ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––
LÊ THU HƯỜNG
TIẾNG HÁT LÀM DÂU TRONG DÂN CA
DÂN TỘC MÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên, năm 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––
LÊ THU HƯỜNG
TIẾNG HÁT LÀM DÂU TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG
Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Ngọc Anh
Thái Nguyên, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Ngọc Anh và sự giúp đỡ của
các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Các
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
i
Lê Thu Hường
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Ngọc Anh - người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ Văn,
phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận
tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu
để hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
ii
Lê Thu Hường
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii
Mục lục ......................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 9
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 9
NỘI DUNG.......................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10
1.1. Dân ca Mông trong không gian văn hóa, văn học Mông .............................. 10
1.1.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học ........................................................ 10
1.1.2. Dân ca Mông - giai điệu giàu bản sắc trong văn hóa, văn học Mông. .............. 15
1.2. Hình ảnh người phụ nữ Mông trong dân ca dân tộc Mông ........................... 23
* Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 27
CHƯƠNG 2. TIẾNG LÒNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM DÂU TRONG
DÂN CA MÔNG ................................................................................................ 29
2.1. Tâm trạng nhớ thương khi làm dâu .............................................................. 30
2.1.1. Nỗi nhớ về gia đình ................................................................................... 30
2.1.2. Nỗi nhớ về thời thanh xuân tươi đẹp......................................................... 32
2.2. Sự phiền muộn trong phận làm dâu ............................................................. 37
2.2.1. Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé .................................................... 38
2.2.2. Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng .......................... 41
iii
2.3. Ước vọng của người phụ nữ khi làm dâu ..................................................... 46
2.3.1. Ước vọng trở về với cuộc sống tự do ........................................................ 46
2.3.2. Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận ................................................. 50
* Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 53
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TIẾNG HÁT LÀM DÂU
TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG ............................................................ 55
3.1. Ngôn ngữ ...................................................................................................... 55
3.1.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của
người dân tộc Mông ............................................................................................ 56
3.1.2. Một số biện pháp nghệ thuật trong ngôn ngữ dân ca Mông ..................... 60
3.2. Hình tượng nghệ thuật .................................................................................. 64
3.2.1. Hình tượng về loài vật (trâu, bò) ............................................................... 65
3.2.2. Hình tượng nước mắt ................................................................................ 67
3.2.3. Hình tượng lá ngón .................................................................................... 69
3.3. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông ....................................... 71
3.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người ......................................................... 71
3.3.2. Quan niệm về hiện thực cuộc sống khắc nghiệt nhiều hủ tục đối với người
phụ nữ .................................................................................................................. 78
* Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 83
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 84
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ....................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 87
iv
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số nói chung là một bộ phận quan trọng tạo nên
nét vẽ hoàn chỉnh cho bức tranh văn học Việt Nam. Trong đó, dân ca của đồng
bào dân tộc thiểu số được xem là một trong những bộ phận quan trọng để tạo
nên bức tranh hoàn chỉnh đó. Nó là nét phác họa cơ bản giúp ta hình dung được
đời sống vật chất, tinh thần cũng như lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc đó
từ thời điểm khai sinh cho đến ngày nay. Nguồn dân ca giống như một trung tâm
lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa quý giá cho mỗi dân tộc với đặc trưng
của nó là hình thành và tồn tại trong tổng thể văn hóa dân gian. Hiểu dân ca
cũng có nghĩa là hiểu tâm tư, tình cảm, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ... của
dân tộc đó. Đặc biệt trong một địa phương có cộng đồng người dân tộc thiểu số
đa dạng mà chủ yếu là người dân tộc Mông thì vấn đề nghiên cứu dân ca của các
dân tộc ở đây lại càng cần được chú trọng hơn. Thông qua lời văn trong dân ca,
người Mông đã lưu giữ lại những giá trị văn hóa truyền thống do ông cha truyền
lại, đồng thời thể hiện ước mơ về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc. Khi
nghe và cảm nhận dân ca Mông, chúng tôi bị hấp dẫn bởi nội dung phong phú,
sự phản ánh những phong tục tập quán truyền thống đa dạng sinh động cùng
nghệ thuật biểu hiện độc đáo, mộc mạc mà đậm triết lí sống sâu xa của tộc người
Mông.
1.2. Đồng bào dân tộc Mông thường được biết đến với nhiều nét văn hoá
độc đáo và nơi đây cũng chính là một kho tàng ca dao, dân ca vô cùng phong
phú đa dạng. Nhận xét về giá trị của dân ca Mông, Chế Lan Viên từng viết: “Có
hàng trăm bài có thể nằm không hổ thẹn trong những tập thơ hay của thế giới”
[24; tr. 16]. Đó là kho tàng văn hóa phi vật thể vô cùng quý báu của dân tộc
Mông nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Cũng như người Việt, ngay từ
thuở nằm nôi, người Mông đã quen với dân ca qua lời ru tiếng hát của bà, của
mẹ. Lời ca tiếng hát sẽ theo họ trong suốt cuộc đời từ lúc bé cho đến khi nhắm
mắt xuôi tay. Dân ca Mông đã làm tròn sứ mệnh trong việc lưu giữ nỗi lòng của
người bình dân. Trong thế giới đó, nổi bật lên là những bài dân ca về đời sống
tinh thần của người phụ nữ Mông đặc biệt phận làm dâu của người phụ nữ với 1
nội dung chính yếu được phản ánh là nỗi thống khổ, bế tắc của kiếp làm dâu.
Nghiên cứu những bài dân ca ấy, chính là tìm hiểu và khám phá về niềm vui
cũng như những đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ. Người phụ nữ Mông luôn
là nạn nhân của chế độ phong kiến, của bọn cường hào và chúa đất. Họ bị thủ
tiêu quyền tự do, quyền hạnh phúc và thậm chí cả quyền sống, quyền làm người.
Dân ca chính là nơi họ gửi gắm biết bao nỗi niềm. Ẩn đằng sau mỗi câu hát là
biết bao niềm vui, nỗi buồn, với rất nhiều những sắc thái, cung bậc tình cảm
khác nhau đồng thời thể hiện tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào trong
cuộc sống thường ngày. Điều đó giúp các nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc hiểu
rõ hơn về đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông, đặc biệt trong tục hôn
nhân. Từ đấy, giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống
và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam hôm nay, đồng thời
xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp trong đời sống văn hoá tinh thần
nhân dân là một yêu cầu ngày càng cấp thiết, góp phần xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.3. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang rất quan tâm tới vấn đề văn hoá
miền núi đặc biệt là khu vực các dân tộc thiểu số vùng cao. Trong Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
[33]. Vì vậy, việc sưu tầm, khai thác di sản dân ca của vùng dân tộc thiểu số, đặc
biệt là đồng bào Mông sẽ giúp các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa,
văn học dân tộc thiểu số ngày càng phát triển. Góp phần giữ gìn và phát huy các
phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn
con người Việt Nam hôm nay, đồng thời xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không
phù hợp trong đời sống văn hoá tinh thần nhân dân là một yêu cầu ngày càng
cấp thiết, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục
vụ sự nghiệp Cách mạng hiện nay cũng như lâu dài.
1.4. Trong quá trình nghiên cứu về đời sống tinh thần của người phụ nữ,
đặc biệt người phụ nữ khi làm dâu, đã có nhiều tác giả quan tâm đến việc tìm
hiểu hình ảnh người phụ nữ Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ
dừng lại ở việc tuyển chọn và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông
2
trong các tuyển tập thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc những bài viết
riêng lẻ của một số tác giả, ít có công trình nghiên cứu một cách quy mô. Nhìn
chung, tất cả các công trình nghiên cứu về người phụ nữ Mông trong văn học
mới chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện
và hệ thống, chưa làm nổi bật được thân phận người phụ nữ Mông đối với nền
thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam nói chung. Do đó,
rất cần thiết phải có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nghiên cứu một
cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra được hình ảnh người phụ nữ khi làm dâu
đặc biệt là nỗi lòng của họ để độc giả có cái nhìn cụ thể về phận làm dâu người
phụ nữ Mông. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Tiếng hát làm dâu
trong dân ca dân tộc Mông” cho luận văn của mình. Thực hiện luận văn này,
chúng tôi mong muốn hiểu rõ hơn về thân phận làm dâu của người phụ nữ trong
dân tộc Mông, qua đó hiểu được quan niệm về hôn nhân của người Mông cũng
như phong tục tập quán và bản sắc văn hóa của dân tộc này thông qua các làn
điệu dân ca. Mặt khác, qua việc thực hiện luận văn, chúng tôi muốn góp thêm
công sức vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời
góp phần kiến nghị, đề xuất xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với xã
hội hiện đại ngày nay.
2. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu về dân ca Mông không còn là vấn đề mới trong việc nghiên cứu
văn học dân tộc thiểu số nói chung nhưng cần tìm hiểu, nghiên cứu rộng và sâu
hơn nữa những vấn đề về nội dung cũng như nghệ thuật trong dân ca Mông để
làm sáng tỏ hơn những giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu số, vị trí của dòng
văn học cổ truyền trong dòng chảy chung của nền văn học nước nhà. Điểm lại
lịch sử nghiên cứu về dân ca Mông có thể thấy rằng, đã có hàng trăm bài viết
đăng trên các báo và tạp chí cùng rất nhiều những chuyên luận, công trình
nghiên cứu về vấn đề này.
Tiến trình nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông theo nhiều tác giả mới chỉ
được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây. Đầu tiên, công trình
sưu tầm của nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quý với ba tập
Dân ca Mông ở Hà Giang đã đặt những viên gạch đầu tiên cho diện mạo thơ ca
3
dân tộc Mông. Trong các công trình nghiên cứu, Hùng Đình Quý đã công bố
những bài dân ca Mông Hà Giang (cả bằng tiếng Mông, cả bản dịch tiếng Việt),
đó là những bài dân ca do tác giả sưu tầm từ một số nghệ nhân người Mông ở
các huyện vùng cao Hà Giang như: Đồng Văn, Quản Bạ, Mèo Vạc... Đây là cơ
sở để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về vốn văn hóa, văn học của đồng bào dân tộc
thiểu số, cụ thể dân tộc Mông.
Trên cơ sở sưu tầm, dân ca Mông bắt đầu được các nhà văn, nhà nghiên
cứu quan tâm tìm đến và giới thiệu trong các công trình nghiên cứu, trong các
luận văn, đề tài nghiên cứu. Dân ca Mông đã được tìm hiểu trong một số giáo
trình của các tác giả: Đỗ Bình Trị, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên, Hoàng
Tiến Tựu với những đặc trưng riêng qua sự khái quát từng tác giả. Năm 1965,
nhà văn Tô Hoài với bài viết Tiếng hát làm dâu, tiếng đau thương căm hờn,
tiếng thiết tha hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo đã góp phần làm phong phú
thêm bức tranh dân ca đân tộc Mông. Trong bài viết, tác giả đã tập trung đến chủ
đề tiếng hát làm dâu của dân ca Mông. Tô Hoài cắt nghĩa về số phận bất hạnh
của những người phụ nữ Mông trong xã hội cũ. Trong phần Lời giới thiệu cuốn
Dân ca Mèo, nhà sưu tầm Doãn Thanh đã có một số nhận xét về Tiếng hát làm
dâu và phụ nữ Mông: “Tiếng hát làm dâu, tiếng Mèo gọi là Gầu ua nhéng (Gâux
uô nhangs) diễn tả mọi nỗi khổ đau uất ức của người phụ nữ trong xã hội cũ. Xã
hội dân tộc Mèo ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị người phụ nữ rất
thấp kém. Những nạn tảo hôn, cưỡng hôn, những cảnh làm dâu bị đầy đoạ như
trâu ngựa. Suốt đời người phụ nữ bị buộc chết vào nhà chồng. Người phụ nữ vô
cùng đau khổ, hầu như không có quyền sống. Tình cảm họ bị chà đạp, thể xác bị
dập vùi, họ chỉ còn biết dùng lời hát mà kể lể, thở than cho cảnh ngộ đau
thương oan trái của mình. Họ cũng dùng lời hát để nguyền rủa cái chế độ bất
công khắt khe của xã hội cũ. Tiếng hát làm dâu thể hiện sự đấu tranh chống tập
tục và lễ giáo phong kiến của các nàng dâu Mèo trong xã hội cũ…” [23]. Bằng
vài nét phác thảo, Doãn Thanh đã cho người đọc những hiểu biết cơ bản về số
phận người phụ nữ Mông xưa qua dân ca.
4
Công trình mang tính chất chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về dân ca
Mông là luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân gian H’mông
(Hà Nội 2003). Tác giả công trình đã khảo sát thơ ca dân gian Mông về giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa. Đây là công trình có ý nghĩa khái
quát về thơ ca Mông nói chung, tuy nhiên luận văn chưa đi sâu vào nghiên cứu
một phương diện cụ thể trong thơ ca Mông. Có thể nhận thấy ở những phương
diện trên, các tác giả chủ yếu tập trung khảo sát dân ca Mông về nội dung biểu
hiện và một số yếu tố thi pháp. Các tác giả có nhắc đến lời văn nghệ thuật trong
dân ca Mông nhưng mới chỉ là gợi dẫn mà chưa đi vào phân tích ý nghĩa cụ thể.
Bằng những nét phát họa về nội dung cũng như nghệ thuật trong thơ ca dân gian
Mông, chúng tôi nắm rõ hơn những đặc điểm về thể loại này. Đây sẽ là cơ sở để
chúng tôi tìm hiểu về đặc điểm dân ca Mông với những mảng đề tài chính của nó.
Công trình gần đây nhất là luận án tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Kiến Thọ
(ĐHSP Thái Nguyên) về Thơ ca dân tộc Mông - từ truyền thống đến hiện tại
(2012) hay luận văn thạc sĩ về Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kì hiện
đại (2008). Luận án tiến sĩ của Bùi Xuân Tiệp (ĐHSP Hà Nội) về Dân ca Gầu
Plềnh và lễ hội Gầu Tào của người HMông ở Lào Cai - truyền thống và biến đổi
(2015). Đây là các công trình có ý nghĩa khái quát về thơ ca Mông nói chung,
tác giả đã đưa ra những nhận xét quan trọng về phương diện nội dung, nghệ
thuật của dân ca Mông. Trong luận văn, tác giả đã nhắc đến một vài khía cạnh
trong nội dung tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông. Mặc dù những nhận xét đó
chỉ mang tính chung nhất, với những khám phá ban đầu nhưng sẽ là cơ sở để
chúng tôi triển khai những nội dung chính về thân phận làm dâu của người phụ
nữ Mông. Hay là luận văn thạc sĩ của Vũ Hồng Cường (ĐHSP Thái Nguyên) về
vấn đề Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca Mông Hà Giang (2010). Đây
là một đề tài nghiên cứu đi sâu vào các khía cạnh giá trị nội dung và nghệ thuật
của dân ca Mông Hà Giang ở đề tài về tình yêu lứa đôi. Dựa vào kết quả nghiên
cứu của luận văn này, chúng tôi rút ra được những đặc điểm về người phụ nữ
Mông, đồng thời hiểu được những ước mơ khát vọng và nỗi lòng của họ trong
cuộc sống thường ngày. Ngoài ra, có luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Hoa 5
(ĐHSP Thái Nguyên) về vấn đề Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông
(2013). Đề tài này đi sâu nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ Mông, từ đó
thấy được một cách cụ thể toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần, số phận và mối
quan hệ của họ với xã hội người Mông. Đồng thời phát hiện và tôn vinh ý thức
tự tôn, tự hào và khả năng vượt thoát của người phụ nữ Mông trước hiện thực
đời sống xã hội. Đề tài này giúp chúng tôi thấy được vai trò và vị trí cũng như số
phận của người phụ nữ Mông nói chung. Phụ nữ Mông xưa chịu nhiều tầng hủ
tục và định kiến. Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu và sâu chuỗi lại đặc điểm
tâm lí của người phụ nữ khi làm dâu, đặc biệt là nỗi lòng của phụ nữ Mông trong
phận làm dâu.
Ngoài ra, có thể điểm qua một số công trình mang tính chất tập hợp và giới
thiệu thơ văn dân tộc Mông như: tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ
XX (Nxb Văn hóa dân tộc, 2000); Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam
1945 – 1985 (Nxb Văn hóa, 1981); các tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu: 40 năm
văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb Văn hóa Dân tộc, 1985);
Vấn đề đặt ra với các nhà thơ văn học thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hóa Dân
tộc, 2002); Những đỉnh núi du ca của Nguyễn Mạnh Tiến (Nxb Tri thức, 2017)...
Nhìn chung, các công trình này đã giới thiệu những nét khái quát về dân ca Mông
nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung. Có thể khẳng định, dân ca Mông
đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học
và đội ngũ những người nghiên cứu trẻ hiện nay. Nhiều công trình, đề tài, bài viết đã
tìm hiểu dân ca ở nhiều phương diện khác nhau như: nội dung, nghệ thuật, hình thức
diễn xướng, hình ảnh biểu tượng trong dân ca. Tất cả những công trình trên sẽ là
nguồn tài liệu vô cùng quý giá để chúng tôi tìm hiểu đặc điểm về văn hóa và dân ca
Mông, là nguồn tư liệu để chúng tôi có cơ sở đi sâu phân tích về đời sống tinh thần
của người phụ nữ Mông, nhất là trong phận làm dâu.
Từ những tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu dân ca Mông, chúng tôi nhận thấy,
chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về mảng đề tài này mà đặc biệt là hướng
nghiên cứu với góc nhìn tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông. Nhìn chung, vấn đề
người phụ nữ trong dân ca Mông chưa được khảo sát một cách tỉ mỉ, có hệ thống. 6
Mặc dù người phụ nữ trong dân ca đã được nhắc tới ở một số công trình và bài báo
của nhiều tác giả, tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu mới chỉ đề cập đến vấn
đề này một cách khái quát qua một số công trình hay một số ý kiến ngắn hoặc qua
một vài chuyên mục nhỏ trong chuyên luận. Trên cơ sở tham khảo, tiếp thu những
ý kiến, những định hướng quý báu trong các công trình nghiên cứu đi trước, chúng
tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống hơn vấn đề Tiếng
hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông. Chúng tôi khẳng định kết quả nghiên cứu
đề tài này sẽ giúp độc giả có một cách nhìn toàn diện và sâu sắc về bản sắc văn hóa,
văn học vô cùng độc đáo của người dân tộc thiểu số góp phần vào việc bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa dân tộc đồng thời xoá bỏ những yếu tố lạc hậu,
không phù hợp với xã hội hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Tiếng hát làm dâu trong dân ca
dân tộc Mông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cuốn Dân ca H’Mông, Doãn
Thanh - Hoàng Thao - Chế Lan Viên (1984), Nxb Văn học, Hà Nội. Ngoài ra, đề
tài còn sử dụng ba tập dân ca Mông Hà Giang do nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian Hùng Đình Quý sưu tầm: Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang,
Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Giang (tập 1, 2, 3).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông” – luận
văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật về tiếng hát làm dâu
trong dân ca của người Mông. Qua đó làm rõ số phận của người phụ nữ khi làm
dâu và tục lệ hôn nhân của người Mông.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đối với luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông, chúng tôi
xác định nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu là khảo cứu những giá trị về nội dung và 7
nghệ thuật của những bài dân ca dân tộc Mông viết về tiếng hát làm dâu, qua đó
làm nổi bật những nét đặc sắc của những thể loại đó trong văn học dân gian. Từ
việc nghiên cứu tìm hiểu Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông, luận
văn đi đến khẳng định những giá trị của của dân ca dân tộc Mông nói riêng và
dân ca dân tộc thiểu số nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: Đây là phương pháp được sử
dụng trong vệc khảo sát dân ca Mông, nhằm có được những cứ liệu xác đáng cho
các luận điểm của người viết. Chúng tôi sử dụng phương pháp này để nghiên cứu
các vấn đề một cách khoa học và cụ thể, nhằm có một cái nhìn toàn diện và rõ
ràng, theo hệ thống những khía cạnh khác nhau về tiếng hát làm dâu trong dân ca
Mông.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các
tài liệu lý luận về lời văn nghệ thuật, về lý thuyết bảo tồn và phát huy, phân tích
tác phẩm văn học để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Từ đó tổng hợp các vấn đề
nghiên cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu. Đây là phương
pháp không thể thiếu khi nghiên cứu tác phẩm văn học. Phương pháp này giúp
chúng tôi mô tả và thể hiện đối tượng nghiên cứu được sâu sắc, toàn diện và
khách quan hơn.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh: Phương pháp này chúng tôi sử dụng để so
sánh diện mạo dân ca Mông với các dân tộc khác, đối chiếu văn hóa Mông với văn
hóa các dân tộc khác để tìm ra nét riêng bản sắc trong dân ca dân tộc Mông.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi và
phỏng vấn sâu về các vấn đề liên quan đến luận văn, đi sâu vào mục đích nghiên
cứu, gắn với thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng phương pháp này
nhằm tìm hiểu những hủ tục còn tồn tại trong đời sống của người Mông, từ đó đề
xuất các biện pháp cụ thể nhằm bài trừ các hủ tục để cuộc sống của người dân tộc
trở nên văn minh hơn, để khi nhắc đến tiếng hát làm dâu sẽ không còn những
tiếng than thân, trách phận nữa.
8
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Việc tìm hiểu tiếng hát làm dâu
trong dân ca Mông cần có sự phối kết hợp kiến thức chuyên môn của nhiều ngành
khoa học khác như: xã hội học, văn hoá học, dân tộc học… Sử dụng phương pháp
này, đề tài sẽ tiếp cận dân ca Mông dưới góc độ văn hóa, dân tộc để nghiên cứu, lí
giải những qui luật đặc thù cũng như những nét đặc thù trong đời sống tinh thần
của người phụ nữ Mông, đặc biệt là thân phận làm dâu của họ. Bởi vậy, phương
pháp nghiên cứu liên ngành đóng vai trò then chốt, là chìa khoá cơ hữu để giải mã
những thông điệp khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông là công trình đầu
tiên nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tiếng hát làm dâu trong dân ca của
người Mông, với mục tiêu làm rõ những nhận thức về giá trị và vẻ đẹp tâm hồn,
vẻ đẹp văn hóa của người dân tộc Mông thông qua hình ảnh người phụ nữ trong
dân ca Mông. Nghiên cứu luận văn này, chúng tôi muốn đóng góp thêm tiếng nói
trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời xoá
bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với xã hội hiện nay để khẳng định sự bền
vững của bản sắc văn hóa dân tộc trong nét đẹp của dân ca Mông. Đây cũng là
một công trình nghiên cứu có thể làm tư liệu thiết thực cho giáo viên để giảng dạy
cho học sinh trong những tiết văn học địa phương.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Tiếng lòng của người phụ nữ làm dâu trong dân ca dân tộc Mông
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Dân ca Mông trong không gian văn hóa, văn học Mông
1.1.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình,
biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Văn
học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con
người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể
hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Trong mối quan hệ giữa
văn hóa và văn học, văn hóa là đề tài, là chủ đề mà văn học muốn phản ánh, còn
văn học là không gian để các giá trị văn hóa tồn tại và phát triển.
Dân tộc Mông có nhiều tên gọi và cách viết khác nhau trên sách báo, các
văn bản của cơ quan Nhà nước như: Mèo, HMông, H’Mông, Mông, HMông.
Vậy cách đọc và viết như thế nào mới đúng? Tại hội nghị cốt cán năm 1978 đã
chính thức gọi tên dân tộc này là dân tộc Mông. Sau đó, các văn bản của Đảng và
Nhà nước đều viết là Mông. Công văn số 09-CV/HĐDT ngày 04/12/2011 tại Hội
đồng Dân tộc của Quốc hội (khóa X) có công văn nêu rõ: “Tên gọi dân tộc
Mông, nếu viết bằng chữ phổ thông là ngôn ngữ chính thức của Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì viết là dân tộc Mông”. Vì vậy, nhà nước ta đã
thống nhất phiên âm tên gọi đồng bào là “Mông” và cách phát âm là “Mông”. Do
đó, luận văn sử dụng cách viết và cách đọc là “Mông”. Tuy nhiên, để tôn trọng
các công trình nghiên cứu trước đó, chúng tôi xin giữ nguyên cách viết của các
nhà nghiên cứu về dân tộc Mông trong các tài liệu trích dẫn.
Dân tộc Mông cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa
bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến
Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam
như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
10
“Người Mông là dân tộc có số dân đông nhất chiếm trên 31% các dân tộc
trong tỉnh, với 2 nhóm chính là Mông trắng và Mông hoa. Người Mông Trắng sống
tập trung ở các huyện phía Bắc như: Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ. Người Mông
Hoa lại sinh sống chủ yếu ở các huyện phía Tây như: Hoàng Su Phì, Xín Mần và rải
rác ở một số địa phương khác.” [29]. Đặc điểm để phân biệt sự khác nhau cơ bản
giữa người Mông Hoa và Mông Trắng chỉ là ở trang phục của người phụ nữ. Ngôn
ngữ của họ thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao. Người Mông nổi tiếng với truyền
thống canh tác nương đá, trồng lúa, ngô và các loại hoa màu khác. Sản xuất thủ
công của đồng bào Mông đạt đến trình độ khá cao như dệt, đan lát, làm đồ gỗ, rèn
đúc... Cây lương thực chính của họ là cây ngô và cây lúa, trong đó chủ yếu là những
sản phẩm làm từ cây ngô. Sản phẩm chăn nuôi là dê, bò, ngựa, lợn, ong... tuy nhiên
các sản phẩm này mới chỉ dừng ở mức độ tự cung, tự cấp, do đó đời sống của người
Mông nơi đây còn rất nghèo nàn, khó khăn.
Mặc dù đời sống vật chất không cao nhưng người Mông lại có một cuộc
sống tinh thần tương đối phong phú và đa dạng, tạo nên truyền thống văn hóa với
những nét đặc sắc. Truyền thống ấy không chỉ thấy ở những tập quán canh tác,
chăn nuôi, ăn ở… mà còn ở trong toàn bộ tín ngưỡng, tâm linh, phong tục tập
quán, trong các mối quan hệ dòng họ, gia đình, xã hội… và chúng được thể hiện
rõ nét trong văn học. Văn học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phản ánh
nền văn hóa dân tộc trên nhiều bình diện như phong tục tập quán, lễ hội, tôn giáo,
tín ngưỡng, tri thức dân gian, truyền thống văn hóa, các danh thắng, đền đài,…
Như vậy, xét về một ý nghĩa nào đó, các tác giả là người đã viết nên lịch sử tâm
hồn văn hóa dân tộc mình bằng văn học để thức nhận những ký ức văn hóa dân
tộc. Tiếp xúc với tác phẩm văn học cũng chính là tiếp xúc với những giá trị văn
hóa được nhà văn phản ánh trong đó, nhất là những tác phẩm văn học mà đối
tượng phản ánh là những vấn đề văn hóa như tác phẩm văn học viết về phong
tục, tôn giáo, tín ngưỡng, các truyền thuyết lịch sử, lễ hội….
