để được ở bên người mình yêu. Tình yêu mãnh liệt có thể

giúp cô gái vượt mọi rào cản chỉ để được bên người mình thương. Cũng như các

dân tộc anh em khác, trai gái Mông khi yêu nhau thường tặng nhau những kỉ vật

do chính tay họ làm ra: chiếc khăn bằng lanh, tấm áo,... để khi xa nhau, những kỉ

vật ấy làm nguôi ngoai nỗi nhớ, có cảm giác gần bên người yêu. Cô gái Mông

mạnh bạo:

Em dạo bước sắp ra đi

Anh có dám cho mượn đôi vòng tay bạc

Đem về đeo để đỡ nhớ [19, tr. 144]

Ta thấy, giọng điệu của cô gái Mông đầy thách thức: “Anh có dám cho

mượn đôi vòng tay bạc”. Có thể nói, người con gái đang chiếm thế chủ động, 75

đẩy người con trai vào tình thế khó xử. Câu hát vừa thể hiện tình yêu mãnh liệt

và nỗi nhớ nhung thường trực của cô gái nhưng cũng là để thử thách tình yêu

của chàng trai. Khát khao về tình yêu, hạnh phúc của cô gái Mông thật mãnh liệt

vượt qua mọi ranh giới, vượt qua mọi sự ràng buộc của xã hội. Và họ ước mơ về

một tương lai tươi sáng:

Giá em lấy được anh

Em sẽ lo chậu nước sạch

Cho anh rửa mặt

Giá em lấy được anh

Em sẽ đổ chậu nước trong

Cho anh rửa chân. [19; tr. 158]

Bài ca thể hiện một ước mơ thật bình thường, giản dị nhưng sâu sắc và ý

nhị. Người con gái nguyện chăm sóc chàng trai từ những điều nhỏ bé nhất từ

chậu nước rửa mặt, rửa chân. Tình yêu vì thế, vừa đắm thắm, tự do, vừa bình dị

gắn liền với cuộc sống đời thường nhưng cũng không kém phần lãng mạn, bay

bổng. Tình yêu trong trái tim nhỏ bé của cô gái có sức mạnh phi thường đem lại

khát khao cháy bỏng.

Thực tế xã hội nghiệt ngã, người phụ nữ không có quyền tự do yêu đương

và lựa chọn hạnh phúc của mình. Biết bao cặp tình nhân yêu nhau tha thiết

nhưng rồi vẫn phải chia lìa. Hạnh phúc đối với người phụ nữ dường như là ảo

ảnh. Trước sự thật phũ phàng, người phụ nữ Mông chỉ mong muốn hóa thân,

thay đổi hình dạng để mong tìm kiếm được sự tự do và hạnh phúc. Những sự vật

được lựa chọn để thay đổi hầu hết đều có đặc tính tự do, không bị phụ thuộc như

con bướm, con chim, con ốc… hay những sự vật có đôi có cặp: kim chỉ, chim

nhạn… Ví như cô gái Mông trong lời hát muốn biến mình thành đôi chim cắt để

không bị ràng buộc, không phải cách xa:

Lúc này đôi ta đau buồn

Không lấy được nhau

Đôi ta ước gì biết biến

Biến thành đôi chim cắt

76

Thung thăng lượn mười chín vòng quanh núi lớn

Chẳng còn lo gì. [24; tr. 66]

Không lấy được người mình yêu thì họ chỉ còn là cái xác không hồn, là

con chim cắt bơ vơ lạc lõng giữa bầu trời cô đơn. Yêu và được yêu là quyền lợi

chính đáng của con người. Vậy mà người phụ nữ Mông phần đa không có quyền

lựa chọn bạn đời, bị phụ thuộc chặt chẽ vào những hủ tục, ràng buộc đời mình

với người họ không yêu. Đôi khi người phụ nữ ước mơ mình được hóa kiếp:

Nếu biết biến, em biến thành con hươu

Đôi ta chạy ba tháng ròng trên con đường cát bụi

Nếu biết hóa, em hãy hóa thành con trâu

Đôi ta chạy ba ngày ròng trên con đường mờ tịt. [24; tr. 149]

Dù bị dồn nén đến hoàn cảnh bi đát, họ cũng không bao giờ lìa bỏ khát

vọng tình yêu. Thậm chí họ còn tìm đến cái chết như một sự phản kháng để bảo

vệ và tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên kia. Cái chết của cô gái Mông

là sự đấu tranh, sự cảnh tỉnh người thân, sự phản kháng xã hội bất công và

chứng minh cho sức mạnh, cho sự bất diệt, vĩnh cửu của tình yêu tự do. Đồng

thời thể hiện khát vọng về tình yêu tự do, hôn nhân tự chủ của nam nữ Mông.

