Luận văn tốt nghiệp: Hoạt động PR tại công ty Bảo Việt Nhân thọ Sài Gòn: Chương I
lượt xem 170
download
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là một quỹ dự trữ tài chính dài hạn được đóng góp bởi số đông người nhằm chia sẻ rủi ro cho một số ít người. Quỹ dự trữ tài chính do công ty bảo hiểm nhân thọ quản lý với mục đích đầu tư sinh lợi và chi trả cho khách hàng khi hết hạn hợp đồng hay khi có những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Hoạt động PR tại công ty Bảo Việt Nhân thọ Sài Gòn: Chương I
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ QUAN HỆ CÔNG CHÚNG TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1 Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ 1.1.1 Sơ lược quá trình ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ 1.1.1.1 Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là một quỹ dự trữ tài chính dài hạn được đóng góp bởi số đông người nhằm chia sẻ rủi ro cho một số ít người. Quỹ dự trữ tài chính do công ty bảo hiểm nhân thọ quản lý với mục đích đầu tư sinh lợi và chi trả cho khách hàng khi hết hạn hợp đồng hay khi có những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Như vậy, BHNT có điểm khác biệt so với các hình thức bảo hiểm mà người dân Việt Nam vẫn quen thuộc. Đó là: Trong khi đa số các loại hình bảo hiểm khác( bảo hiểm xe trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ...) chỉ chi trả khi có rủi ro, thì riêng bảo hiểm nhân thọ chi trả cho khách hàng khi có rủi ro và ngay cả khi không có rủi ro xảy ra. 1.1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển bảo hiểm nhân thọ Thế giới BHNT xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại. Tại đây người ta đã lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của BHNT bị lãng quên. Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp. Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và thậm chí là bảo hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù). Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử là trường hợp của tập đoàn bảo hiểm nhân thọ Yogakshema, một Công ty trực - trang 1 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ thuộc tổng hội liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ. Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig Veda. Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào khoảng năm 1000 trước Công Nguyên, hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành và người Aryan khi đó cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này. Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ. Dịch vụ bảo hiểm ngày nay Sau Cách Mạng ánh sáng (Glorious Revolution) năm 1688, ở Châu Âu chỉ có Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của BHNT. Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ. Hình thức bảo hiểm mà chúng ta thấy ngày nay có nguồn gốc từ thế kỷ 17. Khi đó ở Anh từng có một nơi gọi là Lloyd’s of London, nơi mà về sau người ta biết tới với cái tên Nhà hàng Cà phê Lloyd’s (Lloyd’s Coffee House). Các thương nhân, chủ tàu và các nhà thầu bảo hiểm khi đó hay tụ tập ở nhà hàng này để bàn công chuyện làm ăn và tiến hành các hợp đồng buôn bán. Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ BHNT vẫn bị cuốn vào trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản Anh đang phát triển rất mạnh mẽ lúc bấy giờ. Khi đó nạn cá cược lan tràn khắp nơi. Thậm chí nếu đọc báo thấy tin có một nhân vật tiếng tăm nào đấy đang bị bệnh nặng sắp chết, người ta liền phỏng đoán ngày chết của nhân vật này, sau đó đổ về Nhà hàng Cà phê Lloyd’s để đặt cược cho ngày chết ấy. Để thể hiện sự phản đối đối với trò cá cược này, vào năm 1679 đã có 79 nhà thầu bảo hiểm quyết định ly khai ra khỏi Nhà hàng Cà phê Lloyd’s. Hai năm sau họ chung tay lập nên “Nhà hàng Cà phê Lloyd’s mới”, nơi được công chúng biết đến với cái tên “Lloyd’s chân chính”. Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ chức, tham gia cá cược trên ngày chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm dứt. Bảo hiểm có mặt tại Hoa Kỳ Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo - trang 2 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn BHNT đầu tiên của Hoa Kỳ. Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày 22/5/1761, tập đoàn này đã ký kết được hợp đồng BHNT đầu tiên với công chúng Mỹ. Mặc dầu vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là nhờ các Công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo. Việt Nam Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương…. Tới năm 1996, Bảo Việt đã chuyển đổi thành Tồng Công ty bảo hiểm Việt Nam bởi Bộ Tài Chính và được công nhận giấy phép hoạt động kinh doanh BHNT và phi nhân thọ. Đây thật sự đánh dấu sự ra đời của nghành BHNT ở Việt Nam. Không giống như các thị trường Châu Á khác, Bộ tài chính đã quyết định ra giấy phép kinh doanh BHNT mà không có bất kỳ một giới hạn nào đối với sở hữu nước ngoài hay các yêu cầu về đầu tư trong nước hay các công ty liên doanh. Giữa những năm 1999 và 2005, 6 công ty nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh BHNT tại Việt Nam. Đó là AIA (Mỹ), Prudential (Anh), Manulife (Canada), New York Life (Mỹ), ACE (Mỹ) và Prevoir (Pháp. Cùng với một công ty liên doanh giữa Việt Nam và Australia là Bảo Minh CMG cũng đã cấp giấy phép hoạt động. Và cho đến thời điểm hiện nay theo thống kê thì hiện nay nước ta đã có 11 công ty bảo hiểm nhân thọ. 1.1.2 Một số nguyên tắc trong bảo hiểm nhân thọ 1.1.2.1 Quy luật số đông - trang 3 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Theo quy luật này, nếu thực hiện việc nghiên cứu trên một lượng đủ lớn các trường hợp, người ta sẽ tính toán được xác suất tương đối chính xác khả năng xảy ra trong thực tế của một biến cố. Như vậy, nếu nghiên cứu số đông dân chúng, công ty bảo hiểm sẽ xác định được một cách tương đối chính xác số lượng người trong một độ tuổi cụ thể nào đó sẽ qua đời (tỷ lệ tử vong). Nếu lượng người nghiên cứu quá ít thì tỷ lệ tử vong xác định sẽ không chính xác. Quy luật số đông là cơ sở khoa học quan trọng của bảo hiểm, giúp các nhà bảo hiểm xác định xác suất của rủi ro nhận bảo hiểm, tính phí và quản lý các quỹ dự phòng chi trả, đồng thời là điều kiện để đạt được tác dụng phân tán rủi ro. 1.1.2.2 Quyền lợi có thể được bảo hiểm Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm( Điều 3-Luật kinh doanh bảo hiểm). Quyền lợi có thể được bảo hiểm tồn tại đối với những người có quan hệ vợ /chồng, cha/ mẹ - con, anh – chị/em, ông – bà/cháu...của người được bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm cũng có thể tồn tại trong quan hệ vay nợ. Khi đó bên cho vay có quyền lợi có thể bảo hiểm đối với cuộc sống của bên đi vay. Trong các quan hệ khác như: quan hệ chủ công ty – người lao động...thì quyền lợi có thể được bảo hiểm cũng có thể tồn tại hay không tùy thuộc vào quy định cụ thể của luật pháp và của từng loại bảo hiểm. 1.1.2.3 Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Là bổn phận khai báo đầy đủ và chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan, dù được yêu cầu hay không được yêu cầu khai báo. Theo nguyên tắc này, bên mua bảo hiểm phải khai báo đầy đủ, chính xác một số thông tin: tiền sử bệnh tật của người được bảo hiểm, hồ sơ sức khỏe của người thân trong gia đình... Thời gian khai báo: Thông thường, người yêu cầu bảo hiểm phải khai báo các yếu tố quan trọng - trang 4 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ khi có yêu cầu bảo hiểm. Việc khai báo phải hoàn thành trước khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết. Ngược lại, các công ty bảo hiểm đều phải công khai những thông tin liên quan đến phạm vi hoạt động, điều khoản và khả năng tài chính của đơn vị mình. Khi người được bảo hiểm cố tình không khai báo đầy đủ các yếu tố quan trọng thì được coi là vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối và hợp đồng bảo hiểm có thể bị hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ. 