Đọc các tác phẩm văn học Mông, ta có thể cảm nhận được những giá trị
văn hóa của người Mông. Cũng giống như các đồng bào khác, đồng bào Mông
11
rất coi trọng và đề cao mối quan hệ gia đình. Gia đình chính là cái nôi hình thành
và phát triển các quan hệ trong xã hội. Trong gia đình người nam giới được coi
trọng và chủ trì những công việc lớn như cưới xin, ma chay, thờ cúng tổ tiên...
Nam giới người Mông luôn là trụ cột, người chủ chính trong gia đình, được
quyền quyết định mọi việc quan trọng và đảm nhiệm những công việc đòi hỏi
sức dẻo dai trong lao động. Còn người phụ nữ Mông thì đảm nhiệm công việc
nhà từ đi chợ, nấu cơm đến làm nương rẫy và chăm sóc con cái. Tuy nhiên các cô
gái Mông chịu nhiều thiệt thòi do luật tục, định kiến trong xã hội Mông xưa, họ
bị trói buộc bởi các tục lệ: ép hôn, cưỡng hôn, tảo hôn, nối dây... Chính vì vậy
mà người Mông luôn mong có nhiều con trai hơn con gái. Tâm lí này đã ăn sâu
vào nhiều phong tục tập quán, nhiều lĩnh vực của đời sống người Mông.
Gia đình người Mông vừa được coi là một đơn vị kinh tế, vừa được coi là
một đơn vị văn hóa. Ngay từ nhỏ các bé gái đã được dạy thêu thùa, dệt vải, còn
các bé trai thì được làm quen với súng săn, thổi sáo, thổi kèn, bắn nỏ. Người
Mông thường cư trú độc lập thành các bản. Mỗi bản thường có một, hai dòng họ.
Mỗi dòng họ đều có quy ước, kiêng kị riêng trong đời sống. Chính những quy
ước này là sợi dây gắn bó các thành viên cư trú nhỏ lẻ, phân tán thành một lực
lượng làm nên sức mạnh đoàn kết đấu tranh để bảo vệ dòng họ. Người Mông rất
coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có
cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu
mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ
đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau.
Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy
tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Trong phong tục tập quán của người Mông, cưới xin và tang ma để lại
những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều hơn cả.
Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân vì họ quan niệm
mùa xuân là mùa vạn vật sinh sôi nảy nở, tuyệt đối không tổ chức đám cưới vào
những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người Mông phải trải qua các bước như
12
dạm hỏi, dẫn cưới và lễ đón dâu. Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông
thuộc các bài hát nghi lễ cưới xin, kết nối hai nhà để làm thủ tục dạm hỏi và hẹn
ngày đón dâu. Để chuẩn bị cho đám cưới, nhà trai phải tổ chức họp gia đình mời
những người trong dòng họ để bàn bạc và chuẩn bị kỹ lượng từ việc tổ chức đến
đồ sính lễ. Vào ngày trọng đại, người thân và những người tham dự lễ cưới
thường mặc trang phục truyền thống đẹp nhất do chính người phụ nữ Mông thêu
và may. Đám cưới người Mông bao giờ cũng phải có ông mối, chú rể, phù dâu,
phù rể và những người đại diện cho họ nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục và
nghi lễ để đón cô dâu về. Sau khi nhà trai xin phép, phù dâu sẽ vào buồng và dắt
cô dâu ra ngoài. Phù rể sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên, vái lạy cha mẹ nhà gái
trước khi rước dâu đi. Sau khi hoàn tất các thủ tục cô dâu được hai người anh em
trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho người đón dâu. Theo phong tục, khi cô dâu,
chú rể đã ra khỏi cửa thì không được quay đầu nhìn lại nhà cha mẹ cô dâu nữa và
nhà gái cũng không được đưa dâu đến nhà trai. Đoàn đón dâu đi đến nửa đường
phải dừng lại nghỉ, bày đồ ăn thức uống ra để ông mối làm lễ mời các vị thần,
đồng thời cô dâu cũng phải thay đồ mới trước khi về nhà chồng. Cô dâu về tới
trước cửa nhà trai còn phải làm một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới được vào
cửa: bố chú rể ra đón cặp vợ chồng, trên tay cầm một con gà trống đưa sang trái
và phải ba cái để xua đuổi những điềm không may, đón những điều may mắn,
sau đó làm lễ nhập gia cho cô dâu mới. Trước đây người Mông rất phổ biến tục
“bắt vợ”. Tục cướp vợ có nhiều ở một số dân tộc thiểu số ở nước ta, nhưng ở
người Mông tục này được tồn tại lâu hơn. Thanh niên tổ chức đón đường kéo
người con gái đó về, dù người đó không bằng lòng. Sau khi cướp được hai hôm
nhà trai cử người báo cho nhà gái biết và tiến hành bàn việc cưới. Do đó nhiều cô
gái phải lấy người không vừa ý, vì người con gái đã qua lễ nhập môn thì phải lấy
người con trai đã kéo mình.
Tang lễ của người Mông là một nghi lễ thể hiện sự tri ân giữa người sống
với người đã mất đồng thời phản ánh những quan niệm lịch sử, xã hội và đời
sống tâm linh của đồng bào Mông. Đây được coi là một hiện tượng văn hóa đặc
sắc của người Mông. Khác hẳn với các dân tộc khác, người Mông thường tổ 13
chức hai đám tang: đám ma tươi, đám ma khô. Khi có người chết gia đình bắn
chỉ thiên ba phát súng báo hiệu cho dân bản biết có người chết, con cháu trong
gia đình đi mời gọi anh em dân bản, thầy khèn, thầy trống, thầy cúng. Sau khi
phát tang sẽ tiến hành các nghi lễ: trước tiên là lễ chỉ đường để người chết tìm
đến tổ tiên. Đặc biệt, trong lễ tang ma của người Mông có lễ “đám ma khô”.
Người Mông quan niệm nếu chưa được làm ma khô thì người chết sẽ không hòa
nhập được với tổ tiên, người chết không thể hóa kiếp, hồn người chết sẽ quanh
quẩn đâu đây để có thể phù hộ nhưng cũng có thể quấy nhiễu con cháu, mọi tội
lỗi của người chết lúc sống chưa được tha thứ. Làm lễ ma khô giúp người chết
rửa sạch hết tội, được siêu thoát và và đi đầu thai kiếp khác. Tất cả những người
có mặt trong tang lễ không được ngủ để tránh hồn người sống đi theo người chết
sang cõi âm. Nét đặc sắc trong tang lễ của người Mông là có nhiều loại tang ca,
mỗi loại tang ca lại có từng kiểu nghi lễ, kiểu người chết khác nhau. Có thể nói,
tục tang lễ của người Mông đã phản ánh tín ngưỡng, đời sống tâm linh, phong
tục tập quán cũng như văn hóa dân tộc Mông.
Sinh hoạt cộng đồng của người Mông rất đa dạng và phong phú với những
làn điệu dân ca cổ truyền, những truyện cổ dân gian, những nhạc cụ truyền thống
và các lễ hội độc đáo như: đón Tết, cưới xin, hát giao duyên, chợ tình ... Đặc biệt
là những lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá tinh thần của người Mông như lễ hội:
Gầu tào (gruôv taox), Nào Sồng, các phiên chợ vùng cao... được tổ chức hàng
năm. Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương
tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên
dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ
đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước. Có thể nói, những phong tục tập
quán, đời sống tâm linh, sinh hoạt cộng đồng,... là một kho tàng phong phú và bí
ẩn tạo nên những dấu ấn riêng trong dân ca Mông.
Có thể khẳng định, giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ, tác động lẫn nhau. Văn hóa giữ vai trò là nguồn cội của văn học, để cung
cấp chất liệu, vốn sống, tri thức, cảm hứng, nhằm tạo nên những dự phóng sáng
tạo của nhà văn. Văn học là tấm gương phản chiếu văn hóa. Văn học là một 14
thành phần của văn hóa, phản ánh diện mạo, bản chất của văn hóa và chịu sự tác
động của văn hóa. Nghiên cứu văn học phải được tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa
và ngược lại.
1.1.2. Dân ca Mông - giai điệu giàu bản sắc trong văn hóa, văn học Mông.
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Dân ca là một loại hình sáng tác dân
gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với
nhau trong diễn xướng” [6, tr. 105].
Kho tàng văn học dân gian Mông rất phong phú về đề tài, dồi dào về số
lượng các thể loại: truyện thần thoại và truyện cổ tích, từ việc giải thích các hiện
tượng thiên nhiên như trời, sao, trăng, mây, mưa... đến việc lí giải nguồn gốc loài
người, nguồn gốc các loài vật, thể hiện những ước mơ về công lí của người xưa
(Khua kê, Giàng Dua – Giáng Dự, Hai chị em...); truyện thơ – những câu chuyện
đầy éo le và bất hạnh, tràn đầy nước mắt nhưng cũng đầy màu sắc lãng mạn
mang âm hưởng của núi rừng (Cô Mỷ - Chàng Pao, Nàng Dợ - Chà Tăng, A
Thảo – Nù Câu). Bên cạnh đó còn có một kho tàng tục ngữ, câu đối... và chiếm
số lượng nhiều hơn cả là dân ca. Dân ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời
sống thường ngày của người Mông, kể cả hội hè, cưới xin, ma chay và tỏ tình.
Dân ca Mông đậm đà tính trữ tình duyên dáng, thuần phác, hồn nhiên trong sáng.
Đó là những bài hát mang nội dung trữ tình, biểu lộ tình cảm, tâm tư, nguyện
vọng của đồng bào trong cuộc sống thường ngày. Dân ca là món ăn tinh thần
không thể thiếu trong các dịp lễ hội và trong sinh hoạt hàng ngày của người
Mông. Dân ca giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ
xã hội trong một cộng đồng, một dân tộc, góp phần hình thành nhân cách, tâm
hồn của mỗi con người và cả thế giới con người. Người Mông yêu dân ca với
tình cảm bản năng. Với họ, cuộc sống chính là một bài dân ca trường thiên bất
tận. Có thể nói dân ca Mông là tấm gương phản chiếu diện mạo văn hóa của dân
tộc Mông.
Dân ca Mông là những bài hát do nhân dân tự sáng tác và lưu truyền trong
dân gian. Những bài ca này có phần lời ca, âm nhạc và cả nghệ thuật diễn xướng.
Dân ca trước hết tự nó phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ 15
những đặc điểm của một tác phẩm văn học. Từ đó thể hiện mối quan hệ giữa văn
hóa và văn học thông qua lời ca tiếng hát trong dân ca Mông. Sự tồn tại của
phương thức dân ca bên cạnh phương thức trữ tình đã phản ánh quy luật tất yếu là
văn học nghệ thuật phải tiếp cận và tái tạo hiện thực đời sống một cách toàn diện.
Nếu vương quốc riêng của tiểu thuyết là những mảng không gian bề bộn, nhiều
tầng, nhiều vỉa, của kịch là những xung đột gay gắt, những va chạm, đụng độ
quyết liệt đòi hỏi phải được giải quyết bằng hành động thì dân ca là những cung
bậc cảm xúc trữ tình sâu lắng. Dân ca vừa có cái riêng của văn học lại vừa có cả
cái chung của sân khấu. Phần lời của các bài hát chính là phương diện văn học của
âm nhạc, nghĩa là cái gốc của dân ca là văn học, phần thuộc về sân khấu là nghệ
thuật trình diễn. Dân ca Mông có nhiều loại, với 5 mảng đề tài chính: tiếng hát tình
yêu, (gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (gầu xống), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng),
tiếng hát mồ côi (gầu tú giua) và tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).
Tiếng hát mồ côi: gồm những bài hát về nỗi đau cơ cực của những người
bất hạnh có cha mẹ mất sớm. Những bài dân ca này không chỉ nêu lên nghịch
cảnh và tâm sự đau thương của kẻ mồ côi mà còn tố cáo sự bất công của chế độ
xã hội cũ với những kẻ thân cô thế cô, mất cha mất mẹ:
Gà mái không may chết sớm
Bố mẹ tôi cũng đi cả
Để lại tôi đây con ma mồ côi
Như gá mái bỏ ổ trứng ôi [18; tr. 143]
Những đứa trẻ kém may mắn không cha không mẹ, đói khổ rách nát, mồ
côi chịu cảnh côi cút và cô độc. Cha mẹ ra đi, để lại mồ côi vật vờ như bóng ma
không nơi nương tựa. Mồ côi chỉ là quả “trứng ôi”, là thứ bỏ đi, không chút giá
trị. Nếu như các tộc người lân cận ở miền núi, trẻ mồ côi luôn được chia cho gia
đình họ hàng cưu mang, thì người Mông, trái lại, không tồn tại tục lệ ấy. Đứa trẻ
mồ côi Mông phải tự mình lăn lóc kiếm tìm cái ăn, thế nên, thân phận mồ côi
trong xã hội Mông vô cùng bi đát:
16
Hết bố lẫn mẹ đều chết
Để lại tôi đây một mình không mẹ cha
Tựa con gà không lông đang bới đất
Để mình tôi đi đâu không có nổi đôi giày rách mà đi [18; tr. 144]
Có đủ cái ăn, cái mặc là điều hết sức bình thường với nhiều người nhưng lại
là niềm ao ước của kiếp mồ côi. Hình ảnh “con gà không lông đang bới đất” diễn
tả nỗi khổ cực của những đứa trẻ mồ côi. Những đứa trẻ không có nổi miếng cơm
manh áo, sống bơ vơ trơ trọi giữa cuộc đời, không người nương tựa phải tự mình
kiếm ăn kiếm sống. Những bài ca về tiếng hát mồ côi phản ánh thực tế những
đứa trẻ sinh ra bơ vơ không cha không mẹ, hoặc cha mẹ chết sớm phải chịu sự
khinh miệt, coi thường của mọi người. Bởi thế, họ chỉ biết ai oán khóc thương
cho số phận mình:
Khi làm người bắt ma mồ côi làm quá,
Khi ăn người bắt ma mồ côi đi cắt lúa,
Khi làm người bắt ma mồ côi làm ghê,
Khi ăn người bắt ma mồ côi đi tỉa kê [20; tr. 164]
Những nghịch cảnh do sự giàu nghèo gây nên, những nỗi thống khổ vì cô
đơn, vì áp bức, vì đói rét do xã hội nghèo nàn lạc hậu làm con người ngày càng
cạn tình cạn nghĩa, thậm chí cạn cả tình máu mủ, ruột thịt. Bên cạnh giá trị tố
cáo, tiếng hát mồ côi cũng phần nào nói lên được tinh thần tự tin của những kẻ
mồ côi. Nỗi thống khổ đã biến thành một ý thức phản kháng quyết liệt thể hiện
khát vọng tự do và tìm đường vươn ra ánh sáng của những thân phận bất hạnh.
Tiếng hát tình yêu: là loại bài hát phong phú và đa dạng nhất trong kho tàng
dân ca người Mông. Từ lúc bắt đầu làm quen tìm hiểu, ướm lòng đến chỗ gắn bó
xe kết với biết bao hi vọng tươi đẹp, những nghịch cảnh éo le, oan trái trong tình
yêu... tất cả những cung bậc ấy đều được thể hiện sâu lắng trong các bài dân ca.
17
Đặc biệt những cung bậc của nỗi nhớ được khắc họa rõ nét với những khắc khoải
khi xa cách, những lo lắng buồn phiền khi nhớ nhung chia li:
Đrâu Mông trở về chốn
Ruột gan vẫn nhớ nhung
Ở gầu Mông yêu thương
Đrâu Mông trở về nhà
Ruột gan vẫn nhớ đến ở gầu Mông yêu mến [18; tr. 124]
Đrâu Mông nhớ Gầu Mông - Đó là nỗi nhớ trải dài theo thời gian, tưởng
rằng sẽ không bao giờ hết nhớ. Thời gian có thể làm thay đổi vạn vật nhưng
không thể thay đổi được tình cảm đôi lứa, và khoảng cách địa lý chỉ ngăn cách
được bước chân con người chứ không ngăn được nỗi nhớ người yêu của chàng
trai. Những hành động quyết liệt thể hiện tâm trạng nhớ nhung đến cháy bỏng
của đôi lứa đang yêu.
Cái đích của tình yêu là hôn nhân, hai người yêu nhau bao giờ cũng mong
được sống bên nhau trọn đời, một mối tình son sắt, thủy chung tạo nên một gia
đình êm ấm, hạnh phúc. Đó không chỉ là niềm ao ước của đôi trai gái Mông mà
còn là niềm khát khao của tất cả đôi lứa yêu nhau trên thế giới. Yêu nhau, có đôi
khi họ vẽ ra bức tranh tươi đẹp về tương lai:
Giá hai đứa lấy được nhau
Hai đứa làm mùa cho đầy gác
Nuôi lợn cho đầy chuồng
Xây nhà như nhà Hán
Đóng bàn như bàn khách [19; tr. 147]
Họ hy vọng cùng nhau xây dựng tổ ấm, xây dựng cuộc sống sung túc “mùa
đầy gác”, “lợn đầy chuồng”. Thiếu nữ Mông chẳng ước giàu sang tiền bạc, lụa
là gấm vóc để hưởng thụ. Bức tranh đẹp đẽ ấy là biểu tượng cho hạnh phúc của
đôi vợ chồng được sống hòa thuận, đầy đủ về vật chất và cả tinh thần. Chẳng có
gì cao sang và xa rời hiện thực trong niềm mong mỏi của người con gái. Mơ ước
thì ai cũng có, nhưng phụ nữ Mông thú vị ở chỗ họ chẳng giấu diếm ước mơ ấy
cho riêng mình, mà vô tư hát lên, ca lên cho mọi người cùng nghe. Coi trọng
18
hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính, ước mơ của họ tuy giản dị
nhưng thật say đắm. Nhưng trong tình yêu không phải lúc nào cũng suôn sẻ,
ngọt ngào mà còn phải gặp nhiều trắc trở:
Guồng xa xe sợi lanh
Xe được sợi chỉ xoắn
Dù mình biết biến ta biết hóa
Thì cũng đến mặt trời ghẹo mặt trăng trên tít đỉnh núi. [24; tr. 158]
Tác giả dân gian ví tình yêu với chuyện xe lanh, dệt vải. Lẽ thường, guồng
xa xe lanh thì lại được sợi chỉ xoắn – nghịch cảnh, trắc trở trong tình yêu đôi lứa.
Qua đó tác giả muốn khẳng định: Tình yêu muốn đạt tới thắng lợi phải trải qua
nhiều khó khăn, thử thách thậm chí tốn thời gian công sức mà vẫn không thành.
Điều này khiến người ta không khỏi buồn phiền, hờn giận. Nhưng cái hờn giận
ấy tuy xót xa nhưng vẫn đầy ắp tình người. Tất cả những đôi trai gái yêu nhau
đều mong muốn đến được với nhau và các chàng trai cô gái Mông cũng như
vậy. Nhưng đôi khi thực tế cuộc sống lại không cho họ thỏa lòng mong ước. Yêu
nhau nhưng cuối cùng họ lại phải chia xa, yêu nhau mà không lấy được nhau, do
cha mẹ không ưng, do hoàn cảnh ngang trái:
Đrâu làng Pủa lòng dạ buồn phiền
Đrâu làng Pủa
Leo lên đồi cao núi rau dớn
Giơ tay làm bóng râm nhìn xuống đồng nương
Nào thấy gì đâu
Chỉ thấy Pàng Chai giáo mặc đồ vóc gấm [20; tr. 254]
Một trong những nguyên nhân gây nên sự chia li cho đôi trai gái yêu nhau
là do người Mông xưa có tục lệ thách cưới khá nặng nề, khiến cho nhiều chàng
trai nghèo không lấy được người mình yêu. Chàng trai trong bài ca trên phải
ngẩn ngơ, đau xót khi đứng nhìn cảnh người yêu đến làm dâu nhà khác do mình
quá nghèo. Sự phân biệt giàu nghèo, tư tưởng phải môn đăng hộ đối là hiện thực
khắc nghiệt chia rẽ đôi lứa, là duyên cớ dẫn đến mối tình đẫm nước mắt. Không
đến được với nhau, cô gái ước mơ:
Lúc này đôi ta đau buồn
Không lấy được nhau
19
Đôi ta ước gì biết biến
Biến thành đôi chim cắt
Thung thăng lượn mười chín vòng quanh núi lớn
Chẳng còn lo gì. [24; tr. 66]
Đôi lứa yêu nhau muốn biến thành đôi chim cắt để họ được bay trên bầu
trời tự do, tìm kiếm hạnh phúc. Rồi họ cùng nhau thề nguyền: “Anh cứ cắt ngón
tay/ Em sẽ cắt ngón chân” [18; tr. 128]. Đôi trai gái cắt máu ăn thề nguyện cùng
nhau yêu đến hết cuộc đời. Thậm chí họ còn tìm đến cái chết như một sự giải
thoát khỏi những ràng buộc của xã hội, tìm kiếm tình yêu tự do. Nhìn chung giá
trị chủ yếu của tiếng hát tình yêu là ở chỗ đã phản ánh trung thực những tình
cảm, những ước mơ, khát khao trong sáng, giản dị, mãnh liệt của người dân
Mông. Những khát vọng đẹp về tình yêu hôn nhân: yêu là tiến tới xây dựng gia
đình, có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhau, cũng như với cha mẹ, con cái.
Coi trọng hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính, ước mơ của họ tuy
giản dị nhưng thật say đắm.
Tiếng hát cưới xin: là những bài hát chỉ do nam giới hát nhân dịp dám cưới.
Loại hát này gồm hát nghi thức và hát vui chơi trong đám cưới. Hát nghi lễ gồm
nhiều bài bản khá ổn định về nội dung và nhạc điệu mà nam giới phần đông đều
biết hoặc thuộc lòng, nhất là những người làm ông mai ông mối. Lễ thức nào có
bài hát của lễ thức ấy, người hát phải tuân theo quy tắc chặt chẽ. Hát trong đám
cưới là những bài hát vui:
Rượu đắng rượu cay
Em uống được hãy uống một liều
Không uống được hãy cất để dành
Ta cảm ơn già bản Mông nhiều nhiều [20; tr. 218]
Bài ca chúc mừng dâu rể hai họ, mời nhau uống rượu kể chuyện vui nhộn,
hát đố hát giải, hát trêu chọc đùa cợt nhau. Nội dung đều xoay quanh việc cưới
xin vui mừng, mang ý nghĩa lạc quan, yêu đời.
Tiếng hát cúng ma: là một trong những loại bài ca đặc biệt chỉ dùng trong
đám ma. Loại bài hát này không phổ biến trong nhân dân mà khi già cần thiết thì
20
người ta mới học. Hầu hết những bài hát này có tính chất lễ ca, ít nhiều tồn tại
yếu tố lạc hậu, mê tín:
Nay tôi gọi hồn
Cho cả nhà hãy mau mau về ngay
...Về với bố mẹ, anh em con cháu
Sống yêu thương nhau tưng bừng [19; tr. 189]
Thầy cúng đang làm nghi lễ và hát bài ca gọi hồn. Ta thấy những bài hát
cúng ma đều có tính chất giáo huấn, kể lại công ơn cha mẹ, nguồn gốc tổ tiên, thể
hiện tình cảm của người sống với người đã khuất. Qua đó thể hiện khá sâu sắc
nhiều quan niệm, đời sống tinh thần của người Mông.
Tiếng hát làm dâu: Diễn tả nỗi đau khổ uất ức của người phụ nữ trong xã
hội Mông xưa. Người phụ nữ hầu như không có quyền sống, thể xác bị vùi dập,
tình cảm bị trói buộc. Họ phải chịu đựng nhiều tệ nạn: tảo hôn, cưỡng hôn, phải
làm cực nhọc mà vẫn bị đầy đọa như trâu ngựa, cả cuộc đời trói buộc vào nhà
chồng. Ép gả chồng sớm là thực tế phổ biến xuất hiện trong dân ca Mông:
Bố mẹ gầu Mông
Phải chăng thích người ta con bò trắng chân
Đem gầu Mông gả đi làm dâu
Con đường lạ không biết tên. [18; tr. 102]
Vì hủ tục mà vô tình bố mẹ gầu Mông đã đẩy thiếu nữ Mông đi vào con
đường làm dâu đầy khổ ải. “Con đường lạ không tên” chỉ một con đường xa lạ,
cô gái không biết gì về nơi ấy mà phải đến ở làm dâu, phải phục vụ nhà người.
Câu chuyện làm dâu là tiếng hát muôn đời và không bao giờ dứt với người phụ
nữ. Thể xác bị vùi dập, tình cảm bị chà đạp, hiện tại đau khổ, tương lai tối tăm...
họ chỉ biết dùng lời hát mà than thở, kêu gào, nguyền rủa đồng thời tố cáo cái xã
hội đầy áp bức, bất công.
Địu nước đặt cạnh chạn
Nước mắt gầu Mông đua nhau rụng
Địu nước đặt cạnh bếp
Nước mắt gầu Mông đua nhau rơi 21
...Gầu Mông rằng Đrâu Mông
Anh không biết đường làm dâu đường đen tối. [19; tr. 121]
“Nước mắt” – giọt nước mắt của tủi nhục, khổ đau. Những giọt nước mắt
nhỏ xuống tận sâu tâm hồn, xa lắng lại trong dân ca thành những dòng cảm xúc
trào dâng mãnh liệt như tiếng vỡ òa trong đau đớn. Cảnh làm dâu là “con đường
đen tối”, là con đường của cực nhọc của đau thương và nó trải dài nước mắt. Đối
mặt với cuộc sống nhà chồng, với một gia đình hoàn toàn không chung máu mủ
với nếp sống xa lạ không dễ để người dâu mới hoà nhập và thích nghi. Tiếng hát
làm dâu là lời ca không bao giờ dứt của thân phận làm dâu.