Chính vì khát vọng về hạnh phúc của họ quá lớn nên họ tin rằng cái chết có thể

giúp họ tìm được tự do, hạnh phúc thoát khỏi khổ đau bất hạnh. Và họ tìm đến

cái chết như một điều tất yếu:

Con sẽ vớ cuộn dây, nắm cành cây

Theo cuộn dây, nghìn năm con oán thán

Thịt con nát nhưng máu không nát

Máu thấm đầy vết váy... [24; tr. 215]

Người phụ nữ chọn cái chết bằng cách thắt cổ. Nỗi khổ đau cay đắng này sẽ

nhớ mãi không quên, nó thấm vào máu thịt để dù “thịt có nát” nhưng “máu

không nát”. Ta thấy nỗi oán hận trong lòng người phụ nữ vô cùng lớn bởi chỉ

khi bị đẩy vào con đường cùng nên người ta mới tìm đến cái chết. Có khi, họ

còn tìm đến lá ngón:

77

... Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón

Nhưng làm sao hết được đau lòng

Ăn lá ngón thật đắng ngông.

Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc

Nhưng làm sao khỏi được đau tim

Nuốt thì lá độc thật đắng kinh

Lá ngón tan gầu Mông hết thở ... [18; tr. 96]

Đó là hành động mang ý nghĩa tiêu cực, cây lá ngón là thứ cây độc và rất

đắng, không ai sẽ nghĩ rằng cuộc đời mình lại phải có lúc dùng đến nó, nhưng

khi bi ̣dồn đẩy không lối thoát, người ta phải dùng đến nó mà quên đi cái sợ, cái

đắng để được chết. Đó là một hành động thể hiện sự phản kháng cao độ của con

người trước những thế lực đã cướp đi quyền sống, quyền hạnh phúc của con

người.

Chế Lan Viên đã nhận xét: “Thơ H’mông có yếu tố tình cảm, có yếu tố

bản năng. Nhưng thơ H’mông cũng diễn tả suy nghĩ. Trong thơ H’mông có yếu

tố rất rõ của lý trí và ước vọng được giãi bày ...” [28; tr. 24]. Bởi thế, không hát

thì thôi, đã hát thì giãi bày cho hết, cho thoả nỗi lòng cũng như những khát vọng

cháy bỏng của người phụ nữ Mông. Ta thấy điểm đặc biệt của những người phụ

nữ Mông là họ ý thức được giá trị bản thân, ý thức được số phận của mình. Đối

với các tác giả dân gian, phụ nữ Mông là những người đầy ước mơ, khát vọng.

Họ khát vọng về hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc không bao giờ vơi cạn, họ sẵn

sàng tìm đến cái chết để khẳng định để bảo vệ và tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc ở

thế giới bên kia, đây chính là sự phản kháng của người phụ nữ Mông.

