intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Tình hình phát triển doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM

Chia sẻ: Thuytienvang_1 Thuytienvang_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:183

110
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ khi thành lập đến nay, các khu công nghiệp và khu chế xuất (sau đây gọi chung là khu công nghiệp [18] – KCN) thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) đã đạt được những thành tựu nhất định, biến những vùng đất nông nghiệp nghèo, lạc hậu thành những khu sản xuất công nghiệp tập trung năng động, những khu đô thị mới sầm uất, đời sống cư dân ngày càng được cải thiện, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, tạo ra hàng tỉ USD kim ngạch xuất khẩu, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước hàng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Tình hình phát triển doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM

  1. Luận văn Tình hình phát triển doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM
  2. -1- MỞ ĐẦU 1- Sự cần thiết của đề tài Từ khi thành lập đến nay, các khu công nghiệp và khu chế xuất (sau đây gọi chung là khu công nghiệp [18] – KCN) thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) đã đạt được những thành tựu nhất định, biến những vùng đất nông nghiệp nghèo, lạc hậu thành những khu sản xuất công nghiệp tập trung năng động, những khu đô thị mới sầm uất, đời sống cư dân ngày càng được cải thiện, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, tạo ra hàng tỉ USD kim ngạch xuất khẩu, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước hàng ngàn tỉ đồng, đã góp phần đáng kể vào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH) và sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư vào các KCN Tp. HCM đã bộc lộ nhiều hạn chế. Tính đến nay, Ban quản lý các KCN và KCX Tp. HCM (HEPZA) đang quản lý 3 KCX và 13 KCN với tổng diện tích là 2.354 ha, hầu hết các khu này đều có tỷ lệ đất cho thuê từ 75-100% trên tổng diện tích đất cho thuê. Cho nên, quỹ đất sẵn sàng dành cho phát triển công nghiệp không còn nhiều. Đa số các dự án đầu tư có quy mô nhỏ; thâm dụng lao động; trình độ công nghệ thấp; hiệu quả sử dụng đất công nghiệp chưa cao; nguồn lao động giản đơn thiếu nghiêm trọng, phải tuyển lao động từ các tỉnh khác, tạo nhiều áp lực cho thành phố. Nhưng hiện nay, hầu hết ở các tỉnh đều thành lập các KCN và thu hút lao động tại địa phương đó, nên các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM không còn tuyển được nhiều lao động từ các tỉnh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tư vào KCN không còn được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án công nghệ cao). Từ đó cho thấy, các doanh nghiệp trong KCN đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Trước bối cảnh thế giới đang lâm vào tình trạng bất ổn về kinh tế và chính trị ở một số quốc gia và khu vực, sự biến đổi khí hậu của trái đất ngày càng nghiêm trọng do tác động của ô nhiễm môi trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Lãi suất cho vay cao (có lúc hơn 25%/năm trong năm 2011) khiến cho doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
  3. -2- doanh; lạm phát tăng cao (năm 2011 là 18,13%); giá vàng trong nước biến động mạnh và cao hơn cả thế giới; tiền đồng mất giá… từ đó đã đẩy giá các yếu tố đầu vào tăng lên rất cao, làm cho các doanh nghiệp trong KCN gặp nhiều khó khăn, thậm chí có rất nhiều doanh nghiệp đã ngưng hoạt động và giải thể. Từ những đặc điểm tình hình nêu trên, cùng với thành phố đóng vai trò đầu tàu “đi trước một bước” hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa vào năm 2020, việc nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, đủ sức hấp dẫn về lợi ích kinh tế để kích thích các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển là một nhu cầu cấp bách, mang tính thực tiễn to lớn. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh phát triển đến năm 2020” nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ. 2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án 2.1- Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiếp cận trên phương diện khu công nghiệp tại Việt Nam có liên quan đến đề tài Tại Việt Nam, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về khu chế xuất, khu công nghiệp nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các KCN Tp. HCM phát triển, cụ thể: - Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của VS.TS. Nguyễn Chơn Trung và PGS.TS. Trương Giang Long (Đồng chủ biên) (2004), nghiên cứu đã trình bày một số vấn đề về sự hình thành và phát triển các KCN, KCX; phân tích thực trạng phát triển KCN, KCX ở các tỉnh phía Nam; từ đó đưa ra những giải pháp phát triển các KCN, KCX. - Nghiên cứu những giải pháp phát triển các KCN ở Việt Nam trong những điều kiện hiện nay của GS.TS. Võ Thanh Thu (Chủ nhiệm đề tài) (2005), đã tổng kết được thực tiễn phát triển và quản lý KCN giai đoạn 1991 – 2003; đánh giá các tác động của các KCN đối với công cuộc CNH-HĐH đất nước; đánh giá mô hình hoạt động và tính hiệu quả hoạt động của các KCN. Từ đó nghiên cứu đã đề xuất giải pháp phát triển bền vững KCN trong quá trình CNH-HĐH và tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam.