1.1.2.4 Nguyên tắc khoán Nguyên tắc khoán là nguyên tắc thường được áp dụng để giải quyết quyền lợi bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm con người nói chung và BHNT nói riêng. Theo nguyên tắc khoán, khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm, công ty bảo hiểm căn cứ vào số tiền bảo hiểm của hợp đồng đã ký kết và các quy định đã thỏa thuận trong quyền lợi bảo hiểm. Khoản tiền này không nhằm mục đích bồi thường thiệt hại mà chỉ mang tính chất thực hiện cam kết của hợp đồng theo mức khoán đã quy định. Hệ quả: + Khoản tiền mà công ty bảo hiểm trả không phải là để bồi thường thiệt hại, mà là thực hiện một cam kết để đổi lấy phí bảo hiểm. + Người được bảo hiểm cùng lúc có quyền được hưởng quyền lợi từ nhiều hợp đồng bảo hiểm con người khác nhau + Người được bảo hiểm có thể đồng thời nhận số tiền chi trả của công ty bảo hiểm và số tiền chi trả của bên gây ra thiệt hại đến sức khỏe của mình. 1.1.3 Vai trò của bảo hiểm nhân thọ 1.1.3.1 Đảm bảo an toàn về tài chính cho những người phụ thuộc Người trụ cột là chỗ dựa về tài chính cũng như tinh thần cho những người thân người phụ thuộc trong gia đình. Tham gia BHNT là cách để người trụ cột thể hiện trách nhiệm với người thân người phụ thuộc trong gia đình bởi vì BHNT : + Giúp đảm bảo khoản chi phí tài chính để khắc phục tổn thất khi người trụ cột gặp rủi ro. - trang 5 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ + Giúp duy trì mức sống ổn định cho gia đình sau khi người trụ cột gặp rủi ro 1.1.3.2 Quỹ tiết kiệm cho tương lai học vấn của con em Chăm lo cho tương lai học vấn của con trẻ là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Để thực hiện được mục tiêu đó các bậc cha mẹ phải chuẩn bị trước một khoản tài chính nhất định. Tham gia BHNT các bậc cha mẹ sẽ được tham gia vào một chương trình tài chính theo đó: + Tích lũy kỷ luật, dần dần để có một khoản tiền lớn chăm lo cho tương lai học vấn con cái + Giáo dục và thể hiện tình thương đối với con cái. 1.1.3.3 Tiết kiệm dài hạn cho những kế hoạch của cá nhân và gia đình BHNT giúp mỗi cá nhân và gia đình thực hiện những chương trình tiết kiệm dài hạn thuận tiện và có kỷ luật. Chỉ cần để dành những khoản tiền nhỏ đều đặn, bạn có thể thực hiện những kế hoạch cho tương lai như: + Lập gia đình + Mua nhà + Mua xe + Hay những mong muốn khác... 1.1.3.4 Hỗ trợ chi phí hậu sự hay để lại di sản thừa kế BHNT mang lại sự an tâm cho mỗi người, đảm bảo rằng khi đã có tuổi, khách hàng sẽ luôn có một khoản tiền để trang trải những chi phí thuốc men, lo hậu sự, hay để lại một di sản thừa kế cho con cháu. 1.1.3.5 Quỹ tiết kiệm cho hưu trí BHNT giúp đảm bảo vững chắc hơn nguồn tài chính khi về hưu, thanh thản an hưởng tuổi già bên con cháu: + Được tôn trọng và độc lập về tài chính + Thực hiện công việc kinh doanh nhỏ để có thêm thu nhập + Chi phí thuốc men, viện phí + Tham quan du lịch - trang 6 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ 1.1.3.6 Kênh đầu tư sinh lời Bên cạnh những sản phẩm bảo hiểm truyền thống, BHNT còn có loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư. Loại hình bảo hiểm này cho phép người tham gia bảo hiểm: + Đáp ứng nhu cầu đầu tư thu lợi nhuận cao + Tiếp cận với các danh mục đầu tư được đa dạng hóa + Tiếp cận với các dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp + Chủ động trong quyết định loại hình đầu tư 1.1.3.7 Đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp BHNT đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp: + Bảo hiểm cho những người chủ chốt của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp dảm bảo hoạt động kinh doanh liên tục nếu không may họ qua đời. + Bảo hiểm cho những người lao động nhằm bổ sung lợi ích và quyền lợi cho nhân viên, khuyến khích họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. 