3.3.2. Quan niệm về hiện thực cuộc sống khắc nghiệt nhiều hủ tục đối

với người phụ nữ

Tác phẩm văn học bao giờ cũng tái hiện lại một đời sống, làm nhớ đến

một hiện thực nào đó. Hiện thực này sẽ mang dấu ấn chủ quan của nhà văn bởi

hiện thực cuộc sống luôn được phản ánh qua sự quan sát, nghiền ngẫm, suy tư

trăn trở của tác giả. Nó mang đậm những nét đặc trưng về nhân sinh quan, về thế

giới quan, về nhân cách và tấm lòng của nhà văn. Nghệ thuật nói chung văn học 78

nói riêng là một hình thái ý thức, một hình thức của nhận thức, do đó không tách

rời mảnh đất đời sống mà nó và cả chủ nhân của nó đã được nuôi dưỡng. Cố

nhiên, hiện thực trong tác phẩm văn học không phải là bản sao chép đời sống, và

tất nhiên không có một tác phẩm nào đủ khả năng bao quát toàn bộ quy mô của

đời sống. Hiện thực ấy là một hiện thực được ý thức, được khúc xạ qua lăng

kính chủ quan của chủ thể sáng tạo và thông qua ngôn ngữ, hiện thực ấy được

phơi bày phần bản chất nhất của nó để tác phẩm đạt đến tính chân thực cần thiết

của tác phẩm.

Nghiên cứu về đề tài Tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông, chúng tôi nhận

thấy các tác giả dân gian quan niệm về hiện thực cuộc sống của người phụ nữ

Mông trong xã hội xưa là xã hội vô cùng ngang trái, bất công. Qua lăng kính chủ

quan của các tác giả dân gian, người phụ nữ có cuộc sống vô cùng gian khổ, họ

chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Phụ nữ Mông hầu hết không biết

cái chữ, không được đi học, không được tiếp cận với sách vở và kiến thức. Sinh ra

và lớn lên, họ chỉ quanh quẩn với việc nhà, từ bé được bà và mẹ dạy làm lanh, xe

sợi, dệt vải, thêu hoa, tham gia công việc rương rẫy, đảm đương nội trợ. Con gái

trong nhà làm việc quần quật, quanh năm suốt tháng hết việc nhà lại việc nương

rẫy. Vậy mà họ vẫn bị khinh rẻ, sống kiếp nương gửi vào người khác.

Đứa con gái này đâu phải là đứa cầm thìa cúng bái

Nó không phải trụ cột trong họ

Nó chỉ là bông hoa dại nở giữa núi

Nó là con gái thì gả phắt nó đi [24, tr. 238]

Cũng giống các dân tộc khác: Kinh, Tày Nùng, Chăm,... nam giới Mông

đảm nhiệm những việc nặng nhọc như cày nương, phát rẫy, khai phá đất đai. Phụ

nữ thì lo việc bếp núc, làm nương, trồng lanh, dệt vải, may trang phục cho cả nhà.

Tuy nhiên, một điểm khác biệt trong tín ngưỡng dân tộc Mông là chỉ có người

đàn ông mới được thờ cúng tổ tiên dòng họ. Có lẽ vì thế, trong mọi lĩnh vực đời

sống xã hội Mông luôn có sự phân biệt giữa nam và nữ. Như trong tập quan sinh

đẻ của họ, khi đứa trẻ sinh ra, bố đứa trẻ dùng cật nứa cắt nhau thai rồi bọc nhau

thai trong tờ giấy bản. Nếu trẻ là trai thì nhau thai chôn dưới cột nhà vì người 79

Mông quan niệm đàn ông là trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là gái thì nhau thai chôn

dưới gầm giường vì con gái sẽ là người nuôi dạy con cái, quán xuyến việc gia

đình. Nhiều thành ngữ, tục ngữ Mông đã thể hiện rõ quan niệm này: “Đàn bà làm

chủ thì nghèo, gà mái gáy thì dở...”, “con gái chỉ giúp nhà một thời, con trai mới

giúp nhà cả đời”. Đối với người phụ nữ, xã hội không thừa nhận tài năng và vai

trò của họ.

Tác giả dân gian quan niệm người phụ nữ là nạn nhân thảm khốc và đau

thương của hủ tục “cha mẹ đặt đâu ngồi đấy” mà đến giờ có lẽ vẫn còn tồn tại

trong tộc người Mông, họ không có quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền tự

quyết, quyền làm chủ bản thân. Như bé Mỷ phải đi con đường làm dâu khi:

Bé Mỷ đi làm vợ, còn trẻ thơ

Ngủ, mẹ còn phải gối đầu tay

Ăn, mẹ còn phải ăn một miếng nhả một miếng

…Đi, bố còn phải cõng trên lưng. [24; tr. 202]

Một cô bé vẫn còn là đứa trẻ thơ dại, ăn ngủ vẫn phải nhờ đến bàn tay chăm

sóc của cha mẹ vậy mà giờ đây đã phải đi làm dâu, làm vợ. Người con gái chưa

kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì đã phải chịu cảnh làm dâu trăm điều canh

đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc, non nớt ấy.