  4. -3- - Những giải pháp nhằm phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp Tp. HCM đến năm 2010 – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quyết Chiến (2003); Phát triển các khu công nghiệp của tỉnh Long An đến năm 2010 – Luận án tiến sĩ của Huỳnh Thanh Tú (2005), và Phát triển khu công nghiệp của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 – Luận án tiến sĩ của Huỳnh Thanh Nhã (2008), nội dung chủ yếu của các nghiên cứu này là tìm hiểu kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp; thực trạng phát triển các KCN của tỉnh, thành phố, cũng như định hướng phát triển trong tương lai; từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển KCN của tỉnh, thành phố. - Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong Khu công nghiệp tình hình tuyển dụng lao động giai đoạn 2010-2015 – Bài báo của Thanh Huyền đăng tại website Ban quản lý các Khu công nghiệp Vĩnh Phúc vào Thứ ba, 20-12-2011, nội dung chủ yếu của nghiên cứu này là phân tích thực trạng và nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong KCN của tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đưa ra giải pháp nhằm đáp ứng nguồn nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp tuyển dụng được lao động đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng. - Chính sách cụm công nghiệp và phát triển khu vực trong giai đoạn toàn cầu hóa- cách tiếp cận phương Đông và phương Tây và sự khác biệt của chúng (Industrial cluster policies and regional development in the age of globalisation - Eastern and Western approaches and their differences) – Bài báo của MITSUI Itsutomo (Đại học Quốc gia Yokohama) (2003) đăng trên 30th ISBC in Singapore [http://www.asahi-net.or.jp/~MQ7I- MTI/Regional03.pdf]. Bài viết đã nghiên cứu, so sánh sự phát triển của chính sách dựa trên ý tưởng của mô hình cụm công nghiệp với những ảnh hưởng của chúng đến nền kinh tế khu vực và các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một số khu vực ở Nhật, Châu Âu. 2.2- Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiếp cận trên phương diện phát triển doanh nghiệp có liên quan đến đề tài - Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thiện Phong (2007), nội dung nghiên cứu chủ yếu là phân tích thực trạng các loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long; hoàn thiện các chính sách tài chính, các chính sách có liên quan và kiến nghị các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
  5. -4- vừa ngoài quốc doanh trong vùng khắc phục khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển một cách bền vững. - Giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp da-giày trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015 – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Tân (2009), nội dung chủ yếu là tìm hiểu kinh nghiệm phát triển lĩnh vực da – giày của một số nước và địa phương có lĩnh vực da – giày nổi tiếng; đánh giá rõ thực trạng của các doanh nghiệp da – giày trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; từ đó xây dựng các giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp da – giày trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. - Phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông sản khu vực phía Nam – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Phong (2010), nội dung chủ yếu làm rõ cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm các nước về phát triển nguồn nhân lực; đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông sản; từ đó đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông sản. Từ kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học kể trên, nhận thấy rằng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về phát triển doanh nghiệp và giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển. Tuy nhiên, các công trình khoa học kể trên là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn, giúp tác giả rất nhiều trong quá trình nghiên cứu. Luận án sẽ làm rõ cơ sở khoa học về một số tiêu chí đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN, thông qua đó phân tích thực trạng phát triển doanh nghiệp KCN Tp. HCM và các chính sách, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp KCN từ đó xây dựng một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020. 3- Mục tiêu nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và tiêu chí đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN. - Phân tích thực trạng phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
  6. -5- - Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM. - Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020 phù hợp với yêu cầu và tình hình hiện nay. 4- Phương pháp nghiên cứu 4.1- Dữ liệu nghiên cứu: Nguồn dữ liệu: đề tài sử dụng nguồn đa dữ liệu - Dữ liệu thứ cấp: các thông tin được thu thập từ báo cáo của Ban quản lý HEPZA qua các năm (từ năm 2002 đến năm 2011), Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành, internet và các thông tin từ các nghiên cứu có liên quan. - Dữ liệu sơ cấp: các thông tin được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM. 4.2- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp phân tích định tính và định lượng. - Phương pháp định tính: + Luận án sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, cùng với những quan điểm, chính sách của Nhà nước để hệ thống hoá và phát triển cơ sở lý luận, xác định một số chỉ tiêu đánh giá phát triển doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. + Phương pháp nghiên cứu tại bàn để thu thập thông tin thứ cấp; thống kê, mô tả, tổng hợp, phân tích số liệu và so sánh nhằm rút ra những nét nổi bật, những đặc điểm qua các năm (từ năm 2002 đến năm 2011) để nhận định, đánh giá và rút ra nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp trong các KCN Tp. HCM. - Phương pháp định lượng: điều tra trực tiếp bằng bảng câu hỏi khảo sát 163 doanh nghiệp (bảng câu hỏi được phát đến 200 doanh nghiệp, có 163 doanh nghiệp trả lời hợp lệ) trong các KCN Tp. HCM, dùng phần mềm SPSS để xử lý dữ liệu (phân tích nhân tố, phân tích Cronbach alpha, và phân tích hồi quy) để tìm những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM.