Bước chân về nhà chồng, người con dâu bắt đầu guồng quay với công việc
mới. Công việc đầu tiên trong ngày là làm bữa sáng cho cả nhà. Cô gái có nhỡ
làm cơm chưa chín, anh lớn em bé đã lục đục mâm bát, gọi ầm ĩ. Nấu cơm không
nếm thì không biết sống chín, mà nếm thì mẹ chồng mắng nhiếc “đồ chó tham
ăn”. Dọn cơm lên, nàng chưa kịp ngồi vào mâm mọi người đã ăn xong, phần việc
tiếp là phải một tay lau chùi, dọn dẹp… Bưng được bát cơm thì mẹ chồng nhòm
ngó, lườm nguýt và cay nghiệt hơn, thậm chí còn rủa:
Mày vội ăn để trèo lên đòn ma
Mày vội ăn để chui vào mả. [24; tr. 280]
Sống cảnh đời cơ cực, cô nàng cũng không còn muốn bưng bát cơm
“chan đầy nước mắt” nhưng nghĩ đến sự sống nên đã cố nuốt. Có lẽ sống mãi
trong cái khổ thành quen, người ta chán cũng chẳng buồn chết nữa. Kể chuyện
với mẹ gặp thuồng luồng, mẹ chồng không an ủi mà còn cay nghiệt:
Ôi, sao con thuồng luồng sao không cắn chết mày
…Sao con thuồng luồng không bắt mày đi. [24; tr. 273-274]
Cô gái chỉ biết ngậm đắng nuốt cay:
Nước mắt em chảy tràn, ướt hết thành giường
… Nước mắt em chảy tràn, ướt sạch góc chiếu. [24; tr. 274]
Người phụ nữ đã trở thành một thứ công cụ, một thứ đồ vật trong cuộc sống
nhà chồng. Họ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu và người được đánh giá dựa
trên những giá trị sử dụng như các món hàng, vật dụng tầm thường khác. Không
thể chịu được mãi khổ đau, phụ nữ Mông tự giải thoát mình ra khỏi cuộc sống tù
túng bằng cách tìm đến cái chết:
22
Em ơi! Chị ngắt lá thuốc đắng thật cay
Đưa lên mồm, nuốt ực cho nát quách lá gan. [24; tr. 227]
Họ tìm đến cái chết một cách nhẹ nhàng, không chút lo lắng. Không phải
người phụ nữ coi thường mạng sống của mình mà họ đang giành lấy hạnh phúc
cho chính bản thân mình. Bởi theo những người phụ nữ, chỉ có ở thế giới bên kia,
họ mới có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những bài hát dân ca này còn
cho thấy ý thức phản kháng đã le lỏi, nguyện vọng táo bạo muốn thoát khỏi ràng
buộc của lễ giáo phong kiến đối với người phụ nữ Mông. Cũng từ tiếng hát làm
dâu, người ta còn thấy đức tính thuỷ chung như nhất của người phụ nữ như cây
lanh chịu mọi sương sa giá rét của thời gian và thời tiết để hun đúc khát khao
được xây dựng gia đình với người mình yêu, mình lựa chọn. Qua đó, ta thấy
được những nét đẹp trong phẩm chất của người phụ nữ Mông. Có thể nói tiếng
hát làm dâu và tiếng hát mồ côi trong dân ca Mông là những tiếng hát đầy lòng
nhân ái và giàu tính nhân văn cao cả.
Nhìn chung, nội dung phản ánh trong dân ca Mông đã thâu tóm được hầu
như toàn bộ đời sống xã hội và nhân sinh quan của tộc người này. Dường như
dân ca chính là tiếng hát tâm tình, là nơi sâu thẳm trái tim họ gửi gắm những
tiếng lòng chất chứa ưu tư về nhân tình thế thái. Dân ca chính là mảnh đất chất
chứa bao mơ ước giản dị, mộc mạc, chân thành và thể hiện tinh thần lạc quan
trong cuộc sống của những con người nơi địa đầu tổ quốc. Có thể nói dân ca
Mông đã thể hiện đầy đủ những cung bậc đời sống tinh thần của người Mông,
nổi trội là cuộc sống của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu. Họ hiện lên
với vẻ đẹp về hình thể, về tâm hồn nhưng lại chịu số phận nhiều đau khổ bởi
những hủ tục lạc hậu trong xã hội xưa. Đó là một trong những lí do chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông. Đây chính
là bản sắc văn hóa của đồng bào Mông.
1.2. Hình ảnh người phụ nữ Mông trong dân ca dân tộc Mông
Một hình ảnh thường xuyên xuất hiện và chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca
Mông là hình ảnh người phụ nữ. Có thể nói, người phụ nữ Mông là một đề tài có
vị trí và vai trò chủ đạo trong dân ca Mông nói riêng và thơ ca dân gian Mông nói 23
chung. Đề tài này được triển khai ở nhiều khía cạnh: người phụ nữ đã có gia đình,
người bà, người mẹ, người em gái,…; các bài hát trong lao động sản xuất; bài hát
nói về hủ tục; tình yêu đôi lứa;… Người phụ nữ Mông trong dân ca Mông thường
được coi là hiện thân của cái đẹp:
Dáng hình em xúng xính trong váy áo rung rinh
Thanh thản như con ốc bò trên mặt đất
Hình dáng hình em xúng xính trong váy áo rung rinh
Thong dong như con ốc bò bên khe suối. [24; tr. 90-91]
Vóc dáng của cô gái Mông hiện lên vô cùng đẹp và độc đáo. Những cô gái
xinh đẹp xúng xính váy hoa, nụ cười chúm chím trên môi với dáng điệu “thanh
thản”, “thong dong” chuyển động chậm chãi. Dường như, các cô gái duyên dáng
hơn, yểu điệu hơn, thướt tha hơn trong những bộ váy áo rực rỡ sắc màu. Nói về
trang phục, so với các dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Mông có phần cầu kì
và tỉ mỉ hơn. Bộ quần áo của phụ nữ dân tộc Mông gồm có khăn quấn đầu, khăn
len (cũng là khăn đội đầu) được dệt bằng tay, váy, yếm được thêu bằng tay. Các
hoa văn, họa tiết trên trang phục của người Mông thiên về màu sắc. Vẻ đẹp của
chiếc váy là sự phối kết hợp giữa các màu nóng, tạo sự nổi bật, ấn tượng. Phụ nữ
Mông đã tự tạo nên cho họ một vẻ đẹp vừa dịu dàng vừa khỏe khoắn bền bỉ làm
bừng lên sức sống mãnh liệt của những con người nơi núi rừng hoang vu.
Ta thấy em mặt trắng nõn nà
Đẹp tươi như cành hoa lả lướt bên non…
Ta thấy em mặt trắng mượt mà
Đẹp tươi như cành hoa lả lướt bên núi. [24, tr. 104]
Trong đôi mắt của chàng trai Mông, hình ảnh cô gái Mông hiện lên vô
cùng đẹp đẽ với khuôn mặt trắng nõn nà, xinh tươi như cành hoa bên núi. Vẻ
đẹp của người phụ nữ không chỉ dừng lại ở bên ngoài, đó còn là biểu hiện của
vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp bên trong với tấm lòng giàu tình yêu thương, hết lòng vì
chồng, vì con, nhẫn nhịn, hy sinh,… những đức tính cần cù, chịu thương chịu
khó. Người Mông vốn có đức tính cần cù và sáng tạo trong lao động, nhạy cảm
và thích ứng nhanh với hoàn cảnh sống khắc nghiệt, như những con người nơi 24
đây vẫn hết sức lạc quan, họ vẫn không thôi mơ ước. Đó là ước mơ về một cuộc
sống hạnh phúc giản dị, về một mái ấm gia đình với một người vợ khéo léo thêu
hoa, dệt vải còn chồng thì giỏi thổi sáo, múa khèn:
Đầu nhà ta sán giấy vàng
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy áo
Đầu nhà là nơi anh thổi sáo múa khèn. [24; tr. 150]
Bao đời nay, trang phục cả nam và nữ, già hay trẻ, của người sống và người
chết đều ra đời từ đôi bàn tay người bà, người mẹ, người chị, người vợ:
Anh mở toang cửa chính cho vợ ngồi thêu thùa
Thêu được một chiếc đem mặc
Mãi mãi không biết rách,
... Mở toang cửa chính cho vợ ngồi thêu hoa
Thêu được một cái đem bận
Bận mãi không biết sờn. [19; tr. 154]
Vẻ đẹp người phụ nữ Mông ánh lên trong không gian lao động, từ sự thành
thục đến độ nhuần nhuyễn của đôi bàn tay khiến trang phục của người chồng mãi
không rách, không sờn. Nếu sản phẩm ấy đẹp, bền, chắc cũng có nghĩa người tạo
ra nó là người đảm đang, giỏi giang và có thể lo toan được công việc. Bởi việc
tạo ra tấm vải lanh tốn rất nhiều thời gian do xưa kia công cụ thô sơ, kĩ thuật thấp
nên đòi hỏi người làm phải hết sức tỉ mỉ, cẩn thận trong từng công đoạn thì thu
hoạch lanh cho tới làm sợi, xe lanh, dệt vải. Xuất phát từ quy trình khá cầu kỳ và
nhiều công đoạn để cho ra thành phẩm, việc làm lanh, dệt vải từ lâu đã trở thành
một tín hiệu tính hiệu tin cậy để lựa chọn bạn đời.
Cô quấn xà cạp gọn xinh như trôn ốc vặn
Cô lấy chồng lo toan được việc cửa nhà
Cô quấn xà cạp gọn đẹp như trôn ốc xoáy
Cô lấy chồng cáng đáng được gia đình [24; tr. 53]
Tiêu chuẩn hàng đầu khi chọn vợ của các chàng trai Mông là sự khéo léo,
tinh tế của người phụ nữ. Đối với họ, nhan sắc không phải là tiêu chuẩn duy nhất
khi chọn vợ mà nó còn nằm ở phẩm chất, sự khéo léo của người con gái. Thậm
25
chí, người Mông rất ghét những kẻ lười biếng: “Đất pha cát không ưu phân/
Lười biếng không có ăn” (Ca dao Mông). Có thể nói, đàn ông Mông rất tỉnh táo
và tinh ý khi chọn vợ. Ta thấy, người Mông không ngại ngần khẳng định tiêu
chuẩn đối với phụ nữ qua dân ca, đó là sự chăm chỉ, đảm đang, khéo léo. Đó còn
là bài học cha mẹ truyền cho con cái, ông bà, tổ tiên truyền cho cháu chắt, thế hệ
trước để lại cho thế hệ sau những đức tính vốn có và đại diện cho phái đẹp mình.
Tiếng hát đã góp phần quan trọng cổ vũ, động viên sự tồn tại, duy trì và phát
triển của những phẩm giá tốt đẹp tới ngàn đời.
Xã hội phong kiến xưa đầy rẫy bất công khắt khe, một xã hội dành mọi ưu
ái cho người đàn ông và vùi người phụ nữ xuống đáy tầng xã hội. Người phụ nữ
Mông từ khi sinh ra đã không có quyền làm chủ cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc
cho bản thân. Ở nhà thì phải nghe theo mẹ, lấy chồng thì phải theo chồng,
chồng chết thì theo con trai. Xã hội không thừa nhận vai trò, tài năng của người
phụ nữ. Tài, trí chỉ dành cho những đấng quân tử, trượng phu. Người con gái
không được học hành:
Em đây, cái nghiên không ở trong tay, cái bút không ở trong tay
Em không biết đọc, biết viết. [24; tr. 124]
Chàng trai thì “cái nghiên không ở trong tay, cái bút không ở trong tay
chàng – biết đọc biết viết”, chàng sẽ có quyền lựa chọn được người xứng đôi
vừa lứa. Còn em đây thân phận hèn mọn, không được ăn học nên “chọn bạn
đời, không được người vừa lứa”. Ý thức được số phận đầy cực khổ của mình,
người phụ nữ chỉ biết gửi gắm nỗi niểm đau đớn vào những câu dân ca:
Trời ơi! Thân chị như thân ngựa
Không biết tự mình hạ bao hạ túi. [24; tr. 227]
Người phụ nữ tự nhận mình là “thân ngựa” để nói lên sự vất vả, nhọc nhằn
trong cuộc sống gia đình. Họ phải làm việc nhà quần quật, quanh năm suốt tháng
vậy mà vẫn bị khinh rẻ, sống kiếp nương nhờ vào người khác. Địa vị thấp cổ bé
họng trở thành số phận chung cho người phụ nữ trên mọi miền đất nước. Phụ nữ ý
thức được thân phận nhỏ bé và chịu phụ thuộc trước cánh đàn ông, trước lề thói xã
hội. Bởi vậy, không dừng lại ở việc than thân trách phận, những câu ca, bài hát
chính là sự tố cáo và phản kháng mạnh mẽ, trực diện vào những hà khắc, cổ hủ của
chế độ phong kiến bấy giờ.
26
Nhưng vượt lên tất cả, phụ nữ trong văn học dân gian luôn có những khát
vọng và ước mơ chính đáng. Khát khao và mộng tưởng sẽ giúp họ có thêm động
lực để tồn tại. Người phụ nữ trong dân ca đã không ngại ngần khi thổ lộ mong
muốn của mình với người thương:
Giá thân em là sợi lanh, sợi tơ
Anh cuốn vào người để sợi cùng anh ở
Giá thân em là thân sợi lanh, sợi chỉ
Anh cuốn vào người để sợi cùng anh đi [24; tr. 116]
Ước mong của cô gái là muốn mình trở thành “sợi lanh”, “sợi tơ” nhỏ bé
mà bền chắc luôn theo người mình yêu, quấn quýt không rời. Tình yêu trong trái
tim nhỏ bé của cô gái có sức mạnh phi thường, đem lại khao khát cháy bỏng đâu
chỉ được gặp gỡ, hẹn hò, tâm tình…mà là sự gắn quyện thể xác. Những cô gái
Mông đã nói lên ước vọng chính đáng của mình, đó là khát khao tự do, khát
khao mưu cầu hạnh phúc của bản thân. Mặc dù bị trói buộc bởi các luật tục của
xã hội phong kiến nhưng người phụ nữ vẫn thể hiện ước vọng mãnh liệt của
mình. Đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Mông.
Nhìn chung, hiện thực đã cho thấy, dân ca là nơi thổ lộ những giá trị, phẩm
chất, những hi vọng, ước mơ của người phụ nữ. Họ hiện lên với vẻ đẹp bình dị,
mộc mạc với một chút hoang dã của rừng núi phương bắc và thể hiện sự gắn bó
với thiên nhiên và cuộc sống lao động của đồng bào dân tộc thiểu số. Nói về
hình ảnh người phụ nữ, một trong những điều gây ra sự trăn trở cho tác giả dân
gian là nỗi lòng của người phụ nữ khi làm dâu. Không phải ngẫu nhiên tiếng hát
làm dâu là một trong những nét văn học tiêu biểu của dân tộc Mông. Chúng tôi
sẽ làm rõ vấn đề này ở phần sau.
* Tiểu kết chương 1
Qua việc nghiên cứu một cách tổng quan về điều kiện tự nhiên, xã hội, văn
hóa, phong tục và dân ca dân tộc Mông, chúng tôi nhận thấy dân ca Mông mang
nét đặc sắc riêng khác biệt với các dân tộc khác. Dân ca Mông chính là mảnh đất
chứa đựng nhiều tiềm năng cho công việc khám phá, kiếm tìm và sáng tạo. Môi
trường diễn xướng của dân ca Mông mang những hình thức diễn xướng của dân
27
ca nhưng lại có những độc đáo riêng biệt, cho thấy nét sinh hoạt văn hóa của
người Mông. Đó là sự phong phú về các giá trị văn hóa, là địa bàn cư trú với
những phong tục tâp quán, đời sống tinh thần của người dân tộc. Qua đó, ta biết
được những phong tục nào cần gìn giữ và phát huy, đồng thời loại bỏ những hủ
tục lạc hậu gây ảnh hưởng cho cộng đồng và xã hội.
Trong số các thể loại của văn học dân gian Mông, dân ca là thể loại đặc biệt
được người Mông yêu thích, sử dụng và lưu truyền. Dân ca Mông với sự phong
phú về số lượng và chủ đề tác phẩm đã phản ánh rõ nét con người và cuộc sống của
người Mông qua năm mảng đề chính. Và một hình ảnh thường xuyên xuất hiện và
chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca Mông là hình ảnh người phụ nữ. Trong dân ca,
người phụ nữ bộc lộ phẩm chất, khả năng, tình cảm cũng như cách thức phản
kháng cùng với những ước mơ, khát vọng của bản thân. Họ biết nhận ra cái bất lực,
cái tù túng của xã hội đang đè lên đôi vai họ, để rồi khao khát được tự do yêu
đương và kiếm tìm hạnh phúc chân chính.
28
CHƯƠNG 2
TIẾNG LÒNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM DÂU
TRONG DÂN CA MÔNG
Tiếng hát làm dâu phần lớn là những câu hát diễn tả những đau khổ uất ức
của người phụ nữ Mông trong xã hội xưa. Người phụ nữ hầu như không có
quyền sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, thể xác bị vùi dập, tình cảm bị trói
buộc. Họ chỉ biết dùng lời hát mà than thở, kể lể, kêu gào, nguyền rủa, tố cáo cái
xã hội đầy áp bức, bất công. Tiếng hát làm dâu còn cho thấy ý thức phản kháng
đã trỗi dậy cùng với nguyện vọng táo bạo muốn thoát khỏi ràng buộc của lễ giáo
phong kiến của người phụ nữ Mông. Người phụ nữ chịu trăm ngàn ách thép của
xã hội đè lên trên vai nên một thân phận cay đắng, sống thân trâu ngựa là không
tránh khỏi. Họ không có vị thế xã hội, vị thế trong gia đình và đặc biệt là vị thế
trong gia đình nhà chồng với thân phận như người ở, người làm thuê, họ phải
làm đủ mọi công việc lao động nặng nhọc nhưng nỗi vất vả và khổ cực ấy không
ai biết, không ai hay thậm chí còn bị cả xã hội thẳng tay đàn áp và vùi dập.
Trong dân ca Mông cũng như dân ca của một số dân tộc khác, hình ảnh người
phụ nữ bao giờ cũng chịu sự nhẫn nhục, cam chịu. Chắc chắn không phải vì
người phụ nữ không làm được những công việc như đàn ông mà họ bị định kiến
của xã hội đè nén. Những lễ giáo, luật tục khắt khe khiến người phụ nữ từ khi
sinh ra đến lúc trưởng thành cho tới khi nhắm mắt xuôi tay cũng không có quyền
làm chủ cuộc đời mình. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, ở
nhà phải theo cha “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, đến khi lấy chồng phải theo
chồng, khi chồng chết thì phải theo con. Với họ cuộc sống trong gia đình nhà
chồng như là sự ban ơn mà đời đời kiếp kiếp họ phải gồng mình gánh trả. Ảnh
hưởng của chế độ phụ quyền cùng tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn lối cô gái
Mông vào con đường hôn nhân bế tắc. Chính vì sự lẽ đó mà phụ nữ Mông
không có hạnh phúc trong tình yêu cũng như trong hôn nhân. Trong phạm vi của
luận văn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu số lượng tác phẩm thể hiện tiếng lòng
của người phụ nữ làm dâu trong dân ca Mông. Nhìn vào bảng khảo sát, chúng
tôi nhận thấy, người phụ nữ khi làm dâu đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, đó
là tâm trạng nhớ thương về gia đình, về thời thanh xuân tươi đẹp; đó là nỗi lòng
29
về thân phận làm dâu nhỏ bé và sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng;
đó là ước vọng được trở về với cuộc sống tự do và sự mạnh mẽ vượt lên số
phận. Tất cả những cung bậc cảm xúc đó đã thể hiện rất rõ trong dân ca dân tộc
Mông. [Phụ lục bảng 1]
2.1. Tâm trạng nhớ thương khi làm dâu
2.1.1. Nỗi nhớ về gia đình
Trong dân ca, những cô gái Mông luôn là người con chịu thương, chịu
khó, giúp đỡ cha mẹ làm việc nhà:
Gầu Mông
Dọn dẹp bát đũa rửa xong
Cầm luôn nắm lanh sợi cuốn lên khuỷu [19; tr. 212]
Công việc rửa bát, xe lanh, dệt vải, nội trợ… vốn đã trở nên thân quen
với phụ nữ Mông từ tấm bé. Công việc nhà khiến cô gái Mông “luôn tay luôn
chân”, vừa dọn dẹp, rửa xong bát đũa mà đã ngồi để xe lanh, xe sợi. Sợi lanh
như một vật biểu trưng cho sự chăm chỉ của cô gái Mông. Con gái ở nhà đảm
nhiệm công việc nội trợ nay con gái đã đi làm dâu nhà người thì:
Bố mẹ ở nhà sẽ mất đi cái chảo nước rửa chân
...Bố mẹ ở nhà sẽ mất đi cái chảo nước rửa tay [24; tr. 204]
Con gái ở nhà, mỗi sáng sớm đều xuống địu nước về cho cha mẹ thức dậy
rửa mặt, rửa chân tay. Những cô gái Mông hiếu thảo, đảm đang biết bao. Nhưng
năm nay đã khác, con gái đi lấy chồng, cha mẹ vắng đi người đảm nhiệm, quán
xuyến công việc nhà. Cô gái Mông hiện lên trong bài dân ca vô cùng chịu thương,
chịu khó; đồng thời thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó với cha mẹ.
Có lẽ vì tình cảm gắn bó sâu đậm ấy mà cô gái Mông sẽ khó tránh khỏi nỗi
nhớ gia đình, nhớ cha mẹ khi mới bước chân về nhà chồng, làm dâu xứ lạ. Đây
cũng là đặc điểm tâm lí chung của rất nhiều cô gái khi mới lập gia đình, chỉ khác là
cô gái Mông đã gửi gắm nỗi nhớ ấy vào dân ca. Mỗi lời ca, câu hát đều bộc lộ
những tâm sự trong cuộc sống hôn nhân mà người con gái giữ kín trong lòng.
Mưa phùn thấm mưa ngâu
Mưa ngâu thấm lên cây
30
Gầu Mông trầm ngâm làm con dâu đường xa
Chẳng biết tin bố mẹ ở nhà
Đã lâu có được khỏe không ? [18, tr. 102]
Ngoài trời mưa lâm thâm, cô gái Mông ngồi đó ngắm những hạt mưa rơi
cùng với nỗi nhớ cha mẹ với hàng vạn câu hỏi: không biết ở nhà cha mẹ có khỏe
không? Phải “làm dâu đường xa”, không có in tức gì ở nhà, cô gái trầm ngâm, suy
nghĩ với bao câu hỏi tự đặt ra. Bởi theo tập tục của người Mông, khi bước chân ra
khỏi nhà cha mẹ đẻ, người thiếu nữ lập tức trở thành người xa lạ, không còn bất cứ
mối liên quan gì tới gia đình. Sống hay chết, sướng hay khổ chẳng ai quan tâm:
“Chỉ khóc vì họ hàng thân thích/ Đem thân con gả quàng gả xiên/ Đến ở đất người
cách bao rừng gai/ Con đã đi đầy năm, không một bà con anh em thăm hỏi” [24, tr.
223]. Nếu cô dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ thì phải được sự cho phép của gia đình
nhà chồng và phải có chồng đi cùng nên họ rất ít khi được về thăm gia đình. Không
chỉ khắc khoải với nỗi nhớ nhung khôn xiết mà người phụ nữ Mông còn phải đối
mặt với nỗi cô đơn:
Gầu Mông là dâu đường xa
Chẳng có ai thân thích gần
Đành nhận người lạ
Làm nơi thăm hỏi
Đành nhận người xa
Làm nơi qua lại [18, tr. 103]
Về làm dâu một nơi xa lạ, không một người thân quen, một số cô dâu
Mông đành nhận “người lạ” làm “nơi thăm hỏi”, nhận “người xa” làm “nơi qua
lại”. Cuộc sống của cô gái Mông dường như bắt đầu lại từ đầu, lại làm quen với
mọi thứ: nơi ở, sinh hoạt và thậm chí là người thân. Có lẽ, vì thế, họ sẽ khó tránh
khỏi tâm trạng bâng khuâng, da diết khi nhớ về gia đình, nhớ về những người
thân yêu của mình:
Gầu Mông làm dâu đường dài
Vì không nội ngoại
Nên nhận ta làm người quen
31
Người không biết nghĩ bảo
Không biết có phải vì không nội ngoại
Hay vì miếng thịt bát cơm mình. [18; tr. 103]
Dường như nỗi lòng của cô gái không ai có thể thấu hiểu. Người con gái
muốn làm quen, muốn bắt đầu một cuộc sống mới nơi xứ lạ, vậy mà người trong
nhà lại không hiểu và tỏ thái độ nghi ngờ cô là trẻ mồ côi “không nội ngoại”,
không có nổi miếng cơm hàng ngày nên mới “nhận ta làm người quen”. Vừa
mới bước chân vào cuộc sống gia đình chồng mà cô gái đã phải chịu điều tiếng,
chịu những lời nói, ánh nhìn săm soi không chút thiện cảm. Qua đó, người nghe
có thể thấy được số phận làm dâu đầy cực nhọc của cô gái Mông. Rồi đây họ sẽ
phải đối mặt, phải ứng xử như thế nào trước những tình thế éo le như trên?
Bằng nét phác họa chân thật, giản dị mà hết sức gần gũi, thân thuộc,
những cô gái Mông đã diễn tả chân thực nỗi lòng của mình khi phải làm dâu ở
một gia đình xa lạ. Khi sống ở một nơi hoàn toàn xa lạ, con người ta không thể
không nhớ về nơi mình từng sinh ra, nơi gắn bó tình cảm với người thân yêu. Và
cô gái Mông cũng vậy, bước chân vào nhà chồng, mọi thứ với cô gái nhỏ còn
quá lạ lẫm, không người thân quen, không họ hàng và nỗi nhớ cha mẹ, gia đình
là điều không thể tránh khỏi.
2.1.2. Nỗi nhớ về thời thanh xuân tươi đẹp
Trong xã hội xưa, người phụ nữ Mông thường không được quyết định số
phận, cuộc đời mình, họ bị lệ thuộc vào gia đình, xã hội. Nỗi bất hạnh của họ là bị
tước bỏ quyền yêu và được chung sống cùng người mình yêu, bị xâm phạm và
chà đạp quyền tự do cá nhân của thiếu nữ Mông. Họ dám yêu nhưng lại không thể
thoát khỏi vòng vây ép duyên của gia đình, của hủ tục.
Em đang ở nhà, em không hề rõ
Nhà trai vác dù, vác ô lừng lững vào
Họ chẳng biết chôc để ô, mắc ngay vào cột gác
Thế là năm nay em phải đi làm dâu. [24, tr. 213]
Lễ giáo Mông xưa quy định, con gái sinh ra phải phục tùng cha mẹ: “cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, yêu thương tự do là điều không thể có. Biết là vậy nên
32
người con gái đã dùng mọi cách để khỏi bị ép duyên. Bắt đầu từ khóc lóc, van
xin: “Mẹ ơi! Ăn, con không ăn, đi con chẳng đi”. Nhưng những lời cầu xin của cô
gái đều vô nghĩa, xin không nổi, van không xong, cô lại còn bị trận đòn thừa sống
thiếu chết: “Con không đi cha vác dao sả thịt”, “Mẹ cha nắm roi đồng quất con
vun vút – Đuổi con như chia rẽ gia đình”. Người con gái hoàn toàn bị phụ thuộc
vào gia đình và bắt buộc phải nghe theo sự sắp đặt của bố mẹ. Có thể nói, họ là
nạn nhân thảm khốc và đau thương của tục “cha mẹ đặt đâu ngồi đấy” mà đến giờ
có lẽ vẫn còn tồn tại trong một số bộ phận của tộc người Mông. Phần lớn cô gái
Mông bị ép gả từ rất sớm:
Bây giờ bà nuôi gầu lía lớn tới
Tôi mới bắt nó gả cho họ
Đem mổ làm đám cưới,
Bây giờ nuôi gầu lía lớn lên
Tôi mới bắt nó gả cho người
Đem thịt làm đám rượu. [20, tr. 150]
Con gái Mông khi lớn lên không có quyền được lựa chọn hạnh phúc của
mình, hoàn toàn dựa vào sự sắp xếp của cha mẹ, mặc cho cha mẹ “gả”, “làm đám
cưới”, phận làm con chỉ biết nghe theo. Tìm hiểu về tiếng hát làm dâu, chúng tôi
nhận thấy trong xã hội xưa địa vị người phụ nữ rất thấp kém, họ thường chịu thiệt
thòi trong mọi phương diện của đời sống, đặc biệt là trong hôn nhân. Họ là nạn
nhân của các lệ tục tục thách cưới nặng nề, cha mẹ gả bán sắp đặt:
Thân em như hoa trân trâu nở không nổi
Anh em chỉ vì tham đồ sính lễ của họ Giàng
Gả phăng giao bừa em qua rừng gai đến ở đất người [24; tr. 223]
Hình ảnh “rừng gai” là hình ảnh tượng trưng cho kiếp làm dâu cực khổ, xót
xa, chỉ có ngày đi chứ không có ngày trở về. Đã vậy lại không anh em họ hàng
đến thăm. Người con gái trở nên lạc lõng, cô đơn ở nhà chồng - nơi cô mới đến.