Bé Mỷ trong bài dân ca đại diện cho hàng ngàn, hàng vạn em gái Mông lúc bấy

giờ. Ép gả lấy chồng sớm là thực tế phổ biến xuất hiện trong dân ca Mông mà hủ

tục này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Trước đây, họ bị thuộc vào cha mẹ thì

giờ đây học hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và gia đình chồng. Đối với người

phụ nữ khi làm dâu, cuộc sống ở nhà chồng là cơn ác mộng. Họ lấy chồng mà

như một thứ công cụ được gia đình chồng mua về để làm kiếp trâu ngựa:

Phận làm dâu như con ngựa trong tàu

Hý vang, giậm móng, nhìn cào cọc

…Bây giờ em là con dao trong bao của người. [24; tr. 276]

Người phụ nữ quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công việc nhà chồng,

sống kiếp trâu ngựa. Họ lấy chồng như mẹ chồng bỏ tiền ra mua họ như một thứ

công cụ lao động đa năng. Quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công việc, “làm 80

chín ngày mười thời gian”, chỉ có mùa làm chứ ko có mùa nghỉ. Hết việc nhà

đến việc nương rẫy, rảnh rỗi lúc nào lại xe lanh dệt sợi. Đời sống tinh thần của

người phụ nữ Mông, đặc biệt là thân phận làm dâu khiến người đọc không khỏi

xót xa, thương cảm. Hiện thực cuộc sống với những người phu nữ vô cùng khắc

nghiệt. Nói tới bi kịch hôn nhân của người phụ nữ Mông không thể không nhắc

tới tục “nối dây” khắc nghiệt:

Gái có chồng như cày có tay

Như ta đây, thân cô đơn mất chồng

…Thân gái hóa như cày không tay. [24; tr. 228]

Người phụ nữ vẫn không thoát khỏi sự ràng buộc với gia đình chồng.Ca

dao người Việt ví cảnh gái mất chồng “chồng chành như thuyền mất lái”, “nón

mất quai”…dân ca Mông ví với “cày không tay” khiến cày không sâu. Người ta

có cặp có đôi, ngày tết ngày hội vui vẻ đi chơi, mình thân cô đơn lẻ bóng thì làm

bạn với khóc cùng than…Tục nối dây của người Mông: người con gái đã về làm

dâu tức là được nhập ma nhà người. Chồng chết thì phải lấy anh, em trong họ.

Nếu như không có người để lấy thì phải ở vậy suốt ba năm rồi lúc đó mới được

đi lấy chồng khác. Khi đó nhà chồng sẽ là người đặt và thu tiền thách, tiền cheo.

Một trong những nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ cho các cô gái Mông,

nguyên nhân dẫn đến việc gả ép con gái lấy chồng sớm hay tảo hôn là do cha mẹ

hám tiền:

Bố con đem tiền người tiêu hết rồi

Tiền đến tay bố khác nào rồng già uống nước trôi,

Bố con đem vật người bán hết lâu

Vật đến tay bố khác nào rồng già chui hố sâu. [20; tr. 277]

Chính đồng tiền đã chi phối nhận thức của con người, làm con người quên

đi tình thương, tình yêu chân chính. Quyết định bị đồng tiền chi phối đẩy thiếu

nữ Mông đi vào con đường khổ ải, lấy phải người đàn ông mà bản thân không

yêu và phụ nữ Mông không có hạnh phúc là điều ta dễ dàng nhận thấy. Qua đó,

ta thấy các tác giả dân gian đã thể hiện quan niệm của mình về xã hội, một xã

hội bị chi phối bởi đồng tiền. Chính điều đó là nguyên căn dẫn đến sự đau khổ 81

cho người phụ nữ. Tìm hiểu hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ phản ánh

trong các bài dân ca về tiếng hát làm dâu, chúng tôi nhận thấy cuộc sống của

người phụ nữ vô cùng khổ cực. Cả cuộc đời họ bị trói buộc bởi lễ giáo, hủ tục,

không được quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, đặc biệt là con đường làm

dâu vô cùng cay đắng, tủi nhục.