1.1.3.8 Góp phần phát triển kinh tế xã hội BHNT là một công cụ hữu hiệu để huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội nhằm đầu tư vào phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó góp phần: + Tạo công ăn việc làm cho người lao động. + Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng: Sân bay, đường xá, cảng biển... Ngoài ra, bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần tạo sự ổn định và phát triển bền vững cho xã hội với vai trò là một hình thức an sinh xã hội bổ sung. 1.1.4 Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ 1.1.4.1 Định nghĩa sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Xét trên góc độ những “thứ” cơ bản nhất mà khách hàng nhận được khi mua sản phẩm, thì sản phẩm bảo hiểm (SPBH) là sự cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Xét trên góc độ quản trị kinh doanh bảo hiểm thì có thể định nghĩa một cách - trang 7 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ đơn giản: SPBH là sản phẩm mà DNBH bán. Các DNBH được thành lập nhằm mục đích tiến hành kinh doanh sản phẩm bảo hiểm (tức bán SPBH) để thu lợi nhuận.Tùy theo lĩnh vực kinh doanh là bảo hiểm nhân thọ hay phi nhân thọ mà các DNBH sẽ bán SPBH thuộc các loại nghiệp vụ khác nhau. 1.1.4.2 Đặc điểm sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “không mong đợi” Điều này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần túy, mặc dù đã mua SPBH nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra với mình để doanh nghiệp bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Đặc điểm này làm cho việc khai thác sản phẩm bảo hiểm trở nên khó khăn hơn. Nói như vậy không có nghĩa là DNBH không thể triển khai kinh doanh bảo hiểm. Đơn giản là vì mặc dù các cá nhân, các tổ chức “không mong đợi” nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó nếu biết chọn đúng thời điểm tuyên truyền bảo hiểm thì việc khai thác sản phẩm sẽ vẫn thành công. Xuất phát từ đặc điểm này nên SPBH thường được xếp vào nhóm sản phẩm “được bán chứ không phải được mua”. Nói cách khác, SPBH là sản phẩm là sản phẩm của “nhu cầu thụ động”- người tiêu dùng không chủ động tìm mua, mà chỉ mua khi có nỗ lực marketing của người bán. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin thì việc bán bảo hiểm qua mạng đã được một số công ty áp dụng và chính điều này đã làm cho SPBH như các sản phẩm thông thường, người tiêu dùng đã tự đi tìm mua sản phẩm. Người tiêu dùng đã chủ động mua các sản phẩm này chứ không phải là sản phẩm của nhu cầu thụ động nữa. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của chu trình “chu trình hoạch toán ngược” Nếu như trong lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bảo hiểm, phí bảo hiểm – giá của SPBH được xác định dựa trên những số liệu ước tính về các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi bồi thường (trả tiền bảo hiểm), chi hoa hồng, chi tái bảo hiểm… - trang 8 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất là chi cho bồi thường. Các khoản chi này được xác định chủ yếu trên các số liệu thống kê trong quá khứ và ước tính trong tương lai về tần suất và qui mô tổn thất. Việc sử dụng số liệu thống kê trong quá khứ để xác định giá cả cho SPBH cho tương lai đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ nhằm giúp doanh nghiệp có thể bù đắp các chi phí có thể phát sinh để thu lợi nhuận hợp lý. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch” Các doanh nghiệp thu phí trước và chi trả các khoản bồi thường khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra cho nên nếu xác suất rủi ro lớn thì lợi nhuận của họ bị giảm đi và ngược lại. Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm khó mà xác đình được trong thời điểm hiện tại, tại thời điểm mà SPBH được bán. Về khách hàng việc mua các sản phẩm này cũng mang tính “xê dịch” – không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách hàng nào tham gia bảo hiểm cũng “được nhận” số tiền chi trả của DNBH, hay nói cách khác chỉ khi có các sự kiện xảy ra thì người ta mới thấy được “tác dụng” của bảo hiểm. Và chính vì tính “hiệu quả xê dịch” như vậy cho nên một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn có lãi chia để tăng thêm tính hấp dẫn. 1.1.4.3 Phân loại sản phẩm nhân thọ Bảo hiểm sinh kỳ Bảo hiểm sinh kỳ là loại hình BHNT được ký kết chỉ để bảo hiểm cho khả năng sống xảy ra khi hết một khoảng thời gian đã quy định cụ thể trong hợp đồng. Khi người được bảo hiểm sống hết khoảng thời gian đó, Công ty bảo hiểm sẻ trả Số tiền bảo hiểm cho Người được bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ Bảo hiểm tử kỳ là loại hình BHNT được ký