Cô gái chỉ biết khóc thương cho số phận hẩm hiu của mình. Người phụ nữ không
những bị ép duyên mà còn là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn:
Bé Mỷ đi làm vợ, còn trẻ thơ
Ngủ, mẹ còn phải gối đầu tay
33
Ăn, mẹ còn phải ăn một miếng nhả một miếng
…Đi, bố còn phải cõng trên lưng. [24; tr. 202]
Một cô bé vẫn còn là đứa trẻ thơ dại, ăn ngủ vẫn phải nhờ đến bàn tay
chăm sóc của cha mẹ vậy mà giờ đây đã phải đi làm dâu, làm vợ. Người con gái
chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì đã phải chịu cảnh làm dâu trăm điều canh
đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc, non nớt ấy. Bé
Mỷ trong bài dân ca đại diện cho hàng ngàn, hàng vạn em gái Mông lúc bấy giờ.
Rồi cảnh “gái lớn lấy chồng bé” cũng được dân ca Mông khắc họa rõ nét:
Con cun cút mái vẫy đuôi,
con cun cút non cứ đỗ trên cành.
Gái lớn lấy chồng bé,
chồng bé phụ lòng em xe sợi tước đay. [24, tr. 272]
Vì lấy phải người chồng nhỏ tuổi nên người phụ nữ phải gánh vác tất cả
công việc gia đình, còn người chồng chỉ đóng vai trò phụ giúp vợ. Làm vợ trong
hoàn cảnh này chẳng khác chi làm “bảo mẫu” phải dỗ dành thậm chí là cõng
chồng đi chơi, như ca dao người Kinh đã mỉa mai sâu cay:
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Không chỉ có ca dao, dân ca, những bài hát đồng dao về cảnh “gái lớn lấy
chồng bé” đã tạo nên tiếng cười cho độc giả. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy lại là
nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận người phụ nữ, là tiếng nói đanh thép tố cáo nạn
tảo hôn trong xã hội xưa. Sự ép duyên này được cả gia đình, dòng họ ủng hộ.
Anh họ đứng phắt dậy cầm tay lôi
Em họ đứng phắt lên nắm tay kéo
Kéo phăng ra ngoài cửa
Em nước mắt như mưa sấm mưa gió lã chã ứa [24, tr. 61]
“Anh họ”, “em họ” là những người thân trong gia đình, chủ động, quyết liệt
“cầm tay lôi”, “nắm tay kéo” cô gái Mông nhỏ bé không thể tự vệ. Dù cho “nước
mắt như mưa sấm mưa gió lã chã ứa”, nước mắt lã chã kêu khóc ai oán thì vẫn cố
ý đẩy người em mình vào tay người xa lạ, gây ra một thảm cảnh vô hình với chuỗi
34
ngày đau khổ đang chờ đợi cô gái ở phía trước. Đồng bào Mông có quan niệm và
kiêng kị dành cho con dâu mà đến nay vẫn còn tồn tại. Nếu là con gái trong nhà
thì được tự do đi lại và ăn uống không phải giữ ý. Còn con dâu thì không được
ngồi ăn cùng mâm với cả gia đình, đặc biệt là với bố chồng với anh chồng, họ
đóng vai trò như người ở, người làm trong nhà bị hắt hủi, coi thường. Những cuộc
trao đổi, thách cưới đều do cha mẹ hai bên và ông mối thống nhất.
Những cuộc hôn nhân gả ép chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bi kịch
cho người phụ nữ. Một tâm lí chung của con người, khi thực tại bé tắc, đau khổ
thì thường nghĩ tới quá khứ vui tươi, hạnh phúc. Phụ nữ Mông cũng vây, họ nhớ
về thời thanh xuân tươi đẹp với những mối tình lãng mạn, tự do: “Gầu Mông nói
đrâu Mông/ Hai ta chung nhịp thở/ Nếu buộc phải chết đi/ Nên chôn cùng một
mộ” [18; tr. 129]. Đôi lứa yêu nhau đến từng nhịp thở, thậm chí khi chết đi họ
nguyện chết cùng nhau, chôn cùng một mộ, cùng một quan tài. Tình yêu của họ
thật đáng ngưỡng mộ. Trong tình yêu, người con gái Mông lúc nào cũng hiện lên
với trái tim son sắt, thủy chung, họ nguyện làm “Con gái son chờ đợi anh” [20; tr.
208]. Mặc dù yêu thiết tha, say đắm nhưng phần lớn phụ nữ Mông đều không lấy
được người mình yêu do cha mẹ không ưng, do hoàn cảnh trái ngang… Những
cuộc hôn nhân sắp đặt, gượng ép cùng với phận làm dâu đầy nhọc nhằn, vất vả,
lấy chồng mà vẫn phải thui thủi một mình, cô nhớ về mối tình xưa:
Hai ta yêu nhau không lấy được
Kể ra ngày ấy
Em thôi không cầm tay ôm lưng anh
Chẳng nằm dựa nhau trong giấc lành
Ngày mai anh dạo bước về
Để em nhớ anh không biết bao tháng năm mới mờ
Chẳng nằm dựa nhau trong giấc hay
Mai ngày anh dạo bước đi
Cho em nhớ anh
Chẳng biết bao tháng năm mới phai [19, tr. 162]
35
Yêu nhau không đến được với nhau, để rồi khi đã là dâu nhà người cô gái
Mông nhớ về người tình cũ với những cái ôm mặn nồng, cái nắm tay thắm thiết.
Tuy nhiên, tất cả chỉ dừng lại nỗi nhớ nhung, người con gái không thể làm gì để
khắc phục hoàn cảnh thực tại. Qua đó, ta thấy được nỗi đau của những người
phụ nữ - những nạn nhân của hủ tục phong kiến lạc hậu: tảo hôn, cưỡng hôn,…
Còn nỗi đau nào thấm thía hơn, chua xót hơn khi yêu mà không được bên cạnh
người mình yêu thương:
Ve ơi!
Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật nhớ
Tim ta buồn như cây lanh bị người sắp chặt
…Lòng ta đau như cây lanh bị người ta sắp cắt [24, tr. 114]
Nàng đã làm dâu nhà người nhưng vẫn không quên được mối tình nồng
mặn khi xưa với chàng học trò. Được ve mang điếu thuốc chàng gửi làm vật
thương mà lòng nàng càng thêm đau đớn “buồn như cây lanh bị người sắp
chặt”, phần vì nuối tiếc, luyến lưu tình xưa nghĩa cũ, phần vì chua xót cho cảnh
đời thực tại. Giờ đây, người con gái chỉ còn biết khuyên chàng hãy đi tìm người
yêu mới – chúc phúc cho người mình yêu. Cô gái Mông nhớ về những kỉ vật mà
mình đã từng tặng chàng:
Gầu mông rằng cái gì em cũng chẳng có
Em chỉ có chiếc khăn nhiễu tặng anh [20; tr. 160]
Hay:
Em hãy tặng ta chiếc dây lưng lanh để làm vật ghi nhớ tình anh
Chiếc dây lưng lanh thêu hoa hình con ốc
Sợi to sợi nhỏ đều do bàn tay em xe.[24; tr. 51]
“Khăn nhiễu”, “dây lưng lanh” là những vật dụng được thêu hoa rất cầu kì,
tỉ mỉ. Để thêu được những vật này, người phụ nữ Mông phải mất rất nhiều thời
gian, công sức. Đối với người Mông những vật này được làm để dùng chứ ít khi
đem trao đổi mua bán. Người được tặng thường gìn giữ nó rất cẩn thận bởi đây là
biểu tượng thiêng liêng cho tình yêu nam nữ Mông, một thứ đồ vật quý vừa có giá
trị vật chất vừa có giá trị tinh thần. Nó là vật chứng cho tình yêu thủy chung, son 36
sắt, là nhân chứng cho tình yêu nam nữ. Nhận được kỉ vật người con gái trao tặng
cũng là sự ràng buộc vô hình giữa hai tâm hồn. Nhưng giờ đây, tất cả mọi thứ đã
trở nên vô nghĩa khi cô gái đã đi lấy chồng, sự ràng buộc đó đã không còn nữa và
lời thề nguyền trước đây cũng không còn:
Anh cứ cắt ngón tay
Em sẽ cắt ngón chân
Đem pha cùng một bình
Uống để cho chứng minh
Đẹp lạ một mối tình! [18; tr. 128]
“Cắt máu ăn thề” là một cách để chứng minh lời thề chung thủy, thành thực
của đôi trai gái trong tình yêu. Đó là cách thức biểu hiện một tâm trạng, một tính cách
người Mông thật mạnh mẽ, dứt khoát. Tình yêu của họ thật đẹp khi hai người cùng
ước nguyện một lòng, cùng nhau chứng minh một tình yêu đẹp. Trong truyện thơ
dân gian “Nàng Dợ - Chà Tăng”, đã từng vào rừng cắt máu ngón tay pha rượu cùng
uống để ước nguyện chung sống bên nhau trọn đời. Đây là một cách chứng minh lời
thề được coi là mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất và đã được đôi trai gái trong dân ca
Mông sử dụng để chứng tỏ tình yêu. Nhưng đến cuối cùng đôi trai gái yêu nhau vẫn
không thể chiến thắng được những định kiến của xã hội, người con gái phải đi lấy
chồng và họ phải rời xa nhau.
Người con gái khi đã làm dâu nhà người, chỉ biết ngồi đó nhớ về những kỉ
niệm, những kỉ vật và lời thề với chàng trai mình yêu. Vẫn biết rằng, điều mà con
người mong mỏi nói lên nhiều nhất là những tình cảm, những ước mơ lành mạnh,
một tình yêu chân thành, một gia đình hạnh phúc... Nhưng không phải ai cũng đạt
được ước mơ đó, đặc biệt là người cô gái Mông. Tiếng hát làm dâu của những
người phụ nữ dân tộc Mông còn chất chứa rất nhiều đắng cay, chua xót, nó thấm
đẫm trong những lời dân ca của người xưa, chất chứa những ân tình, đậm đà giá
tri ̣nhân văn.
2.2. Sự phiền muộn trong phận làm dâu
Chấp nhận những cuộc hôn nhân ép buộc, về làm dâu ở một gia đình xa lạ
chịu bao đắng cay, tủi nhục…khi đó người phụ nữ Mông thường buông lời thở 37
than, trách móc qua lời ca, tiếng hát. Viết về tiếng hát làm dâu trong dân ca dân
tộc Mông, ta thấy phổ biến nhiều hơn cả là những bài hát viết về nỗi phiền
muộn, sự thở than, trách móc của người phụ nữ Mông khi phải làm dâu. Ở đây
người phụ nữ có thể giãi bày, tâm sự mọi cung bậc cảm xúc cũng như nỗi lòng
của mình: “Xã hội dân tộc Mèo ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị
người phụ nữ rất thấp kém. Những nạn tảo hôn, cưỡng hôn, những cảnh làm
dâu bị đầy đoạ như trâu ngựa. Suốt đời người phụ nữ bị buộc chết vào nhà
chồng. Người phụ nữ vô cùng đau khổ, hầu như không còn quyền sống. Tình
cảm họ bị chà đạp, thể xác bị dập vùi, họ chỉ còn biết dùng lời hát mà kể lể, thở
than cho cảnh ngộ đau thương oan trái của mình” [23; tr. 12]. Trong những bài
dân ca về tiếng hát làm dâu, người phụ nữ Mông thể hiện rõ nỗi lòng của mình,
đó là nỗi buồn bị gả ép, nỗi phiền muộn về thân phận làm dâu nhỏ bé và nỗi thất
vọng cùng sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng.
2.2.1. Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé
Khi tìm được bến đỗ, cứ ngỡ hạnh phúc sẽ mỉm cười với người phụ nữ,
nhưng lại phải đối mặt với vô vàn điều ngang trái, bất công và nhiều hủ tục kèm
theo. Vì xây dựng gia đình sớm nên người phụ nữ phải nhanh chóng có con và
phải làm nhiều công việc nhà nên rất vất vả. Nếu người phụ nữ có chửa phải
kiêng không được đi xa nhà, không được ăn thức ăn mà dòng họ kiêng kị, kiêng
bước qua dây buộc ngựa, bước qua suối. Chính vì những luật tục, những điều
bất công mà người con gái khi về nhà chồng phải chịu đựng nên đã có rất nhiều
câu chuyện làm dâu. Hầu hết chúng được kể, được hát và lưu truyền qua dân ca,
dân ca. Mặc dù có rất nhiều câu chuyện xoay quanh con đường làm dâu của
người phụ nữ Mông nhưng chúng đều có một điểm chung là những người phụ
nữ đều có một tâm trạng chung, một nỗi khổ chung và cùng chịu một chế độ áp
bức chung. Có lẽ vì thế khi nhắc đến hai chữ “làm dâu” là người ta đã nghĩ ngay
đến sự vất vả, khổ cực mà người con gái phải chịu khi về nhà chồng. Và những
cô gái Mông cũng vậy, họ đã ý thức được thân phận làm dâu đầy tủi cực của
mình. Họ ý thức được rằng, con đường làm dâu không phải là con đường rộng
38
mở, hạnh phúc thênh thang mà thay vào đó là con đường tăm tối chật hẹp như
“ống đũa”, “ống tre”:
Đrâu Mông rằng gầu Mông
Đường làm dâu con đường như ống đũa
Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,
Đường làm dâu con đường như ống tre
Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [19, tr. 128]
Hay:
Con đường làm dâu gầu Mông
Như là tre mọc đan chéo
Như là cây mọc đan xen. [19; tr. 122]
Bài ca ví con đường làm dâu sẽ đầy nước mắt, cuộc đời bị bó hẹp, tăm tối
như “ống đũa”, “ống tre”. Hình ảnh cái cây trong bài ca được diễn tả một cách
không bình thường. Thông thường cây phải mọc thẳng vậy mà ở đây lại mọc
chéo, mọc đan xen nhau ám chỉ cuộc sống làm dâu sẽ không bằng phẳng. Con
đường làm dâu của cô gái Mông trong bài hát cứ giằng co, rậm rạp như “tre mọc
đan chéo”, như “cây mọc đan xen”. Cây cối tầng tầng lớp lớp đan vào nhau tạo
nên một bức tranh hỗn độn. Câu hát còn thể hiện nỗi niềm hoang mang, rối bời
của người hát, tâm trạng lo lắng và sợ sệt. Những khúc mắc cứ chồng lên nhau,
chằng chịt và vô phương gỡ nổi. Người phụ nữ Mông than thở về phận làm dâu
đầy oan trái, bất công. Rồi đây, họ phải đối mặt với muôn vàn đắng cay, nỗi khổ
này ai thấu và họ chỉ biết gửi gắm vào những bài hát dân ca để giãi bày, tâm sự.
Làm dâu là con đường của kiếp người hèn mọn và thấp bé, không quyền lợi,
không tiếng nói và phụ thuộc hoàn toàn vào chồng và cha mẹ chồng một cách
tuyệt đối. Bài ca đại diện cho số đông những thân phận đang hàng ngày hàng giờ
làm ống đũa, ống tre cho nhà chồng, rồi nhận lại là những giọt nước mắt. Và
như đoán trước được tương lai mịt mờ nên hành trình về nhà chồng của cô gái
Mông cũng hết sức gian nan:
39
Gầu Mông leo hết đèo
Mưa phùn mưa lớt phớt
Đôi mối cho ăn trưa
Gầu Mông nước mắt trào
Gầu Mông vượt hết núi [18, tr. 99]
Bài ca nói về đám cưới người Mông trên đường đi rước dâu bao giờ cũng
có một bữa phụ gọi là ăn trưa, để cúng khấn thần linh phù hộ cô dâu, cũng để cô
dâu thay đồ mặc mới trước khi bước vào nhà chồng. Biết được con đường phía
trước đầy vất vả, khó khăn vậy mà cô dâu vẫn phải vượt qua đèo, qua núi và
những giọt nước mắt lăn trên má người thiếu nữ. Cô gái phải kìm chế, nín nhịn
để đi tới nhà chồng. Vậy mà khi đến nhà chú rể thì:
Gầu Mông đi đến nhà chú rể
Người ta có nơi đứng
Gầu Mông không chỗ đứng
Buồn bã cạnh cửa chính
Lòng ruột lá gan như bị dính.
Gầu Mông đi đến nhà chú rể
Người ta có nơi nghỉ
Gầu Mông không chỗ nghỉ
Buồn tênh cạnh cửa phụ
Lòng ruột lá gan như bị nổ. [18, tr. 109]
Mệt mỏi vì phải đi một chặng đường dài, vậy mà khi đến nhà chồng cô dâu
không có một chỗ đứng, một chỗ nghỉ ngơi khiến cô gái Mông buồn bã và vô cùng
tức giận, trong lòng như lửa đốt. Mặc dù tức giận nhưng người con gái không thể
làm gì chỉ biết đứng cạnh cửa chính. Dường như, sự xuất hiện của cô dâu như thừa
ra, không được quan tâm, chú ý. Nói về nỗi khổ của người phụ nữ Mông khi làm
dâu đều bắt nguồn từ mối quan hệ với chồng, với gia đình chồng. Nếu như ca dao,
dân ca của các dân tộc khác ví số phận người phụ nữ như “hạt mưa sa”, “hạt mưa
rào” (ca dao Việt) hay chỉ bằng “thân con bọ ngựa” (ca dao Thái) thì trong dân ca
Mông thân phận người phụ nữ được ví như là hoa phong lan, hoa dại trên rừng 40
hoặc như cây lanh. Họ đem lại hương sắc cho núi cho rừng nhưng mong manh
trước song gió cuộc đời, hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác:
Hạt lanh ruộng tra vào đám nương hạt lanh mới nát
Em lấy phải người chồng không xứng đôi. [24, tr. 151]
Theo kinh nghiệm trồng lanh của người Mông, nếu trồng lanh để lấy sợi
dệt vải người ta gieo hạt lanh vào nơi đất tương đối bằng phẳng (lanh ruộng).
Nhưng nếu trồng lanh để lấy hạt giống cho vụ sau thì người ta thường gieo lanh
trên các nương dốc với mật độ gieo hạt lanh thưa hơn để lanh to phát triển nhiều
cành ra hoa kết trái cho nhiều hạt lanh vì thế “lanh ruộng tra vào đám nương”
có nghĩa là việc làm không hợp lí, chắc chắn kết quả không thu hoạch sẽ không
như ý muốn. Cũng như cô gái Mông bị gả vào không đúng nơi đúng chỗ, lấy
phải chồng không xứng đôi vừa lứa thì cuộc sống phải chịu nhiều khổ đau, bất
hạnh. Đây cũng là cách nói rất hình ảnh, rất gần gũi với người Mông nên nó vừa
dễ hiểu, vừa thấm thía sâu sắc.
Lấy chồng và làm dâu là con đường đi không bằng phẳng với bất cứ người
phụ nữ ở dân tộc và quốc gia nào. Với nhiều hủ tục lạc hậu, người phụ nữ Mông
sống trong hôn nhân với nỗi tủi nhục và khổ cực. Phần lớn phụ nữ Mông khi bước
vào cuộc sống hôn nhân đều tự nhận thấy khổ đau chồng chất cùng với nỗi thất
vọng tràn trề. Trên con đường nhiều gập ghềnh, nhiều chông gai và những ngã rẽ
không ngờ ấy, dường như người phụ nữ đã ý thức được số mệnh của bản thân. Vì
là những cuộc hôn nhân gả ép, cưỡng hôn nên người phụ nữ càng rơi vào tuyệt
vọng, hạnh phúc của bản thân mà không được quyền lựa chọn. Nỗi đau ấy ai có thể
thấu hiểu và càng không thể giãi bày cùng ai, họ chỉ biết gửi gắm nỗi lòng mình
vào dân ca để khi tuyệt vọng và buồn tủi nhất, họ cất lên tiếng hát như thể một thứ
thuốc tinh thần, xoa dịu mọi cơn đau trong lòng. Và dường như chỉ có dân ca mới
giúp họ giải tỏa được nỗi lo trong lòng, đồng thời cũng để người đời sau hiểu được
nỗi lòng của người phụ nữ Mông khi đã lập gia đình.
2.2.2. Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia đình chồng
Có được một gia đình hạnh phúc là ước mong lớn nhất của mỗi người phụ
nữ. Và có hạnh phúc hay không thì lại phụ thuộc rất nhiều vào người chồng. Bài 41
ca là lời than thân của cô gái lấy phải người chồng không xứng đôi vừa lứa,
không biết trân trọng giá trị người phụ nữ. Kết quả của những cuộc hôn nhân bị
gả ép là cuộc sống gia đình không hạnh phúc dù rằng người phụ nữ đã cố gắng
làm mọi thứ cho gia đình chồng:
Thằng chồng ác, chân đá tay đánh
Thân con chẳng khác con trâu đám nhà người [24, tr. 276]
Cảnh ngộ cô gái Mông thật đáng thương, lấy phải thằng chồng vũ phu, tàn
nhẫn. Tại sao người phụ nữ lại cất lên tiếng than đầy ai oán, chua xót cho thân phận
làm dâu của mình? Chắc chắn có lý do của nó. Họ lấy chồng mà lại trở thành một
thứ công cụ lao động đa năng. Bước chân về nhà chồng, người con dâu bắt đầu
guồng công việc mới, nhiều hơn, nặng nhọc hơn và vất vả hơn so với thời còn là
“con gái son của bố mẹ”:
Vừa mới cất bước tới nhà chồng
Gầu Mông đã đi địu nước ngay
Địu về chưa tới chân tường nhà
Đã nghe nhà chồng chửi la cà.
Vừa mới cất bước tới nhà chồng
Gánh về chưa đến gần chân vách
Đã nghe nhà chồng to nhỏ trách. [18, tr. 94]
Bố mẹ chồng không nghĩ con dâu đi “địu nước”, “gánh nước” mà là đi chơi
“la cà” nên không tiếc lời trách móc. Hết lòng chăm sóc cho gia đình nhà chồng
nhưng người con dâu luôn bị nghi ngờ, nghĩ xấu, không một ai tin tưởng. Đã
vậy, người phụ nữ luôn bị mẹ chồng tìm cớ để buông lời cay nghiệt, độc đoán.
Người mẹ chồng chính là nỗi ám ảnh của biết bao nàng dâu, và là nguồn căn nỗi
thống khổ:
Nước đun chưa kịp sôi
Nếm thử tí một ở đầu môi
Bố mẹ chồng rằng gầu Mông
Ăn hết cả tạ cả sinh ngô
Nếm thử tí một ở đầu răng 42
Bố mẹ chồng rằng gầu Mông
Ăn sạch cả tạ cả yến gạo [19, tr. 122]
Nàng dâu bỗng biến thành kẻ có tội, tham lam và xấu tính trong gia đình
bởi sự thổi phồng, thêu dệt của mẹ chồng. Nấu cơm mà không thử thì khác gì
người mù vẽ tranh, đâu biết đậm nhạt, đường nét ra sao. Vậy mà, cái tất nhiên là
trở thành cái cớ ngẫu nhiên cho lòng dạ độc ác. Sống giữa dối trá và oan ức,
người phụ nữ chỉ biết kêu than qua những câu hát trong dân ca. Tiếng hát đau
thương không chỉ dành để ca thán, đó còn là lời tố cáo đanh thép giáng vào chế
độ phụ quyền, coi thường phụ nữ mà đặc biệt là người con dâu. Tiếng hát làm
dâu đã phản ánh mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu hết sức tồi tệ, mọi cử chỉ,
hành động của con dâu luôn bị mẹ chồng theo dõi, bất cứ việc làm nào của con
dâu cũng không làm bà mẹ chồng hài lòng:
Gầu Mông về sát bờ rào
Bà nhà Mông lạ dùng tiếng Di tiếng Hán gào
Gầu Mông về sát bờ dậu
Bà nhà Mông là dùng tiếng Di tiếng Hán rủa. [20,tr. 188]
Người phụ nữ không chỉ chịu nhiếc móc, chửi rủa của mẹ chồng mà còn
chịu sự ghẻ lạnh của anh em và cả gia đình chồng:
Em bé mắng con không biết công việc không đáng chị dâu
Anh lớn nhiếc con vụng về làm ăn, không đáng em dâu. [24, tr. 261]
Hay:
Sợ hãi anh em nhà người ta, mặt em tái xám
Sợ hãi anh em nhà người ta, mặt em tái xanh. [24, tr. 279]
Cuộc đời của phụ nữ Mông xưa ở nhà chồng là một vòng tròn khép kín
phủ màu u tối. Họ cứ thế, loanh quanh, ngổn ngang trong cái đường vòng ấy mà
cũng đủ bận rộn, tất bật. Ranh giới rõ ràng nhưng cũng rất mong manh, họ
không được phép ngơi nghỉ. Đáp lại sự cần cù, chịu khó của người con dâu
Mông là thái độ lãnh cảm, khinh miệt và tàn ác của mẹ chồng cùng gia đình nhà
chồng. Đối với người con dâu, ở đâu có mẹ chồng là ở đó sẽ có tiếng chửi rủa.
Bất cứ việc gì nàng dâu làm đều khiến mẹ chồng khó chịu, không vừa ý. Đối 43
mặt với những ràng buộc và áp bức từ nhiều phía đặc biệt là gia đình chồng, phụ
nữ Mông nhận định và đánh giá được mức độ bất công mà mình đang phải gánh
chịu, biết được độ nông sâu của tầng tầng lớp lớp hủ tục và định kiến đang đè
nặng lên đôi vai chính mình.
Khi làm dâu, người phụ nữ Mông quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công
việc: “làm chín ngày mười thời gian”, chỉ có mùa làm chứ không có mùa nghỉ.