Chúng tôi nhận thấy người phụ nữ Mông sống trong hôn nhân với bao nỗi

khổ cơ cực, tủi nhục. Một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra nỗi thống

khổ cho người phụ nữ chính là những hủ tục lạc hậu. Chúng tôi xin đề xuất các

giải pháp nhằm xóa bỏ các hủ tục đang tồn tại trong cộng đồng dân tộc Mông.

Nghiên cứu đời sống cộng đồng dân tộc Mông, chúng tôi nhận thấy việc tăng

cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm thay đổi nhận thức người dân tộc

thiểu số là rất quan trọng và quan trọng hàng đầu. Bởi, các hủ tục còn tồn tại

trong đời sống cộng đồng người Mông nói riêng và người dân tộc thiểu số nói

chung là do trình độ dân trí chưa cao, với sự hiểu biết về pháp luật đang còn rất

nhiều hạn chế. Hơn nữa, chúng ta đang thiếu phương pháp phổ biến, tuyên

truyền; bất đồng ngôn ngữ; thiếu cán bộ tận tâm và thiếu kinh phí. Để giải quyết

vấn đề này, cần tăng cường các hình thức, đổi mới phương thức; tăng cường

phối hợp phổ biến, tuyên truyền giáo dục kiến thức pháp luật cho người dân.

Trước tiên, chúng ta cần tác động làm thay đổi nhận thức bằng cách tập trung

vận động những vị cao niên, già làng, trưởng dòng họ vì chính họ là những

người tham gia, chỉ đạo, định hướng khá toàn diện nhận thức, việc làm của con

cháu, anh em, người thân trong gia đình, dòng họ; trong đó, có việc ma chay,

cưới xin. Sau đó là thay đổi nhận thức của thế hệ trẻ. Tăng cường tuyên truyền,

phổ biến, cung cấp thông tin, kiến thức pháp luật về hôn nhân và gia đình trong

trường học: Đưa nội dung giáo dục giới tính; các quy định pháp luật về hôn

nhân và gia đình (như điều kiện về độ tuổi kết hôn, những điều cấm trong hôn

nhân…) nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hôn nhân và

gia đình đối với học sinh. Triển khai các hoạt động phù hợp với các yếu tố về

văn hóa, giới tính, lứa tuổi và dân tộc để tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận

thức, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và phòng chống tảo hôn: Tuyên

truyền, vận động trực tiếp, trực diện thông qua các điểm truyền thông; qua các

hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý miễn phí tại cộng đồng. Để giải quyết hủ tục

82

còn tồn tại ở đồng bào dân tộc Mông nói riêng, đồng bào dân tộc thiểu số nói

chung, cần có sự chung tay, góp sức của các đoàn thể, các cấp, các ngành ở địa

phương. Thực hiện các biện pháp một cách một cách thường xuyên, liên tục,

kiên trì và phương pháp, cách thức thực hiện phải phù hợp với đặc trưng của

mỗi vùng miền thì mới có hiệu quả bền vững.

* Tiểu kết chương 3

Thơ ca dân gian Mông trong đó có dân ca Mông về tiếng hát làm dâu là

một bộ phận văn hoá đặc sắc chứa đựng những phong tục tập quán, nếp cảm,

nếp nghĩ, là triết lý sống của người dân tộc. Dân ca dân tộc Mông tuy đơn giản

về ngôn từ, mộc mạc, dân dã trong cách diễn đạt nhưng sâu sắc về ý nghĩa. Cách

nói giản dị, sử dụng ngôn ngữ gắn với đời thường, khẩu ngữ của người dân tộc

Mông được đưa và dân ca một cách nhuần nhị, tự nhiên kết hợp với hình thức

độc thoại, đối thoại đã phản ánh được cách diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ

khi làm dâu.

Qua ba biểu tượng đại diện cho thân phận làm dâu của người phụ nữ, ta

nhận thấy dân ca Mông là bức tranh hoàn thiện và đầy đủ về số phận người phụ

nữ Mông, đặc biệt là đối với người phụ nữ đã lập gia đình. Những nét đậm, nhạt

đan xen tô vẽ khắc hoạ chân thực kiếp làm dâu. Phụ nữ Mông đã giãi bày trực

tiếp nỗi lòng cũng như nỗi khổ của kiếp làm dâu đầy tủi cực. Con đường làm

dâu là con đường làm trâu làm bò, bị hành hạ, bị tước bỏ tự do và mất đi quyền

làm người thiết yếu nhất.

Tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông đã thể hiện được quan niệm nghệ

thuật của tác giả dân gian về con người và hiện thực cuộc sống nơi đây. Đó là

hình ảnh người phụ nữ có ý thức cá nhân, có ước mơ, khát vọng và có sự phản

kháng để tìm kiếm tự do của bản thân. Cùng với đó, là quan niệm về hiện thực

cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, người phụ nữ phải gồng lưng gánh lấy những hủ

tục, tục lễ nặng nề - nguyên nhân gây ra nỗi thống khổ cho người phụ nữ. Và

những hủ tục ấy phải bị bài trừ để cuộc sống của người dân tộc trở nên văn minh

hơn, để khi nhắc đến tiếng hát làm dâu sẽ không còn những tiếng than thân,

trách phận nữa.

83

KẾT LUẬN

Dân ca dân tộc Mông là một bộ phận văn hóa, văn học dân gian đặc sắc, ở

đó không chỉ chứa đựng đời sống tâm linh, phong tục tập quán, sinh hoạt cộng

đồng ... mà còn chứa đựng hiện thực cuộc sống với những ước mơ, khát vọng

của đồng bào dân tộc miền núi đặc biệt là ước mơ cháy bỏng, mãnh liệt về sự tự

do, mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ Mông. Người phụ nữ trong dân ca

Mông thường được đề cập qua phẩm chất, nét đẹp, số phận và cuộc sống hàng

ngày của họ. Trong quá trình tìm hiểu, chọn lọc và phân tích những giá trị nội

dung và nghệ thuật của luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông,

chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Dân ca dân tộc Mông là một bộ phận văn hóa đặc sắc phản ánh những

phong tục tập quán, nếp cả, nếp nghĩ, là triết lí cuộc sống được đúc kết qua các

thế hệ. Dân ca Mông với năm mảng đề tài chính đã phản ánh chân thực và sinh

động về cuộc sống và con người dân tộc Mông. Trong số đó, một hình ảnh

thường xuyên xuất hiện chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca Mông là hình ảnh

người phụ nữ. Họ hiện lên với vẻ đẹp về thể chất lẫn vẻ đẹp tâm hồn, làm nổi

bật thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ở đó, vẻ đẹp ngoại hình tinh

khôi mà hoang sơ, mềm mại cùng với sự cần cù, khéo léo và số phận kém may

mắn, sống bị phụ thuộc vào người khác đối với những người phụ nữ Mông.

2. Đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông khá khắc nghiệt, đặc biệt

là đối với thân phận làm dâu thì sự khắc nghiệt đó như được nhân lên gấp nhiều

lần. Khi làm dâu, phụ nữ Mông chỉ có quyền phục tùng vô điều kiện chồng và

gia đình chồng. Đến ở gia đình chồng – một nơi xa lạ, sống cùng những người

xa lạ không cùng huyết thống, người phụ nữ cô đơn lạc lõng ngay chính ngôi

nhà mình đang ở. Và nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, người thân là điều không thể

tránh khỏi và thậm chí, họ còn nhớ đến cả người tình cũ. Chính xã hội phong

kiến đã đẩy những người phụ nữ vào con đường bi ai này. Họ chỉ còn biết than

thân, trách phận đó là sự thở than về nỗi buồn bị gả ép, nỗi phiền muộn về thân

phận làm dâu nhỏ bé và nỗi thất vọng cùng sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia

đình chồng. Uất ức trước thực tại, tin vào một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên

kia nhiều phụ nữ trong dân ca Mông đã chạy trốn hoặc tìm đến cái chết như một 84

sự giải thoát. Qua đó, ta thấy được ước mơ, khát vọng mãnh liệt của người phụ

nữ, nó đã chi phối hành động và suy nghĩ của họ. Tiếng hát làm dâu trong dân

ca dân tộc Mông là hồi chuông cảnh tỉnh giáng vào xã hội phong kiến, phản ánh

nhận thức và thái độ phản kháng đầy quyết liệt của người phụ nữ.

3. Dân ca Mông đã sử dụng rất nhiều những phương diện nghệ thuật độc

đáo để khắc họa nỗi lòng của người phụ nữ khi làm dâu. Dân ca Mông không sử

dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, không trau chuốt câu chữ mà ngôn ngữ

trong các bài dân ca vô cùng dễ hiểu, mộc mạc, giản dị gần gũi với lời ăn tiếng

nói hằng ngày của người dân tộc. Hình tượng nghệ thuật được coi như sự cố gắng

của con người trong quá trình giải mã những điều tiềm ẩn chưa được khám phá.

Hình tượng trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu là hình tượng loài vật (trâu

bò); hình tượng nước mắt và hình tượng lá ngón. Tất cả đều thể hiện nỗi thống

khổ của người phụ nữ trong kiếp làm dâu đầy đắng cay, tủi nhục, đồng thời phản

ánh những ước mơ bình dị, vô cùng chính đáng của họ. Qua đó, quan niệm nghệ

thuật về con người và hiện thực cuộc sống của tác giả dân gian được thể hiện rõ

nét. Quan niệm của tác giả đối với người phụ nữ trong hôn nhân là người có ý

thức cá nhân, có ước mơ, khát vọng và có sự phản kháng để tìm kiếm tự do của

bản thân. Cùng với đó, là quan niệm về hiện thực cuộc sống vô cùng khắc

nghiệt, người phụ nữ phải chịu trói buộc bởi những lễ giáo, hủ tục phong kiến.

Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm xóa bỏ hủ tục lạc hậu

trong phong tục hôn nhân của người Mông.

4. Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông có mối quan hệ gắn bó

mật thiết với đời sống tinh thần của đồng bào Mông, đặc biệt là người phụ nữ.

Ngày nay phụ nữ được xem như là một nửa cuộc sống. Họ vẫn giữ vẻ đẹp truyền

thống của phụ nữ xưa. Nhưng vẻ đẹp, vai trò, vị trí của phụ nữ ngày nay được

khẳng định trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Phẩm chất của người phụ nữ với

những tiếng hát dân ca đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hóa dân tộc, niềm tự

hào của con người đất nước Việt Nam.

Đề tài “Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông” mà chúng tôi

nghiên cứu sẽ là cơ sở, căn cứ hữu ích cho những công trình nghiên cứu lớn với

phạm vi rộng hơn và toàn diện hơn.

85

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Ngọc Anh, Lê Thu Hường (2019), Tiếng hát làm dâu của người

phụ nữ Mông qua dân ca, Từ điển học & Bách khoa thư, số 6 (62) tháng

11/2019, tr12 -17.

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mai Ba (Tuyển chọn – 2001), Lời của núi, Nxb văn hóa dân tộc.

2. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

3. Vũ Hồng Cường (2010), Tiếng hát tình yêu lứa đôi trong dân ca H’Mông Hà

Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

4. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp luận và

nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

5. Gia Dũng (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX,

Nxb Văn hóa dân tộc.

6. Lê Bá Hán – Trần Đỉnh Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Hùng Thị Hà (2015), Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa, Luận án

tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

8. Hùng Thị Hà (2008), Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân

gian Mông, số tháng 8+9, Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.

9. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa,

Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Bích Hậu (2009), Biểu tượng như là “đơn vị” cơ bản của văn

hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Hiệu (2005), Dân tộc Mông ở Việt Nam, mienstudy.net.

12. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông, Luận

văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

13. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp, Nxb

Khoa học Xã hội, H.

14. Tô Hoài (1965), “Tiếng hát làm dâu” – tiếng hát đau thương căm hờn, tiếng

hát thiết tha, hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo, số tháng 2, Tạp chí văn học.

15. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

87

16. Trường Lưu – Hùng Đình Quý (1996), Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang, Sở

Văn hóa – Thông tin – Thể thao Hà Giang.

17. Hoàng Phê (chủ biên - 1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

18. Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang (tập 1), Sở Văn hóa Thông

tin tỉnh Hà Giang.

19. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 2), Sở Văn hóa Thông

tin tỉnh Hà Giang.

20. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 3), Sở Văn hóa Thông

tin tỉnh Hà Giang.

21. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ văn học thiểu số (Hoa văn

thổ cẩm tập 3), Nxb Văn hóa Dân tộc.

22. Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học, Nxb Đại học Sư Phạm

Hà Nội, H.

23. Doãn Thanh (Sưu tầm – biên dịch) (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn

học, H.

24. Doãn Thanh – Hoàng Thao – Chế Lan Viên (1984), Dân ca H’mông, Nxb

Văn học.

25. Nguyễn Kiến Thọ (2008), Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kì hiện

đại (Từ 1945 đến nay), Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, ĐH Thái Nguyên.

26. Nguyễn Kiến Thọ (2012), Thơ ca dân tộc Mông – từ truyền thống đến hiện đại,

Luận án Tiến sĩ ngữ văn, ĐH Thái Nguyên.

27. Viện khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Văn hóa dân gian – một chặng đường

nghiên cứu, Nxb KHXH, Hà Nội.

28. Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 19, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

* Tài liệu tham khảo trên các website, trang mạng điện tử

29. Hoàng Diệu (2010), Đặc điểm dân tộc Mông trong cộng đồng các dân tộc

Việt Nam

https://backan.gov.vn/Pages/tim-hieu-bac-kan-129/con-nguoi-bac-kan-

142/Dac-diem-dan-toc-Mong-tro-6144270a9aadf7cd.aspx

88

30. Giang Lâm (2015), Văn hóa – lịch sử dân tộc Hmông

https://m.facebook.com/vanhoalisuhmong.vn/posts/1568816623381261

31. Anh Phương (2014), Phong tục cưới hỏi độc đáo của người H'Mông

https://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/lao-cai/phong-tuc-cuoi-hoi-doc-

dao-cua-nguoi-h-mong-2931665.html

32. Hồng Phượng, Phong tục tang ma của người Mông ở Hà Giang

http://thegioidisan.vn/vi/phong-tuc-tang-ma-cua-nguoi-mong-o-ha-

giang.html

33. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietN

am/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&ar

ticleId=10038365

89

PHỤ LỤC

Bảng 1: Bảng thống kê số lượng tác phẩm thể hiện tiếng lòng

của người phụ nữ làm dâu trong dân ca Mông

STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ

tác phẩm

1 Nỗi nhớ về gia đình 17 27,9%

2 Nỗi nhớ về thời xuân tươi đẹp 22 36,1%

3 Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé 36 59%

4 Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia 39 63,9%

đình chồng

5 Ước vọng trở về với cuộc sống tự do 34 55,7%

6 Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận 31 50,8%

Bảng 2: Bảng khảo sát số lượng tác phẩm sử dụng thủ pháp nghệ thuật

so sánh và kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu

Thủ pháp Số lượng tác phẩm

nghệ thuật Tổng số Tỉ lệ Chỉ sử dụng Tỉ lệ Sử dụng kết hợp Tỉ lệ

(%) một biện pháp (%) hai biện pháp (%)

so sánh/ kết so sánh/ kết cấu

cấu trùng điệp trùng điệp

Thủ pháp 50 82 3 4,9 47 77

so sánh

Thủ pháp 59 96,7 12 21,3 47 77

trùng điệp

Bảng 3: Bảng thống kê một số hình tượng về tiếng hát làm dâu

trong dân ca dân tộc Mông

STT Tên hình tượng Tần số xuất hiện theo đơn Tổng số lần xuất hiện

vị tác phẩm

1 Nước mắt 52 45

2 Gà 19 17

3 Bò 21 16

4 Lanh 12 11

5 Hoa 10 8

6 Váy 14 10

7 Trâu 55 52

8 Lá ngón 64 55