  7. -6- 5- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án: - Đối tượng nghiên cứu đề tài là sự phát triển và chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM. - Phạm vi nghiên cứu được giới hạn như sau: + Về không gian: nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM. + Về thời gian: thời gian khảo sát và thu thập số liệu từ năm 2002 đến năm 2011. 6- Điểm mới và đóng góp của luận án: - Xác định được các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM. Những yếu tố này có thể làm cơ sở nghiên cứu cho những đề tài có liên quan đến KCN, hay doanh nghiệp trong KCN nói chung. - Luận án đã đóng góp vào thực tiễn cho việc phát triển các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM thông qua đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020 phù hợp với yêu cầu và tình hình hiện nay. 7- Khung nghiên cứu của luận án Một số chỉ tiêu đánh Những yếu tố tác động của LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DN TRONG CÁC KCN giá thực trạng phát triển môi trường bên ngoài VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ của DN Thông qua Thực trạng phát triển DN Đánh giá chung về Dữ liệu thứ cấp Dữ liệu sơ cấp bảng câu hỏi và những nhân tố ảnh kết quả đạt được khảo sát các hưởng đến sự phát triển của các chính sách DN trong DN trong các KCN Tp. hỗ trợ Từ báo cáo của KCN Tp. HCM HEPZA, Tổng cục HCM Thống kê, Bộ Những yếu tố ảnh KH&ĐT, từ sách, hưởng trực tiếp đến báo, tạp chí chuyên sự phát triển của DN trong KCN Tp. ngành, internet HCM Thuận lợi Khó khăn ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HỖ TRỢ CHO CÁC DN TRONG CÁC KCN TP. HCM PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 2020
  8. -7- 8- Kết cấu của luận án: Luận án được kết cấu gồm: - Mở đầu - Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển doanh nghiệp trong các KCN và chính sách hỗ trợ để phát triển doanh nghiệp - Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM - Chương 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM - Chương 4: Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020 - Kết luận - Tài liệu tham khảo
  9. -8- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP 1.1- Các khái niệm 1.1.1- Khái niệm về khu công nghiệp và doanh nghiệp trong khu công nghiệp 1.1.1.1- Khái niệm về khu công nghiệp Theo khoản 20 và 21 Điều 3 của luật Đầu tư ngày 29/11/2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006) và theo khoản 1 và 2 Điều 2 của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế (ngày 14/3/2008) thì: - Khu công nghiệp (KCN) là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. - Khu chế xuất (KCX) là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này. Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp (KCN), trừ trường hợp quy định cụ thể [18]. Trong luận án này, tác giả thống nhất từ dùng chung là “khu công nghiệp” nhằm đề cập đối tượng nghiên cứu là doanh nghiệp trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. 1.1.1.2- Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp trong KCN Doanh nghiệp trong KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Như vậy, các doanh nghiệp trong KCN có những đặc điểm chung cơ bản như sau: - Các doanh nghiệp trong từng KCN có thể hoạt động đầu tư cùng một số ngành nghề theo quy hoạch ngành nghề đầu tư cho mỗi KCN do Chính phủ quy định.
  10. -9- - Cơ quan quản lý nhà nước các doanh nghiệp trong KCN là Ban quản lý KCN tỉnh-thành phố. Ban quản lý cung cấp dịch vụ một cửa, nên việc xin Giấy phép đầu tư giảm được nhiều thủ tục phiền phức. Đối với các công việc về thủ tục đầu tư, thành lập doanh nghiệp, xây dựng nhà xưởng, đưa doanh nghiệp vào sản xuất và các hoạt động khác của doanh nghiệp thì nhà đầu tư chỉ cần gặp Ban quản lý KCN tỉnh-thành phố là có thể hoàn tất trong một thời gian rất ngắn cho việc kiểm tra hồ sơ và cấp Giấy phép đầu tư. - Trong mỗi KCN đều có đội ngũ bảo vệ riêng canh gác ngày đêm, có đội Phòng cháy chữa cháy riêng để phục vụ cho các doanh nghiệp trong KCN. - Các doanh nghiệp trong KCN đều được hưởng những tiện ích về cơ sở hạ tầng chung như: Hệ thống đường trong khu hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn quy định; Điện, nước đầy đủ. Có nhà máy điện riêng cỡ trung hoặc trạm biến thế, hệ thống cấp thoát nước, bể nước, trạm cấp nước dự phòng riêng…; Đất quy hoạch cho phát triển doanh nghiệp trong KCN là có sẵn. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong KCN còn được hưởng những tiện ích công cộng như Trạm y tế, Đội vệ sinh cây xanh, Trung tâm hoạt động công nhân, xe chở rác, Trạm xử lý nước thải, hệ thống chiếu sáng toàn khu… 1.1.2- Khái niệm về phát triển: Theo quan điểm siêu hình1: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp. Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật. Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau: Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật. Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật [12]. Khi xét “phát triển” trong lĩnh vực kinh tế, thì “Phát triển là sự tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Nói đến phát triển kinh tế là nói cả tăng 1 Trần Thị Lan (2009), Bài soạn Phép biện chứng duy vật, [http://baigiang.violet.vn/present/show/entry_id/2304341]
  11. - 10 - thêm về quy mô sản lượng của nền kinh tế và cả đến sự tiến bộ xã hội. Phát triển là quy luật tiến hoá của nền kinh tế từ trình độ phát triển thấp lên trình độ phát triển cao hơn” [59]. Theo quan điểm trong giáo trình kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội: “Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó, bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội”. Ngày nay, quan niệm về phát triển còn được mở rộng là phát triển phải gắn với hoà bình, độc lập và ổn định chính trị. Phát triển phải bền vững và bảo vệ môi trường sống, phát triển là để phục vụ con người, lấy con người làm trung tâm. Nếu đề cập đến khái niệm phát triển chỉ bằng một định nghĩa thì rất khó có thể diễn đạt hết ý nghĩa, ta có thể diễn giải khái niệm về phát triển cụ thể như sau: Sự phát triển bao gồm cả sự tăng lên về lượng (tăng trưởng), sự biến đổi cơ cấu, trình độ kinh tế và của đời sống xã hội; Sự phát triển là quá trình tiến hoá theo thời gian, do các nhân tố nội tại quyết định; Kết quả phát triển là một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu đề ra là để tiếp cận tới các kết quả đó; Con người chính là trung tâm của sự phát triển. Con người vừa là động lực vừa là đối tượng của quá trình phát triển; Phát triển phải gắn với sự bền vững, do đó phải bao gồm các yếu tố hoà bình, độc lập, ổn định chính trị, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, các hiện tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể, sự thay đổi của các yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật. Phát triển là một khái niệm chung nhất về sự chuyển biến của sự vật từ trạng thái thấp đến trạng thái cao hơn, đó là một khái niệm mang tính định tính. Do vậy, sẽ rất khó có một tiêu chí định lượng chính xác và thống nhất để đo lường sự phát triển. Trong nghiên cứu này, chúng ta tạm quy ước khi nói đến sự phát triển là nói đến các chỉ tiêu nêu trên.