Hết việc nhà đến việc nương rẫy, rảnh rỗi lúc nào lại xe lanh dệt sợi. Đọc những
bài dân ca, dường như có sự đồng nhất giữa thân phận người con gái vô danh
với cô gái tên Mị của Tô Hoài trong văn học hiện đại. Cuộc sống gần như vô
nghĩa. Tâm hồn người phụ nữ bị héo mòn, chai sạn “lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Thân trâu ngựa làm việc còn có lúc được nghỉ, đằng này, sáng
sớm tinh mơ khi sao trời vẫn còn lấp lánh, rồi cả khi lạnh buốt đến nát gan, nát
tim nhưng người phụ nữ vẫn phải trở dậy đi địu nước dưới suối cho mọi người
rửa mặt, rửa chân tay khi ngủ dậy. Đến cả bữa ăn cũng không được tử tế:
Gầu Mông ăn sáng ăn chả ngon
Đưa thìa vục luôn tận đáy soong,
Gầu Mông ăn trưa ăn chẳng trôi
Đưa thịt vục luôn tít đáy nồi [20, tr. 186]
Thông thường, khi con người ta lao động vất vả, nặng nhọc thì phải được
ăn nhiều, ăn ngon ăn một cách thảnh thơi, chậm rãi vì đây là lúc được nghỉ ngơi,
thoải mái vậy mà cô dâu Mông lại phải ăn nhanh ăn vội, cơm ăn không ngon
nuốt không trôi, phải “đưa thìa vục luôn tận đáy soong”, “đưa thịt vục luôn tít
đáy nồi”. Trước hoàn cảnh đó, người phụ nữ Mông không thể làm gì ngoài sự
nhẫn nhục, cam chịu. Có lẽ vì sống lâu trong cái khổ nên họ đã quen khổ rồi.
Mặc dù sống khổ cực và làm lụng vất vả nhưng họ vẫn không được coi trọng mà
đáp lại luôn là sự coi thường và bị đối xử không khác gì người ở trong nhà thậm
chí như con trâu, con ngựa:
Người ta ăn xong bát đũa vứt lại
Một mình gầu Mông khác đem rửa sạch
Người ta ăn xong bát đũa vứt sau
44
Một mình gầu Mông khác đem chùi lau. [20, tr. 188]
Dọn cơm lên, nàng chưa kịp ngồi vào mâm mọi người đã ăn xong, phần
tiếp theo là phải một tay lau chùi, dọn dẹp. Người phụ nữ thành một thứ công
cụ, một thứ đồ vật trong cuộc sống nhà chồng. Sống cảnh đời cơ cực, phụ nữ
Mông chắc hẳn cũng không muốn bưng bát cơm “chan đầy nước mắt” nhưng
nghĩ đến sự sống, giữ gìn hòa khí trong gia đình nên đã cố gắng cam chịu, nhẫn
nhục. Có lẽ sống mãi trong cái khổ thành quen, người ta chán cũng chẳng buồn
chết nữa. Ta thấy người phụ nữ phải đơn độc đối diện với sự ghẻ lạnh của bố mẹ
chồng, gia đình chồng mà không xuất hiện hoặc rất mờ nhạt hình bóng người
chồng - người đàn ông đáng lẽ phải là chỗ dựa tin cậy của đời họ.
Phụ nữ Mông đã hi sinh tất cả cho gia đình nhà chồng để nhận lấy một sự
vô ơn, phụ bạc phũ phàng. Lúc ốm đau chỉ có một thân một mình, không ai ngó
ngàng hỏi han. Đã cơ cực lại muôn phần tủi hờn, những dòng nước mắt tủi hờn
thấm đẫm trong dân ca:
Nàng ốm lăn trên giường dưới đất
Nàng ốm vật dưới bếp trên nhà
Mẹ chồng không nhìn
Người chồng không ngó
Thân thể như đau nhừ
Đầu óc nàng nhức nhối. [24; tr. 265]
Có lẽ nếu con ngựa, con trâu trong nhà ốm đau người ta còn chăm sóc,
cứu chữa vì tiếc của. Còn người phụ nữ kia có ai thừa nhận vai trò của họ, chết
vợ này ta lấy vợ khác chăng? Người phụ nữ đã bị chà đạp một cách thảm hại cả
thể xác lẫn tâm hồn. Thậm chí, cả lúc chết đi rồi người chồng vẫn thản nhiên
như không. Nghe tiếng khèn đám ma vợ mình mà chồng cứ nghĩ là tiếng cành
nứa đua nhau gãy, thi nhau rơi. Vậy thử hỏi tình nghĩa vợ chồng ở đâu? Chắc
hẳn đến đây chúng ta đã hiểu vì sao người con gái phải cất lên tiếng khóc ai oán:
phận làm dâu mà “thân khác gì trâu măn đeo ách”. Người ta khi nào bị đi tù thì
mới phải đeo gông. Con trâu khi kéo kéo xe, kéo cày nặng nhọc thì phải đeo
ách… Càng cho thấy những phũ phàng, đau đớn của cánh làm dâu: bị trói buộc 45
từ nhiều phía. Số phận nghiệt ngã, họ đã vùng dạy để trốn chạy. Ai ngờ trốn
không nổi mà thêm vào đó là họ nhận được trận đòn thừa sống thiếu chết:
Người ta bắt được trói chị bằng dây thừng
Đánh chị ba trăm sáu mươi lăm gậy
Chị chạy tháo thân. [24; tr. 227]
Vì bỏ trốn mà những cô gái trong bài dân ca bị trói bằng sợi dây thừng,
dây mây, bị đánh đến “ba trăm sáu mươi lăm gậy”, những vết gậy, vết roi in hằn
trên cơ thể. Cô gái Mông không chỉ chịu những nỗi đau về mặt tinh thần mà còn
phải chịu nỗi đau về thể xác. Họ sống mà như chết, sống không có hạnh phúc,
hạnh phũ là hư vô, là ảo ảnh, là thứ quá xa xỉ đối với những người phụ nữ
Mông. Bất an vô định, người phụ nữ gửi trọn những đau đớn ấy vào câu dân ca,
đó là “tiếng hát làm dâu”, làm thành chất bi có tính đặc trưng cho những bài hát
than thân. Bên cạnh đó, nói tới bi kịch hôn nhân của người phụ nữ Mông không
thể không nhắc tới tục “nối dây” khắc nghiệt. Tục nối dây của người Mông:
người con gái đã về làm dâu tức là được nhập ma nhà người. Chồng chết thì
phải lấy anh, em trong họ. Nếu như không có người để lấy thì phải ở vậy suốt ba
năm rồi lúc đó mới được đi lấy chồng khác. Khi đó nhà chồng sẽ là người đặt và
thu tiền thách, tiền cheo. Mà “Ba năm trực tiết còn gì là xuân”. Số mệnh người
phụ nữ khi xuất giá đã an bài trong bàn tay nhà chồng. Sống thì làm trâu làm
ngựa phục vụ nhà chồng, có chết cũng làm ma nhà chồng, không gì cứu vãn.
Bức tranh làm dâu đầy tửi cực của người phụ nữ Mông hiện lên sống
động, biết bao cảnh đời cơ cực, khốn khổ vì bị ép duyên, ép phận. Số phận long
đong, “bảy nổi ba chìm” không nơi nương tựa, lênh đênh, trôi nổi, không hướng
đi trong chính cuộc đời mình, người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, áp đặt vào
gia đình chồng. Có thể coi nó như cái “nợ truyền kiếp” mà những người phụ nữ
phải chấp nhận để rồi chỉ biết cất lên những tiếng than ai oán cho số phận hẩm
hiu của đời người con gái.
2.3. Ước vọng của người phụ nữ khi làm dâu
2.3.1. Ước vọng trở về với cuộc sống tự do
Điều đáng trân trọng và ngợi ca ở người phụ nữ Mông chính là ý chí kiên
cường và một tinh thần mạnh mẽ không gì khuất phục. Trước những bất công và
46
oan trái đến cùng cực, họ không ngậm ngùi nuốt giọt nước mắt để êm cửa êm
nhà, trái lại họ đứng lên để giành “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Cuộc đấu tranh diễn ra dữ dội ở nhiều cấp độ và đa phần người phụ
nữ luôn giành lấy quyền quyết định số phận vào tay mình. Ta nhận thấy người
phụ nữ Mông đi làm dâu nhưng thực chất là đi làm mướn, ở đợ nhưng ảm đạm
thay lại “mướn không công” và “tức nước vỡ bờ” – quy luật của tự nhiên và
cũng là quy luật của xã hội. Sự mạnh mẽ quyết liệt của người phụ nữ Mông đã
được thể hiện qua dân ca từ ngàn đời xưa:
Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi tới nói cho bõ thật chân,
Buông thật tay
Tôi sẽ theo chân họ nhà tôi, tôi đi
…Lúc ấy tôi sẽ vỗ tay nhảy
Vui mừng như người đi làm ăn. [24, tr. 222]
Người con dâu đã thẳng thừng chống đối mãnh liệt với mẹ chồng để đòi
tự do, được thoát khỏi cảnh làm dâu ở gia đình đầy cay nghiệt. Cô thẳng thắn
bày tỏ quan điểm muốn chấm dứt cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Khi ấy cô sẽ
đi thẳng, sẽ “vỗ tay nhảy”, không lưu luyến, hối tiếc, thậm chí còn khoan khoái
vui mừng “như người đi làm ăn”. Những câu dân ca trên quả là rất hiếm gặp
trong những câu dân ca, ca dao xưa, đặc biệt đối với các dân tộc anh em. Thông
thường, vì sợ điều tiếng, sợ mang vết nhơ cả đời nên hiếm người con gái nào
dám chủ động đề xuất cuộc chia cắt này. Vậy mà người phụ nữ Mông trong bài
dân ca lại bộc trực, thẳng thắn và tự tin đến lạ. Ở họ vừa có sự liều lĩnh, táo bạo,
vừa có sự ham sống và yêu đời đáng ngưỡng mộ. Dường như ở họ thấm đẫm
chất Mông, bản lĩnh Mông, tính cách Mông mạnh mẽ, thẳng thắn, yêu ghét rạch
ròi…mà không phải dân tộc nào cũng có được. Phải chăng hoàn cảnh sống khắc
nghiệt, quanh năm mây mù bao phủ và thường xuyên phải đối mặt với núi đá
cheo leo đã tôi luyện bản lĩnh mạnh mẽ của những cô gái Mông.
Trong gia đình người Mông, nếu vợ chồng xảy ra bất hòa, thì thông
thường con dâu không được phép trở về nhà bố mẹ đẻ mà chỉ được lánh sang
hàng xóm ở tạm. Nếu con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng 47
và được chồng đưa về tận nhà mới được coi là hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người
đàn bà không được trở về sống với bố mẹ đẻ mà đến ở nhờ nhà chức dịch cho
tới khi tái giá. Phong tục và quy định là vậy, nhưng không chịu nổi điều bất
công, các cô gái Mông vẫn trốn về nhà cha mẹ đẻ, nhằm kêu gọi sự cứu trợ của
gia đình:
Gầu Mông lòng dạ hết đường nghĩ
Đành quay lại nhà bố mẹ mình
…Gầu Mông toan tính quay lại nhà
Cố nuôi đàn lợn béo đầy chuồng
Cho xua đi bao nỗi u buồn
Cố làm cho mùa vụ đầy gác
Cho xua đi bao nỗi u uất [18, tr. 95]
Với người con gái đi làm dâu chịu nhiều tủi nhục, niềm an ủi duy nhất là
bến bờ yêu thương của cha mẹ. Bởi vậy mà cô gái Mông định quay lại nhà bố
mẹ mình và bắt đầu lại cuộc sống. Cô sẽ cố “nuôi đàn lợn béo đầy chuồng”,
“làm cho mùa vụ đầy gác” để xua đi những buồn khổ, u uất mà bản thân phải
chịu đựng bấy lâu nay. “Đàn lợn”, “vụ lúa” là thứ tượng trưng cho cuộc sống ấm
no, sự khởi sắc của cuộc đời. Và đây cũng chính là khao khát của cô dâu Mông,
khao khát được tìm lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no mà không phải chịu bất cứ
một tủi nhục nào. Với cô, trở về với cha mẹ là về với yêu thương và tránh xa
khổ ải. Về tới nhà, gặp được cha được mẹ, người con gái Mông được dịp dốc
bầu tâm sự:
Hỡi mẹ ơi
Người ta cố làm con tan nát
Gạo giá nát vụn đáy cối
Người ta cố ý làm cho thối,
Người ta cố làm cho tan tành
Gạo giá nát vụn mới thôi
Người ta cố tình làm cho con ôi. [20, tr. 189]
48
Có thể nói được trở về với cha mẹ như được trở về với sự bình yên, sự che
chở và người phụ nữ đã trải hết nỗi lòng của mình. Cô đã giãi bày, tâm sự mọi
nỗi thống khổ phải chịu đựng khi ở gia đình chồng, bị người ta vùi dập không
thương tiếc. Sống trong một gia đình không ai thấu hiểu, không có sự cảm
thông, chia sẻ nên người con gái thổ lộ hết nguyện vọng của mình:
Hỡi trời mẹ ơi!
Tiền người còn không?
Chắc phải đem tiền người trả người
Con mới hết đường than với đời,
Lợn họ còn không
Chắc phải đem lợn họ trả họ
Con mới hết đường khóc với nợ. [20, tr. 189]
Trong đám cưới của người Mông, nhà trai khi đến đón dâu phải đem đầy
đủ tiền và đồ sính lễ bao gồm: một con lợn khoảng 90kg đến 100kg; 40 lít rượu
nấu bằng ngô hay thóc; bốn con gà đã luộc chín; một túi xôi to để ăn khi nghỉ
dọc đường; một ít thuốc lá và một ít tiền đề phòng phát sinh. Giờ đây, khi trốn
về nhà bố mẹ đẻ, cô dâu Mông muốn xin cha mẹ trả lại sính lệ nhà người để cô
có được cuộc sống tự do như xưa. Nhưng đáp lại tiếng kêu khẩn thiết và ai oán
là sự chối bỏ trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ:
Mẹ gầu Mông rằng
Bố con bàn tay không chắc
Đã đem tiền người tiêu hết sạch
Bố con bàn tay không chặt
Đã đem lợn người bán hết cả. [20, tr. 189]
Vì lòng tham mà cha mẹ đã vô tình đẩy cô gái vào bước đường làm dâu
khổ cực, giờ đây, một lần nữa chính họ đóng sập lối thoát cuối cùng cho đứa con
của mình. Tiền, bạc của người ta mẹ cha đã tiêu hết, lợn đã bán sạch, lấy đâu mà
trả người bây giờ. Phải chăng quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật
cản bước chân người phụ nữ trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc, lại một lần nữa
khao khát ấy không thể thực hiện. Trước bi kịch cuộc đời, có những người phụ 49
nữ chỉ biết cam chịu, nín nhịn. Song không ít những người phụ nữ đã vùng lên
phản kháng, nhưng cuối cùng họ vẫn phải nhận hai chữ “khổ đau”.
Có thể nói, những người phụ nữ Mông bước đầu đã có sự phản kháng
trước những bất công, những định kiến của gia đình, của xã hội. Họ đã vùng lên
đấu tranh giành lại cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nhưng dường như sự vùng lên
ấy lại không được ai ủng hộ, kể cả bố mẹ đẻ của mình, người phụ Mông muốn
thoát ra “địa ngục trần gian” nhưng lại không thể phá bỏ được sự ràng buộc của
gia đình chồng.
2.3.2. Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận
Người phụ nữ Mông bị bủa vây bởi cái số mệnh mà giai cấp phong kiến
chà đạp phụ nữ. Người phụ nữ luôn ở địa vị thấp kém, cuộc đời họ bị lệ thuộc
vào gia đình, vào xã hội, vậy nên khi đã làm dâu nhà người họ không có quyền
lựa chọn, tất cả đều trở nên vô ích và người phụ nữ phải chấp nhận số mệnh của
mình. Không thể chịu được cuộc sống tù túng, bó buộc ở gia đình chồng, cô gái
chạy trốn về nhà bố mẹ đẻ:
Gầu Sênh càng nghĩ càng đau lòng
Gầu Sênh liền quay về nhà bố mẹ đi rong,
Gầu Sênh càng nghĩ càng đau tim
Gầu Sênh liền quay lại nhà bố mẹ nằm im. [20, tr. 276]
Người phụ nữ chạy về nhà bố mẹ đẻ nhằm thoát khỏi sự ngột ngạt, bế tắc
khi sống ở gia đình chồng. Trái lại với mong ước của cô gái, người mẹ khuyên
con gái mình quay về nhà chồng bởi: “Bố con đem tiền người tiêu hết rồi/…Bố
con đem vật người bán hết lâu” [20; tr. 277]. Cha mẹ cô gái không thể thỏa được
nguyện ước của cô gái bởi sính lễ nhà trai đã dùng hết, không thể trả lại. Cha mẹ
không chứa chấp, về nhà chồng cũng không xong, người con gái Mông trở nên
lạc lõng và hoang mang giữa cuộc đời. Dường như cái khổ là một hằng số bất
biến đeo đẳng cả cuộc đời người phụ nữ. Trên thế gian này, không còn nơi nào
cho họ trú ngụ, không ai muốn họ sinh tồn. Vậy thì họ cũng không thiết tha tới
bất cứ điều gì. Cuộc đời họ lại tiếp tục bài ca ai oan, khổ đau.
50
Nhắc đến dân ca Mông, ta nghĩ ngay đến bài ca tình yêu của Nhàng Dợ và
Chà Tăng. Nhàng Dợ bị cha mẹ ép gả, về sống ở nhà chồng nàng bị gia đình
chồng đối xử độc ác, cay nghiệt khiến Nhàng Dợ vô cùng đau khổ. Vì quá phẫn
uất cùng nỗi đau không thể chia sẻ với ai, Nhàng Dợ trốn về nhà bố mẹ đẻ để
mong tìm được cuộc sống hạnh phúc, tự do trước kia nhưng đáp lại khát vọng và
hy vọng của nàng là sự thờ ơ và nàng không được cha mẹ bao bọc. Và nơi
Nhàng Dợ có thể bấu víu lúc đấy là trái tim, là tình yêu của Chà Tăng và chính
tình yêu đã giải thoát cho nàng, đưa nàng đến với cuộc sống, tương lai tốt đẹp
hơn:
- Chàng ơi em theo chàng băng núi băng đèo
Mồ hôi đổ chan chan
Quàng túi lanh ngang vai, em sẽ theo chàng nhịn đói say nắng
Đeo túi lanh dọc vai em sẽ theo chàng nhịn đói mệt sức
Lén chạy theo chàng đôi ta cùng trốn [24, tr. 248]
Vì hạnh phúc, vì khát vọng tự do Nhàng Dợ sẵn sàng cùng Chà Tăng bỏ
trốn, nàng chấp nhận “nhịn đói say nắng”, “nhịn đói mệt sức” chỉ cần được ở
bên người mình yêu thì bất cứ việc gì nàng cũng có thể làm được. Người con gái
ấy tưởng chừng như yếu ớt, như cam chịu nhưng thẳm sâu trong tâm hồn của họ
vẫn là sự phản kháng, sự vươn lên mạnh mẽ. Nhờ có ý chí kiên cường cùng với
khát vọng vô cùng cháy bỏng và nhờ có tình yêu mà cuộc đời người thiếu phụ
đã sang trang mới, mở ra tương lai tươi sáng hơn, đó là hạnh phúc là yêu
thương.
Câu chuyện tình yêu giữa Nhàng Dợ và Chà Tăng đã khích lệ khát vọng
tự do của những đôi trai gái yêu nhau nhưng không phải đôi trai gái nào cũng
được như họ và phần lớn cô gái Mông phải đối mặt với hậu quả của cuộc bỏ trốn
không thành:
Người ta bắt được trói chị bằng dây thừng
Đánh chị ba trăm sáu mươi lăm gậy. [24; tr. 227]
Thật xót xa, thật ai oán cho những người phụ nữ làm dâu mà phải sống
cùng dây thừng, cùng với gậy gộc. Có lẽ cuộc đời của họ còn không bằng con 51
trâu, con ngựa khi phải chịu trận đòn roi vô cùng tàn nhẫn từ gia đình chồng.
Sống mà cứ như chết, những người phụ nữ bị hành hạ cả về tinh thần lẫn thể
xác. Giờ đây, họ không gia đình, không tình yêu nên đa phần các cô gái Mông
lựa chọn cái chết để kết thúc mọi đau khổ của bản thân, để giải thoát, trốn chạy
tất cả. Theo phụ nữ Mông, tìm cái chết chính là tìm tự do, tìm hạnh phúc, họ sẽ
không bị ràng buộc bởi bất cứ thứ gì và họ tin rằng ở thế giới bên kia họ sẽ có
được điều mình muốn. Bởi vậy, người phụ nữ tìm mọi cách để được sang thế
giới bên kia:
Gầu Mông lại nhà
Vớ dây thừng quàng lên cành đa
Định thế cho vĩnh viễn biệt tăm
Vớ dây thừng quàng lên cành lim
Định vậy cho vĩnh viễn biệt tin. [20, tr. 190]
Đứng trước con đường làm dâu thăm thẳm và hun hút, người phụ nữ
Mông đã tìm ra hướng hoá giải. Cô đã tìm đến cuộn dây thừng để giải thoát cho
bản thân, để ra đi vĩnh viễn. Khát vọng tự do của người phụ nữ Mông vô cùng
lớn, họ tìm mọi cách để thoát khỏi cuộc sống ê chề, tủi nhục. Ngay cả cái chết
cũng không làm họ run sợ bởi chỉ có chết thì mới được thoát xác, được hóa kiếp
gột bỏ mọi ưu phiền, buồn não. Có khi người phụ nữ Mông tìm đến nắm lá ngón
để được chết:
Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc
Nhưng làm sao khỏi được đau tim
Nuốt thì lá độc thật đắng kinh
Lá ngón tan gầu Mông hết thở [18, tr. 96]
Nắm lá đắng dễ kiếm, dễ tìm là vật dẫn đưa phụ nữ sang thế giới bên kia.
Với họ, cái chết không có gì to tát và đáng sợ. Ngược lại rất nhẹ nhàng và cũng đến
rất nhanh, cái chết “nhẹ tựa như lông hồng”. Những cái chết đầy bi thảm ấy là
những nỗi oan ức bị dồn nén đến đỉnh điểm: tảo hôn, cưỡng hôn, bị ngược đãi, phụ
bạc,… Tìm đến cái chết nhẹ nhàng không phải vì họ coi thường mạng sống mà họ
đã làm tất cả những gì có thể để giành lấy hạnh phúc, tự do cho bản thân. Nhưng tất
52
cả lại trở nên vô nghĩa ở thực tại phũ phàng. Trong thơ ca dân gian Mông, con
người khi bất lực thường tìm đến cái chết bởi đối với họ cái chết như một sự cứu
cánh, một sự giải thoát. Trong thực tế cũng như trong văn học, hình như chỉ có dân
tộc Mông là có một thứ lá cây như một phương thuốc, nhưng không phải tìm đến
sự sống mà tìm đến cái chết – cây lá ngón. Hình tượng cây lá ngón thường xuyên
xuất hiện trong thơ ca dân gian Mông với vẻ lạnh lùng, cay nghiệt tạo nên những
câu ca ướt đẫm nước mắt. Cây lá ngón trở thành thứ cây đặc trưng của dân tộc
Mông trên con đường tìm khát vọng tự do. Hạnh phúc đối với người phụ nữ Mông
là ảo ảnh, là hư vô. Họ hóa kiếp cho mình mong muốn ở kiếp sau sẽ được hạnh
phúc: “Em đầu thai làm con gái út một người Hán gần chợ”. Những cái chết đầy
oan ức đấy là lời tố cáo đầy căm phẫn xã hội phong kiến với những hủ tục đã chà
đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Đồng thời tô đậm thêm khát vọng đấu tranh cho
hạnh phúc cá nhân, tình yêu, hôn nhân. Cái chết bi thảm của họ phần nào có tác
dụng cảnh tỉnh người thân và lên án xã hội bất công. Những người con gái xấu số
trở về với tổ tiên nhưng nỗi oan của họ thì ngàn vạn đời sau vẫn còn nhớ tới. Và
chừng nào những hủ tục kia còn tồn tại thì xã hội sẽ vẫn gặp những cảnh bi thương,
ai oán như vậy.
* Tiểu kết chương 2
Dân ca Mông đã khắc họa bức tranh toàn diện những cung bậc đời sống
tinh thần của người Mông với những nét phác đậm nhạt về số phận người phụ
nữ. Đó tiếng hát tâm tình, là nơi sâu thẳm trái tim họ gửi gắm những tiếng lòng
chất chứa ưu tư về nhân tình thế thái, những tiếng hát đầy đau đớn, xót xa của
những người phụ nữ Mông trong phận làm dâu. Họ không có vị thế xã hội, vị
thế trong gia đình và đặc biệt là vị thế trong gia đình nhà chồng với thân phận
như người ở, người làm thuê, họ phải làm đủ mọi công việc lao động nặng nhọc
nhưng nỗi vất vả và khổ cực ấy không ai biết, không ai hay.
Làm dâu nhà người nơi xứ lạ, họ phải đối mặt với muôn vàn đắng cay, tủi
nhục, từ nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ thậm chí nhớ người yêu cũ nhưng người phụ
nữ vẫn không thể làm gì ngoài sự cam chịu, nhẫn nhục. Mặc dù phải chịu sự ép
duyên, phải xa gia đình, xa bố mẹ nhưng những phụ nữ Mông hết lòng vì chồng,
vì gia đình chồng, làm việc quần quật từ sáng tới trưa, như một thứ công cụ lao
động vậy mà lại luôn bị mẹ chồng, bố chồng, anh em chồng thậm chí người
53
chồng chì chiết, soi mói, đổ oan buông lời cay nghiệt, độc đoán. Bị dồn đến
hoàn cảnh bi đát, họ đã phản kháng, đấu tranh cho khát vọng tự do, tìm kiếm
hạnh phúc ở thế giới bên kia. Tiếng hát làm dâu của những người phụ nữ Mông
chính là lời cảnh tỉnh với những người làm cha, làm mẹ, làm chồng,… Những
cái chết đầy oan ức là lời tố cáo đầy căm phận xã hội phong kiến với những hủ
tục đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Đồng thời tô đậm thêm khát vọng
đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, tình yêu, hôn nhân.
54
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TIẾNG HÁT LÀM DÂU
TRONG DÂN CA DÂN TỘC MÔNG
Để làm nên giá trị tư tưởng thẩm mĩ, mỗi loại hình nghệ thuật đều được sáng
tạo bằng những chất liệu riêng biệt. Chất liệu của hội họa là đường nét, hình khối,
màu sắc; chất liệu của âm nhạc là giai điệu, âm sắc; còn chất liệu của văn học là
ngôn từ. Mỗi bài dân ca là tâm hồn của người nghệ sĩ dân gian. Người nghệ sĩ đã
cất lên những tiếng hát hồn nhiên, yêu đời với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc
khác nhau của con người, có những niềm vui nhưng cũng có những nỗi buồn thậm
chí cả những dòng nước mắt tuôn trào cũng đi vào dân ca tạo nên điểm nhấn lắng
đọng trong tâm trí người nghe.
"Nghệ thuật của dân ca về mặt văn học là nghệ thuật biểu hiện bằng ngôn
ngữ và hình tượng phục vụ được tích cực nhất nội dung bài ca, còn nghệ thuật
của dân ca theo tính tổng hợp của nó là nghệ thuật vừa thể hiện vừa biểu diễn
với tất cả khả năng ca nhạc vũ kịch" [13; tr. 550]. Do đó, tiếng hát làm dâu
trong dân ca Mông hay không chỉ ở nội dung mà còn ở nghệ thuật độc đáo.
Chúng tôi sẽ làm rõ nội dung nghệ thuật ở các phương diện: ngôn ngữ, hình
tượng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông. Sở dĩ,
chúng tôi lựa chọn các phương diện này bởi đây là những phương diện thể hiện
rõ đặc trưng trong đời sống tinh thần cũng như văn hóa của đồng bào dân tộc
Mông.
3.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của
văn học. Không có ngôn từ thì không có tác phẩm văn học. Trong tác phẩm văn
học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện chủ đề và
tư tưởng tác phẩm. Và nhằm giúp người đọc có cái nhìn khách quan về ngôn
ngữ của người Mông, chúng tôi nghiên cứu văn học trong bối cảnh dịch. Theo
sự khảo sát tại địa phương, chúng tôi nhận thấy các văn bản dịch phản ánh tương
đối đúng đời sống tinh thần của người Mông và khoảng cách giữa bản dịch và 55
bản nguyên tác không có sự chênh lệch nhiều. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu
trước đó đều thừa nhận các văn bản dịch và coi đó là di sản và cho đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào phản đối các văn bản dịch tiếng dân tộc. Vì
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ thể hiện tiếng hát làm dâu trong
dân ca dân tộc Mông trên các văn bản dịch.
3.1.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người dân tộc Mông
Ngôn ngữ là sản phẩm của đời sống văn hoá tinh thần. Đặc trưng của người
miền núi hay đồng bào dân tộc thiểu số là sự chân thật, chất phác, giản dị. Đọc
những bài dân ca miền núi, ta như có cảm giác các tác giả dân ca họ nghĩ gì viết
thế, mộc mạc, chân thực, giản dị và dễ hiểu. Có thể nói, ngôn ngữ mộc mạc, dễ
hiểu là đặc trưng của dân ca. Điều này cũng thường thấy trong dân ca Mông. Suy
cho cùng, ngôn ngữ mộc mạc dễ hiểu sẽ có độ chân thực cao mà chân thực là một
điều kiện cần thiết của dân ca. Nghiên cứu về đời sống tinh thần của người phụ nữ
Mông trong dân ca đặc biệt là nỗi lòng làm dâu của người phụ nữ, chúng tôi nhận
thấy người Mông diễn tả nỗi lòng của mình một cách chân thực, giản dị. Có lẽ,
người phụ nữ khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm
“xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa
quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nỗi nhớ khi nghĩ về cha mẹ:
Gầu Mông trầm ngâm làm con dâu đường xa
Chẳng biết tin bố mẹ ở nhà
Đã lâu có được khỏe không ? [18; tr. 102]
Cô dâu Mông trực tiếp bộc lỗ nỗi nhớ về quê hương, về gia đình, về cha mẹ.
Cô trầm ngâm, suy nghĩ và tự hỏi lòng mình rằng, đã lâu không về thăm nhà liệu
bố mẹ, người thân trong nhà có được khỏe không? Qua những bài dân ca, người
nghe biết được nỗi sầu tư trong lòng cô gái. Qua đó, ta thấy cách diễn đạt tâm tư,
tình cảm của cô dâu Mông rất giản dị, dễ hiểu. So với cách viết trong ca dao Việt:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”, “ruột đau
chín chiều” diễn tả người con gái đang cảm thấy lẻ loi nơi quê người, nỗi thương
nhớ quê hương, nhớ cha mẹ da diết không nguôi với thói quen: chiều nào cùng như 56
chiều nào, cô gái một mình “ra đứng ngõ sau”, lúc hoàng hôn để nhìn về quê mẹ
phía chân trời xa. Cùng diễn tả về nỗi nhớ nhưng ở hai dân tộc đã có sự diễn tả
khác nhau, không chỉ khác nhau về ngôn ngữ hình ảnh mà chính là sự khác nhau về
đặc trưng tâm lí của hai dân tộc. Người miền núi chỉ nói cái gì nhìn thấy, nghe thấy
và cảm thấy, tức là lối biểu đạt bằng từ ngữ cụ thể chứ không dùng từ ngữ hoa mĩ
như người Kinh. Diễn tả con đường làm dâu mờ mịt, đen tối của người phụ nữ,
người Mông dùng những hình ảnh rất giản dị, cụ thể:
Đường làm dâu con đường như ống đũa
Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,
Đường làm dâu con đường như ống tre
Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [18; tr. 128]
“Ống đũa”, “ống tre”, “nước mắt” là những hình ảnh so sánh liên tưởng
hết sức gần gũi với cách nói hàng ngày về nỗi thồng khổ của người phụ nữ
Mông, xuất hiện trong thơ Mông những từ ngữ đó với một tần xuất khá lớn. Bài
ca ví con đường làm dâu sẽ bị bó hẹp, tăm tối như “ống tre”, “ống đũa” khiến
người phụ nữ phải rơi lệ. Những giọt nước mắt ấy nhỏ xuống tận sâu tâm hồn họ
và lắng lại trong dân ca khiến người đọc không khỏi xót xa, ngậm ngùi. Với
hình ảnh cụ thể cùng lối diễn đạt dễ hiểu, ta cảm nhận được nỗi khổ của người
phụ nữ khi làm dâu. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vô định ngoài tầm tay với
của họ. Dẫu biết con đường phía trước mịt mờ, không tương lai, hạnh phúc
nhưng người phụ nữ vẫn phải bước đi trên con đường ấy. Qua đó, ta thấu hiểu
được nỗi bất an, vô định của người phụ nữ Mông trong dân ca. Cách sử dụng
ngôn ngữ hàng ngày của người Mông trong dân ca làm cho dân ca Mông chiếm
được tình cảm của đồng bào, tạo sự dễ hiểu dễ nghe, dễ đọc cho độc giả. Bởi lẽ
các nhà thơ đã nghĩ hộ, nói hộ được tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của người phụ nữ
Mông trong cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên cách nói mộc mạc dân dã theo đặc
trưng sử dụng ngôn ngữ của người Mông cũng có hạn chế nhất định, làm cho
các bài dân ca vì thế phần nào mất đi sức cảm, sức gợi.
Để diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ, khẩu ngữ của người dân tộc Mông
cũng được đưa vào dân ca một cách nhuần nhị, tự nhiên. Người phụ nữ Mông 57
không thể chịu được cuộc sống ngột ngạt, tù túng ở gia đình chồng, họ giống
như con trâu con ngựa là công cụ lao động chứ không phải con người, người phụ
nữ trốn về nhà bố mẹ đẻ để xin cha mẹ trả lại sính lệ nhà người để cô có được
cuộc sống tự do như xưa. Nhưng ý nguyện của cô là điều không thể vì:
Trời, con gái của mẹ!
Cha con, tại cha con cái tay không chắc
Tiền của người ta làm nát hết rồi
Cha con, tại cha con cái tay không chặt
Tiền của người ta làm nát hết rồi. [24, tr. 280]
“Gầu Mông” là chỉ cô gái Mông, đây là cuộc hội thoại giữa mẹ gầu Mông
và gầu Mông. Tính khẩu ngữ trong bài dân ca được thể hiện qua đại từ xưng hô:
mẹ - con. Người mẹ đang đáp trả lại lời thỉnh cầu của cô con gái bằng lời tâm sự
rất chân thực: tiền, bạc của người ta mẹ cha đã tiêu hết, tan hết, lấy đâu mà trả
người bây giờ. Qua lời giãi bày chân thực và dễ hiểu, ta thấy được phần nào lòng
tham vô độ của cha mẹ đẩy cô gái vào bước đường làm dâu khổ cực, giờ đây, một
lần nữa chính họ đóng sập lối thoát cuối cùng cho đứa con của mình. Trong dân
ca Mông, các cặp đại từ xưng hô thường gắn kết với hình thức đối thoại nhằm
trao đổi tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của chủ thể trữ tình. Chính điều đó làm
thơ Mông trở lên giàu bản sắc mang những đặc trưng riêng của dân tộc Mông.
Trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu, ngôn ngữ lời ca là sự kết tinh
của chất thơ với đời sống. Cách nói không cầu kì bóng bẩy, nhưng cũng rất ví
von, hình ảnh. Nét độc đáo trong ngôn ngữ dân ca Mông là ngôn ngữ của nhân
vật trữ tình tồn tại trong 2 hình thức cơ bản: Độc thoại; Đối thoại. Độc thoại là:
“phát ngôn dài dòng, rườm rà, không dự tính có một lời đáp nào xuất hiện tức
khắc, hoặc hoàn toàn không nhằm nói với ai cả” [1; tr. 56]. Trên các văn bản
của dân ca Mông, thì hình thức độc thoại chiếm số lượng rất lớn. Đó là một vế
lời ca của chàng trai hoặc cô gái. Ở những bài ca độc thoại này, dấu ấn của lối
trò chuyện, lối đối đáp vẫn đậm nét qua cách gọi, cách nhắn nhủ, cách dùng các
đại từ nhân xưng. Ví dụ bài ca sau chỉ có một vế của cô gái:
Gầu Mông nói với đrâu Mông:
Anh sinh thành làm bố mẹ chàng trai 58
Anh cân đong đo đếm
…Gầu Mông nói với đrâu Mông:
Em sinh ra làm con gái bố mẹ [18; tr. 138]
Số phận của những người phụ nữ Mông muôn phần tủi cực, chua xót và
họ chỉ biết giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình qua những câu hát trong dân ca.
Vì thế hình thức độc thoại trong dân ca chiếm tỉ lệ vô cùng lớn. Bên cạnh ngôn
ngữ độc thoại còn có hình thức đối thoại, nó được hiểu là:
(1) Sự giao tiếp bằng lời nói giữa hai người (hoặc nhiều hơn) với nhau.
(2) Một phần của văn bản ngôn từ nghệ thuật, một thành tố mà chức năng
là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân vật. [1; tr. 128]
Trong dân ca Mông đặc biệt là những bài ca nói về tiếng hát làm dâu, hình
thức đối thoại chiếm tỉ lệ không nhiều nhưng khá tiêu biểu. Bài ca tồn tại cả 2 vế
nhưng thường là đối thoại giữa cha mẹ và người con (con gái) bởi những người phụ
nữ đi làm dâu thường bộc bạch, giãi bày trực tiếp nỗi lòng với cha mẹ mình:
Hỡi trời mẹ ơi!
Tiền người còn không
Chắc phải đem tiền người trả người
…Mẹ gầu Mông rằng
Bố con bàn tay không chắc
Đã đem tiền người tiêu hết sạch [20; tr. 189]
Qua hình thức đối thoại giữa người mẹ và cô gái Mông ta hiểu ngay rằng:
cô gái Mông đi làm dâu nhà người chịu nhiều đắng cay, tủi nhục nên đã quay lại
nhà mẹ đẻ để cầu xin cha mẹ trả lại sính lệ lấy lại tự do cho mình. Nhưng ước
muốn đấy đã không thể thực hiện vì mẹ cô gái đã thành thực rằng: bố con đã
đem tiền tiêu hết sạch và cô gái không còn con đường nào khác ngoài quay trở
lại nhà chồng.
Ngôn ngữ thơ là phương tiện để con người biểu lộ tình cảm, cảm xúc một
cách hữu hiệu nhất. Dân ca nói chung, dân ca Mông nói riêng bao giờ cũng đòi
hỏi ngôn ngữ hàm súc, gợi cảm, có sức liên tưởng đối với người đọc. Kết hợp
59
lời ăn tiếng nói hằng ngày với chất thơ của đời sống đã tạo ra một phong cách
riêng gợi cho người đọc, người nghe cảm giác gần gũi và ấm áp.
3.1.2. Một số biện pháp nghệ thuật trong ngôn ngữ dân ca Mông
Tồn tại trong cuộc sống dưới hình thức sinh hoạt diễn xướng, thơ ca dân
gian Mông mang đậm lối đối đáp, dù bài dân ca còn giữ nguyên kết cấu hai vế
hay chỉ còn lưu lại hình thức một vế thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in khá rõ
trong cách thể hiện. Khi nghiên cứu về dân ca Mông, chúng tôi nhận thấy hai
biện pháp nghệ thuật nổi bật góp thành công lớn vào việc khắc họa nỗi lòng của
người phụ nữ Mông trong phận làm dâu là kết cấu trùng điệp và thủ pháp so
sánh.
Chúng tôi tiến hành khảo sát 61 tác phẩm sử dụng thủ pháp nghệ thuật so
sánh và kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu. Bảng khảo
sát cho thấy, số lượng tác phẩm sử dụng biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp
dày đặc. Trong đó, mật độ xuất hiện nhiều nhất là thủ pháp kết cấu trùng điệp
với 59/61 bài dân ca chiếm 96,7%. Còn thủ pháp nghệ thuật so sánh chiếm 82%
tương đương với 50/61 bài dân ca. Điều đặc biệt là trong dân ca Mông luôn có
sự kết hợp hài hòa giữa hai biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp, góp công
lớn trong việc khắc họa một cách chân thực, giản dị mà không kém phần sinh
động về đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông, đặc biệt là trong phận làm
dâu. [Phụ lục bảng 2]
Biện pháp so sánh và kết cấu trùng điệp xuất hiện hầu hết trong dân ca các
dân tộc chỉ khác ở mức độ sử dụng. Nếu như ở ca dao, dân ca người Việt kết cấu
trùng điệp có sử dụng nhưng với tần số không nhiều thì ở dân ca Mông biện
pháp này được sử dụng nhiều, chiếm ưu thế nổi trội cả về số lượng cũng như
hiệu quả nghệ thuật. Có thể nói biện pháp này được sử dụng ở mức độ đậm đặc
trong hầu hết các bài dân ca tạo nên đặc trưng riêng trong lối diễn đạt. Kết cấu
trùng điệp hai, ba dòng thơ, điệp cả khổ thơ tạo nên sự tràn đầy trong mạch cảm
xúc của nhận vật trữ tình, tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất quán của
hình tượng thơ. Tác giả dân gian đã diễn tả cuộc sống làm dâu của người phụ nữ
Mông bằng kết cấu này:
60
Gầu Mông nhấc thùng nước lên lưng
Mồ hôi nước mắt thi nhau tuôn
Gầu Mông nhấc thùng nước lên chạn
Mồ hôi nước mắt thi nhau cạn. [20; tr. 187]
Kết cấu trùng điệp hai dòng thơ đã nhấn mạnh nhiều công việc từ việc gánh
nước, đến nấu cơm, nương rẫy,… Công việc gánh nước cùng hình ảnh “mồ hôi”
lặp đi lặp lại khiến ta hình dung về công việc hàng ngày của cô với những giọt
mồ hôi vất vả mà không thể than vãn hay chia sẻ với bất kì ai và điều tất yếu
“nước mắt thi nhau tuôn”. Với biện pháp điệp, người đọc đã hình dung ra được
công việc cũng như sự vất vả trong bức tranh sinh hoạt ở nhà chồng của cô dâu
Mông. Người nghe không chỉ hình dung mà còn cảm nhận được nỗi khổ của
người phụ nữ:
Vừa mới cất bước tới nhà chồng
Gầu Mông đã đi địu nước ngay
Địu về chưa tới chân tường nhà
Đã nghe nhà chồng chửi la cà.
Vừa mới cất bước tới nhà chồng
Gầu Mông đã đi gánh nước liền
Gánh về chưa đến gần chân vách
Đã nghe nhà chồng to nhỏ trách. [18, tr. 94]
Kết cấu trùng điệp cả khổ thơ tạo nên sức gợi trong câu thơ làm tăng mạch
cảm xúc của nhân vật trữ tình. Những câu dân ca diễn tả nỗi lòng của người phụ
nữ khi bước chân về làm dâu nhà người, đâu có được nghỉ ngơi mà phải lao vào
làm công việc nhà ngay, vậy mà vẫn bị nhà chồng chửi mắng. Hình ảnh cô gái
Mông đi địu nước cùng với tiếng chửi của bố mẹ chồng lặp đi lặp lại khiến độc
giả không khỏi thương cảm, xót xa cho phận làm dâu đầy tủi cực.
Nghiên cứu về biện pháp kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông, chúng tôi
nhận thấy nghệ thuật biểu đạt bằng biện pháp kết cấu trùng điệp được vận dụng
theo nhiều cách khác nhau. Một ý hay một sự vật, thường được diễn tả bằng hai vế,
61
mỗi vế gồm nhiều câu dài hoặc ngắn. Hai vế nhấn mạnh lẫn cho nhau bằng cách
chỉ đổi khác một vài từ:
Gầu Mông làm dâu
Buồn bã con đường đầy mây đặc
Khác nào người mù không biết lối
Để lại bố mẹ ở phương trời sau
Không biết tháng năm hay mãi mãi dài lâu,
Buồn bã con đường đầy mây mù.
Khác nào người đui không biết đường
Để lại bố mẹ ở phương trời trước
Không biết tháng năm hay mãi mãi lỡ bước. [19; tr. 129]
Việc sử dụng kết cấu trùng điệp: dòng thơ, khổ thơ… cũng chính là sự phản
ánh rõ nét tâm lý của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu: chăm chỉ, đảm
đang, khéo léo nhưng luôn bị gia đình chồng khinh ghét, đối xử thậm tệ thật thà,
chất phác. Sự lặp lại những câu thơ, hình ảnh, từ ngữ tạo những cảm xúc nối
tiếp, vô tận khiến người nghe bị cuốn hút vào mạch cảm xúc ấy. Nhờ có kết cấu
trùng điệp đó mà dân ca Mông trở nên dễ thuộc dễ nhớ và gần gũi với đời sống
đồng bào hơn bao giờ hết.
Điểm đặc biệt trong dân ca Mông là khi diễn tả đời sống tình thần của
người phụ nữ trong phận làm dâu có sự kết hợp chặt chẽ của biện pháp kết cấu
trùng điệp và biện pháp so sánh. Biện pháp nghệ thuật so sánh trong dân ca
Mông mang những nét đặc sắc riêng: Diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ Mông
trong thân phận làm dâu với những gì gần gũi, thân thuộc, gắn bó với cuộc sống
quanh họ để làm nổi bật lên số phận của người phụ nữ: ống đũa, ống tre, con
trâu, con ngựa,… Việc kết hợp hai biện pháp này giúp người đọc thấm thía sâu
hơn nỗi lòng của người phụ nữ:
Đrâu Mông rằng gầu Mông
Đường làm dâu con đường như ống đũa
Đường làm dâu đường nước mắt dàn giụa,
62
Đường làm dâu con đường như ống tre
Đường làm dâu con đường nước mắt rơi. [18, tr. 128]
Tác giả dân gian kết hợp hài hòa ví con đường làm dâu bị bó hẹp, thu nhỏ
như “ống đũa”, “ống tre” cùng với thủ pháp kết cấu trùng điệp ở câu thứ ba và
thứ năm càng khắc sâu ấn tượng trong lòng độc giả về thân phận làm dâu của
người phụ nữ Mông. Con đường ấy sẽ nhiều nước mắt, nhiều khó khăn bởi cuộc
đời của cô gái Mông đã rẽ sang một hướng khác kể từ lúc họ bước chân trên con
đường đó. Một tương lai tăm tối, chật hẹp nhưng họ không thể thay đổi được
bước đi của mình và chân cứ bước, nước mắt cứ rơi. Người nghe đã bị thuyết
phục bởi sức gợi tả mạnh mẽ trong cách so sánh cụ thể, lối phô diễn cảm xúc
bộc trực, chân thành thì với thủ pháp điệp, sức gợi ấy lại tăng gấp bội giúp độc
giả hình dung được nỗi khổ của người phụ nữ. Rồi hình ảnh những cô gái bị ép
duyên được diễn tả hết sức sinh động:
Ve ơi!
Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật nhớ
Tim ta buồn như cây lanh bị người ta sắp chặt
Chàng nhờ ve gửi ta điếu thuốc để làm vật niệm
Tim ta buồn như cây lanh bị người ta sắp cắt. [24; tr. 114]
Những hình ảnh: tim, gan, cây lanh sắp bị chặt, cây lanh sắp bị cắt – sự
sống gần như sắp lịm tắt…trở đi trở lại trong bài dân ca thể hiện nỗi đau của cô
gái bị ép duyên. Người đọc như hình dung được hoàn cảnh hiện tại của cô gái
Mông, đã làm dâu nhà người nhưng vẫn không thể quên được mối tình với
chàng trai mà cô đã đem lòng yêu thương. Giờ đây, trong lòng người con gái ấy
có chút gì đó vừa như nuối tiếc, lưu luyến mối tình xưa vừa như đau xót cho số
phận hẩm hiu của mình. Nỗi lòng của người phụ nữ Mông trong phận làm dâu
được tác giả diễn tả không chỉ qua thủ pháp kết cấu trùng điệp mà còn có sự kết
hợp với thủ pháp so sánh vừa giản dị vừa giàu sức thuyết phục. Sự xuất hiện của
kết cấu trùng điệp và thủ pháp so sánh đã tạo ra những lớp nghĩa thể hiện nỗi tủi
cực trong đời sống của người phụ nữ. Đời sống của con người vốn khó hiểu,
trừu tượng, vậy mà dưới cách diễn đạt của dân ca lại trở nên gần gũi, hữu hình.
63
Các tác giả dân gian Mông đã vận dụng thật tài tình và khéo léo biện pháp
kết cấu trùng điệp trong các bài dân ca về tiếng hát làm dâu. Nó như những âm
điệu, nốt nhạc làm tăng độ ngân vọng của các làn điệu dân ca, tạo nên nét đẹp
trong văn hóa cộng đồng. Việc sử dụng kết cấu này giúp các bài dân ca về tiếng
hát làm dâu mang những nét đặc sắc riêng, không thể trộn lẫn với bất cứ bài dân
ca của các dân tộc khác. Qua đó, ta thêm hiểu được tính cách, cuộc sống sinh
hoạt và số phận của những người phụ nữ Mông.
3.2. Hình tượng nghệ thuật
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, hình tượng là: “Sự phản ánh hiện
thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ
thể, sinh động, điển hình, được nhận thức chủ yếu bằng cảm tính” [17; 550].
Còn trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật chính là các
khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác
phẩm nghệ thuật” [6; tr. 147]. Có thể nói ở bất kì dân tộc nào, hình tượng trong
văn học luôn là những sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với đời sống hàng
ngày của người dân. Qua lăng kính của người nghệ sĩ dân gian, những sự vật
bình dị ấy được nâng lên trở thành những hình tượng đẹp đẽ, mang màu sắc kì
bí, huyền ảo. Tuy nhiên, không phải cứ mang nghĩa trừu tượng cho sự vật, sự
việc khác mà một hình ảnh trở thành hình tượng. Được gọi là hình tượng khi
hình ảnh, sự vật đó phải được trở đi, trở lại, xuất hiện với tần số lớn, có ý nghĩa
biểu đạt, giá trị nội dung và nghệ thuật nhất định. Trong dân ca Mông đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu ở góc độ hình tượng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát các hình tượng gắn với tiếng hát làm
dâu của người phụ nữ trong dân ca Mông. [Phụ lục bảng 3]
Nhìn vào bảng khảo sát, chúng tôi nhận thấy, hệ thống hình tượng tiếng
hát làm dâu dân ca dân tộc Mông khá đa dạng. Các hình tượng đa dạng về loại
hình và cách biểu hiện, có khi là hình ảnh các con vật: con gà, con bò,…rồi các
loại cây, loại hoa: hoa tình, lanh… hay các đồ vật như: váy, áo…, có khi là các
hiện tượng: nước mắt, ăn lá ngón,… Một đặc điểm dễ nhận thấy là các sự vật,
64
hiện tượng này ở ngoài rất gần gũi, gắn bó với số phận làm dâu của người phụ
nữ. Và qua lăng kính của nghệ sĩ dân gian thì sự vật nhỏ bé ấy đã trở thành hình
tượng thể hiện số phận của người phụ nữ Mông khi làm dâu. Bởi phương thức
biểu hiện trong ngôn ngữ dân ca Mông có quan hệ đến môi trường, tín ngưỡng
và cảm quan thẩm mỹ của dân tộc Mông. Vì thế hình tượng thơ trong dân ca
Mông luôn gắn bó mật thiết với môi trường, điều kiện sống của đồng bào. Hầu
như trong dân ca Mông về đề tài tiếng hát làm dâu tất cả là những bài hát của
những người phụ nữ mộc mạc, giản dị, chân thật và hồn nhiên. Việc khảo sát,
đánh giá, phân tích toàn bộ hệ thống hình tượng nằm ngoài phạm vi cho phép
của luận văn, vì thế, trong quá trình tìm hiểu chúng tôi tiến hành lựa chọn và
xem xét hình tượng theo các tiêu chí tiếng hát làm dâu đã phân tích ở trên về
người phụ nữ Mông.
3.2.1. Hình tượng về loài vật (trâu, bò)
Trong quá trình tìm hiểu tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông,
chúng tôi đặc biệt lưu tâm tới hình ảnh con trâu, con bò. Trâu, bò là loài động
vật quen thuộc, gần gũi và thân thiết với con người, đặc biệt là người nông dân.
Trong ca dao dân ca người Kinh, trâu, bò được nói đến nhiều vì chúng đóng vai
trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc
đồng áng, tình yêu nam nữ...: “Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà/ Trong ba việc ấy thật
là khó thay”. Công việc chính của nhà nông như cày bừa, vận chuyển thóc
gạo…. đều do trâu, bò đảm nhiệm. Trâu, bò không chỉ là phương tiện di chuyển,
cho con người sức kéo mà còn là nguồn cung cấp thực phẩm. Mặc dù thay người
làm hết việc nặng nhọc, vất vả nhưng đối với đồng bào dân tộc Mông loài trâu,
bò ít được quan tâm, chăm sóc và coi trọng. Có lẽ vì vậy, trong dân ca Mông, dù
không xuất hiện với tần số dày đặc, nhưng trâu, bò dường như sinh ra để được ví
với thân phận làm dâu đầy khổ cực của người phụ nữ.
Phụ nữ Việt trong ca dao thường ví von thân phận mình là “hạt mưa sa”,
“tấm lụa đào”,… phụ nữ Thái “bằng con chão chuộc”, “chỉ bằng con bọ
ngựa”,… thì phụ nữ Mông thường ví mình như con trâu, con bò trong nhà và
đây được coi như là biểu tượng đặc trưng cho phận làm dâu của những người 65
phụ nữ Mông. Đa phần phụ nữ gắn bó kiếp mình với những cay nghiệt và tủi
hờn nơi cửa nhà chồng. “Trâu măng đã có chuồng” là hình ảnh tượng trưng cho
cảnh làm dâu bị bó buộc, gò ép. Con trâu bị con người thuần chủng, đem về nhốt
vào chuồng để phục vụ cho lợi ích của con người thì còn biết gì tới tự do. Người
phụ nữ Mông cũng vậy, khi họ đã lập gia đình thường mất đi sự tự do cá nhân
và bị hạn chế các mối quan hệ xã hội, mối bận tâm của họ là chăm sóc con cái
và lo toan công việc nhà. Giờ đây, họ đã bị ràng buộc với gia đình chồng bởi
một sợi dây vô hình mà không thể thoát ra được. Sống trong nhà chồng, làm
việc quần quật như con trâu, con ngựa mà nàng dâu vẫn bị đay nghiến, bị khinh
ghét là điều bình thường trong dân ca Mông. Đối với người phụ nữ, cuộc đời
làm dâu chưa bao giờ là con đường thuận lợi và dễ dàng:
Thấy phương trời bố mẹ trong sáng
Thấy phương đất nhà chồng tối mù
Tựa bò đực sắp phải kéo cày. [18, tr. 94]
Đường về nhà chồng u tối, người phụ nữ Mông dường như đã đoán được
trước thân phận của mình, cũng giống như con bò biết được sức nặng của cái
cày và khó khăn đang đè trên đôi vai, biết được rất rõ nguồn căn và gốc rễ mọi
khổ ải nhưng tự họ không thể cởi trói cho mình. Giống như con bò chỉ biết lầm
lũi mang vác gánh nặng trên lưng theo sự sắp đặt của con người. Thân phận làm
dâu của phụ nữ Mông khiến người đọc xót xa, thương cảm. Làm dâu nghĩa là bị
tước bỏ sự tự do thậm chí mất đi quyền làm người thiết yếu nhất.
Không thể đắm chìm mãi trong đau khổ, người phụ nữ Mông đã biết vươn
lên bằng những ước mơ và khát khao chân thực:
Giá em là con trâu hay con ngựa
Anh nhằm theo hồ nước trong
Anh sẽ túm lấy đầu dây quàng
Anh nhằm theo lối hồ nước đục
Anh sẽ túm lấy đầu dây kéo [20, tr. 241]
Đọc nhưng câu hát dân ca trên, ta như thấm thía được nỗi khổ đau của
người phụ nữ. Điều ước của họ nghe qua thật buồn cười bởi lại ước mình là
66
“con trâu”, “con ngựa”. Nhưng khi biết được mục đích là để được “anh túm đầu
dây kéo theo hồ nước đục, nước trong”, nghĩa là được người mình yêu dắt đi mà
chẳng sợ bất cứ một ai, tự do, thong thả bên hồ nước với chàng trai thì ta mới
thấy được khát khao cháy bỏng của người phụ nữ. Họ ước mơ về cuộc sống bình
dị, yên ấm bên người mình yêu thương. Họ không bị hoàn cảnh khuất phục hoàn
toàn mà bù lại họ được người mình yêu lựa chọn.
Với những đặc tính riêng biệt, mối quan hệ gần gũi và quen thuộc với
đồng bào dân tộc miền núi trâu, bò đã trở thành biểu tượng cho phận làm dâu
của người phụ nữ Mông. Thân trâu bò phải làm công việc nặng nhọc thay cho
người, thân phận nàng dâu cũng vậy phải làm việc quần quật từ sáng tới đêm,
hết công việc này đến công việc khác, từ địu nước, dệt sợi đến làm nương rẫy,
người phụ nữ lúc nào cũng tất bật, quanh quẩn với công việc nhà. Nhưng đáp lại
sự cần cù, chăm chỉ, chịu khó đấy lại là sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của chồng, của
bố mẹ chồng. Vô hình dung người phụ nữ trở thành một thứ công cụ thậm chí bị
vật hóa trong cuộc sống nhà chồng. Họ đã hi sinh tất cả cho gia đình nhà chồng
để nhận lại một sự vô ơn, phũ phàng. Đó cũng chính là nỗi lòng của người phụ
nữ trong dân ca Mông. Họ luôn phải chịu cảnh làm dâu đầy đắng cay, tủi nhục
mà không ai thấu hiểu, sẻ chia.
3.2.2. Hình tượng nước mắt
Nước mắt là sự phản ánh chân thật nhất những cảm xúc của con người.
Khi người ta rơi vào một cảnh huống, một trạng thái nào đó thì dễ nảy sinh tâm
trạng, mà đỉnh cao của trạng thái tình cảm thường biểu lộ bằng những giọt nước
mắt. Có giọt nước mắt sung sướng, có giọt nước mắt ân hận, có giọt nước mắt
đau đớn, xót xa,... Đối với những bài dân ca về tiếng hát làm dâu, giọt nước mắt
chính là hiện thân của nỗi thống khổ và bất hạnh. Giọt nước mắt là sự đau đớn,
tuyệt vọng của người con gái phải chia tay người mình thương, phải theo sự sắp
đặt của cha mẹ:
Gầu Mông nói đrâu Mông
Anh nói tạm biệt em
Làm em nước mắt trào
Anh bảo tạm biệt ta
Làm ta nước mắt ra. [18; tr. 126]
67
Giọt nước mắt của sự chia li, đôi trai gái không thể đến được với nhau do
nhiều nguyên nhân và họ phải nói lời tạm biệt. Hình ảnh “nước mắt trào” thể
hiện nỗi khổ tâm trong lòng cô gái. Còn nỗi đau nào day dứt hơn khi phải nói lời
chia li với người mình thương, kể từ đây mỗi người một phương, anh đi đương
anh, em đi đường em. Cô gái đau lòng đến ứa nước mắt là điều không tránh
khỏi. Các tác giả dân gian không chỉ nhìn thấy bi kịch tinh thần đau đớn, day dứt
của người con gái khi không được yêu và lấy người mình yêu mà họ còn tiếp tục
nỗi đau phải lấy và chung sống với người “lạ” theo tục “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy” của người Mông:
Gầu Mông leo hết đèo
Mưa phùn mưa lớt phớt
…Gầu Mông nước mắt trào
Gầu Mông vượt hết núi
…Gầu Mông nước mắt rơi. [18; tr. 99]
Đường về làm dâu nhà người gập ghềnh, khó khăn khiến cô dâu Mông
phải vượt qua dãy núi này đến dãy núi khác. Không được quyền quyết định hạnh
phúc cá nhân, không được đi cùng đường với người mình yêu thương, biết được
tương lai mịt mờ đang chờ đợi mình phía trước và giọt nước mắt tuôn rơi - cô
gái khóc thương cho số phận của mình. Đây là giọt nước mắt khổ đau khi ý thức
được thân phận làm dâu của mình. Giọt nước mắt còn tô đậm thêm bi kịch cuộc
đời người phụ nữ trong cuộc sống sinh hoạt ở gia đình chồng:
Địu nước đặt cạnh chạn
Nước mắt gầu Mông đua nhau rụng,
Địu nước đặt cạnh bếp
Nước mắt gầu Mông đua nhau rơi. [19; tr. 121]
Đây là giọt nước mắt của sự vất vả, không người quan tâm, chia sẻ. Cô
dâu Mông mới bước chân vào nhà chồng nhưng phải gồng mình làm tất cả các
công việc nhà. Vất vả là thế, nhưng người phụ nữ đâu được gia đình chồng coi
trọng, ngược lại họ bị mắng nhiếc, chửi rủa: “Địu nước đến cạnh nhà/ Bố mẹ
chồng dùng tiếng Di tiếng Hán chửi/ Địu nước đến cạnh cửa/ Bố mẹ chồng dùng 68
tiếng Di tiếng Hán rủa”[19; 121]. Số phận của người con gái thật khiến độc giả
chua xót, cảm thương. Nước mắt như một hình ảnh gắn liền với cô dâu Mông,
cứ nhắc đến phận làm dâu là nước mắt lại tuôn rơi:
Bước vô về tới
Bố mẹ gầu Mông cái cổng nách
Đâu thấy gầu Mông cất tiếng vui
Chỉ nghe gầu Mông những tiếng khóc. [19; tr. 115-116]
Trong các bài dân ca, đặc biệt là những bài về tiếng hát làm dâu, tác giả
dân gian đã nhiều lần đề cập đến nỗi đau của người phụ nữ trong cảnh làm dâu
qua hình tượng nước mắt. Nước mắt không chỉ thể hiện cuộc sống tinh thần đầy
đắng cay tủi nhục của cô dâu Mông mà còn mở ra một tương lai ảm đạm phía
trước. Đấy chính là số phận của người phụ nữ, họ không có tự do, không có
hạnh phúc. Trong các bài dân ca, hình ảnh người phụ nữ trong phận làm dâu
hiện lên chỉ là những “tiếng khóc”, chứ không có “tiếng vui”.
Nước mắt là giọt châu của loài người, là tấm kính biến hình vũ trụ để cho
nhân vật giải toả nỗi đau, sự bi phẫn đến cùng cực. Nhưng nước mắt vẫn chỉ là
nước mắt. Liệu những người phụ nữ Mông có thể thoát ra khỏi cuộc sống tù
túng đấy không? Qua đó, các tác giả dân gian đưa lời tố cáo xã hội mạnh mẽ,
dồn đẩy con người đặc biệt là người phụ nữ vào bước đường cùng, để cuộc đời
của họ là một tấn bi kịch. Người phụ nữ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cá
nhân, lấy người mình không thương và phải sống kiếp làm dâu đầy đắng cay, tủi
nhục. Nước mắt chính là hiện thân cho tấn bi kịch của người phụ nữ Mông.
3.2.3. Hình tượng lá ngón
Ở xã hội người Mông xưa, với bao tập tục lạc hậu đã tước bỏ quyền mưu
cầu hạnh phúc của mỗi con người, đặc biệt là người phụ nữ. Vì cuộc sống muôn
bề khổ đau, tương lai tăm tối mịt mờ, phụ nữ Mông thường tìm đến cái chết như
một sự giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, chật hẹp. Họ tin rằng thế giới bên kia
sẽ giúp họ tìm kiếm được tự do, hạnh phúc. Đối với người phụ nữ, cái chết
không phải sự tiêu cực mà cái chết với họ như một sự cứu cánh, một sự giải
thoát. Hầu như các bài dân ca Mông thường để những người phụ nữ tìm đến cái 69
chết bằng nắm là ngón. Nắm lá ngón xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại trở thành
hình tượng tiêu biểu trong dân ca Mông. Nó là hiện thân của ước mơ, khát vọng
đối với những người phụ nữ. Chỉ có cái chết mới giúp họ thoát khỏi cuộc sống
bất công tù túng mà con đường nhanh nhất đến với cái chết là ăn lá ngón. Ta
thấy khát khao tự do, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ vô cùng mạnh mẽ.
Họ tìm đến cái chết như một điều tất yếu:
Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón
Nhưng làm sao hết được đau lòng
Ăn thì lá ngón thật đắng ngông.
Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc
Nhưng làm sao khỏi được đau tim
Nuốt thì lá độc thật đăng kinh
Lá ngón tan gầu Mông hết thở. [18; tr. 96]
Thực tế, dân tộc Mông có trồng loại cây rất độc và rất đắng lá ngón, độc
tố của cây rất mạnh, ai ăn phải có thể mất mạng ngay lập tức. Lá ngón mọc
hoang dại đầy các sườn núi. Nếu ai gặp lần đầu, có thể sẽ choáng ngợp trước vẻ
đẹp rực rỡ của loài cây này, lá thon dài, hoa vàng nhỏ tươi thành chùm, nó có
thể tước đoạt sinh mạng con người chỉ bằng vài ba lá. Đây là loại thuốc độc dễ
kiếm, dễ tìm và cũng rất dễ đưa con người sang thế giới bên kia. Trong dân ca
Mông, sự xuất hiện của những cái chết chủ yếu là của người phụ nữ thường gắn
liền với hình ảnh lá ngón. Có lẽ, họ đã quá chán nản, thất vọng với cuộc sống
thực tại. Ngay cả cái chết họ cũng không hề khiếp sợ bởi chỉ có chết thì mới
được hóa kiếp, gột rửa mọi khổ đau:
Lòng nghĩ mãi tới cùng đường tận lối
Tay vơ nắm thuốc đắng đặt gối đầu
Em theo thuốc đăng đi biệt năm. [24; tr. 227]
Tìm đến cái chết không phải người phụ nữ coi thường mạng sống của
mình mà họ chỉ có thể làm như vậy để giành lấy tự do, hạnh phúc của bản thân.
Không ai nghĩ rằng, cuộc đời mình cũng phải có lúc dùng đến nó, nhưng khi bị
dồn vào bước đường cùng, không còn đường đi nước bước, họ phải dùng đến lá 70
ngón, quên đi cái đắng, cái sợ để được chết. Đối với người phụ nữ, chỉ có cái
chết mới hóa giải được nỗi khổ đau đeo đẳng cuộc đời họ. Phụ nữ Mông hóa
kiếp cho mình mong muốn ở kiếp sau sẽ được hạnh phúc. Nhắc đến cái chết với
hình ảnh lá ngón, ta không thể không nhớ đến nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ
chồng A phủ của Tô Hoài. Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống
kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền
xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị
cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón.
Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng
trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi
đến Hồng Ngài xa xăm. Với những người phụ nữ Mông cũng vậy, để bảo vệ
quyền mưu cầu hạnh phúc của mình, họ tìm đến cái chết như điều tất yếu. Cái
chết là hành động thể hiện sự phản kháng cao độ của con người trước xã hội bất
công với nhiều hủ tục đè nặng lên đôi vai người phụ nữ. Cây lá ngón trở thành
thứ cây đặc trưng của dân tộc Mông trên con đường tìm kiếm khát vọng tự do.
Các tác giả dân gian tô đậm nét xanh của màu lá ngón vào bức tranh cuộc
sống của người phụ nữ. Cây “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng,
là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Cái độc của lá ngón
vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho
sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao, đặc biệt là của người phụ nữ. Nó
tô đậm thêm khát vọng đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, cho tình yêu, cho khát
vọng tự do và hạnh phúc đồng thời tố cáo xã hội bất công đã tước bỏ quyền
sống, quyền hạnh phúc của con người. Những cái chết thương tâm, những cảnh
đời bất hạnh,…chỉ có thể chấm dứt khi những hủ tục của xã hội phong kiến
không còn tồn tại.
3.3. Quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian Mông
3.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Theo GS. Trần Đình Sử trong cuốn “Dẫn luận thi pháp học văn học” thì
“Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con
người trong nghệ thuật” [22; tr. 87]. Con người trong tác phẩm văn học là con 71
người là con người được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Văn
học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng
chủ yếu trong văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật hoặc đơn giản
là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Quan niệm nghệ thuật về
con người là sự cắt nghĩa, lí giải, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành
các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên
giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Nghiên cứu về
dân ca Mông, đặc biệt là tiếng hát làm dâu của người phụ nữ, chúng tôi nhận thấy,
quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ dân gian luôn hướng vào người phụ nữ
trong mọi chiều sâu của vấn đề. Cho nên đây được coi là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để đánh giá giá trị nhân văn mà tác giả đem lại.
3.3.1.1. Người phụ nữ có ý thức cá nhân
Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi
bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con
người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của
tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Trong các bài
dân ca nói về tiếng hát làm dâu của người phụ nữ Mông, chúng tôi nhận thấy
quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ được tác giả dân gian phản ánh trước hết
là sự tự ý thức giá trị bản thân. Phụ nữ Mông chưa kết hôn, phần đa họ có đời
sống tinh thần lạc quan, giàu niềm tin và mơ ước. Đó là đặc trưng của tuổi trẻ,
của khát vọng và đam mê. Với nét rạng rỡ thuần khiết, thoảng mùi hoa cỏ hương
rừng, trong vắt như nước suối giặt lanh, duyên dáng như nếp váy mèo xập xoè
mỏm đá, phụ nữ Mông có đủ phẩm chất để tự tin và kiêu hãnh với vẻ đẹp vốn
có. Vẻ đẹp của người phụ nữ được cất lên thành câu hát dân ca:
Gầu Mông xinh đẹp như
Hoa mạch hoa lan nở lưng đồi
Làm cho đrâu Mông đứng là nhớ
Nằm là mê thấy ngay bên người [20; tr. 290]
Hình ảnh “hoa mạch hoa lan nở lưng đồi” chỉ những bông hoa tinh khôi hé nở
trong ánh bình minh trong làn sương nhẹ nhẹ lúc ẩn lúc hiện làm say lòng biết bao 72
người. Những cô gái Mông cũng vậy, họ hiện lên với hình ảnh tinh nguyên, trong
sáng và đáng yêu đang ở tuổi xuân thì tràn đầy sức sống. Cô gái Mông đã chiếm
trọn cảm tình, đã làm cho bao chàng trai phải say đắm đến nỗi “nằm là mê thấy
ngay bên người”. Câu hát ngợi ca tinh tế mà không khoa trương, ẩn ý, không kiểu
cách, màu mè.
Không chỉ ý thức được vẻ đẹp của bản thân mà cô gái mông còn ý thức
được khả năng và sự khéo léo của mình:
Ngón tay em quay khéo như xoáy trôn ốc
Lanh lợi cũng do em xe
Bàn tay em làm khéo như trôn chén
Sợi lanh cuốn cũng do tay em cuốn [24; tr. 65]
Đôi bàn tay với những ngón tay mềm mại không chỉ đẹp khi đeo nhẫn mà
còn như đẹp hơn trong lao động, nhất là công việc xe lanh dệt sợi, luôn cần tới
sự tỉ mỉ, nhịp nhàng. Cô gái Mông tự ví ngón tay mình xe lanh khéo như “xoáy
trôn ốc”, đều đặn, nhịp nhàng đi về một tâm điểm nhất định. Đời sống tự cung
tự cấp tự đặt ra cho người phụ nữ những quy chuẩn riêng. Người phụ nữ vừa
đảm đang, vừa khéo léo hoàn toàn có quyền được tự hào, được bày tỏ. Bài ca
thừa nhận tài năng của cô gái Mông và họ kiêu hãnh, tự hào với tài năng của
mình.
Chính vì ý thức được giá trị bản thân nên cô gái Mông chẳng ngại ngần
bày tỏ khi đứng trước đứng trước người mình thương:
Chỉ riêng em
Mới xứng chăm sóc giúp anh một gia đình
… Chỉ mình em mới đáng
Chăm lo cho anh một gia quyến [19; tr. 134]
Thiếu nữ Mông không hề e dè, ngập ngừng mà khẳng định ngay với
chàng trai, chỉ có cô gái mới có thể chăm sóc chàng và gia đình chàng trai. Ta
thấy sự mạnh mẽ và tự tin toát lên từ cô gái. Họ không chỉ nhìn nhận và đánh giá
mà còn dám khẳng định những giá trị của bản thân. Một điều quan trọng, phụ nữ
Mông đã dám khẳng định mình để đoạt được những điều mình mong muốn.
73
Ý thức được giá trị của bản thân song người phụ nữ Mông cũng ý thức
được số phận của mình. Họ có tài, họ khéo léo và họ thấy mình xứng đáng có
được những điều tốt đẹp trong tương lai. Đó là sự thật hiển nhiên và là mong
muốn hết sức bình dị nhưng hiếm khi thành hiện thực đối với phụ nữ Mông. Lấy
chồng và làm dâu là con đường đi không bằng phẳng với bất cứ người phụ nữ
Mông nào. Họ nhận thức được những đau khổ và ê chề trên con đường làm dâu
nhiều gập ghềnh, chông gai:
Con đường làm dâu gầu Mông
Như là tre mọc đan chéo
Như là cây mọc đan xen [19; tr. 121]
Cô gái Mông đã đoán trước được tương lai của mình, con đường làm dâu
rậm rạp như “tre mọc đan chéo”, như “cây mọc đan xen”. Cây cối tầng tầng lớp
lớp đan vào nhau tạo nên một bức tranh hỗn độn. Những khúc mắc cứ chồng lên
nhau, chằng chịt không thể gỡ nổi. Câu hát đã thể hiện sự hoang mang, rối bời
của cô gái cùng với tâm trạng lo lắng, sợ sệt. Đối với người phụ nữ Mông khi
làm dâu, gia đình chồng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với họ:
Gầu Mông đi được nửa con đường
Quay đi xem vòng quay lại ngắm
Thấy phương trời bố mẹ trong xanh
Thấy phương đất nhà chồng tối mịt [18; tr. 93]
Cô dâu Mông đã ý thức được tương lai trên con đường cô đang đi: “Thấy
phương đất nhà chồng tối mịt”. Đối mặt với những ràng buộc và áp bức từ nhiều
phía, phụ nữ Mông nhận định và đánh giá được mức độ bất công mà mình đang
phải gánh chịu với những hủ tục và định kiến đang đè nặng lên đôi vai họ. Điều
đáng sợ nhất là sự chai lì cảm xúc, sự vô cảm trước đau hương. Người phụ nữ
Mông đối mặt trực diện với khổ đau và bất công trong gia đình và xã hội.
Đối với quan niệm sáng tác của các tác giả dân gian Mông, nói về hình ảnh
người phụ nữ đặc biệt trong thân phận làm dâu, họ là những con người ý thức
được giá trị bản thân. Cô gái Mông ý thức được vẻ đẹp, giá trị của bản thân, họ
có đời sống tinh thần lạc quan, có ước mơ và khát vọng. Họ dám bày tỏ tình 74
cảm, thái độ của bản thân trước người mình yêu, dám khẳng định mình để đạt
được điều mong muốn. Đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của
cô gái Mông. Khi bước vào hôn nhân, mặc dù bị gả ép, theo sự sắp đặt của cha
mẹ nhưng người phụ nữ đã ý thức được con đường làm dâu đầy khổ cực của
mình. Những cô gái Mông khéo léo, chăm chỉ, có tài xứng đáng có được cuộc
sống bình yên, tốt đẹp nhưng đó chỉ là mơ ước mà thôi.
3.3.1.2. Người phụ nữ với ước mơ và khát vọng mãnh liệt
Có được tình yêu tự do là ước muốn của bất kì cô gái ở dân tộc nào và cô
gái Mông cũng vậy. Họ ước ao được sống với người mình yêu đến hết cuộc đời.
Thông thường, về mặt tình cảm, người đàn ông đóng vai trò chủ động và người
phụ nữ bị đặt trong tình thế bị động. Người con gái nắm thế chủ động, không
giữ mình sẽ bị xã hội lên án, mang điều tiếng cả đời. Nhưng trong dân ca dân tộc
Mông, ta lại thấy chàng trai cô gái Mông không theo lẽ thông thường. Cô gái
Mông liều lĩnh nói dối mẹ cha cùng chàng trai hẹn hò:
Nói dối người mẹ rằng
Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời lên,
Nói dối người mẹ rằng
Gầu Mông đi ngắm hoa trăng hoa trời bay. [19; tr. 112]
Cô gái Mông không bị bó buộc trong tâm thế chờ đợi và bị động, cô sẵn
sàng nói dối cha mẹ để được ở bên người mình yêu. Tình yêu mãnh liệt có thể
giúp cô gái vượt mọi rào cản chỉ để được bên người mình thương. Cũng như các
dân tộc anh em khác, trai gái Mông khi yêu nhau thường tặng nhau những kỉ vật
do chính tay họ làm ra: chiếc khăn bằng lanh, tấm áo,... để khi xa nhau, những kỉ
vật ấy làm nguôi ngoai nỗi nhớ, có cảm giác gần bên người yêu. Cô gái Mông
mạnh bạo:
Em dạo bước sắp ra đi
Anh có dám cho mượn đôi vòng tay bạc
Đem về đeo để đỡ nhớ [19, tr. 144]
Ta thấy, giọng điệu của cô gái Mông đầy thách thức: “Anh có dám cho
mượn đôi vòng tay bạc”. Có thể nói, người con gái đang chiếm thế chủ động, 75
đẩy người con trai vào tình thế khó xử. Câu hát vừa thể hiện tình yêu mãnh liệt
và nỗi nhớ nhung thường trực của cô gái nhưng cũng là để thử thách tình yêu
của chàng trai. Khát khao về tình yêu, hạnh phúc của cô gái Mông thật mãnh liệt
vượt qua mọi ranh giới, vượt qua mọi sự ràng buộc của xã hội. Và họ ước mơ về
một tương lai tươi sáng:
Giá em lấy được anh
Em sẽ lo chậu nước sạch
Cho anh rửa mặt
Giá em lấy được anh
Em sẽ đổ chậu nước trong
Cho anh rửa chân. [19; tr. 158]
Bài ca thể hiện một ước mơ thật bình thường, giản dị nhưng sâu sắc và ý
nhị. Người con gái nguyện chăm sóc chàng trai từ những điều nhỏ bé nhất từ
chậu nước rửa mặt, rửa chân. Tình yêu vì thế, vừa đắm thắm, tự do, vừa bình dị
gắn liền với cuộc sống đời thường nhưng cũng không kém phần lãng mạn, bay
bổng. Tình yêu trong trái tim nhỏ bé của cô gái có sức mạnh phi thường đem lại
khát khao cháy bỏng.
Thực tế xã hội nghiệt ngã, người phụ nữ không có quyền tự do yêu đương
và lựa chọn hạnh phúc của mình. Biết bao cặp tình nhân yêu nhau tha thiết
nhưng rồi vẫn phải chia lìa. Hạnh phúc đối với người phụ nữ dường như là ảo
ảnh. Trước sự thật phũ phàng, người phụ nữ Mông chỉ mong muốn hóa thân,
thay đổi hình dạng để mong tìm kiếm được sự tự do và hạnh phúc. Những sự vật
được lựa chọn để thay đổi hầu hết đều có đặc tính tự do, không bị phụ thuộc như
con bướm, con chim, con ốc… hay những sự vật có đôi có cặp: kim chỉ, chim
nhạn… Ví như cô gái Mông trong lời hát muốn biến mình thành đôi chim cắt để
không bị ràng buộc, không phải cách xa:
Lúc này đôi ta đau buồn
Không lấy được nhau
Đôi ta ước gì biết biến
Biến thành đôi chim cắt
76
Thung thăng lượn mười chín vòng quanh núi lớn
Chẳng còn lo gì. [24; tr. 66]
Không lấy được người mình yêu thì họ chỉ còn là cái xác không hồn, là
con chim cắt bơ vơ lạc lõng giữa bầu trời cô đơn. Yêu và được yêu là quyền lợi
chính đáng của con người. Vậy mà người phụ nữ Mông phần đa không có quyền
lựa chọn bạn đời, bị phụ thuộc chặt chẽ vào những hủ tục, ràng buộc đời mình
với người họ không yêu. Đôi khi người phụ nữ ước mơ mình được hóa kiếp:
Nếu biết biến, em biến thành con hươu
Đôi ta chạy ba tháng ròng trên con đường cát bụi
Nếu biết hóa, em hãy hóa thành con trâu
Đôi ta chạy ba ngày ròng trên con đường mờ tịt. [24; tr. 149]
Dù bị dồn nén đến hoàn cảnh bi đát, họ cũng không bao giờ lìa bỏ khát
vọng tình yêu. Thậm chí họ còn tìm đến cái chết như một sự phản kháng để bảo
vệ và tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên kia. Cái chết của cô gái Mông
là sự đấu tranh, sự cảnh tỉnh người thân, sự phản kháng xã hội bất công và
chứng minh cho sức mạnh, cho sự bất diệt, vĩnh cửu của tình yêu tự do. Đồng
thời thể hiện khát vọng về tình yêu tự do, hôn nhân tự chủ của nam nữ Mông.
Chính vì khát vọng về hạnh phúc của họ quá lớn nên họ tin rằng cái chết có thể
giúp họ tìm được tự do, hạnh phúc thoát khỏi khổ đau bất hạnh. Và họ tìm đến
cái chết như một điều tất yếu:
Con sẽ vớ cuộn dây, nắm cành cây
Theo cuộn dây, nghìn năm con oán thán
Thịt con nát nhưng máu không nát
Máu thấm đầy vết váy... [24; tr. 215]
Người phụ nữ chọn cái chết bằng cách thắt cổ. Nỗi khổ đau cay đắng này sẽ
nhớ mãi không quên, nó thấm vào máu thịt để dù “thịt có nát” nhưng “máu
không nát”. Ta thấy nỗi oán hận trong lòng người phụ nữ vô cùng lớn bởi chỉ
khi bị đẩy vào con đường cùng nên người ta mới tìm đến cái chết. Có khi, họ
còn tìm đến lá ngón:
77
... Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón
Nhưng làm sao hết được đau lòng
Ăn lá ngón thật đắng ngông.
Gầu Mông vẫn sợ nuốt lá độc
Nhưng làm sao khỏi được đau tim
Nuốt thì lá độc thật đắng kinh
Lá ngón tan gầu Mông hết thở ... [18; tr. 96]
Đó là hành động mang ý nghĩa tiêu cực, cây lá ngón là thứ cây độc và rất
đắng, không ai sẽ nghĩ rằng cuộc đời mình lại phải có lúc dùng đến nó, nhưng
khi bi ̣dồn đẩy không lối thoát, người ta phải dùng đến nó mà quên đi cái sợ, cái
đắng để được chết. Đó là một hành động thể hiện sự phản kháng cao độ của con
người trước những thế lực đã cướp đi quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người.
Chế Lan Viên đã nhận xét: “Thơ H’mông có yếu tố tình cảm, có yếu tố
bản năng. Nhưng thơ H’mông cũng diễn tả suy nghĩ. Trong thơ H’mông có yếu
tố rất rõ của lý trí và ước vọng được giãi bày ...” [28; tr. 24]. Bởi thế, không hát
thì thôi, đã hát thì giãi bày cho hết, cho thoả nỗi lòng cũng như những khát vọng
cháy bỏng của người phụ nữ Mông. Ta thấy điểm đặc biệt của những người phụ
nữ Mông là họ ý thức được giá trị bản thân, ý thức được số phận của mình. Đối
với các tác giả dân gian, phụ nữ Mông là những người đầy ước mơ, khát vọng.
Họ khát vọng về hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc không bao giờ vơi cạn, họ sẵn
sàng tìm đến cái chết để khẳng định để bảo vệ và tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc ở
thế giới bên kia, đây chính là sự phản kháng của người phụ nữ Mông.
3.3.2. Quan niệm về hiện thực cuộc sống khắc nghiệt nhiều hủ tục đối
với người phụ nữ
Tác phẩm văn học bao giờ cũng tái hiện lại một đời sống, làm nhớ đến
một hiện thực nào đó. Hiện thực này sẽ mang dấu ấn chủ quan của nhà văn bởi
hiện thực cuộc sống luôn được phản ánh qua sự quan sát, nghiền ngẫm, suy tư
trăn trở của tác giả. Nó mang đậm những nét đặc trưng về nhân sinh quan, về thế
giới quan, về nhân cách và tấm lòng của nhà văn. Nghệ thuật nói chung văn học 78
nói riêng là một hình thái ý thức, một hình thức của nhận thức, do đó không tách
rời mảnh đất đời sống mà nó và cả chủ nhân của nó đã được nuôi dưỡng. Cố
nhiên, hiện thực trong tác phẩm văn học không phải là bản sao chép đời sống, và
tất nhiên không có một tác phẩm nào đủ khả năng bao quát toàn bộ quy mô của
đời sống. Hiện thực ấy là một hiện thực được ý thức, được khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của chủ thể sáng tạo và thông qua ngôn ngữ, hiện thực ấy được
phơi bày phần bản chất nhất của nó để tác phẩm đạt đến tính chân thực cần thiết
của tác phẩm.
Nghiên cứu về đề tài Tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông, chúng tôi nhận
thấy các tác giả dân gian quan niệm về hiện thực cuộc sống của người phụ nữ
Mông trong xã hội xưa là xã hội vô cùng ngang trái, bất công. Qua lăng kính chủ
quan của các tác giả dân gian, người phụ nữ có cuộc sống vô cùng gian khổ, họ
chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Phụ nữ Mông hầu hết không biết
cái chữ, không được đi học, không được tiếp cận với sách vở và kiến thức. Sinh ra
và lớn lên, họ chỉ quanh quẩn với việc nhà, từ bé được bà và mẹ dạy làm lanh, xe
sợi, dệt vải, thêu hoa, tham gia công việc rương rẫy, đảm đương nội trợ. Con gái
trong nhà làm việc quần quật, quanh năm suốt tháng hết việc nhà lại việc nương
rẫy. Vậy mà họ vẫn bị khinh rẻ, sống kiếp nương gửi vào người khác.
Đứa con gái này đâu phải là đứa cầm thìa cúng bái
Nó không phải trụ cột trong họ
Nó chỉ là bông hoa dại nở giữa núi
Nó là con gái thì gả phắt nó đi [24, tr. 238]
Cũng giống các dân tộc khác: Kinh, Tày Nùng, Chăm,... nam giới Mông
đảm nhiệm những việc nặng nhọc như cày nương, phát rẫy, khai phá đất đai. Phụ
nữ thì lo việc bếp núc, làm nương, trồng lanh, dệt vải, may trang phục cho cả nhà.
Tuy nhiên, một điểm khác biệt trong tín ngưỡng dân tộc Mông là chỉ có người
đàn ông mới được thờ cúng tổ tiên dòng họ. Có lẽ vì thế, trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội Mông luôn có sự phân biệt giữa nam và nữ. Như trong tập quan sinh
đẻ của họ, khi đứa trẻ sinh ra, bố đứa trẻ dùng cật nứa cắt nhau thai rồi bọc nhau
thai trong tờ giấy bản. Nếu trẻ là trai thì nhau thai chôn dưới cột nhà vì người 79
Mông quan niệm đàn ông là trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là gái thì nhau thai chôn
dưới gầm giường vì con gái sẽ là người nuôi dạy con cái, quán xuyến việc gia
đình. Nhiều thành ngữ, tục ngữ Mông đã thể hiện rõ quan niệm này: “Đàn bà làm
chủ thì nghèo, gà mái gáy thì dở...”, “con gái chỉ giúp nhà một thời, con trai mới
giúp nhà cả đời”. Đối với người phụ nữ, xã hội không thừa nhận tài năng và vai
trò của họ.
Tác giả dân gian quan niệm người phụ nữ là nạn nhân thảm khốc và đau
thương của hủ tục “cha mẹ đặt đâu ngồi đấy” mà đến giờ có lẽ vẫn còn tồn tại
trong tộc người Mông, họ không có quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền tự
quyết, quyền làm chủ bản thân. Như bé Mỷ phải đi con đường làm dâu khi:
Bé Mỷ đi làm vợ, còn trẻ thơ
Ngủ, mẹ còn phải gối đầu tay
Ăn, mẹ còn phải ăn một miếng nhả một miếng
…Đi, bố còn phải cõng trên lưng. [24; tr. 202]
Một cô bé vẫn còn là đứa trẻ thơ dại, ăn ngủ vẫn phải nhờ đến bàn tay chăm
sóc của cha mẹ vậy mà giờ đây đã phải đi làm dâu, làm vợ. Người con gái chưa
kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì đã phải chịu cảnh làm dâu trăm điều canh
đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc, non nớt ấy.
Bé Mỷ trong bài dân ca đại diện cho hàng ngàn, hàng vạn em gái Mông lúc bấy
giờ. Ép gả lấy chồng sớm là thực tế phổ biến xuất hiện trong dân ca Mông mà hủ
tục này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Trước đây, họ bị thuộc vào cha mẹ thì
giờ đây học hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và gia đình chồng. Đối với người
phụ nữ khi làm dâu, cuộc sống ở nhà chồng là cơn ác mộng. Họ lấy chồng mà
như một thứ công cụ được gia đình chồng mua về để làm kiếp trâu ngựa:
Phận làm dâu như con ngựa trong tàu
Hý vang, giậm móng, nhìn cào cọc
…Bây giờ em là con dao trong bao của người. [24; tr. 276]
Người phụ nữ quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công việc nhà chồng,
sống kiếp trâu ngựa. Họ lấy chồng như mẹ chồng bỏ tiền ra mua họ như một thứ
công cụ lao động đa năng. Quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công việc, “làm 80
chín ngày mười thời gian”, chỉ có mùa làm chứ ko có mùa nghỉ. Hết việc nhà
đến việc nương rẫy, rảnh rỗi lúc nào lại xe lanh dệt sợi. Đời sống tinh thần của
người phụ nữ Mông, đặc biệt là thân phận làm dâu khiến người đọc không khỏi
xót xa, thương cảm. Hiện thực cuộc sống với những người phu nữ vô cùng khắc
nghiệt. Nói tới bi kịch hôn nhân của người phụ nữ Mông không thể không nhắc
tới tục “nối dây” khắc nghiệt:
Gái có chồng như cày có tay
Như ta đây, thân cô đơn mất chồng
…Thân gái hóa như cày không tay. [24; tr. 228]
Người phụ nữ vẫn không thoát khỏi sự ràng buộc với gia đình chồng.Ca
dao người Việt ví cảnh gái mất chồng “chồng chành như thuyền mất lái”, “nón
mất quai”…dân ca Mông ví với “cày không tay” khiến cày không sâu. Người ta
có cặp có đôi, ngày tết ngày hội vui vẻ đi chơi, mình thân cô đơn lẻ bóng thì làm
bạn với khóc cùng than…Tục nối dây của người Mông: người con gái đã về làm
dâu tức là được nhập ma nhà người. Chồng chết thì phải lấy anh, em trong họ.
Nếu như không có người để lấy thì phải ở vậy suốt ba năm rồi lúc đó mới được
đi lấy chồng khác. Khi đó nhà chồng sẽ là người đặt và thu tiền thách, tiền cheo.
Một trong những nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ cho các cô gái Mông,
nguyên nhân dẫn đến việc gả ép con gái lấy chồng sớm hay tảo hôn là do cha mẹ
hám tiền:
Bố con đem tiền người tiêu hết rồi
Tiền đến tay bố khác nào rồng già uống nước trôi,
Bố con đem vật người bán hết lâu
Vật đến tay bố khác nào rồng già chui hố sâu. [20; tr. 277]
Chính đồng tiền đã chi phối nhận thức của con người, làm con người quên
đi tình thương, tình yêu chân chính. Quyết định bị đồng tiền chi phối đẩy thiếu
nữ Mông đi vào con đường khổ ải, lấy phải người đàn ông mà bản thân không
yêu và phụ nữ Mông không có hạnh phúc là điều ta dễ dàng nhận thấy. Qua đó,
ta thấy các tác giả dân gian đã thể hiện quan niệm của mình về xã hội, một xã
hội bị chi phối bởi đồng tiền. Chính điều đó là nguyên căn dẫn đến sự đau khổ 81
cho người phụ nữ. Tìm hiểu hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ phản ánh
trong các bài dân ca về tiếng hát làm dâu, chúng tôi nhận thấy cuộc sống của
người phụ nữ vô cùng khổ cực. Cả cuộc đời họ bị trói buộc bởi lễ giáo, hủ tục,
không được quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, đặc biệt là con đường làm
dâu vô cùng cay đắng, tủi nhục.
Chúng tôi nhận thấy người phụ nữ Mông sống trong hôn nhân với bao nỗi
khổ cơ cực, tủi nhục. Một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra nỗi thống
khổ cho người phụ nữ chính là những hủ tục lạc hậu. Chúng tôi xin đề xuất các
giải pháp nhằm xóa bỏ các hủ tục đang tồn tại trong cộng đồng dân tộc Mông.
Nghiên cứu đời sống cộng đồng dân tộc Mông, chúng tôi nhận thấy việc tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm thay đổi nhận thức người dân tộc
thiểu số là rất quan trọng và quan trọng hàng đầu. Bởi, các hủ tục còn tồn tại
trong đời sống cộng đồng người Mông nói riêng và người dân tộc thiểu số nói
chung là do trình độ dân trí chưa cao, với sự hiểu biết về pháp luật đang còn rất
nhiều hạn chế. Hơn nữa, chúng ta đang thiếu phương pháp phổ biến, tuyên
truyền; bất đồng ngôn ngữ; thiếu cán bộ tận tâm và thiếu kinh phí. Để giải quyết
vấn đề này, cần tăng cường các hình thức, đổi mới phương thức; tăng cường
phối hợp phổ biến, tuyên truyền giáo dục kiến thức pháp luật cho người dân.
Trước tiên, chúng ta cần tác động làm thay đổi nhận thức bằng cách tập trung
vận động những vị cao niên, già làng, trưởng dòng họ vì chính họ là những
người tham gia, chỉ đạo, định hướng khá toàn diện nhận thức, việc làm của con
cháu, anh em, người thân trong gia đình, dòng họ; trong đó, có việc ma chay,
cưới xin. Sau đó là thay đổi nhận thức của thế hệ trẻ. Tăng cường tuyên truyền,
phổ biến, cung cấp thông tin, kiến thức pháp luật về hôn nhân và gia đình trong
trường học: Đưa nội dung giáo dục giới tính; các quy định pháp luật về hôn
nhân và gia đình (như điều kiện về độ tuổi kết hôn, những điều cấm trong hôn
nhân…) nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hôn nhân và
gia đình đối với học sinh. Triển khai các hoạt động phù hợp với các yếu tố về
văn hóa, giới tính, lứa tuổi và dân tộc để tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận
thức, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và phòng chống tảo hôn: Tuyên
truyền, vận động trực tiếp, trực diện thông qua các điểm truyền thông; qua các
hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý miễn phí tại cộng đồng. Để giải quyết hủ tục
82
còn tồn tại ở đồng bào dân tộc Mông nói riêng, đồng bào dân tộc thiểu số nói
chung, cần có sự chung tay, góp sức của các đoàn thể, các cấp, các ngành ở địa
phương. Thực hiện các biện pháp một cách một cách thường xuyên, liên tục,
kiên trì và phương pháp, cách thức thực hiện phải phù hợp với đặc trưng của
mỗi vùng miền thì mới có hiệu quả bền vững.
* Tiểu kết chương 3
Thơ ca dân gian Mông trong đó có dân ca Mông về tiếng hát làm dâu là
một bộ phận văn hoá đặc sắc chứa đựng những phong tục tập quán, nếp cảm,
nếp nghĩ, là triết lý sống của người dân tộc. Dân ca dân tộc Mông tuy đơn giản
về ngôn từ, mộc mạc, dân dã trong cách diễn đạt nhưng sâu sắc về ý nghĩa. Cách
nói giản dị, sử dụng ngôn ngữ gắn với đời thường, khẩu ngữ của người dân tộc
Mông được đưa và dân ca một cách nhuần nhị, tự nhiên kết hợp với hình thức
độc thoại, đối thoại đã phản ánh được cách diễn tả nỗi lòng của người phụ nữ
khi làm dâu.
Qua ba biểu tượng đại diện cho thân phận làm dâu của người phụ nữ, ta
nhận thấy dân ca Mông là bức tranh hoàn thiện và đầy đủ về số phận người phụ
nữ Mông, đặc biệt là đối với người phụ nữ đã lập gia đình. Những nét đậm, nhạt
đan xen tô vẽ khắc hoạ chân thực kiếp làm dâu. Phụ nữ Mông đã giãi bày trực
tiếp nỗi lòng cũng như nỗi khổ của kiếp làm dâu đầy tủi cực. Con đường làm
dâu là con đường làm trâu làm bò, bị hành hạ, bị tước bỏ tự do và mất đi quyền
làm người thiết yếu nhất.
Tiếng hát làm dâu trong dân ca Mông đã thể hiện được quan niệm nghệ
thuật của tác giả dân gian về con người và hiện thực cuộc sống nơi đây. Đó là
hình ảnh người phụ nữ có ý thức cá nhân, có ước mơ, khát vọng và có sự phản
kháng để tìm kiếm tự do của bản thân. Cùng với đó, là quan niệm về hiện thực
cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, người phụ nữ phải gồng lưng gánh lấy những hủ
tục, tục lễ nặng nề - nguyên nhân gây ra nỗi thống khổ cho người phụ nữ. Và
những hủ tục ấy phải bị bài trừ để cuộc sống của người dân tộc trở nên văn minh
hơn, để khi nhắc đến tiếng hát làm dâu sẽ không còn những tiếng than thân,
trách phận nữa.
83
KẾT LUẬN
Dân ca dân tộc Mông là một bộ phận văn hóa, văn học dân gian đặc sắc, ở
đó không chỉ chứa đựng đời sống tâm linh, phong tục tập quán, sinh hoạt cộng
đồng ... mà còn chứa đựng hiện thực cuộc sống với những ước mơ, khát vọng
của đồng bào dân tộc miền núi đặc biệt là ước mơ cháy bỏng, mãnh liệt về sự tự
do, mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ Mông. Người phụ nữ trong dân ca
Mông thường được đề cập qua phẩm chất, nét đẹp, số phận và cuộc sống hàng
ngày của họ. Trong quá trình tìm hiểu, chọn lọc và phân tích những giá trị nội
dung và nghệ thuật của luận văn Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông,
chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Dân ca dân tộc Mông là một bộ phận văn hóa đặc sắc phản ánh những
phong tục tập quán, nếp cả, nếp nghĩ, là triết lí cuộc sống được đúc kết qua các
thế hệ. Dân ca Mông với năm mảng đề tài chính đã phản ánh chân thực và sinh
động về cuộc sống và con người dân tộc Mông. Trong số đó, một hình ảnh
thường xuyên xuất hiện chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân ca Mông là hình ảnh
người phụ nữ. Họ hiện lên với vẻ đẹp về thể chất lẫn vẻ đẹp tâm hồn, làm nổi
bật thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ở đó, vẻ đẹp ngoại hình tinh
khôi mà hoang sơ, mềm mại cùng với sự cần cù, khéo léo và số phận kém may
mắn, sống bị phụ thuộc vào người khác đối với những người phụ nữ Mông.
2. Đời sống tinh thần của người phụ nữ Mông khá khắc nghiệt, đặc biệt
là đối với thân phận làm dâu thì sự khắc nghiệt đó như được nhân lên gấp nhiều
lần. Khi làm dâu, phụ nữ Mông chỉ có quyền phục tùng vô điều kiện chồng và
gia đình chồng. Đến ở gia đình chồng – một nơi xa lạ, sống cùng những người
xa lạ không cùng huyết thống, người phụ nữ cô đơn lạc lõng ngay chính ngôi
nhà mình đang ở. Và nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, người thân là điều không thể
tránh khỏi và thậm chí, họ còn nhớ đến cả người tình cũ. Chính xã hội phong
kiến đã đẩy những người phụ nữ vào con đường bi ai này. Họ chỉ còn biết than
thân, trách phận đó là sự thở than về nỗi buồn bị gả ép, nỗi phiền muộn về thân
phận làm dâu nhỏ bé và nỗi thất vọng cùng sự ngột ngạt trong cuộc sống ở gia
đình chồng. Uất ức trước thực tại, tin vào một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên
kia nhiều phụ nữ trong dân ca Mông đã chạy trốn hoặc tìm đến cái chết như một 84
sự giải thoát. Qua đó, ta thấy được ước mơ, khát vọng mãnh liệt của người phụ
nữ, nó đã chi phối hành động và suy nghĩ của họ. Tiếng hát làm dâu trong dân
ca dân tộc Mông là hồi chuông cảnh tỉnh giáng vào xã hội phong kiến, phản ánh
nhận thức và thái độ phản kháng đầy quyết liệt của người phụ nữ.
3. Dân ca Mông đã sử dụng rất nhiều những phương diện nghệ thuật độc
đáo để khắc họa nỗi lòng của người phụ nữ khi làm dâu. Dân ca Mông không sử
dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, không trau chuốt câu chữ mà ngôn ngữ
trong các bài dân ca vô cùng dễ hiểu, mộc mạc, giản dị gần gũi với lời ăn tiếng
nói hằng ngày của người dân tộc. Hình tượng nghệ thuật được coi như sự cố gắng
của con người trong quá trình giải mã những điều tiềm ẩn chưa được khám phá.
Hình tượng trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu là hình tượng loài vật (trâu
bò); hình tượng nước mắt và hình tượng lá ngón. Tất cả đều thể hiện nỗi thống
khổ của người phụ nữ trong kiếp làm dâu đầy đắng cay, tủi nhục, đồng thời phản
ánh những ước mơ bình dị, vô cùng chính đáng của họ. Qua đó, quan niệm nghệ
thuật về con người và hiện thực cuộc sống của tác giả dân gian được thể hiện rõ
nét. Quan niệm của tác giả đối với người phụ nữ trong hôn nhân là người có ý
thức cá nhân, có ước mơ, khát vọng và có sự phản kháng để tìm kiếm tự do của
bản thân. Cùng với đó, là quan niệm về hiện thực cuộc sống vô cùng khắc
nghiệt, người phụ nữ phải chịu trói buộc bởi những lễ giáo, hủ tục phong kiến.
Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm xóa bỏ hủ tục lạc hậu
trong phong tục hôn nhân của người Mông.
4. Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với đời sống tinh thần của đồng bào Mông, đặc biệt là người phụ nữ.
Ngày nay phụ nữ được xem như là một nửa cuộc sống. Họ vẫn giữ vẻ đẹp truyền
thống của phụ nữ xưa. Nhưng vẻ đẹp, vai trò, vị trí của phụ nữ ngày nay được
khẳng định trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Phẩm chất của người phụ nữ với
những tiếng hát dân ca đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hóa dân tộc, niềm tự
hào của con người đất nước Việt Nam.
Đề tài “Tiếng hát làm dâu trong dân ca dân tộc Mông” mà chúng tôi
nghiên cứu sẽ là cơ sở, căn cứ hữu ích cho những công trình nghiên cứu lớn với
phạm vi rộng hơn và toàn diện hơn.
85
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trần Thị Ngọc Anh, Lê Thu Hường (2019), Tiếng hát làm dâu của người
phụ nữ Mông qua dân ca, Từ điển học & Bách khoa thư, số 6 (62) tháng
11/2019, tr12 -17.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Ba (Tuyển chọn – 2001), Lời của núi, Nxb văn hóa dân tộc.
2. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
3. Vũ Hồng Cường (2010), Tiếng hát tình yêu lứa đôi trong dân ca H’Mông Hà
Giang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
4. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
5. Gia Dũng (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Văn hóa dân tộc.
6. Lê Bá Hán – Trần Đỉnh Sử - Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Hùng Thị Hà (2015), Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa, Luận án
tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
8. Hùng Thị Hà (2008), Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân
gian Mông, số tháng 8+9, Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
9. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bích Hậu (2009), Biểu tượng như là “đơn vị” cơ bản của văn
hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Hiệu (2005), Dân tộc Mông ở Việt Nam, mienstudy.net.
12. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
13. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp, Nxb
Khoa học Xã hội, H.
14. Tô Hoài (1965), “Tiếng hát làm dâu” – tiếng hát đau thương căm hờn, tiếng
hát thiết tha, hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo, số tháng 2, Tạp chí văn học.
15. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
87
16. Trường Lưu – Hùng Đình Quý (1996), Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang, Sở
Văn hóa – Thông tin – Thể thao Hà Giang.
17. Hoàng Phê (chủ biên - 1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
18. Hùng Đình Quý (1995), Dân ca Mông Hà Giang (tập 1), Sở Văn hóa Thông
tin tỉnh Hà Giang.
19. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 2), Sở Văn hóa Thông
tin tỉnh Hà Giang.
20. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (tập 3), Sở Văn hóa Thông
tin tỉnh Hà Giang.
21. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ văn học thiểu số (Hoa văn
thổ cẩm tập 3), Nxb Văn hóa Dân tộc.
22. Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học, Nxb Đại học Sư Phạm
Hà Nội, H.
23. Doãn Thanh (Sưu tầm – biên dịch) (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn
học, H.
24. Doãn Thanh – Hoàng Thao – Chế Lan Viên (1984), Dân ca H’mông, Nxb
Văn học.
25. Nguyễn Kiến Thọ (2008), Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kì hiện
đại (Từ 1945 đến nay), Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, ĐH Thái Nguyên.
26. Nguyễn Kiến Thọ (2012), Thơ ca dân tộc Mông – từ truyền thống đến hiện đại,
Luận án Tiến sĩ ngữ văn, ĐH Thái Nguyên.
27. Viện khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Văn hóa dân gian – một chặng đường
nghiên cứu, Nxb KHXH, Hà Nội.
28. Viện nghiên cứu văn hoá (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 19, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
* Tài liệu tham khảo trên các website, trang mạng điện tử
29. Hoàng Diệu (2010), Đặc điểm dân tộc Mông trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam
https://backan.gov.vn/Pages/tim-hieu-bac-kan-129/con-nguoi-bac-kan-
142/Dac-diem-dan-toc-Mong-tro-6144270a9aadf7cd.aspx
88
30. Giang Lâm (2015), Văn hóa – lịch sử dân tộc Hmông
https://m.facebook.com/vanhoalisuhmong.vn/posts/1568816623381261
31. Anh Phương (2014), Phong tục cưới hỏi độc đáo của người H'Mông
https://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/lao-cai/phong-tuc-cuoi-hoi-doc-
dao-cua-nguoi-h-mong-2931665.html
32. Hồng Phượng, Phong tục tang ma của người Mông ở Hà Giang
http://thegioidisan.vn/vi/phong-tuc-tang-ma-cua-nguoi-mong-o-ha-
giang.html
33. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietN
am/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&ar
ticleId=10038365
89
PHỤ LỤC
Bảng 1: Bảng thống kê số lượng tác phẩm thể hiện tiếng lòng
của người phụ nữ làm dâu trong dân ca Mông
STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ
tác phẩm
1 Nỗi nhớ về gia đình 17 27,9%
2 Nỗi nhớ về thời xuân tươi đẹp 22 36,1%
3 Nỗi lòng về thân phận làm dâu nhỏ bé 36 59%
4 Tâm trạng ngột ngạt trong cuộc sống ở gia 39 63,9%
đình chồng
5 Ước vọng trở về với cuộc sống tự do 34 55,7%
6 Phụ nữ Mông mạnh mẽ vượt lên số phận 31 50,8%
Bảng 2: Bảng khảo sát số lượng tác phẩm sử dụng thủ pháp nghệ thuật
so sánh và kết cấu trùng điệp trong dân ca Mông về tiếng hát làm dâu
Thủ pháp Số lượng tác phẩm
nghệ thuật Tổng số Tỉ lệ Chỉ sử dụng Tỉ lệ Sử dụng kết hợp Tỉ lệ
(%) một biện pháp (%) hai biện pháp (%)
so sánh/ kết so sánh/ kết cấu
cấu trùng điệp trùng điệp
Thủ pháp 50 82 3 4,9 47 77
so sánh
Thủ pháp 59 96,7 12 21,3 47 77
trùng điệp
Bảng 3: Bảng thống kê một số hình tượng về tiếng hát làm dâu
trong dân ca dân tộc Mông
STT Tên hình tượng Tần số xuất hiện theo đơn Tổng số lần xuất hiện
vị tác phẩm
1 Nước mắt 52 45
2 Gà 19 17
3 Bò 21 16
4 Lanh 12 11
5 Hoa 10 8
6 Váy 14 10
7 Trâu 55 52
8 Lá ngón 64 55