kết chỉ để bảo hiểm cho khả năng chết xảy ra trong thời gian quy định cụ thể trong hợp đồng. Khi Người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, Công ty bảo hiểm sẽ trả Số tiền bảo hiểm. Bảo hiểm hỗn hợp - trang 9 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm kết hợp giữa tử kỳ và sinh kỳ, theo đó Công ty bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền đã đăng ký trong trường hợp Người được bảo hiểm còn sống đến khi hết hạn hợp đồng hoặc khi Người được bảo hiểm tử vong trong một khoảng thời gian hợp đồng còn hiệu lực. Bảo hiểm trọn đời Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT theo đó Công ty bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền đã đăng ký trong trường hợp Người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Bảo hiểm niên kim (trả tiền định kỳ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ là loại hình bảo hiểm theo đó công ty bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền cố định cho Người được bảo hiểm khi đến một độ tuổi nhất định. 1.1.4.4 Sự cần thiết của hoạt động PR trong việc kinh doanh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Tài chính, bảo hiểm là loại hình dịch vụ, sản phẩm tài chính, bảo hiểm là loại hàng hóa vô hình, nên ấn tượng và sự cảm nhận về chất lượng dịch vụ đối với khách hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Dịch vụ tài chính - bảo hiểm, hơn thế, luôn là một lĩnh vực nhạy cảm. Vì vậy bất cứ một động thái nào liên quan đến hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp (DN) cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của DN. Trong một thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp muốn đi trước, dẫn đầu phải nắm bắt nhanh nhu cầu của công chúng và có phản ứng kịp thời. Tức là không chỉ đơn thuần đưa ra sản phẩm, dịch vụ mà còn lưu tâm đến mức độ thỏa mãn của khách hàng, thông điệp phản hồi đối với nhà cung cấp. Hoạt động PR có tính hai chiều đó. Trước đây, một số đơn vị khối bảo hiểm phi nhân thọ cho rằng, sản phẩm của mình chủ yếu dành cho khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp… nên việc quảng bá, tuyên truyền không mấy quan trọng. Đó là quan niệm sai lầm. Người tiêu dùng cho dù là cá nhân hay tổ chức ngày càng có xu hướng quan tâm đến thương hiệu. Chính sự cạnh tranh về tính ưu việt của sản phẩm, - trang 10 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ chất lượng dịch vụ, giá trị thương hiệu mới thực sự có ý nghĩa lâu dài chứ không phải là cạnh tranh bằng hạ phí, tăng hoa hồng như một số DN vẫn đang làm. Hoạt động PR có tác động rất lớn đến niềm tin của các nhà đầu tư, đối tác, khách hàng… Việc xây dựng lòng tin của công chúng đối với thương hiệu luôn có vai trò hết sức quan trọng. DN cần đến công cụ PR để xây dựng sự thông hiểu, tạo niềm tin lâu bền và rộng khắp trong mọi đối tượng công chúng. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, những thông tin này sẽ nhanh chóng đến với độc giả dưới một góc nhìn khách quan qua lăng kính của các nhà báo, giúp trấn an nhà đầu tư, làm yên lòng đối tác. Ai cũng biết Heineken, Coca cola, Honda… là những ví dụ điển hình cho những thương hiệu mạnh biết tạo dựng những chiến lược PR bài bản và hiệu quả. So với quảng cáo, chi phí cho PR thấp hơn nhiều lần nhưng lại có hiệu quả đáng kể do tính trung thực, khách quan và truyền miệng đặc trưng của hoạt động này. PR cung cấp thông tin, giáo dục và tạo sự hiểu biết, có tầm bao quát lớn và tạo được sự tin cậy hơn. Như vậy, PR không chỉ đơn thuần là các hoạt động tiếp xúc với báo chí. PR giúp doanh nghiệp thiết lập và duy trì tốt mối quan hệ với giới truyền thông, chính phủ cũng như đối tác, khách hàng và cả nhân viên…Những hoạt động PR đã giúp khách hàng cảm nhận một cách rõ ràng về tiềm năng, chất lượng sản phẩm dịch vụ của công ty bảo hiểm. 1.2 Tổng quan về quan hệ công chúng (Public Relations) 1.2.1 Khái niệm Quan hệ với công chúng là các hoạt động truyền thông gián tiếp của doanh nghiệp nhằm gây thiện cảm của công chúng với DN và sản phẩm của nó. Quan hệ với công chúng giúp cho công ty xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với công chúng, ảnh hưởng tích cực đến thái độ của các nhóm công chúng khác nhau đối với công ty. Các nhóm công chúng khác nhau có thể là: Khách hàng hiện tại, khách - trang 11 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ hàng tương lai, các cổ đông, cán bộ công nhân viên, tổ chức công đoàn, cộng đồng địa phương, chính quyền, các nhà cung cấp (ngân hàng, các nhà đầu tư...), các phương tiện thông tin đại chúng báo chí, đài phát thanh, truyền hình…), những người hướng dẫn dư luận (các nhóm áp lực, các chính khách…) 1.2.2 Ưu điểm nổi bật PR + Mang tính khách quan hơn quảng cáo nên dễ đi vào lòng người. + Lượng thông tin cao hơn, chi tiết hơn + Chi phí cho PR cũng thấp hơn quảng cáo và khuyến mại. Tuy nhiên, công ty khó kiểm soát được các hoạt động tuyên truyền của mình. Công ty bảo hiểm cung cấp thông tin không thể đảm bảo thông tin chắc chắn được cung cấp trên báo vì nếu các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng thông tin mà công ty bảo hiểm đưa ra không hữu ích, họ sẽ không đưa ra những thông tin đó lên báo. Những thông tin tiêu cực cũng có thể phát sinh bất cứ thời điểm nào và do đó công ty bảo hiểm phải có các biện pháp dần khôi phục hình ảnh của mình. 1.2.3 Mục tiêu của quan hệ công chúng (PR) Những mục tiêu của PR đều hướng theo hình ảnh của sản phẩm, công ty hay ngành, cụ thể như: + Đạt được những vị trí và thời điểm tốt trên các phương tiện cho các thông cáo báo chí và diễn giả của công ty. + Truyền thông những báo cáo về thành quả hoạt động của công ty. + Đạt được vị trí cần thiết cho công ty khi nổ ra những cuộc tranh luận, bút chiến. + Kết hợp hoạt động xã hội với quảng cáo. + Giành nhiều phương tiện tường thuật hơn cạnh tranh. + Giữ vững tình cảm của công chúng. + Vươn tới nhiều nhóm phương tiện. + Xây dựng thiện cảm của công chúng với sản phẩm, công ty và với ngành. 1.2.4 Các hoạt động PR các công ty bảo hiểm nhân thọ + Tài trợ cho các cuộc thi học thuật và các hoạt động thể thao như: “ Prudential - - trang 12 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Văn hay chữ tốt” (Prudential) và “Mơ ước của tôi” (Bảo Việt nhân thọ);“Giải bóng đá U21” (AIG life); Đoàn thể thao Việt Nam tham dự Thế vận hội Olympic Bắc Kinh (Manulife)… + Tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện: tài trợ học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo học giỏi; tài trợ xây nhà tình nghĩa các hộ gia đình nghèo; tặng quà cho các nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ và đồng bào bị lũ lụt; tặng quà tết cho trẻ em nghèo, khyết tật; tài trợ cho chương trình phẫu thuật từ thiện; tham gia chạy bộ để gây quỹ từ thiện… + Quan hệ thân thiện với báo chí. + Mời các phóng viên báo chí, truyền hình về công ty tìm hiểu và viết bài về công ty cũng như các sản phẩm bảo hiểm của công ty nhân các sự kiện quan trọng của công ty như ngày khai trương, kỷ niệm... + Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao và đưa tin lên báo chí. Tổ chức các sự kiện. + Họp báo công bố về một sự kiện quan trọng nào đó của công ty; triển khai một dịch vụ mới; khánh thành một chi nhánh mới; triển khai hệ thống nhận diện thương hiệu mới... + Thường xuyên đưa tin lên các báo về hoạt động của công ty + Vận động hành lang các chính khách để nhận sự ủng hộ có lợi đối với công ty.( Vận động hành lang: là công việc vận động các cơ quan lập pháp, quản lý nhà nước, các nhà chính trị để thúc đẩy hoặc hạn chế một số qui định hay đạo luật.) 1.2.5 Một số công cụ chủ yếu của quan hệ công chúng + Xuất bản phẩm: bao gồm các tư liệu như báo cáo hằng năm, những cuốn sách nhỏ, những bài báo, những tư liệu nghe nhìn, bản tin của công ty bảo hiểm và các tạp chí. + Tổ chức sự kiện: Tổ chức các buổi lễ khai trương, động thổ, khánh thành, kỷ niệm... + Tài trợ: tài trợ từ thiện (học bổng, cứu trợ), tài trợ thương mại (chương trình thể - trang 13 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ thao... gắn với tên sản phẩm hay công ty bảo hiểm) + Tin tức: đây là các tin tức về công ty bảo hiểm, sản phẩm và con người của công ty bảo hiểm đó. + Bài nói