  12. - 11 - 1.1.3- Quan điểm về phát triển KCN Việt Nam: Phát triển là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển. Mục tiêu phát triển đất nước chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện chiến lược phát triển trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, trong đó có phát triển các KCN. Theo quan điểm về phát triển nói chung, có chú ý đến những yếu tố đặc thù của các KCN thì cần phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: kinh tế - văn hóa, xã hội - môi trường. Như vậy, quan điểm về phát triển KCN Việt Nam có thể hiểu: “Phát triển KCN là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày càng cao trong bản thân KCN, gắn liền với việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống, cũng như những yêu cầu về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN cũng như toàn lãnh thổ quốc gia”. Theo quan điểm trên, phát triển KCN Việt Nam phải được xem xét trên hai góc độ: - Duy trì tính chất bền vững và hiệu quả trong hoạt động của bản thân KCN. Điều này thể hiện: một là, bảo đảm các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN; hai là, nâng cao khả năng cạnh tranh của các KCN Việt Nam, (tính chất vượt trong quan hệ so sánh) với các đối thủ cạnh tranh khác có cùng tiêu chí so sánh; ba là, bảo đảm chất lượng môi trường trong nội bộ KCN. - Tác động lan tỏa tích cực của KCN đến hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương, khu vực có KCN. Điều này được thể hiện trên các mặt: tạo sự chuyển dịch tích cực trong CCNN theo xu hướng CNH-HĐH và hướng về xuất khẩu; tác động tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực KCN; tác động tích cực và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, mà tựu chung lại là vấn đề tăng cường khả năng giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho
  13. - 12 - dân cư trong vùng có KCN; hoạt động KCN luôn gắn liền với các phương án bảo vệ môi trường, giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường. 1.1.4- Quan điểm về phát triển doanh nghiệp trong các KCN Theo tác giả, phát triển các doanh nghiệp nói chung và phát triển các doanh nghiệp trong KCN nói riêng là quá trình hoàn thiện về mọi mặt của doanh nghiệp bao gồm: vốn, lao động, công nghệ, thị trường, nguồn nguyên liệu, văn hoá, môi trường, xã hội… trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong từng vùng/khu vực đều chịu ảnh hưởng bởi chính sách của vùng hay khu vực đó, và các doanh nghiệp trong KCN cũng vậy, cũng có những đặc thù riêng. Cho nên, để phát triển các doanh nghiệp trong KCN cần xác định đồng thời một số vấn đề sau: - Về phía các doanh nghiệp trong KCN cần chú trọng phát triển trên một số mặt như: đảm bảo nguồn nhân lực cho nhu cầu sản xuất-kinh doanh (lực lượng lao động); đầu tư công nghệ hiện đại thay thế dần lao động phổ thông; khả năng khai thác nguồn lực và thị trường; tận dụng những cơ hội, khắc phục những thách thức… - Về phía cơ quan quản lý nhà nước, để các doanh nghiệp trong KCN hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi và phát triển thì cần tập trung vào các mặt sau: chú trọng tạo môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp phát triển; hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ những khó khăn; chính sách thu hút đầu tư; tạo cơ hội phát triển cho doanh nghiệp… Điều này rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong các KCN Việt Nam nói chung và doanh nghiệp trong các KCN Tp. HCM nói riêng. 1.2- Vai trò của doanh nghiệp trong KCN đối với phát triển kinh tế-xã hội Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2015, dự kiến sẽ thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN trên cả nước với tổng diện tích gần 32.000 ha [27]. Sau 5 năm thực hiện Quyết định 1107/QĐ-TTg, một số KCN đã được thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2020. Tính đến tháng 12/2011, cả nước đã có 283 KCN được thành lập với tổng diện tích lên đến 76.000 ha. Trong đó, 180 KCN đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng các KCN lên tới trên 9,5 tỉ USD. Các KCN phân bố ở 61 tỉnh, thành phố trên cả nước; tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 65%2. 2 Cầm Văn Kình (2012), Lượng nhiều chất chưa tương xứng, [http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Kinh-te/101573,Luong- nhieu-chat-chua-tuong-xung.ttm, ngày 18/02/2012]
  14. - 13 - 1.2.1- Các doanh nghiệp đã đóng góp một lượng vốn đầu tư lớn, từ nhiều nguồn để phát triển kinh tế: Từ thực tiễn cho thấy, nhân tố hàng đầu, nếu không nói là quan trọng nhất đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước cũng như đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là phải có vốn lớn. Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH được tiến hành với tốc độ nhanh, cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Doanh nghiệp trong các KCN trong những năm qua đã đầu tư được một lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế. Tác dụng huy động vốn của doanh nghiệp trong các KCN được thể hiện như sau: Một là là huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính chất quyết định, là nhân tố nội lực. Những năm đầu xây dựng KCN, do chưa nhận thức được tầm quan trọng của KCN trong việc huy động nguồn vốn nội bộ, chúng ta đã xem nhẹ việc thu hút các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN. Điều này có thể thấy rõ ở số dự án và tổng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước vào KCN trong thời gian này còn rất hạn chế. Chỉ vài năm gần đây, vai trò của khu vực trong nước mới được chú trọng, dòng vốn đầu tư trong nước vào các KCN tăng đáng kể, số dự án trong nước trong các KCN trong những năm gần đây đã lớn hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đến tháng 12/2011, các KCN cả nước đã thu hút 5.064 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 390.000 tỷ đồng. Hai là là huy động vốn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế tích luỹ nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN là một giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế từ khi xây dựng KCN đến nay, số dự án và tổng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN không ngừng gia tăng và chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong trong tổng vốn FDI đầu tư trên cả nước. Đến tháng 12/2011, tổng số dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN là hơn 4.100 dự án với tổng vốn đăng ký gần 59 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của 283 KCN trên cả nước đạt trên 9,5 tỷ USD2. Có thể nói, các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào KCN. Bởi lẽ, trong KCN có một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và sẵn có, một môi trường pháp lý thuận lợi và 2 Cầm Văn Kình (2012), Lượng nhiều chất chưa tương xứng, [http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Kinh-te/101573,Luong- nhieu-chat-chua-tuong-xung.ttm, ngày 18/02/2012]
  15. - 14 - thống nhất, là nơi cơ chế “một cửa, tại chỗ” được thực thi rõ ràng nhất. Đây chính là những lợi thế chủ yếu để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào KCN. 1.2.2- Doanh nghiệp trong các KCN đã góp phần nâng cao năng lực công nghệ quốc gia, đầu tư những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH: Cùng với dòng vốn của doanh nghiệp FDI trong các KCN đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tư nước ngoài còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Mặc dù so với trình độ công nghệ trên thế giới còn ở mức trung bình, nhưng các doanh nghiệp trong KCN đã phần nào nâng cao trình độ công nghệ hiện có của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI có trình độ công nghệ cao như Rodze Robotec ở KCN Nomura (Hải Phòng), Cannon ở KCN Thăng Long (Hà Nội), Nidec Tosok, Renesas ở KCX Tân Thuận (Tp. HCM)…các dự án này đã đầu tư vào Việt Nam những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất trên thế giới, ở những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử… Doanh nghiệp trong KCN đa số thuộc doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp. Về mặt lượng, đã góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp do các doanh nghiệp KCN tạo ra luôn tăng qua các năm, từ 13% năm 2000 lên 26,4% năm 2004, năm 2005 đạt 28% và năm 2010 đạt 31% [35]. Nhưng quan trọng hơn, về mặt chất, doanh nghiệp trong các KCN có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, sản xuất xe hơi, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính xác, điện tử, vật liệu xây dựng… Mặc dù số lượng các dự án này trong các KCN còn ít (chiếm khoảng 5-10% số dự án), nhưng cũng đá góp phần phát triển những ngành nghề mới, đa dạng hoá cơ cấu ngành công nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày… và công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây là các dự án mang tính thâm dụng lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền thống, đã có từ lâu ở nước ta. Những dự án trong KCN đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm.
  16. - 15 - Các doanh nghiệp trong KCN đã góp phần nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ công nghiệp như dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, logistic… Đây là những dịch vụ có chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế và có giá trị gia tăng khá, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Tóm lại, doanh nghiệp trong KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH cả về mặt chất và lượng. Mặc dù vẫn còn sự bất lợp lý trong cơ cấu ngành nghề công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp kỹ thuật cao còn thấp, còn tồn tại những hậu quả do các doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp, lạc hậu du nhập vào Việt Nam, nhưng đóng góp của doanh nghiệp trong KCN vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước là không thể phủ nhận. 1.2.3- Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xoá đói giảm nghèo Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Không thể phủ nhận rằng người lao động Việt Nam rất tháo vát, nhạy bén, thích ứng mau lẹ với mọi hoàn cảnh biến động của nền kinh tế thị trường và có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới để sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Nhưng, với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH thì chất lượng của người lao động Việt Nam còn thấp đáp ứng được yêu cầu. Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào KCN để tạo ra nhiều việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của nước ta. Mặc dù việc thu hút nguồn nhân lực vào các doanh nghiệp FDI trong KCN chưa phải là lớn, hiện có hơn 1,76 triệu người làm việc2, nhưng điều quan trọng là số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, được trực tiếp làm việc trong một môi trường làm việc có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Doanh nghiệp trong các KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI đã đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp tiên tiến, có tác dụng lan toả và nâng cao nền tảng lao động của đội ngũ lao động Việt Nam. Ngoài ra, doanh nghiệp trong các KCN còn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam vào vị trí quản lý doanh nghiệp, đội ngũ lao động này được tiếp xúc với
  17. - 16 - phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Đội ngũ lao động này, khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam, hoặc tự mình khởi sự doanh nghiệp sẽ có thể áp dụng phương thức quản lý tiên tiến đã tiếp thu được vào hoạt động của doanh nghiệp mình. Từ đó sẽ vừa nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp, vừa truyền đạt những kiến thức quản lý cho người lao động Việt Nam khác. Như vậy, xét trên các góc độ, vai trò của doanh nghiệp trong KCN không chỉ dừng lại ở việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao mà quan trọng hơn là tác động lan truyền của nó tới các doanh nghiệp Việt Nam khác. Các doanh nghiệp trong KCN đã thực sự góp phần vào việc nâng cao trình độ chung của lao động nước ta. Bên cạnh đó, tạo việc làm đồng nghĩa với tạo thu nhập cho người lao động, vì phần lớn lao động được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp KCN là lao động chưa qua đào tạo và một bộ phận không nhỏ từ khu vực nông nghiệp, nông thôn. Do đó, vấn đề tạo việc làm đã tác động tích cực đến việc xoá đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng dân cư, đồng thời góp phần giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. Theo điều tra thì hiện có khoảng 40% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp KCN là những người nghèo đến từ nhiều địa phương. Tỷ lệ này cho thấy số thoát nghèo trực tiếp nhờ KCN là gần 250.000 người, nếu tính thêm số lao động gián tiếp và những nhân khẩu ăn theo thì con số thoát nghèo lên tới nửa triệu người [35]. Như vậy, việc mở rộng thu hút đầu tư doanh nghiệp vào KCN không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào việc thực hiện xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, ổn định đời sống cho người lao động ở nước ta. 1.2.4- Đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu và ngân sách cả nước Qua 20 năm hình thành và phát triển, các doanh nghiệp trong KCN Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra nhiều giá trị công nghiệp, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng sản lượng công nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; từng bước đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng tập trung hoá, chuyên môn hoá, khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy tốc độ phát triển chung của nền kinh tế.
  18. - 17 - Trong những năm qua, doanh thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng nhanh và đều qua các năm. Doanh thu trung bình của các doanh nghiệp trong KCN tăng trưởng trung bình gần 48%/năm, gấp 6,3 lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Năm 1998, doanh thu của các doanh nghiệp trong KCN đạt gần 1,5 tỷ USD; sang năm 2003 doanh thu đã tăn lên gần 7,3 tỷ USD, gấp 4,8 lần so với năm 1998; đến măm 2005 con số này đã tăng lên 14 tỷ USD, gấp gần 2 lần so với năm 2003; và đến năm 2010 doanh thu đạt gần 20,3 tỷ USD, tăng hơn 1,4 lần so với năm 2005. Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư Hình 1.1: Doanh thu, xuất khẩu và nộp ngân sách của doanh nghiệp trong KCN Như vậy, các doanh nghiệp trong KCN đã đóng góp đáng kể vào việc tăng trưởng công nghiệp và nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP. Đây là biểu hiện rõ nét nhất về mặt lượng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Phần lớn các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là doanh nghiệp FDI sản xuất hàng công nghiệp chủ yếu để xuất khẩu. Năm 2010 vừa qua, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN đạt hơn 6 tỷ USD, gấp 1,5 lần so với năm 2005 và chiếm 23% trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước, riêng đối với giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu, chiếm 35% [35]. Tuy nhiên, nhận thức vai trò của các doanh nghiệp FDI trong KCN đối với xuất khẩu sẽ là thiếu sót nếu không kể tới vai trò của các doanh nghiệp trong nước, mặc dù đóng góp của các doanh nghiệp này vào kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé, nhưng
  19. - 18 - các doanh nghiệp đã góp phần tạo nguồn hàng để giải quyết nhu cầu thị trường trong nước, giảm bớt việc nhập khẩu hàng hoá để phục vụ sản xuất. Tóm lại, vai trò của các doanh nghiệp trong KCN kể cả trong và ngoài nước thể hiện ở chỗ, các doanh nghiệp góp phần cân đối cán cân thương mại theo hướng gia tăng xuất khẩu và giảm bớt nhập khẩu những mặt hàng trong nước có thể xuất khẩu được. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN đã đóng góp nhất định vào nguồn ngân sách Nhà nước. Năm 2005, các doanh nghiệp trong KCN nộp ngân sách hơn 650 triệu USD, gấp 3,6 lần so với năm 2001; năm 2010 nộp 1,4 tỷ USD gấp 2,2 lần so với năm 2005 [35]. 1.3- Các hình thức hỗ trợ Sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN, ngoài yếu tố nội lực là cơ bản nhưng còn phải cần đến sự hỗ trợ của Chính phủ, của Ban quản lý các KCN về các chương trình, chính sách nhằm giúp các doanh nghiệp phát triển. 1.3.1- Hỗ trợ từ Chính phủ Hình thức hỗ trợ từ Chính phủ chủ yếu thông qua các chính sách hỗ trợ. Có thể làm rõ hơn khái niệm chính sách hỗ trợ như sau: Một khái niệm đơn giản của Thomas R.Dye (1984), chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm. Theo James Anderson (2003), chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề. Còn William N.Dunn (1992) cho rằng chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan Nhà nước hay các quan chức Nhà nước đề ra. Trong khi đó, theo Peter Aucoin (1971), chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành3. Kraft và Furlong (2004) đã đưa ra một định nghĩa tổng hợp hơn. Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình3. Khi có một vấn đề kinh tế-xã hội nào đó xuất hiện, Chính quyền sẽ lựa chọn nội dung, mục tiêu và cách thức hỗ trợ, giải quyết vấn đề đó. Sự lựa chọn đưa đến quyết định 3 Vũ Ngọc Anh (2009), Những nét cơ bản về chính sách, [http://api.ning.com/files/EppRqlbpI6bAcpm8vB33Aa PX2YpGu06HRAcUfb9c1F0WqxZVKJTso5JOSwdR6daiKcdlAj3cfCI3IJ*KlDD30F1UnAiYxdVk/Nhngntcbnvchnhsch.doc]
  20. - 19 - và toàn bộ quy trình này được đặt trong một môi trường tương tác của các tác nhân chính sách, tạo ra hàng loạt các ràng buộc trước khi chính sách xuất hiện và các tác động sau đó. Tuy nhiên, hỗ trợ không có nghĩa là nhà nước bao cấp mà sự hỗ trợ này phải có mục tiêu, có điều kiện, có thời hạn… và đặc biệt là phải phù hợp với những cam kết song phương, đa phương khi nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nội dung của chính sách hỗ trợ thường bao gồm những nội dung về trợ giúp tài chính; chính sách về mặt bằng sản xuất; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; hỗ trợ xúc tiến mở rộng thị trường, cung cấp thông tin và tư vấn; trợ giúp về phát triển nguồn nhân lực; công tác quy hoạch KCN tạo quỹ đất và quy hoạch ngành nghề đầu tư. 1.3.2- Hỗ trợ từ Ban quản lý KCN tỉnh/thành phố: Sự hỗ trợ có thể từ phía Chính phủ bao gồm các chính sách phát triển kinh tế-xã hội chung của nhà nước; ngoài ra còn có từ phía địa phương cụ thể là Ban quản lý các KCN tỉnh/thành phố. Ban quản lý KCN tỉnh/thành phố dựa trên văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp trong KCN, định hướng công tác phát triển doanh nghiệp KCN. Tổng hợp xây dựng các chương trình hỗ trợ, điều phối và thực hiện các chương trình trợ giúp sau khi được duyệt; cụ thể hóa thành các dự án như phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ phù hợp, phát triển các dịch vụ hỗ trợ… Ban quản lý định kỳ tổ chức đối thoại giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh-thành phố với doanh nghiệp trong KCN hoặc gặp gỡ trực tiếp với doanh nghiệp nhằm trao đổi thông tin, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp KCN, xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoàn thiện. Ban quản lý hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh-thành phố và các Bộ về tình hình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và các vấn đề giải quyết cho doanh nghiệp. Phối hợp với các Sở, Ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức có liên quan để thực hiện hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong KCN theo quy định hiện hành.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0