chuyện: giám đốc công ty bảo hiểm có thể trình bày về tình hình hoạt động doanh nghiệp và trả lời thắc mắc của các khách hàng trong các cuộc hội nghị. + Hoạt động công ích: các công ty bảo hiểm có thể nâng cao uy tín của mình bằng cách đóng góp tiền bạc và thời gian cho những sự nghiệp công ích một cách thích đáng. + Phương tiện nhận dạng: đó là những phương tiện dùng trong kinh doanh như logo, bảng hiệu, áo quần đồng phục, văn phòng phẩm... 1.2.6 Xác định ngân sách dành cho hoạt động PR Thông thường có 4 phương pháp xác định ngân sách cho hoạt động PR của công ty: Phương pháp tỷ lệ theo của doanh thu Phương pháp tỷ lệ doanh thu là phương pháp xác định ngân sách khuếch trương tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên doanh thu quá khứ hay doanh thu kế hoạch. Các công ty bảo hiểm thường xác định bằng tỷ lệ % trên phí năm thứ nhất. Phương pháp này có ưu điểm là dễ sử dụng và tính toán đơn giản. Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là giả định có sự liên quan trực tiếp giữa hoạt động khuếch trương và doanh thu bán hàng. Trong thực tế, việc thay đổi mức phí, mục tiêu lợi nhuận, chi phí khuếch trương hoặc môi trường marketing có thể làm mối quan hệ giữa chi phí khuếch trương và doanh thu bán hàng thay đổi theo thời gian. Hơn thế nữa, phương pháp này có thể gây ra những quyết định chỉ tiêu sai lầm. Ví dụ, trong thời kỳ giảm sút doanh thu, nếu áp dụng tỷ lệ (%) doanh thu thì chi phí hoạt động khuếch trương năm sau rất thấp. Tuy nhiên, để tăng doanh thu bán hàng, vượt qua thời kỳ khủng hoảng thì chi phí hoạt động khuếch trương phải tăng lên chứ không phải giảm đi. Phương pháp dự trù ngân sách cạnh tranh Đây là phương pháp dự trù ngân sách dựa trên ngân sách dành cho hoạt - trang 14 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Đây là phương pháp lập ngân sách khuếch trương đơn giản, nhưng cũng có các hạn chế nhất định. Ngoài những hạn chế giống như phương pháp tỷ lệ trên doanh thu, phương pháp này có những hạn chế sau: Thứ nhất, công ty đã coi như đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng tới hầu hết hoạt động của mình. Việc đơn thuần dựa vào kế hoạch chi phí của đối thủ không thể hiện được mục tiêu marketing riêng biệt, cơ hội và thách thức của Công ty. Thứ hai, các hoạt động marketing của Công ty khác với đối thủ, do vậy chi phí cũng phải khác, không giống nhau được. Thứ ba, thiếu quan tâm đến các điều kiện hiện tại và tương lai vì phương pháp này chỉ dựa vào chi phí của đối thủ. Những thay đổi đột biến trong chính sách khuếch trương của đối thủ có thể ảnh hưởng đến ngân sách chi tiêu và doanh thu bán hàng. Thứ tư, khó xác định các khoản mục chi tiêu vì rất khó xác định được đối thủ chi tiêu cụ thể vào các khoản mục gì. Phương pháp mục tiêu và nhiệm vụ Phương pháp này được coi là phương pháp hữu hiệu nhất để xây dựng ngân sách cho hoạt động khuếch trương. Phương pháp mục tiêu và nhiệm vụ được xây dựng trên cơ sở xác định các mục tiêu và chi phí để thực hiện các mục tiêu đó. Phương pháp này đòi hỏi công ty phải xác định được các mục tiêu cụ thể cần đạt được thông qua hoạt động khuếch trương, xác định các hoạt động và chi phí cần thiết để đạt được mục tiêu, xác định ngân sách khi đã tính toán được chi phí. Bởi vì phương pháp này đòi hỏi công ty phải xác định các hoạt động khuếch trương cụ thể để thực hiện các mục tiêu, quá trình lập ngân sách thường bắt đầu sau khi chiến lược khuếch trương được xây dựng. - trang 15 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ Phương pháp này có ưu điểm là xác định mục đích và thực hiện các mục đích này đòi hỏi thời gian và nguồn lực. Nếu như thời gian và nguồn lực quá lớn có thể do mục tiêu quá tham vọng và cần điều chỉnh lại. Nếu mục tiêu thực sự đáng giá, công ty cần phải bổ sung thời gian và nguồn lực để thực hiện mục tiêu. Hạn chế của phương pháp này là rất phức tạp, nhất là khi sử dụng phương pháp này để xác định ngân sách khuếch trương cho cả năm cho toàn bộ công ty hoặc nhóm sản phẩm. Phương pháp khả thi về tài chính Đây là phương pháp xác định ngân sách dựa vào khả năng nguồn vốn của công ty bảo hiểm. Nếu như công ty kinh doanh tốt, chi phí hoạt động khuếch trương sẽ nhiều, nếu công ty hoạt động không tốt, chi phí hoạt động khuếch trương sẽ ít đi. Giống như phương pháp đã đề cập trên, phương pháp khả thi về tài chính dễ sử dụng. Tuy nhiên, công ty sử dụng phương pháp này sẽ gánh chịu rủi ro trong trường hợp phải chi số tiền nhiều hơn mức cần thiết hoặc mất đi cơ hội marketing nếu như bỏ ra quá ít tiền. Kết luận chương I Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì hoạt động bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng cũng góp phần không nhỏ vào nền kinh tế quốc gia. BHNT không chỉ thiết yếu đối với các cá nhân mà còn là công cụ quan trọng để bảo vệ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam là thị trường tiềm năng và hiện nay ngày càng có nhiều người nhận thức hơn về tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ. Bảo vệ gia đình, người thân của bạn không bao giờ là một việc cần phải cân nhắc kỹ hay trì hoãn. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống chúng ta và có thể cho bất cứ ai. Ở các nước phát triển việc tham gia BHNT ăn sâu vào ý thức của người dân. Cho nên việc tham gia BHNT ngoài các giá trị thiết thực về tài chính còn có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng về mặt tinh thần. Chính vì vậy, ở một - trang 16 -
- Chương I: Tổng quan lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và PR trong bảo hiểm nhân thọ số nước người ta gọi BHNT là "peace of mind"- với ý nghĩa là BHNT mang đến sự "bình yên cho tâm hồn". Trong một thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các DNBH muốn đi trước, dẫn đầu phải nắm bắt nhanh nhu cầu của công chúng và có phản ứng kịp thời. Tức là không chỉ đơn thuần đưa ra sản phẩm, dịch vụ mà còn lưu tâm đến mức độ thỏa mãn của khách hàng, thông điệp phản hồi đối với nhà cung cấp. Hoạt động PR có tác động rất lớn đến niềm tin của các nhà đầu tư, đối tác, khách hàng… Việc xây dựng lòng tin của công chúng đối với thương hiệu luôn có vai trò hết sức quan trọng. Doanh nghiệp cần đến công cụ PR để xây dựng sự thông hiểu, tạo niềm tin lâu bền và rộng khắp trong mọi đối tượng công chúng. - trang 17 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn “ Kế toán xác định kết quả kinh doanh”
0 p | 1436 | 724
-
HƯỚNG DẪN VIẾT CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
21 p | 1723 | 418
-
Đề tài: Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Ba Đình
94 p | 295 | 114
-
Đề cương tốt nghiệp "nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng"
11 p | 288 | 84
-
Đề tài: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại (nghiên cứu tại ngân hàng TMCP Quân đội)
75 p | 216 | 77
-
Đề tài: Hoạt động cho vay trả góp mua ô tô tại chi nhánh VPBank Hoàn Kiếm
71 p | 171 | 54
-
Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHNO&PTNT chi nhánh Hoàng Mai
94 p | 144 | 48
-
Chương 2: Kế toán vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ở đơn vị hành chính sự nghiệp.
23 p | 585 | 46
-
Đề tài: Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái
0 p | 135 | 36
-
Đề tài: Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long )
81 p | 111 | 27
-
Đề tài: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
42 p | 123 | 27
-
Khoá luận tốt nghiệp: Phân tích hoạt động tín dụng khách hàng cá nhân tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam - Techcombank
86 p | 128 | 12
-
Đề tài: Một số giảI pháp khắc phục những yếu kém về hoạt động tàI chính cho công ty TNHH Hợp Hưng
62 p | 73 | 11
-
Khoá luận tốt nghiệp: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Techcombank - PGD 3/2
89 p | 52 | 9
-
Khoá luận tốt nghiệp: Phân tích hoạt động tín dụng khối khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng(VPBank) – chi nhánh Gia Định
64 p | 75 | 9
-
Khoá luận tốt nghiệp: Phân tích chất lượng hoạt động tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Agribank chi nhánh Bình Tân
99 p | 39 | 4
-
Khoá luận tốt nghiệp: Rủi ro tín dụng tại VPBank – chi nhánh Lê Văn Việt
66 p | 65 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn