TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG --------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài : Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Học sinh thực hiện: Lê Thuỳ Giáng Hương. Lớp A1 Chuyên nghành 9 Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Kim Oanh
Hà Nội - 2003
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU....................8 I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu......................................................................8
MỤC LỤC
1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu...............................................................8
2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu..............................................................8
II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu.......................................................................9
1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu
đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước.........................................................10
2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp.......................................................................................... 11
III. Kinh nghiệm về trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với
Việt Nam.....................................................................................................
........12
1. Các hình thức trợ xuất khẩu cấp chủ yếu các nước đã áp dụng................12
a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật bản...............................................................12
b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc.............................................................12
c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan...............................................................14
d. Trợ cấp xuất khẩu của Philippin...............................................................15
1
2. Những gợi ý đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập.......................17
I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm gần đây ...21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam................................................25
1. Một số thành tựu đã đạt được......................................................................26
1.1. Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003...................................................26
1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu...............................................................34
1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.......35
1.4. Về chi phí giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp.................................35
1.5. Điều chỉnh một số quy định về GTGT.....................................................36
1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu.....................36
1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ..............36
2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam ...........................39
I. Cơ sở đề ra giải pháp...................................................................................46
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1. Những thuận lợi và khó khăn......................................................................46
2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.. ....50
3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu.............................................52
2
II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở Việt
nam..................................................................................................................54
1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô...........................................................................54
2. Các giải pháp ở tầm vi mô..........................................................................59
70
KẾT LUẬN Danh mục tài liệu tham khảo
3
72
DANH MỤC VIẾT TẮT
Thuế chống trợ cấp (thuế đối kháng)
CVD
Bộ Thương mại Hoa kỳ
DOC
Uỷ ban châu Âu
EC
Liên minh châu Âu
EU
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ
GATS
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
GATT
Quỹ Tiền tệ quốc tế
IMF
Uỷ ban Thương mại quốc tế của Hoa kỳ
ITC
MOFTEC
Bộ Ngoại Thương và Hợp tác kinh tế Trung quốc
Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế
OECD
SCM
Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO
SETC
Uỷ ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước Trung quốc
Ngân hàng Thế giới
WB
Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO
4
LỜI NÓI ĐẦU ******************
Lịch sử phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với sự hình thành và
phát triển của hoạt động xuất khẩu. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển
sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực,
Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để làm động lực
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đẩy mạnh xuất
khẩu, Nhà nước phải có những biện pháp chính sách khuyến khích ở mức cao
nhất các ngành sản xuất cho xuất khẩu, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình
xuất khẩu và quốc tế hoá nhằm phát huy mọi tiềm năng và nội lực của đất nước,
đồng thời khai thác tối đa sự hỗ trợ và hợp tác của cộng đồng quốc tế. Trợ cấp
xuất khẩu trở thành một công cụ vô cùng quan trọng trong việc thực hiện các mục
tiêu này.
Trợ cấp xuất khẩu càng trở nên cần thiết khi nhịp độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam năm 1998 lần đầu tiên từ năm 1990 trở lại đây có dấu hiệu chững
lại chỉ đạt mức chưa đầy 6% còn tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt mức 1,9% là mức
thấp nhất kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế và thậm chí
vào quý I năm 1999, xuất khẩu còn giảm...Tuy xuất khẩu đã phục hồi tương đối
mạnh mẽ thời gian từ quý II/1999 đến nay, nhưng chúng ta chưa tạo ra được một
nền tảng chắc chắn để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Sự chững lại
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu một số sản phẩm chính của Việt nam như dệt may,
giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ...năm 2001 chứng tỏ điều này. Như vậy, yêu
cầu thực tế đặt ra là chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới
phải đảm bảo sự tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững.
5
Trong thời gian ngắn đến tham khảo tài liệu và học hỏi tại Viện nghiên cứu
thương mại - Bộ thương mại, tác giả nhận thấy trợ cấp xuất khẩu là việc hết sức
quan trọng trong mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu còn non nớt trên thương trường quốc tế, thiếu kinh nghiệm,
thiếu điều kiện tài chính khi hội nhập quốc tế.
Với những gì đã học hỏi được từ Bộ thương mại cùng vốn kiến thức được
trang bị trong 4 năm học taị trường, tác giả đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề
tài :
Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập
Mục đích ngiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trợ cấp xuất khẩu của
Việt nam trong điều kiện hội nhập.
- Phân tích những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp
để nâng cao hiệu quả của trợ cấp xuất khẩu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số chính sách trợ cấp xuất khẩu trên
phương diện lý luận và thực tiễn trong thời kỳ nước ta thực hiện đường lối đổi
mới chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu ủa trợ cấp xuất khẩu trong điều kiện hội
nhập.
Phương pháp nghiên cứu:
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh ,
khái quát hoá và tổng hợp để nghiên cứu.
- Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có
điều kiện tương đồng với Việt nam để giải quyết các vấn đề nêu ra trong đề tài.
Kết cấu, nội dung của đề tài:
6
Đề tài "Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập" được
trình bày theo kết cấu sau:
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Cơ sở lý luận của trợ cấp xuất khẩu
Chương II: Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam và thách thức khi
gia nhập tổ chức thương mại thế giới
ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở
Việt nam trong điều kiện hội nhập
Kết luận
7
Danh mục tài liệu tham khảo
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU
I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu
1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng cho
hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh
xuất khẩu. Do đó, căn cứ để trợ cấp thông thường là lượng hàng hóa xuất khẩu
thực sự hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của Chính
phủ theo đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu
được. Tuy nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xuất khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ cấp xuất
khẩu mà còn cần xem xét đến một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ
quả là hàng xuất khẩu được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên
thị trường nội địa của nước xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác,
hàng hoá được trợ cấp phải là hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp được trợ cấp phải là doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt ưu tiên các
đơn vị sản xuất hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ và những hàng hoá Việt Nam
có ưu thế so sánh . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu về lý thuyết chung của Việt nam
- Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch,
hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả
chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu.
- Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất
khẩu, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng
8
xuất khẩu.
- Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất
khẩu.
- Đối với thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lơn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn,
thưởng xuất khẩu.
- Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch,
hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.
- Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo
kim ngạch xuất khẩu.
- Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo
tỷ lệ nội địa hoá.
- Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư,
thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng.
- Tàu biển 11.500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 CV, máy thu hình màu,
máy vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền thuê đất
- Sản phẩm phần mềm: Ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế
nhập khẩu nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất
- Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Sản phẩm dệt may: Vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của
Chính phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương
mại
9
- Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu
- Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để
mua hàng hoá phụcvụ sản xuất xuất khẩu.
II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu
1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu của đất nước.
Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh
nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế-xã hội
nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay
ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của
nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Quyết định trợ cấp của
chính phủ thường được đưa ra nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng nhất định
có vai trò chi phối và ảnh hưởng chính trị lớn đối với chính phủ.
Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp
thông qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải
thiện và nâng cao.
Ví dụ ngành sản xuất bút bi của Việt Nam sản xuất mỗi chiếc bút với chi
phí là 1.000 đồng, trong khi bút bi nhập ngoại được bán tại Việt Nam với giá 900
đồng/ chiếc. Rõ ràng là bút bi ngoại có khả năng cạnh tranh cao hơn bút bi Việt
Nam. Giả sử chính phủ Việt Nam trợ cấp 200 đồng cho mỗi chiếc bút bi sản xuất
trong nước. Khi đó, giá bút bi Việt Nam bán ra có thể rẻ hơn trước kia tới 200
đồng/ chiếc, và thấp hơn giá bút bi nhập khẩu. Như vậy, nhờ có trợ cấp của chính
phủ, ngành sản xuất bút bi của Việt Nam có thể cạnh tranh với hàng nhập ngoại
và thậm chí có thể đẩy lùi bút bi nhập khẩu tại thị trường trong nước.
Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội
địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ
10
WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa.
Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô,
yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh
tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của
ngành. Đối với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi
phí rất cao trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi với những công ty “đàn anh”
đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những
khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển
ổn định.
Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất
nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành
cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản.
Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh
chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng
thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường
thương mại quốc tế tạo ra.
Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất
kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt
động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc
đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích xuất khẩu các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài.
2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh
nghiệp.
Các nước áp dụng trợ cấp xuất khẩu vì nhiều lý do. Có nước lập luận trợ cấp
xuất khẩu để đảm bảo công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó khăn, v.v... Tuy
11
nhiên, mọi lý do biện minh cho trợ cấp xuất khẩu xét cho cùng cũng đều hướng
tới mục tiêu thực sự là để đẩy mạnh xuất khẩu thông qua tác động trung gian là
cải thiện lợi thế cạnh tranh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, v.v... Trợ cấp
xuất khẩu có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức, từ thưởng theo kim ngạch
xuất khẩu đến cho vay với lãi suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu hay áp dụng thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi với ngành nghề xuất khẩu, v.v... Về lý
thuyết, nhờ có trợ cấp xuất khẩu, thị phần sản phẩm liên quan của nước xuất khẩu
trên thị trường thế giới có thể được mở rộng hơn mức hợp lý mà thực lực nước
xuất khẩu có thể tự mình giành được không có sự can thiệp của trợ cấp xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu làm cho hàng xuất khẩu sang nước khác (nước nhập khẩu)
có lợi thế cạnh tranh hơn. Nhờ có trợ cấp, hàng nước ngoài xuất sang thị trường
nước nhập khẩu sẽ tăng đáng kể về lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với lượng
sản xuất trong nước của nước nhập khẩu. Hoặc giá hàng hóa nhập khẩu được trợ
cấp có thể sụt mạnh so với giá sản phẩm tương tự do nước nhập khẩu sản xuất.
Hoặc nữa là hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp sẽ chèn ép giá sản phẩm
cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu hay ngăn cản không cho giá tăng trong
khi lẽ ra theo quy luật thị trường bình thường thì giá phải tăng.
Trợ cấp xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được
trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị
trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này.
Với lợi thế cạnh tranh nhờ trợ cấp hàng xuất khẩu của nước trợ cấp có thể
đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước khác và chiếm được thị phần
vượt mức hợp lý trong thương mại xuất khẩu thế giới.
III. Kinh nghiệm trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
1. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu các nước đã áp dụng
a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật Bản
12
Nhận thức rõ sự cấp thiết về việc thoả mãn nhu cầu ngoại tệ mạnh và sự
phát triển nền kinh tế độc lập sau thời kỳ chiến tranh nên Chính phủ Nhật Bản đã
thực thi các biện pháp trợ cấp xuất khẩu quốc gia sau:
- Hỗ trợ tài chính và thuế của Chính phủ cho xuất khẩu
Tháng 4/952 Ngân hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản được tổ chức trở lại
và trở thành một tổ chức tài chính của Chính phủ với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho
xuất khẩu của các tổ chức tài chính tư nhân. Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản
có thể tài trợ hoặc phối hợp với các ngân hàng tư nhân khác đồng tài trợ cho các
hoạt động liên quan đến xuất khẩu cần đến nguồn vốn đặc biệt mà khả năng tài
chính thông thường không tài trợ được. Các hoạt độngcủa ngân hàng xuất nhập
khẩu bao gồm: Hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu phương tiện vận tải, máy công
nghiệp; Chiết khẩu cho các tổ chức tài chính; Cho các chính phủ và công ty nước
ngoài vay tiền để nhập khẩu hàng của Nhật Bản...
Hệ thống giảm thuế thu nhập từ xuất khẩu dược xây dựng như một hệ
thống thuế hỗ trợ xuất khẩu, nhưng hệ thống này đã bị xoá bỏ khi Nhật Bản gia
nhập GATT năm 1964.
- Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản
Mục đích của bảo hiểm xuất khẩu là đảm bảo cho ự phát triển lành mạnh
của hoạt động xuất khẩu và các thương vụ khác với nước ngoài thông qua việc
bảo hiểm những rủi ro mà các bảo hiểm thông thường không thể bảo hiểm được.
Chính phủ Nhật bản trực tiếp bảo lãnh hệ thống bảo hiểm này và mở một
tài khoản đặc biệt cho hoạt động bảo hiểm xuất khẩu. Hệ thống bảo hiểm này
được thành lập năm 950 theo luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hiện nay bao gồm:
bảo hiểm xuất khẩu thông thường; bảo hiểm thay đổi giá xuất khẩu; bảo hiểm
thay đổi tỷ giá hối đoái; bảo hiểm thanh toán xuất khẩu; bảo hiểm vận chuyển
hàng hoá xuất khẩu và bảo hiểm quảng cáo ở nước ngoài.
13
- Hệ thống kiểm tra xuất khẩu
Hệ thống kiểm tra xuất khẩu đã đóng góp rất lớn vào việc cải thiện hình
ảnh và chất lượng hàng xuất khẩu Nhật Bản. Hệ thống kiểm tra xuất khẩu bao
gồm 37 cơ quan kiểm tra có thẩm quyền, tiến hành các hoạt động:
+ Kiểm tra chất lượng hoặc kiểm tra phần cơ bản của sản phẩm;
+ Kiểm tra đóng gói bao bì: kiểm tra các điều kiện bao gói để đảm bảo chất
lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển;
+ Kiểm tra nguyên liệu để chế tạo sản phẩm
+ Kiểm tra trong quá trình sản xuất để đảm bảo hoàn thiện quá trình kiểm
tra chất lượng thành phẩm xuất khẩu.
- Thành lập tổ chức thương mại Nhật Bản nhằm xúc tiến xuất khẩu bao
gồm các hoạt động:
+ Nghiên cứu thị trường;
+ Cung cấp thông tin thương mại;
+ Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế;
+ Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát
hành các ấn phẩm và các tờ rơi;
+Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ;
+ Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo
về thị trường nước ngoài;
b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc:
Sang đầu những năm 1960, việc Mỹ thực hiện cắt giảm các khoản viện trợ
đã buộc chính phủ Hàn Quốc phải tìm nguồn ngoại tệ khác để thay thế là lý do
14
quan trọng dẫn đến việc chính phủ Hàn Quốc chuyển chính sách thương mại từ
thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu.
Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng những biện pháp trợ cấp xuất khẩu sau:
- Về thuế: + Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu;
+ Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu;
+ Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị
để sản xuất hàng xuất khẩu.
- Về tài chính :
+ Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất
khẩu;
+ Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi ;
+ Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu;
+ Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu.
- Về mặt thể chế, tổ chức
+ Ban hành luật xúc tiến các nghành công nghiệp xuất khẩu, ví dụ như việc
ban hành luật xúc tiến nghành công nghiệp điện tử năm 1969;
+ Hình thành nên tổ chức thương mại và đầu tư Hàn Quốc năm 1962.
Do áp dụng các chính sách trợ cấp khuyến khích xuất khẩu nên tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu của Hàng Quốc hàng năm đạt 35% thời kỳ 1963-1969, chủ yếu
là do tăng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt
may, giày dép, dụng cụ thể thao, du lịch, da...trong thời kỳ 1962-1970, tỷ trọng
các sản phẩm này trong xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng từ 5% lên 69%.
c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan
Thái lan có một số chương trình trợ cấp cho mặt hàng gạo của mình
15
- Tín dụng giúp tạm trữ gạo: Đây là chương trình được Ngân hàng nông nghiệp
và hợp tác xã nông nghiệp (BAAC) cùng với hệ thống kho hàng hàng công
(PWO) thực hiện. Theo chương trình này, nếu gạo được trữ tại hệ thống kho của
nhà nước (PWO) thì có thể thế chấp để vay tín dụng ưu đãi. Mục tiêu của chương
trình này là nhằm giúp nông dân dự trữ gạo khi giá xuống thấp (thường là ngay
sau khi thu hoạch) và bán lại khi giá cao.
- Tín dụng giúp nông dân, nhà buôn gạo, cơ sở xay sát chế biến gạo nhằm bình
ổn giá gạo: Thái lan có nhiều chương trình thực hiện qua Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài
chính, Bộ Thương mại v.v... giúp đỡ nông dân và các nhà kinh doanh, chế biến
gạo để giúp ổn định giá gạo trong nước. Các chương trình này chủ yếu được thực
hiện thông qua vay ưu đãi với lãi suất thấp, có khi là 0%.
Nhờ kiên trì thực hiện chính sách tự do hoá thương mại và hỗ trợ xuất khẩu,
trong hơn 40 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan đã tăng từ 93 triệu
USD năm 1957 lên 62 tỷ USD năm 2000; tức là tăng gấp hơn 320 lần. Chính sự
phát triển xuất khẩu ngoạn mục này đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế năng
động của Thái Lan cho tới trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997.
Chính phủ Thái lan đã nhanh chóng thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu
Thái Lan nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau:
- Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu;
- Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc
bán các sản phẩm của Thái Lan ra thị trường Quốc tế;
- Cung cấp thông tin và dịch vụ thương mại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu Thái
Lan;
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ kỹ thuật cho các nhà xuất khẩu Thái Lan;
- Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các
16
sản phẩm của Thái Lan;
- Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Thái Lan gặp phải;
- Phối hợp với các tổ chức trong nước và Quốc tế để đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu
của Thái Lan;
- Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng;
- Xây dựng các trang Web thương mại;
- Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ
và giới kinh doanh tư nhân;
- Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm,
phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan;
- Thuê đội ngũ cán bộ giảng dạy là các chuyên gia giỏi cả ở trong nước và nước
ngoài tham gia các chương trình đào tạo;
- Phát triển sản phẩm xuất khẩu;
- Tổ chức các cuộc thi và trao phần thưởng, thiết kế mẫu mã , bao bì, đóng gói sản
phẩm;
- Tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm;
- Tiến hành các hoạt động tuyên truyền quảng cáo nhằm mục tiêu xuất khẩu.
Toàn bộ chi phí cho những hoạt động trên đều do Ngân sách của nhà nước.
d. Trợ cấp xuất khẩu ở Philippin
Trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động hiện nay, xuất khẩu
của Philippin vẫn đạt được mức tăng trưởng khá cao và ổn định nhờ có một chính
sách trợ cấp xuất khẩu năng động và hiệu quả.
Chính phủ Philippin xây dựng cơ sở pháp lý mới ưu tiên phát triển xuất
khẩu: - Đạo luật phát triển xuất khẩu được ban hành năm 1994 quy định việc xây
17
dựng kế hoạch chiến lược phát triển xuất khẩu phải do Chính phủ đảm nhận với
sụ tham gia của các cơ quan hữu quan của chính phủ. Các chính sách kinh tế vĩ
mô được triển khai để hỗ trợ cho các nỗ lực xuất khẩu của đát nước;
- Chính thức coi phát triển xuất khẩu là một bộ phận cấu thành của chiến lược
phát triển kinh tế quốc gia.
2. Những gợi ý đối với Việt Nam
- Nhà nước nên quy định chế độ thưởng cao về kim ngạch xuất khẩu cho những
doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng nông sản như: gạo, lạc nhân, cà phê, rau,
hoa quả...và các hàng thủ công mỹ nghệ.
- Về chính sách thuế:
+ Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu;
+ Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu;
+ Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị để sản
xuất hàng xuất khẩu.
- Về tài chính :
+ Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu;
+ Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi.
- Thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau:
a. Chức năng : Xúc tiến xuất khẩu nhằm vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu
của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Để đạt được những mục tiêu xuất khẩu cụ
thể cho thời kỳ 2001 -2010 đòi hỏi những nỗ lực vựơt bậc trong công tác xúc tiến
xuất khẩu của cả Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại vàcác doanh nghiệp.
Như vậy, nếu như xuất khẩu giữ vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh
tế của đat nước thì xúc tiến xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu và có tác động
18
quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế nước
nhà.
b. Yêu cầu và nhiệm vụ: Xúc tiến xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động mới
mẻ ở Việt nam. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án "Hỗ trợ xúc tiến thương
mại và xuất khẩu" ở Việt Nam do các chuyên gia Trung tâm thương mại quốc tế
thực hiện thời gian 1998-1999 đã nêu ra những hạn chế về nhận thức, hiểu biết và
năng lực thực hiện yếu của các cơ quan chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại
và các doanh nghiệp Việt nam trong lĩnh vực liên quan tới hoạt động xúc tiến
thương mại vànhững yêu cầu bức xúc phải tăng cường các mối liên hệ giữa cộng
đồng kinh doanh, các tổ chức thương mại nhà nước và tư nhân với các cơ uan
chính phủ để thực hiện phát triển thương mại và xúc tiến xuất khẩu trong điều
kiện môi trường kinh doanh quốc tế mới. Báo cáo cũng nêu rõ những yếu kém của
các cơ quan của chính phủ trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp về các vấn đề như chính sách thuận lợi hoá thương mại, các dịch vụ hỗ trợ,
phát triển nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác...Từ những thực tế này yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ phải là:
+ Nâng cao nhận thức và hiểu biếtvề hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong
môi trường kinh doanh quốc tế toàn cầu hoá;
+ Tăng cường năng lực xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược
xuất khẩu quốc gia cũng như các chiến lược xuất khẩu ngành;
+ Xây dựng mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiện đại, đảm bảo
thông tin thông suốt cho mọi đói tác liên quan;
+ Xây dựng năng lực thể chế và tăng cường năng lực chuyên môn về xúc
tiến xuất khẩu;
+ Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động thương mại và xúc tiến xuất
khẩu;
19
+ Nghiên cứu thị trường;
+ Cung cấp thông tin thương mại;
+ Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế;
+ Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát
hành các ấn phẩm và các tờ rơi;
+Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ;
+ Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo
về thị trường nước ngoài;
+ Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu;
- Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu;
- Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc
bán các sản phẩm của Việt nam ra thị trường Quốc tế;
- Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các
sản phẩm của Việt Nam;
- Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Việt nam gặp phải;
- Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng;
- Xây dựng các trang Web thương mại;
- Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ
và giới kinh doanh tư nhân;
- Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm,
20
phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan.
21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN KHI GIA NHẬP WTO
I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần
đây
Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất nhập
khẩu đã góp phần xứng đáng của mình vào những thành tựu to lớn và rất quan
trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung
và trong 10 năm qua nói riêng.
Những nhiệm vụ đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội
1991-2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được hoàn thành về cơ bản. Điều đó
thể hiện trước hết trong việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Giai đoạn 1991 - 2000 đi vào lịch sử gắn với thành tựu lớn về tăng kim
ngạch xuất khẩu, đóng góp phần xứng đáng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
suốt thời kỳ này. Từ 1991 đến nay, bình quân tăng 2,5 - 3% xuất khẩu góp phần
làm tăng 1% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm ở mức cao,
kim ngạch năm 1998 gấp khoảng 4,5 lần kim ngạch năm 1991, giai đoạn 1991 -
1995 tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm tới 28%, năm 1996 đạt kỷ lục
33,1% và năm 1997 - 22,7%, song năm 1998 chỉ tăng 1,9% - mức tăng thấp nhất
trong vòng 7 năm trở lại đây, chủ yếu do tác động của khủng hoảng tài chính -
tiền tệ Châu Á. Năm 1999 và 2000, Chính phủ đã áp dụng hàng loạt giải pháp
kích cầu đầu tư và tiêu dùng, nhờ vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được phục
hồi. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 23,3%, năm 2000 tăng 21,3%, đạt 14,3
tỷ USD, gấp 6 lần so với năm 1990. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000, kim ngạch
xuất khẩu tăng gần 21%/năm, gần gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim
ngạch xuất khẩu trên đầu người tăng từ 30 USD năm 1991 lên 74 USD năm 1995
22
và tới 180 USD năm 2000, đưa Việt Nam vào đội ngũ những nước có nền ngoại
thương tương đối phát triển (kim ngạch xuất khẩu 170 USD/người/năm).
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nói riêng, tổng kim ngạch XNK nói chung so
GDP tăng nhanh chứng tỏ mức độ mở cửa khá mạnh của nước ta. Năm 1998, tỷ lệ
xuất khẩu trên GDP đã đạt 36% - mức trung bình trên thế giới, năm 2000 tỷ lệ này
đạt trên 45%GDP; Tỷ lệ ngoại thương của Việt Nam so với GDP tăng mạnh
(bằng mức của Hàn Quốc) nhưng còn kém xa Singapore và Hongkong, song có
thể thấy nền kinh tế định hướng xuất khẩu đã tương đối rõ. Năm 1998, tổng kim
ngạch XNK đạt tới trên 3/4 GDP, năm 1999 đạt trên 80% GDP và năm 2000 đạt
trên 90%GDP. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu tuyệt đối còn thấp (năm 2000
khoảng 29 tỷ USD) do qui mô nền kinh tế còn quá nhỏ bé. Nếu so với các nước
trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu của ta bằng 1/3 Philippines, 1/7 Indonesia và
Thái Lan, 1/10 Malaysia và bằng 1/16 của Singapore.
Bảng 1:Tổng kim ngạch XNK Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000
Kim ngạch XK Kim ngạch xuất Tổng kim Kim ngạch
so GDP (%) khẩu (USD/ ngạch XNK so xuất khẩu
người/năm) GDP (%) (tr.USD)
1991 2.087,1 29,5 13,9 30
1992 2.580,7 31,4 15,8 37
1993 2.985,2 39,2 17 42
1994 4.054,3 52 21,3 56
1995 5.448,9 64,8 26 74
1996 7.255,9 80 31,5 96
1997 9.185,0 80,6 35,6 116
1998 9.360,3 77,7 35,1 120
1999 11.540,0 81,1 40,3 150
23
2000 14.308,0 95,7 46,4 180
Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:
Tỷ trọng xuất khẩu lúa gạo và dầu thô giảm còn khoảng 30% năm 1996
(năm 1990 là 40%). Tỷ trọng hàng chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 20% năm
1996, khoảng 35% năm 1999 và gần 40% năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt
hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt
may thì năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng là cà phê, cao su, điều, giày dép than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quải (đến năm 2000, trong 12 nhóm hàng này có
4 nhóm - dầu thô, dệt may, hải sản, giày dép - có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ
USD). Tuy nhiên, rõ ràng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất bất hợp lý.
Theo một số tính toán cứ 6 USD kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 1
USD là hàng gia công. Xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu (trên 70% kim
ngạch xuất khẩu). Trong khi đó ở Trung Quốc năm 1994 xuất khẩu nguyên liệu
thô chỉ chiếm có 16,3%.
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 2000
199 199 199 199 199 199 1997 1998 1999 2000
1 2 3 4 5 6
Nhóm I(%) 33,4 37,1 34,0 28,8 25,3 27,6 24,1 24,0 24,6 25,0
Nhóm II 14,4 13,5 17,6 23.1 28,4 30,1 35,8 35,6 36,5 35,5
(%)
Nhóm III 52,2 49,4 48,4 48,1 46,3 42,3 40,1 39,4 38,9 39,5
(%)
- Nhóm I: Công nghiệp nặng - khoáng sản
24
- Nhóm II: Công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp
- Nhóm III: Nông lâm thuỷ sản
(Nguồn : Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)
Nhập khẩu cơ bản đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi
mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp
ứng các nhu cầu cần thiết của đời sống nhân dân. Nhập khẩu máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên - vật liệu phục vụ cho sản xuất chiếm vị trí chủ yếu, tỷ trọng hàng
tiêu dùng giảm hẳn, tình trạng nhập siêu lớn thuyên giảm đáng kể. Năm 2000, tư
liệu sản xuất chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26 - 27% là máy
móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5%
(tỷ lệ này năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối và tương đối.
Năm 1996 nhập siêu gần 4 tỷ nhưng năm 1999 thâm hụt thương mại chỉ còn 0,2
tỷ USD, tỷ trọng nhập siêu giảm từ 33% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 -
1995 xuống còn 18% thời kỳ 1996 - 2000.
Bảng 3:Cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000
HÀNG TIÊU DÙNG NĂM TƯ LIỆU SẢN
XUẤT (%)
(%)
1991 10,1 89,9
1992 16,6 83,4
1993 15,6 84,4
1994 17,8 82,2
1995 16,5 83,5
1996 12,4 87,6
25
1997 10,1 89,9
1998 91,5 8,5
1999 93,7 6,3
2000 94,8 5,2
(Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)
Hiện nay, nước ta đã mở rộng đáng kể thị trường, có quan hệ với trên 160
nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với trên 61 nước. Đồng thời, Việt
Nam đã bước đầu hội nhập với các thể chế kinh tế - thương mại khu vực và trên
thế giới với việc tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và xúc
tiến đàm phán để tham gia WTO.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2001, đạt được mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001
của Chính phủ, trong đó có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như hàng
dệt may (+39,3%), giầy dép (19,7%), hàng TCMN (+40%), sản phẩm gỗ (+30%),
cao su (+61,4%), hạt điều (+38%). Tốc độ tăng trưởng này không chỉ phản ánh sự
“bứt phá” trong những tháng cuối năm mà chính là kết quả của quá trình phấn đấu
bền bỉ trong cả năm 2002, thể hiện nỗ lực vượt bậc của tất cả các ngành, các cấp
và các doanh nghiệp.
Đáng chú ý là trong hoàn cảnh kinh tế, thương mại thế giới năm 2002 còn
khá trì trệ, sức mua vẫn yếu nhưng sức tiêu thụ nhìn chung vẫn được đảm bảo,
nhiều mặt hàng vẫn có lượng xuất khẩu tăng, trong đó có cả những mặt hàng nông
sản như lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Riêng gạo và cà phê lượng xuất
khẩu có giảm nhưng nguyên nhân là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động
của hạn hán, không phải do thiếu thị trường. Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển
dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ lực tăng từ 36,3% vào năm
26
2001 lên 39% vào năm 2002 nhờ sự tăng trưởng cao của các mặt hàng dệt may,
giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ. Về thị trường, nét nổi bật là xuất khẩu
sang Hoa kỳ tăng nhanh, nhất là đối với mặt hàng dệt may. Kết quả này một mặt
khẳng định ý nghĩa công tác đàm phán mở cửa thị trường, mặt khác cho thấy sự
năng động và nhanh nhạy của các doanh nghiệp đối với việc tiếp cận thị trường
mới.
II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam
1. Một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua
Để phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xuất khẩu năm 2003, ngay từ
đầu năm Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có sự chỉ đạo rất sâu sát và quyết
liệt. Trên cơ sở kiến nghị của Bộ Thương mại, ngày 20/01/2003 Chính phủ đã có
văn bản số 78/CP-KTTH về các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu năm 2003. Trong
hai ngày 20-21/02/2003 Bộ thương mại đã tổ chức hội nghị thương mại toàn quốc
2003 để bàn các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa góp
phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2003. Sau đây là một số giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu năm 2003:
1.1- Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003:
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sau khi trao đổi với các Bộ,
ngành hữu quan, Bộ thương mại ban hành quyết định số 0271/2003/QĐ-BTM
ngày 13/3/2003 về danh mục mặt hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm
2003 bao gồm 18 nhóm hàng:
1- Gạo
2- Lạc nhân
3- Cà phê
4- Chè
27
5- Hạt tiêu
6- Hạt điều (đã qua chế biến)
7- Rau quả (hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả)
8- Đường
9- Thuỷ sản
10- Thịt gia súc, gia cầm
11- Gốm, sứ
12- Đồ gỗ mỹ nghệ
13- Mây tre lá
14- Sản phẩm tơ và lụa
15- Sản phẩm dây điện, cáp điện
16- Sản phẩm cơ khí trọng điểm
17- Hàng dệt kim
18- Máy tính nguyên chiếc và phụ kiện
So với năm 2002, danh mục của năm 2003 được bổ sung thêm một số mặt
hàng mới là đường, sản phẩm dây điện, cáp điện, sản phẩm cơ khí trọng điểm,
máy tính nguyên chiếc và phụ kiện, sản phẩm tơ và lụa. Riêng nhóm hàng dệt
may chỉ giữ lại hàng dệt kim trong danh mục được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu.
Trong xu thế thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về
thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường đầu tư đã trở thành nhu cầu cấp
thiết của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hoạt động của tài trợ ngân hàng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về tài
chính cho nhà xuất khẩu mà còn cho cả nhà nhập khẩu. Tài trợ ngân hàng đã thúc
28
đẩy quá trình hoạt động của kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo nên
sự cân bằng trong cán cân thanh toán xuất nhập của nhà nước, trong đó vai trò của
ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các chiến
lược kinh tế.
Thông qua tài trợ ngân hàng giúp doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh
nghiệp nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn: có những thương vụ
trong thương mại quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng. Do
đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như phân bón, sắt thép,
gạo, bột mỳ.... thường hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng (từ 10.000
đến hai 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác
giao nhận, nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này, vốn
lưu động của doanh nghiệp không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền
nhập, tài trợ ngân hàng là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng
dạng này.
Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải huy động vốn
từ những người gửi tiền, vay từ các ngân hàng thương mại khác, phải cân đối lãi
suất và thời hạn đầu vào so với lãi suất và thời hạn cho vay sao cho đủ bù đắp chi
phí, rủi ro thấp nhất và có lãi. Do đặc thù của các giao dịch xuất nhập khẩu, các
giao dịch thanh toán thường vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia, nên những
khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường kèm theo các giao dịch
thanh toán.
Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan đến
ba “khu vực” của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Khu vực thứ nhất là sản xuất, khai thác nguyên liệu cho xuất khẩu.
Những khoản tín dụng loại này thường có cả ngắn hạn, trung và dài hạn, cả
nội tệ và ngoại tệ để hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị đầu
29
vào.
- Khu vực thứ hai là thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hoạt động
này, khách hàng thường cần những khoản tín dụng ngắn hạn bằng nội tệ. Tuy
nhiên, đây cũng là khu vực yêu cầu lượng tín dụng trung, dài hạn lớn, nếu khách
hàng đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị và những dây chuyền chế biến
công nghệ cao.
- Khu vực thứ ba là lưu thông và xuất khẩu. Những khoản tín dụng ngân
hàng cho khu vực này thường có thời hạn ngắn, chủ yếu nhằm đáp ứng vốn cho
các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục chu trình sản xuất kinh doanh mới trong thời
gian kể từ khi giao hàng đến khi nhận được thanh toán từ đối tác nhập khẩu nước
ngoài.
Khách hàng vay những khoản tín dụng từ ngân hàng cho ba khu vực trên
thường là khác nhau, nhưng cả ba khu vực đó lại có mối quan hệ khăng khít và hỗ
trợ nhau cùng phát triển.
Khép kín hoạt động đầu tư cho ba khu vực này không chỉ giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định
cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hàng trong quá trình thu nợ, hạn chế rủi ro cũng như mở rộng hoạt động tín dụng
và các dịch vụ khác có liên quan.
Như vậy: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài chính
để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu,
đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ điều kiện về tài chính
để mua hàng hoá của nước đó.
* Một số hình thức tài trợ xuất khẩu.
Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh
toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền tảng hoặc bổ
30
sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu cơ không thể tách
rời này có thể được dẫn giải như sau:
Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách
hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của
NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH phục vụ người XK
vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện.
Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán, tài trợ
XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh toán và tài
trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng.
- Đối với hoạt động xuất khẩu:
+ Tín dụng chiết khấu hối phiếu:
Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực
hiện bằng hình thức ngân hàng mua lại các hối phiếu thương mại trước khi đến
hạn thanh toán và khách hàng sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu
đã trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín
dụng cung ứng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu.
+ Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu:
Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất mà
bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao, anh ta có
thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ hàng hoá
này cho ngân hàng. Bằng cách đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn vốn để tiếp
tục kinh doanh trong suốt thời gian từ khi gửi hàng cho đến khi nhận được tiền từ
nhà nhập khẩu.
Điều kiện để nhận được khoản tín dụng này là khả năng truy hoàn của nhà
31
xuất khẩu. Các chứng từ liên quan nhất thiết phải là chứng từ có giá trị để cấp tín
dụng, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng. Các ngân
hàng thường ký với nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng cho loại hình
cho vay này. Tuy nhiên khoản vay này chỉ được cấp căn cứ vào giá trị của bộ
chứng từ và với một tỷ lệ tối đa nhất định tuỳ theo loại hàng hoá và khả năng
thanh toán của khách hàng (khoảng 70 →80% giá trị hàng hoá).
+ Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể
thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng trước
tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu, L/C không
chỉ là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín dụng.
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ cho nhà xuất
khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu
hoàn hảo được người xuất khẩu trình.
Hình thức này thường được sử dụng để tài trợ xuất khẩu trong ngắn hạn.
+ Bao thanh toán tương đối (Factoring):
Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn, đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu,
ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các
khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp, đứng ra đòi nợ
nhà nhập khẩu. Factoring không được sử dụng L/C cũng như các hối phiếu ngoại
thương vì Factoring chỉ được sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường
xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau
trong cùng một nước hoặc cho nhiều nước trong cùng một thời điểm. Do vậy, đối
tượng mua bán của Factoring là những tổ hợp kinh tế có doanh số hoạt động xuất
nhập khẩu hàng năm lớn.
32
Nghiệp vụ Factoring có những chức năng sau:
- Chức năng dịch vụ thanh toán: Tổ chức Export factor đảm nhiệm mọi
nhiệm vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán chuyển
nhượng, đảm nhiệm mọi nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà xuất khẩu
giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Như vậy, Export factor thực hiện
tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Hơn nữa, nó còn thực
hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
- Chức năng tài chính: Export factor đảm nhiệm chức năng tài chính cung
ứng cho nhà xuất khẩu. Cơ sở để nó đảm nhiệm việc này là mối quan hệ giao dịch
giữa Export factor và Import factor.
+ Nghiệp vụ tài chính ứng trước: Dù hợp đồng Factoring được ký kết từ trước,
nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ của nhà nhập khẩu. Do
đó, nếu muốn sử dụng vốn trước ngày này, nhà xuất khẩu có thể vay của tổ chức
Factoring. Khoản tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín dụng luân
chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển
thông thường và hạn mức tín dụng từ 70→ 90% khoản thanh toán.
* Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu
Tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ
chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất
nhập khẩu. Bằng các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng cung
ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp gia
tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện các thương vụ thành công. Chính vì vậy,
tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tất cả các
bên tham gia vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
- .Đối với doanh nghiệp XK:
- Tín dụng XNK của NH giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn.
33
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp XNK, đặc biệt là các doanh nghiệp
XNK của Việt Nam hiện nay, có năng lực tài chính rất hạn chế. Trong khi đó, có những
thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để có thể thực hiện
được hợp đồng. Tín dụng NH cho hoạt động XNK chính là giải pháp giúp doanh nghiệp
thực hiện được những hợp đồng dạng này.
Hơn thế nữa, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, “thương trường như chiến
trường” hiện nay, các doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi chấp nhận bán hàng
trả chậm, trả gối đầu. Song việc thu hồi nợ bán hàng gối đầu đang ngày càng trở thành nỗi
lo của các doanh nghiệp XNK. Nguy cơ mất trắng hàng trăm tỷ đồng từ phương thức bán
hàng trả chậm, gối đầu đang là thực tế đáng lo ngại cho các doanh nghiệp. Tín dụng XNK
của NH đã khiến cho các nhà XNK yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, từ
đó khắc phục được nguy cơ sụt giảm trong hoạt động bán hàng trả chậm nói riêng và
nguy cơ sụt giảm trong doanh số bán hàng XNK nói chung.
- Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, một
doanh nghiệp đã được NH đứng ra bảo lãnh, cấp tín dụng sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi vì khi
đó, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp được khẳng định. Cùng với nghệ
thuật đàm phán, và vị thế sẵn có của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể giành được
nhiều điều kiện có lợi cho mình trong quá trình thực hiện thương vụ.
- Tín dụng XNK giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong quá trình
thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của NH, doanh nghiệp sẽ có đủ vốn để thực hiện
thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng
thời vụ, gia công, chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp NK, vốn
tài trợ của NH giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ, đáp ứng kịp thời
nhu cầu của thị trường trong nước. Qua đó, giúp các doanh nghiệp XNK chớp được thời
cơ kinh doanh thu lợi nhuận cao, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh,
tồn tại, đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường; đồng thời thực hiện được các nghĩa
vụ đối với nhà nước.
34
- Bên cạnh đó, tín dụng XNK của NH còn giúp cho các doanh nghiệp có vốn để
nhập máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây truyền sản xuất, chế
biến, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ được giá thành sản phẩm, tạo khả
năng cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Ngoài ra, tài trợ của NH còn góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp XNK
trên thị trường quốc tế. Sở dĩ như vậy là do nhờ có tài trợ của NH, doanh nghiệp XNK có
khả năng thực hiện có hiệu quả những thương vụ lớn, có khả năng quan hệ, làm ăn với
các khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó củng cố, nâng cao được uy tín, vị trí của mình
trên thị trường thế giới.
- Đối với nền kinh tế đất nước:
- Tín dụng XNK của NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK
và lưu thông hàng hóa XNK. Nhờ có tài trợ của ngân hàng, hàng hoá được xuất, nhập phù
hợp với yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời vụ..., đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân, góp phần làm ổn định thị
trường và tăng tính năng động của nền kinh tế.
- Với các khoản tín dụng XNK của NH, doanh nghiệp XNK có điều kiện thay đổi,
hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất... Nhờ đó, có
điều kiện phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho người
lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước và làm động cơ
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Tín dụng XNK còn góp phần đáng kể phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại với các
nước trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, với tư cách là một thành viên hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế, các NHTM cùng với hoạt động tài trợ thương mại quốc
tế của mình, đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
35
cho cân bằng cán cân thanh toán quốc gia. Và tín dụng XNK của NHTM chính là một
trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - chính trị -
xã hội của một đất nước.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín
dụng XNK của NH cũng phát triển ngày càng phong phú.Từ hình thức đơn giản ban đầu
là cho vay trực tiếp, ngắn hạn, đến nay, các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức tín dụng
XNK đa dạng và có hiệu quả cao.
1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu:
Tại văn bản số 78/CP-KTTH Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Thương mại
cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ chế thưởng khuyến khích
xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm 2002
(theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm 2002).
Để triển khai thực hiện, Bộ Thương mại đang trao đổi với các bộ, ngành hữu
quan để xây dựng cơ chế thị thưởng theo hướng tiếp cận như sau:
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch bình quân toàn ngành của mặt hàng được
thưởng năm 2003 so với năm 2002 sẽ là căn cứ tham khảo để xác định điều kiện
được thưởng đối với doanh nghiệp. Trong quý II/2003, trên cơ sở đánh giá tiềm
năng xuấ khâu cả năm và biến động của thị trường, Bộ thương mại sẽ công bố
mục tiêu tăng trưởng đối với từng mặt hàng trong năm 2003 để doanh nghiệp có
định hướng phấn đấu. Chỉ những doanh nghiệp nào có mức tăng kim ngạch đối
với mặt hàng được thưởng cao hơn mức tăng bình quân mà Bộ thương mại công
bố mới được xét thưởng.
Sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục
tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%.
Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng
36
từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn10% thì
không được thưởng.
1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm:
Ngày 24/01/2003 Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số
0104/2003/QĐ-BTM về Quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến
thương mại trọng điểm quốc gia. Theo quyết định này các tổ chức xúc tiến thương
mại thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, các hiệp hội ngành hàng; các Tổng công ty
ngành hàng là cơ quan đầu mối đề xuất chương trình gửi về Bộ Thương mại. Trên
cơ sở các đề xuất này, Bộ thương mại thẩm định, đánh giá và xây dựng chương
trình và tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trước mắt đối với năm 2003, trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, Hiệp hội
và Tổng Công ty, Bộ Thương mại đang khẩn trương tổng hợp các chương trình
xúc tiến thương mại để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến sẽ hoàn
thành trong tháng 4/2003.
1.4. Về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp:
Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui
định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng
chi phí của doanh nghiệp.
1.5. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT
a. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu
Thời gian qua, các quy định về thuế GTGT đã được siết chặt hơn để hạn chế
gian lận thương mại. Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính
phủ quy định cơ sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng
thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu
qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản 1186/NHHH -
37
QLNH ngày 1/11/2002 hướng dẫn quy định trên.
b. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Đề nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp
tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài chính,
phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực hiện
đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo
phương pháp khấu trừ.
1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu:
Vấn đề chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu đã được các Bộ
ngành và nhiều doanh nghiệp phản ảnh. Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày
24/04/2002 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì,
phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí này để
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Thực hiện chủ trương trên của Chính phủ, từ 1/4/2003 Bộ Bưu chính Viễn
thông sẽ áp dụng giảm giá cước đối với một loạt các dịch vụ viễn thông, trong đó
có cước dịch vụ điện thoại quốc tế, cước truy cập Internet, cước hòa mạng và
thông tin điện thoại di động. Đây là đợt giảm giá có quy mô lớn nhất từ trước đến
nay của ngành bưu chính viễn thông nhằm rút ngắn lộ trình đưa giá cước viễn
thông của ta xuống mức bằng và thấp hơn so với một số nước trong khu vực.
1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháng
11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp
nhỏ và (SME). Tháng 12/2001, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh, thành tự đứng ra thành lập các
quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME.
Nhờ có các chính sách trợ cấp của Chính phủ cho các mặt hàng xuất khẩu
38
nên Việt nam đã đạt được mức xuất khẩu cao. Các mặt hàng của Việt nam đã có
mặt trên nhiều thị trường quốc tế. Do được trợ cấp từ khâu nguyên liệu đến thành
phẩm nên có sức canh tranh mạnh
Hiện gạo do Việt Nam sản xuất có chi phi thấp hơn nhiều so với gạo nhập
khẩu. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua Việt Nam luôn là một trong số những
nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, đối với một số chủng loại
gạo cao cấp, chủ yếu được tiêu dùng ở các đô thị thì gạo nhập khẩu từ Thái lan
đang có khả năng cạnh tranh tương đối cao so với gạo được trồng trong nước.
Hiện tại, lượng nhập khẩu gạo chưa nhiều nên có lẽ ta cũng chưa nên đánh thuế
chống trợ cấp đối với gạo nhập khẩu. Tuy nhiên, trong tương lai nếu lượng nhập
khẩu gia tăng thì ta có thể xem xét đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo Thái lan.
Do được nhà nước cho vay vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, Việt nam được
đánh giá là nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay. Có thể nói hàng
thuỷ sản xuất khẩu là mặt hàng có thị trường xuất khẩu còn triển vọng sáng sủa.
Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản phẩm cơ bản, luôn
trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô toàn cầu. Buôn bán hàng
thuỷ sản thế giới đã tăng với nhịp độ trung bình hàng năm trên 10% vào thời kỳ
1985 -1995. Từ năm 1995 trở lại đây, tuy nhịp độ tăng ngach xuất khẩu thuỷ sản
có chậm hơn thời kỳ trước, nhưng thị trường thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục mở
rộng với kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giơí xấp xỉ 60 tỷ USD. Xu hướng thị
trường tương lai dự báo vẫn phát triển ổn định, đặc biệt đối với các sản phẩm thuỷ
sản thực phẩm chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản sống có giá trị gia tăng
cao.
Sản lượng thuỷ sản của Việt nam liên tục tăng thời gian từ năm 1995 trở lại
đây: năm 2000 sản lượng thủy sản cả nước đạt 2,22 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn
39
so với năm 1995, trong đó thuỷ sản khai thác đạt 1,65 triệu tấn chiếm 74,3% tổng
sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,57 triêu tấn, chiếm 25,7%. Nhịp độ tăng
sản lượng thuỷ sản trung bình hàng năm thời kỳ 1996-2000 là 12,3%.
Năm 2001 sản lượng thuỷ sản cr nước đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7% so với 2000,
trong đó sản lượng thuỷ sản khai thácđạt 1,74 triệu tấn chiếm 72,5%tổng sản
lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,66 triệu tấn, chiếm 27,5%.
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam đã tăng từ 239 triệu USD năm 1990 lên
979 triệu USD năm 1999, 1475 triệu USD năm 2000 và 1800 triệu USD năm
2001. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 6,2 lần so với năm 1990.
Nhịp độ tăng xuất khẩu trung bình hàng năm thời kỳ 1991-2000 đạt 20%. Năm
2001, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 22% so với năm 2000. Với kim ngạch
xuất khẩu lơn ( đứng thứ ba sau dầu thô -3,17 tỷ USD và dệt may - 2 tỷ USD) và
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao, thuỷ sản thực sự trở thànhmột trong những
động lực thúc đẩy tăng xuất khẩu chung của đất nước. Đóng góp của của riêng
xuất khẩu thuỷ sản vào nhịp độ tăng xuất khẩu chung của đất nước năm 2001 đã
là 2,58%.
Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, vấn đề đa dạng
hoá thị trường xuất khẩu cũng đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Đến
nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam đã có mặt ở hơn 60 nước trên thế giới.
Trước đây, thị trường Nhật bản thường chiếm tỷ trọng 50-60% xuất khẩu thuỷ sản
của Việt nam, đến nay giảm xuống chỉ còn dưới 30%. Đặ biệt, từtháng 8/2001,
Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật bản trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất
của Việt nam, đẩy Nhật bản xuống hàng thứ hai. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
của Việt nam sang Nhật bản năm 2001 đạt 471 triệu USD, chiếm 26,2% tổng kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam.
40
Thị trường Mỹ là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới và là
thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam hiện nay. Tỷ
trọng của thi trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩuthuỷ sản của Việt nam
tăng lên nhanh chóng trong thời gian 5 năm trở lại đây: Năm 1997, thị trường Mỹ
mới chiếm khoảng 7%-8% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, năm 1999 tăng lên
13,3%, năm 2000 lên 21%, năm 2001 lên 28,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản của Việt nam.
Ngoài những mặt hàng kể trên thì kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khác
như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ cũng tăng lên đáng kể.
2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam.
Việt Nam đã áp dụng những chính sách trợ cấp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và
đã đạt được kết quả tốt tuy vẫn còn một số tồn tại cần được giải quyết như sau:
2.1. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu:
Chính phủ đã có văn bản số 78/CP-KTTH về chế độ thưởng khuyến khích
xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm trước
(theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm trước) và sau khi đánh
giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối
với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%.
Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng
từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn 10% thì
không được thưởng.
Nếu do khó khăn về thị trường, nguồn hàng hay giá cả mà kim ngạch của cả
ngành hàng tăng trưởng âm thì những doanh nghiệp nào đạt tăng trưởng dương
đều được thưởng trên phần kim ngạch vượt trội.
41
Phương pháp tiếp cận này nhằm khuyến khích, động viên những doanh
nghiệp xuất khẩu giỏi hơn mức bình quân của ngành, đồng thời cũng loại trừ được
yếu tố biến động khách quan về giá hoặc sản lượng (Chẳng hạn giá mặt hàng X
năm 2003 tăng hơn 30% so với mức bình quân của năm 2002 như vậy nếu lượng
xuất không đổi thì các doanh nghiệp trong ngành có thể đạt được mức tăng
trưởng xấp xỉ 30% mà không cần phải nỗ lực nhiều, trong khi những ngành hàng
giá không tăng hoặc gặp khó khăn về thị trường lại khó đạt được mức tăng
trưởng).
Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại quyết định này bởi tiềm lực tài chính
của các tỉnh và thành phố là có hạn, lại không đồng đều. Nếu mỗi tỉnh, thành đều
phải tự tìm nguồn để thành lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không
cao do nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở
những tỉnh có hoàn cảnh khó khăn sẽ ở vào thế bất lợi hơn so với SME ở những
tỉnh có tiềm năng. Vấn đề tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói
riêng hiện nay đang là vấn đề hết sức búc xúc. Vì vậy, đề nghị có một cơ chế tập
trung nguồn lực để thành lập 01 quỹ bảo hành tín dụng cho SME tại trung ương,
chỉ thành lập tại địa phương các chi nhánh hoặc đại lý (là chi nhánh các quỹ hỗ
trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng địa phương). Khi có nhu cầu, mọi "đại lý" đều
có thể tiếp cận với nguồn lực tập trung, hiệu quả thực tiễn vì vậy sẽ cao hơn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tất cả các tỉnh cũng ở vào thế bình đẳng hơn.
2.2. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm:
Việt Nam chưa có được những chương trình xúc tiến trọng điểm
2.3. Sửa đổi qui định về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh
nghiệp:
Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui
định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng
42
chi phí của doanh nghiệp. Theo nhiều doanh nghiệp, qui định này là chưa hợp lý
và hạn chế các hoạt động phát triển thị trường vì doanh nghiệp thuộc các ngành
hàng, lĩnh vực khác nhau, thậm chí ngay trong một doanh nghiệp thì chi phí cho
hoạt động tiếp thị tại các thời điểm kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, quy
định này dẫn đến một nghịch lý là doanh nghiệp nào có tổng chi phí giảm thì chi
phí giao dịch, tiếp thị cũng phải giảm theo.
Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nên giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu và điều
chỉnh lại quy định trên theo hướng bãi bỏ mức quy định tối đa đối với các chi phí
này hoặc nâng mức quy định tối đa từ 7% lên 15 - 20%.
2.4. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT
2.4.1. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu
Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ quy định cơ
sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế
GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng.
Tuy qui định này đã góp phần hạn chế tình trạng gian lận thương mại nhưng
mặt khác cũng đã làm phát sinh một số vướng mắc trong xuất khẩu qua đường
biên mậu, nhất là xuất khẩu qua biên giới Trung Quốc. Thực tiễn hoạt động buôn
bán với Trung Quốc thời gian qua cho thấy hình thức thanh toán qua ngân hàng
mới chỉ chiếm khoảng 15 - 20% trong tổng kim ngạch giữa hai nước, còn lại đa
phần là thanh toán theo các hình thức khác như hàng đổi hàng, thanh toán bằng
tiền mặt, thanh toán theo hình thức tạm ứng.v.v...Theo phản ảnh của một số
doanh nghiệp thì việc thực hiện quy định về thanh toán qua ngân hàng có một số
vướng mắc do phía đối tác Trung Quốc không muốn áp dụng hình thức này, chưa
kể đến việc thanh toán qua ngân hàng sẽ làm phát sinh một số chi phí giao dịch
(ước các khoản chi phí lên tới 0,3% kim ngạch xuất khẩu). Do có những vướng
mắc này mà hoạt động xuất nhập khẩu với Trung Quốc cũng đã có dấu hiệu
43
không nhộn nhịp như trước. (Theo số liệu hải quan, xuất khẩu ra quả và thuỷ sản
vào Trung Quốc sau 2 tháng đã giảm hơn 60% so với cùng kỳ).
Theo Bộ Thương mại, về lâu dài hoạt động thương mại nói chung, trong đó
có hoạt động xuất nhập khẩu qua đường biên mậu, cần từng bước chuyên nghiệp
hóa, trong đó có việc áp dụng phương thức thanh toán ngân hàng. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc thù trong hoạt động xuất nhập khẩu biên mậu hiện nay, nhất là trong
điều kiện việc hoàn khống thuế GTGT đã được bãi bỏ để hạn chế gian lận về thuế
GTGT, Thủ tướng Chính phủ nên cho phép tạm thời có một cơ chế riêng đối với
buôn bán qua đường biên mậu, cụ thể là xuất khẩu biên mậu được hưởng thuế
suất thuế GTGT 0% đối với các hình thức thanh toán hợp pháp, không chỉ áp
dụng đối với các trường hợp thanh toán qua ngân hàng.
2.4.2. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Kiến nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương
pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài
chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực
hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế
theo phương pháp khấu trừ. Do mức thuế phải nộp căn cứ vào mức doanh thu
"khoán" nên phương thức này cũng dễ làm phát sinh một số kẽ hở khi doanh thu
thực tế của đơn vị vượt quá mức "khoán" nhưng doanh nghiệp lại không báo cáo
đầy đủ với cơ quan thuế. Do vậy, vô hình chung đã tạo ra sự không bình đẳng về
nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
và các doanh nghiệp nộp thuế khoán trong cùng một ngành hàng kinh doanh, từ
đó ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa trong nước và nhà nước cũng bị thất thu
một lượng tiền thuế.
Để khắc phục tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ cũng nên giao cho Bộ
Tài chính rà soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT
trực tiếp trên giá trị gia tăng và việc tổ chức thực hiện thu thuế GTGT theo
44
phương pháp này theo nguyên tắc bảo đảm thu đúng, thu đủ và công bằng đối với
các doanh nghiệp được tính thuế GTGT theo các phương pháp khác nhau.
2.5. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu:
Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành hữu
quan tiến hành rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu để
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, việc rà soát một số loại chi phí dịch vụ khác vẫn chưa hoàn thành.
Kiến nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện rà soát các loại phí, lệ phí theo tinh
thần Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ. Cần có đoàn kiểm tra thực tế, không
nên dựa vào báo cáo của các cơ sở cung cấp dịch vụ. Kết quả kiểm tra cũng nên
được công bố công khai trên báo chí cho các doanh nghiệp biết. Các loại phí cần
được rà soát kỹ là phí ở cảng, phí ở các tỉnh biên giới và lệ phí cầu, đường trên
một số trục đường chính, hàng xuất khẩu thường đi qua.
Theo một số doanh nghiệp phản ảnh, mức thu phí đường bộ 80.000 đồng/
lượt đối với xe tải từ 18 tấn trở lên (theo Thông tư số 109/2002 của Bộ Tài chính
quy định về chế độ thu, quản lý, sử dụng phí giao thông đường bộ) là quá cao
(tăng thêm 20.000 đồng so với trước), mặt khác có những trạm thu phí trên cùng
một tuyến đường cách nhau không đủ 70km như quy định tại Thông tư (như trên
đường 5 trạm Quán Toan cách trạm Hải Dương chỉ có 30km) làm cho doanh
nghiệp bị đội chi phí vận tải.
2.6. Những khó khăn đối với việc áp dụng trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam
khi gia nhập WTO
Các mặt hàng đã và đang được trợ cấp xuất khẩu của Việt nam sẽ bị đánh
thuế chống trợ cấp khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Thuế chống trợ cấp là một loại thuế nhập khẩu đặc biệt nhằm chống lại trợ
45
cấp của Chính phủ nước ngoài cho hàng xuất khẩu, thường được áp dụng sau khi
đã có điều tra cho thấy có tổn hại do trợ cấp đó gây ra.
Tổ chức thương mại thế giới định nghĩa rằng "thuế chống trợ cấp được hiểu
là một khoản thuế đặc biệt nhằm mục đích bồi hoàn cho khoản trợ cấp đã được
cung cấp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình chế tác, sản xuất hoặc
xuất khẩu của bất kỳ loại hàng hoá nào”. Đây là định nghĩa chặt chẽ về mặt luật
pháp và thường được các nước chấp nhận. Tuy nhiên, định nghĩa này phải được
hiểu trong bối cảnh rộng của WTO, có nghĩa là các quy định của WTO liên quan
đến quá trình điều tra, thủ tục áp dụng v.v… cũng phải được tuân thủ đầy đủ.
Về mặt kinh tế, thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế đánh vào hàng hoá
được trợ cấp nhằm triệt tiêu lợi thế do khoản trợ cấp đó đem lại. Để đạt được mục
tiêu trên, thuế chống trợ cấp phải tương đương với lợi ích mà trợ cấp đem lại cho
hàng hoá, hay chính xác hơn, thuế chống trợ cấp phải triệt tiêu được lợi thế hàng
nhập khẩu có được do nhận được trợ cấp của chính phủ so với loại hàng tương tự
được sản xuất tại nước nhập khẩu. Do đó, sau khi đánh thuế chống trợ cấp, hàng
hoá nhận được trợ cấp không còn lợi thế so với hàng tương tự được sản xuất trong
nước không được trợ cấp. Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp cũng không được đánh
quá cao, vượt quá lợi ích thực sự mà hàng nhập khẩu nhận được.
Về hình thức bên ngoài, thuế chống trợ cấp lại có nhiều điểm tương đồng
với thuế nhập khẩu. Vì vây, xét về mặt hình thức, ở một chừng mực nhất định
cũng có thể coi thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế nhập khẩu đặc biệt.
Thuế chống trợ cấp giống với thuế nhập khẩu ở các điểm sau:
(cid:31) Đối tượng chịu thuế là hàng nhập khẩu;
(cid:31) Phương pháp quản lý thuế tương đối giống với thuế thông thường: cùng
được cơ quan hải quan thu tại cửa khẩu;
(cid:31) Tác động tương đối rõ ràng và minh bạch ở khâu áp dụng nếu so với các
46
biện pháp phi thuế quan khác (mặc dù quá trình điều tra có thể bị các cơ
quan áp dụng lạm dụng vì một số mục đích nhất định).
Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp có một số điểm khác căn bản so với thuế
nhập khẩu thông thường:
(cid:31) Thuế nhập khẩu thông thường chủ yếu nhằm mục đích bảo hộ cho sản
xuất trong nước còn thuế chống trợ cấp nhằm đảm bảo môi trường cạnh
tranh bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu;
(cid:31) Thuế nhập khẩu thông thường mang tính ổn định, trong khi thuế chống
trợ cấp mang tính tình huống rõ rệt. Dù là nhằm bảo hộ cho sản xuất
trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách hay đảm bảo công bằng xã hội,
thuế nhập khẩu đều được áp dụng theo một định hướng tương đối ổn
định. Trong khi đó, thuế chống trợ cấp chỉ xuất hiện khi phát sinh trợ
cấp làm ảnh hưởng đến nhà sản xuất trong nước. Thuế chống trợ cấp sẽ
mất đi khi không còn trợ cấp nữa hay khi các nhà sản xuất trong nước
không còn chịu ảnh hưởng bất lợi của hàng hoá được nước ngoài trợ cấp
47
nữa.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ
CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
I. Cơ sở đề ra giải pháp
1. Những thuận lợi và khó khăn
Dự kiến của những năm tới, hoạt động xuất khẩu của ta có một số thuận lợi
cơ bản. Sau khi thi hành các biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã
và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu
quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . Khả năng phối hợp giữa
các cơ quan để ứng phó với các tình huống phức tạp bên ngoài cũng đang dần
được cải thiện. Bên cạnh đó, bầu không khí kinh doanh tiếp tục sôi động, Việt
nam tiếp tục được cho là điểm đến an toàn sẽ có tác động tích cực đến đầu tư và
xuất khẩu của ta trong những năm tới.
Tuy có một số thuận lợi nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu trong
những năm tới của ta sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Trong
nước, một số mặt hàng nông sản đã gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu,
hoặc do tiềm năng sản xuất giới hạn , hoặc do thị trường đã có dấu hiệu bão hoà.
Thứ hai, vấn đề năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện căn bản, việc rà soát để
giảm các chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu triển khai còn chậm. Những
vướng mắc về mặt thủ tục và mặt bằng sản xuất, đặc biệt là tính ổn định của môi
trường, chính sách đầu tư vẫn là một vấn đề bức xúc. Thứ ba, tác động của các
giải pháp về mở rộng quyền kinh doanh đối với xuất khẩu ngày càng giảm dần
sau khi đã phát huy tác dụng rất tích cực trong giai đoạn trước. Mặt khác, có thể
nhận thấy các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của ta tuy nhiều nhưng chưa đi
vào chiều sâu, có chỗ có nơi còn chưa thông suốt và chưa nhất quán, cá biệt một
48
số biện pháp nếu duy trì lâu sẽ làm tăng sức ỳ từ phía doanh nghiệp.
Bên cạnh những yếu tố trong nước, tình hình bên ngoài cũng có những nhân
tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu, trong đó nổi bất là:
- Diễn biến tình hình tại Irắc sẽ ảnh hưởng đến cục diện kinh tế trên thế giới ,
tác động lớn tới xu hướng biến động giá dầu thô, từ đó ảnh hưởng dây chuyền đến
giá cả của nhiều hàng hoá và dịch vụ trên thị trường thế giới . Mặt khác, cuộc
chiến tại Irắc cũng tác động trực tiếp tới xuất khẩu của ta vào thị trường này. Hiện
nay, ta xuất khẩu vào Irắc mỗi năm khoảng 400 – 450 triệu USD (chiếm 2,8%
trong tổng kim ngạch). Các mặt hàng chủ lực là gạo, chè, sản phẩm sữa, dầu thực
vật. Trong tình hình chiến tranh, xuất khẩu sang thị trường này sẽ có thể bị gián
đoạn. Vì vậy, ta cần phải chủ động mở thị trường mới, nhất là đối với gạo và chè
để có thể chuyển hướng kịp thời.
- Như một số nước đang phát triển khác, xuất khẩu của nước ta, nhất là hàng
dệt may và giày dép sẽ chịu sự cạnh tranh ngày càng lớn, nhất là trong điều kiện
Trung Quốc là thành viên WTO và EU đang loại bỏ hạn ngạch dệt may với một
số nước thành viên WTO thông qua các hiệp định dệt may song phương (xuất
khẩu hàng dệt may của ta vào EU năm 2002 đã giảm tới 9%). Tuy nhiên, xuất
khẩu của ta cũng có cơ hội mới khi Trung Quốc dành cho Việt Nam quy chế tối
huệ quốc như cá thành viên WTO. Lợi thế này cùng với lợi thế về vị trí địa lý là
cơ sở thuận lợi để thiết lập quan hệ buôn bán lâu dài với Trung Quốc, tăng cường
xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản , nhất là vào các tỉnh phía Tây nam
Trung Quốc.
- Từ 1/1/2003, tiến trình hội nhập của ta trong CEPT thực sự đi vào chiều
sâu. tất cả các dòng thuế còn lại trong danh mục loại trừ tạm thời phải đưa vào cắt
49
giảm xuống mức 20%, trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như xi măng, giấy,
gạch ốp lát, sắt thép, hàng điện tử , rau quả và thực phẩm chế biến... Đây sẽ là
thách lớn đối với các ngành thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, ta cũng có thêm cơ
hội xuất khẩu khi bắt đầu được hưởng mức thuế ưu đãi của các nước ASEAN –6
(hầu hết cá dòng thuế đã được giảm xuống 0-5%). các mặt hàng cần tăng cường
xuất khẩu là hàng dệt may, giày dép, hải sản, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ,
sản phẩm nhựa và các mặt hàng nông sản.
- Những thực tế mới của môi trường kinh doanh quốc tế :
Trong những thập kỷ 90, khi nói đến thương mại thế giới, thì đó không phải
là công việc kinh doanh thường lệ, bởi vì những thực tế mới đã làm thay đổi tận
gốc rễ môi trường kinh doanh. Kết qủa thành công của vòng đàm phán Uruguay,
sự thống nhất liên minh Châu Âu, việc hình thành khối tự do Bắc Mỹ, tổ chức
thương mại thế giới và nhiều khối mậu dịch khác nữa...đã làm thay đổi thị trường
toàn cầu.
Những thực tế mới này đã làm thay đổi căn bản chính sách thương mại của
các nước, dẫn đến sự cần thiết phải có các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại,
đặc biệt là xuất khẩu, trong đó các nước phải xem xét lựa chọn các sản phẩm xuất
khẩu cụ thể cũng như các chính sách trợ cấp xuất khẩu tốt nhất. Mặt khác, những
thay đổi này cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự ra đời các hình thức tài trợ
xuất khâủ mới, làm phát sinh các yêu cầu về những xu hướng mới trong thông tin
thị trường, nghiên cứu thị trường và nuôi dưỡng thế giới quan mới về công ty xuất
khẩu như là những công ty quốc tế hoá..
Những ảnh hưởng của môi trường kinh doanh mới tới các quốc gia và các
doanh nghiệp có thể tóm tắt dưới đây:
- Vấn đề tự do hoá thương mại - Các hiệp định WTO
Ngày 5 tháng tư năm 1994, tại Marakesh - Marốc, Hiệp định cuối cùng của
50
vòng đàm phán Uruguay đã được ký kết. WTO ra đời ngày tháng giêng năm
1995 với phương châm đẩy mạnh phát triển kinh tế thế giới thông qua việc đẩy
mạnh trao đổi thương mại để cải thiện việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động. Việc giảm thuế quan do yêu cầu của tự do hoá đã tác động ngay lập tức đến
mọ khía cạnh của kinh tế thế giới:
+ Thứ nhất, thuật ngữ "cạnh tranh quốc tế "theo quan niệm cũ trở nên hạn
hẹp bởi vì hàng hoá và dịch vụ của một nước ngày nay không chỉ phải cạnh tranh
quyết liệt ở thị trường nước ngoại mà ngay ở thị trường trong nước, hàng hoá đó
cũng vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ do việc bảo hội không còn được duy trì.
+ Thứ hai, những cơ hội và thách thức mới được tạo ra từ tự do hoá
thương mại . ở nhiều nước , dưới sức ép cạnh tranh sẽ có những ngành và sản
phẩm không thể tồn tại được nữa do không còn được bảo hộ và ưu đãi. Điều này
bắt buộc các nước phải tìm ra các sản phẩm mới thay thế hay điều chỉnh sản phẩm
cho phù hợp. Chính vì vậy, việc hoạch định chiến lược xuất khẩu vốn đã khó lại
càng trở lên khó khăn hơn, dó là chưa nói tới việc phát triển xuất khẩu.
+ Thứ ba, các tập đoàn công nghiệp hùng mạnhvà các nước phát triếnẽ tìm
ra những phương thức mới để bảo hộ các ngành công nghiệp của họ. Một mặt,
cạnh tranh yêu cầu các nước phải nâng cao các tiêu chuẩn chất lượngvà dịch vụ
phục vụ khách hàng cũng như phải tuân thủ những quy định về môi trườg trong
sản xuất. Mặt khác, các tiêu chuẩn này lại được các nước công nghiệp phát triển
sử dụng như những hàng rào phi thuế quan để ngăn trở xuất khẩu cuả các nước
đang phát triển.
+ Thứ tư, các nước chậm phát triển nhất sẽ là các nước bị rủi ro nhất bởi
các tác động của tự do hoá . Các nước này hầu như chưa có hàng hoá, dịch vụ để
bán ra thị trường tự do để hưởng lợi từ việc giảm thuế quan trong khi lại phải
mởcửa thị trường ngay cho hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài. Thậm chí, các nước
51
chậm phát triển nhất cũng không có nững nguồn lực cần thiết để tiến hành hoạt
động nghieen cứu triển khai nhằm cải tiến kỹ thuật sản xuất, cung cấp sản phẩm
thích ứng với thị trường...Do vậy, ở các nước chậm phát triển này, vấn đề đau đầu
nhất là việc giải bài toán phát triển kinh tế trong môi trường toàn cầu hoá.Khi bàn
luận về chủ đề này,, rất nhiều ý kiến cho là các nước chậm phát triển phải xây
dựng chiến lược xuất khẩu trong liên quan chặt chẽ với chiến lược đầu tư và phát
triển công nghiệp.
+ Thứ năm, những thực tiễn mới từ môi trường thương mại thế giới tự do
hoá cũng đồng nghĩa với các yêu cầu rất lớn và rất cấp bách phải hỗ trợ phát triển
cho các nước đang phát triển và chuyển đổi nên kinh té để các nước này có thể
thực sự tham gia vào hệ thống thương mại đa biên.
- Giao lưu dễ dàng và nhanh chóng hơn
Sự phát triển nhanh chóng của xa lộ thông tin Internet từ đầu những năm
1990 đã tạo ra những cơ hôị chưa từng có cho các nước đang phát triển, đặc biệt
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của họ. Mạng internet tinh vi dựa trên nền những
máy fax truyền thống và các diễn đàn điện tử hiện nay cho phép thực hiện giao
lưu quốc tế hết sức nhanh chóng với chi phí thấp hơn nhiều. Việc đưa vào sử dụng
hệ thống thư điện tử mới đây lại tạo thêm những cơ hội mới cho các nước đang
phát triển tiến hành hoạt động marketing và phân phát thông tin cho khách hàng
tiềm năng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng internet như một công cụ
marketing đắc lực: quảng cáo, thông tin về sản phẩm,giải đáp về sản phẩm và dịch
vụ nhanh chóng, bán hàng trực tiếp, cung cấp dịch vụ khách hàng, nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm khách hàng... một cách nhanh chóng và ít tốn kém.
2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới
Nhằm góp phần thực hiện thắng lợ chủ trương đường lối của đảng về phát
52
triển kinh tế đối ngoại, thực hiện các mục tiêu xuất khẩu đã được đề ra trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội mười năm 2001-2010
Tư tưởng và nôi dung bao trùm về chiến lước xuất nhập khẩu của Việt nam
được đề cập tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước, tạo
công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo các loại sản phẩm có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.
Cụ thể là phải hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược xuất
khẩu 2001-2010, trong đó:
(1) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ:
- Năm 2005 đạt 32,4 tỷ uSD
- Năm 2010 đạt 62,7 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sau:
Về xuất khẩu hàng hoá:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: 15%, trong đó:
+ Thời kỳ 2001-2005 : tăng 16%
+ Thời kỳ 2006-2010: tăng 14%
- Giá trị xuất khẩu: năm 2005 đạt khoảng 28,4 tỷ USD và năm 2010 đạt
khoảng 56,4 tỷ uSD
Về xuất khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2010 đạt 15%
- Giá trị xuất khẩu năm 2005 đạt khoảng 4 tỷ USD, năm 2010 đạt 8,1 tỷ USD
(2) Cơ cấu hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu chuyển dịch theo hướng:
- Trước mắt huy động được mọi nguồn lực hiện có của đát nước để đẩy
53
mạnh xuất khẩu, tạo công anh việc làm, tăng thu ngoại tệ;
- Chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gi
tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri
thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;
- Cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm và phát triển sản phẩm mới đáp ứng
nhu cầu của thị trường.
(3) Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng mở rộng và đa dạng
hoá, dựa trên nguyên tắc:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia
WTO;
- Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn
động đột ngột;
- Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn,
tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn;
Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ la tinh và Châu phi.
3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu
Các chuyên gia kinh tế đã chỉ rõ rằng trong điều kiện môi trường kinh doanh
quốc tế mới hiện nay, để đảm bảo thành công trong xuất khẩu của một nước về
lâu dài và để tuân theo luật của tổ chức thương mại thế giới Việt Nam không thể
kéo dài chính sách trợ cấp xuất khẩu khi đã chính thức gia nhập WTO. Chúng ta
cần phải có những biện pháp mở rộng hoạt động thương mại ra thế giới đặc biệt
phải chú trọng tới công tác xúc tiến xuất khẩu. Công tác xúc tiến xuất khẩu ở đây
không chỉ tập trung vào các hoạt động như thông tin thương mại, các đoàn công
tác thương mại, quảng cáo thương mại và đại diện thương mại ở nước ngoài...mà
cần có những nội dung mới, đặc biệt là tăn cương năng lực sản xuất, cung cấp cho
54
xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu cũng như việc xây dựng ccá
chiến lược xuất khẩu quốc gia. Vì những vấn đề này mang tính quy luật phổ biến
ở các nước đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế nên cũng là những vấn đề
phổ biến ở Việt nam.
Thực tế, nước ta đang đứng trước những vấn đề lớn, những thách thức đối
với xuất khẩu bền vững là:
- Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu:
Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu là vật cản lớn nhất đối với xuất
khẩu bền vững của Việt nam. Nếu Việt Nam không đủ năng lực để sản xuất sản
phẩm xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới thì khó có thể duy trì
được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao làm động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Thực tế, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ những khó khăn về thị trường thường
là hệ qủa của những khó khăn trong sản xuất. Đơn cử như thị trường thịt lợn,
trước đây Việt nam đã từng có hiệp định “G to G” với Malaysia và Singapore về
xuất khẩu thịt lợn sang hai thị trường này, nhưng cdo chúng ta không có thịt lợn
để xuất hẩu sang hai thị trường đó nên đã bỏ mất hai thị truường. Ngay cả những
mặt hàng Việt nam đang dư thừa cung cấp như cà phê, hạt tiêu cũng có thể chứng
tỏ những khó khăn về thị trường đều bắt nguồn từ sản xuất mà ra. Nếu chúng ta
trồng được nhiều giống cà phê chè hơn thì chúng ta đã có thể có thị trường tốt hơn
cho xuất khẩu cà phê, hoặc chúng ta không chỉ xuất khẩu hạt tiêu đen xô mà
ngành công nghiệp chế biến có khả năng cung cấp các sản phẩm khác như hạt tiêu
trắng, hạt tiêu xanh, nhựa dầu hạt tiêu...theo yêu cầu của thị trường thế giới thì rõ
ràng có thể giải quyết vấn đề thị trường xuất khẩu hạt tiêu tốt hơn...Những bất cập
trong sản xuất cung ứng các sản phẩm trên cho xuất khẩu thường là do khan hiếm
nguồn tài trợ, thiếu các phương tiện kỹ thuật hiện đại và thiếu các dịch vụ tốt phục
vụ cho sản xuất.
55
- Thiếu sức cạnh tranh:
Cạnh tranh của đất nước, của doanh nghiệp và sản phẩm là chìa khoá để đảm
bảo xuất khẩu thành công. Những yếu kém trong cạnh tranh của nền kinh tế và
của các doanh nghiệp Việt nam được thể hiện qua thứ hạng 62/78 nước mà WEF
(đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế năm 2001) xếp hạng năng lực
cạnh tranh tổng thể của Việt nam năm 2001. Việc thiếu các phương tiện và dịch
vụ hỗ trợ thương mại mang tính cạnh tranh như công nghệ tiến tiến, phương thức
sản xuất và kiểm tra chất lượng tối ưu, hệ thống marketing hoàn hảo, kỹ thuật bao
gói tốt nhất, tài trợ xuất khẩu cạnh tranh và các kỹ năng xuất khẩu khác đã làm
giảm sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm của Việt nam trên thị trường quốc tế.
- Hiểu biết hạn chế về luật lệ xuất khẩu:
Các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt nam cần phải hiểu biết về hệ
thống phức hợp, đồ sộ các quy tắc, luật lệ của WTO để có thể hình thành lên các
chiến lược xuất khẩu quốc gia hiện thực và bán được sản phẩm ra thị trường nước
ngoài. Rất tiếc là hiện nay ở nước ta mới chỉ có rất ít các chuyên gia về lĩnh vực
này nên nhiệm vụ đào tạo và phổ biến kiến thức về các hiệp định WTO càng trở
nên khó khăn.
- Thiếu các chiến lược xuất khẩu quốc gia:
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nắm vững bí quyết kỹ thuật
xuất khẩu và thâm nhập được thị trường nước ngoài đòi hỏi phải có các chiến
lược xuất khẩu quốc gia làm cơ sở nền tảng. Chiến lược xuất khẩu quốc gia của
Việt Nam thời kỳ 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2000. Để
chiến lược được triển khai có hiệu quả, phải xây dựng các chiến lược xuất khẩu
của từng ngành và từng khu vực doanh nghiệp. Cho tới nay, rất nhiều ngành và
nhiều doanh nghiệp của Việt Nam chưa xây dựng được các chiến lược phát triển
56
xuất khẩu.
III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở việt
nam.
1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô
1.1. Thiết lập các tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp
tham gia thị trường nước ngoài, đặc biệt là các DNVVN. XTXK phải góp phần
khai thác tới mức cao nhất lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp và
các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
1.2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo môi trường tâm lý xã hội
thuận lợi hỗ trợ các DNVVN Việt nam tham gia xuất khẩu.
1.3. Để tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất hỗ trợ hoạt động xuất
khẩu của khu vực DNVVN, Nhà nước cần có các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng.
- Trong điều kiện môi trường thương mại thế giới ngày càng trở nên toàn cầu
hóa và tự do hoá mạnh mẽ với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ thông tin, mạng internet...việc phát triển xuất khẩu
nhanh và bền vững đòi hỏi các nước phải tham gia phân công lao động quôcs tế
dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng nước, mà xuất phát điểm của lợi thế cạnh
tranh là lợi thế so sánh. Qua quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước dưới
tác động ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế thay đổi, những lợithế so
sánh và lợi thế cạnh tranh của từng nước sẽ thay đổi. Như vậy XTXK của Việt
Nam trước hết phải xác định và xuất phát từ lợi thế cạnh tranh của đất nước và
các doanh nghiệp về từng sản phẩm, dịch vụ.
57
- Định hướng XTXK các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam thời gian tới là:
Trong thời gian trước mắt, XTXK vẫn phải tập trung vào việc phát triển thị
trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông lâm thuỷ sản, khoáng sản nguyên liệu,
hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nhiều lao động... nhưng
phải hướng tới việc xúc tiến mạnh mẽ các sản phẩm có giá trị gia tăng, có hàm
lượng công nghệ cao và tri thức cao hàng chế biến sâu, thiết kế, chế tạo, hàng điện
tử, tin học, kể cả phần mềm) cũng như xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ có khả
năng cạnh tranh như xuất khẩu lao động, du lịch, vận tải biển và dịch vụcảng, giao
nhận y tế giáo dục...
XTXK phải chú trọng xây dựng và nâng cao uy tín của hàng hóa và dịch vụ
Việt Nam cả ở thị trường trong nước quốc tế.
Hoạt động XTXK của Việt nam phải theo hướng xây dựng và nâng cao uy
tín của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế thông
qua các biện pháp giám sát và quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu theo tiêu
chuẩn quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến mẫu mã, đóng gói, bao bì
đồng thời tích cực tuyên truyền quảng bá ở nước ngoài tạo điều kiện cho các
doang nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc
tế như ISO 9000, ISO 14000 HACCP... nhằm xoá bỏ những rào cản kỹ thuật do
các nươc phát triển đặt ra.
XTXK phải thúc đẩy khả năng tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp
Việt nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xuất phát từ vai trò của các DNVVN như là yếu tố tiềm năng quan trọng
trước tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung và của Việt
Nam nói riêng, hoạt động XTXK của CHính phủ phải thúc đẩy khả năng tham
gia xuất khẩu của các DNVVN. Định hướng hoạt động XTXK của Nhà nước cho
cá doanh nghiệp như sau: Thời gian trước mắt vẫn còn đẩy mạnh xuất khẩu của
58
các donh nghiệp lớn nhưng bên cạnh đó, phải tập trung mọi nỗ lực của nhà nước
và toàn xã hội hỗ trợ các DNVVN tham gia xuát khẩu, nâng phần đóng góp của
DNVVN trong xuất khẩu tương ững với tiềm năng xuất khẩu của khu vực này.
- Tăng cường các hoạt động XTXK ở nước ngoài (offshore) đi đôi với việc
cải tiến khả năng cung cấp cho xuất khâủ ở trong nước và đẩy nhanh tốc độ quốc
tế hoá các doanh nghiệp trong nước (onshore).
- Tăng cường cử cán bộ tổ chức các hoạt động XTTM ở nước ngoài, khuyến
khích các donh nghiệp mở đại diện thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện ủy
thác, công ty liên doanh trước mắt là ở các thị trường trọng điểm và các trung tâm
thương mại lớn của thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc... để phát triển
thị trường XK. Triển khai xây dựng cá trung tâm thương mại Việt Nam ở nước
ngoài, tích cực tuyên truyền, quảng bá các dịch vụ Việt Nam cũng như hình ảnh
của một đất nước Việt Nam an toàn, một đối tác thương mại tin cậy... Mặt khác,
công tác XTXK cần phải quan tâm hơn nữa tới việc phát triển cung ứng hàng hoá
và dịch vụ cho XK thông qua việc tăng cường năng lực nghiên cứu triển khai
năng lực thiết kế và chế tạo sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, đổi mới trình độ
khoa học và công nghệ để tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng
thời công tác XTXK còn phải chú ý giúp hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao
năn lực quản lý của các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ hỗ trợ về đào tạo và
dịch vụ thuận lợi hoá thương mại để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tổng
thê., biết điều chỉnh mình để thích ứng với sự thay đổi phương thức kinh doanh
cũng như đáp ứng được sự trông đợi của thị trường về một nhà cung cấp cạnh
tranh.
- Tăng cường đa dạng hoá nguồn lực XTXK, hoàn thiện về mặt tổ chức và
đa dạng hóa các dịch vụ XTXK của Chính phủ và các TSIs nhằm đáp ứng được
nhu cầu và yêu cầu của các DN XK và các khách hàng đẻ đảy mạnh XK của đất
59
nước.
- Đa dạng hóâ nguồn lực tài chính để đẩy mạnh hoạt động XTXK của cả nhà
nước và tư nhân; nỗ lực thực hiện xúc tiến đầu tư cho XK; thành lập các quỹ hỗ
trợ XTXK để hỗ trợ cho các TPOS và bản thân các DN trong các công tác như
đào tạo tư vấn, tham gia hội trở triển lãm...
1.4. Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng:
Hiện nay, cả nước đã có 13 Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Một số Hiệp hội
đã có tác dụng tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động và vai trò của Hiệp
hội còn hạn chế. Nguyên nhân là do thiếu một chế định hoàn chỉnh và đồng bộ về
tổ chức hoạt động của Hiệp hội, bộ máy chuyên trách của Hiệp hội chưa đủ mạnh
và không hợp lý (có phần bị nhà nước hóa), nội dung hoạt động của Hiệp hội
chưa được định hình. Mặt khác, đối với nước ta, Hiệp hội ngành hàng còn là vấn
đề mới.
Do tầm quan trọng của Hiệp hội trong cơ chế thị trường, kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ:
(a) Sớm tổ chức hội nghị chuyên đề để bàn về Hiệp hội ngành hàng.
(b) Ban hành một nghị định riêng của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
Hiệp hội ngành hàng (không xử lý chung với các loại hình hội, hiệp hội khác).
Theo quan điểm học viên, quy định mới về hiệp hội nên có sự phân công trách
nhiệm rõ ràng việc quảnlý nhà nước các hiệp hội cho các Bộ, ngành theo hướng:
Bộ Nội vụ soạn thảo ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các quy định pháp
luật về tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội, ra quyết định thành lập và quản lý
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ quản lý ngành quyết định
thànhlập các Hiệp hội nghề nghiệp (như Hội nhà văn, hội nhà báo...) Riêng Bộ
Thương mại quản lý các Hiệp hội ngành hàng từ quyết định thành lập, điều lệ, xây
60
dựng các quy định bổ sung, nêu rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các
Hiệp hội trong lĩnh vực xuất khẩu đến theo dõi hoạt động. Sở dĩ đề xuất cơ chế
như trên là vì đặc thù và nhu cầu hoạt động của các loại hình hội, hiệp hội là rất
khác nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, nên có một cơ chế phù hợp để tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa Bộ Thương mại,
các Bộ, ngành sản xuất và Hiệp hội ngành hàng.
(3) Cho phép định hình lại nội dung hoạt động của các hiệp hội theo các
hướng chủ yếu sau:
- Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường nội
địa; cung cấp thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên.
- Xác định phương hướng liên kết và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên.
- Bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc
chống bán phá giá.
- Phản ánh ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển
sản xuất - kinh doanh ngành hàng lên các cơ quan Chính phủ.
- Hợp tác với các tổ chức, các hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị
thế và uy tín của ngành trong cộng đồng quốc tế.
(c) Giao các Bộ, ngành hữu quan xúc tiến việc thành lập một số Hiệp hội
mới như hiệp hội đối với ngành hàng cao su, một số ngành hàng thủ công mỹ
nghệ.
1.5. Về việc bị đánh thuế chống trợ cấp xuất khẩu: nếu bị đánh thuế chống
trợ cấp trực tiếp, ta có thể khắcphục tình trạnh trên bằng cách trợ cấp gián tiếp
như: tài trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tham gia hội chợ triển lãm ở
61
nước ngoài, cấp kinh phí cho các kháo đào tạo nhân lực...
2. Các giải pháp ở tầm vi mô
2.1. Chính sách khuyến khích sản xuất
- Chính sách đối với làng nghề
Nghề thủ công truyền thống của Việt nam được duy trì và phát triển chủ yếu
là ở các làng nghề. Cả nước có đến hàng ngàn làng nghề, có những làng nghề tồn
tại và phát triển hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm nay (nghề gốm bát tràng
có từ 500 năm, nghề kim hoàn 1.400 năm, nghề tơ lụa Hà Đông 1.700 năm).
Trong quá trình phát triển, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt: một số phát triển
mạnh và lan toả sang các vùng xung quanh (như nghề gốm, chạm khảm, chế biến
gỗ, mây tre đan); một số phát triển cầm chừng, không ổn đinh ( nghề đồ sành, đúc
đồng…); nhưng có những làng nghề gặp nhiều khó khăn ít có cơ hội phát triển (
nghề giấy gió, gò đồng, dệt thổ cẩm Chăm…) thậm chí đang trong quá trình suy
vong và có khả năng mất đi (như nghề giấy sắc, tranh dân gian, dệt quai thao…)
Để các ngành, nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần có các chính sách khuyến
khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau:
+ Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước
là các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp
luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất kinh doanh của
mình để tranh thủ, khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của
Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai.
Như vậy, trước hết cần phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất –kinh
doanh trong làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luật,hiểu biết các chính
sách và các thủ tục đã qui định để được hưởng các chính sách khuyến khích ưu
đãi hiện có sẽ được Nhà nước ban hành. Chính sách hỗ trợ ưu đãi của hà nước đối
với các đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống
62
là mặt hàng chủ yếu trong chính sách của Nhà nước đối với các làng nghề.
+ Làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị làm ăn có tính
phường, hội cần phát huy được nội lực của mình nhưng cũng cần được sự hỗ trợ
của Nhà nước để xử lý một số vấn đề như cơ sở hạ tầng, môi trường … như việc
Nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào của các khu công nghiệp (ở các
khu công nghiệp, Nhà nước bảo đảm đầu tư 100%).
Từ đó, đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính thực hiện
các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, bến bãi, đường dây tải
điện…), dự án xử lý các vấn đề về môi trường…tại khu vực làng nghề, cụ thể là
Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không
thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước.
Các làng nghề có xuất khẩu trên 30% giá trị sản lượng hàng hoá của mình thì
được UBND tỉnh, thành phố xem xét phê duyệt các dự án đàu tư thuộc lĩnh vực
nêu trên theo qui định của chính phủ và đưa vào dự án ngân sách củ tỉnh, thành
phố để được cấp vốn theo qui định hiện hành.
- Chính sách đối với nghệ nhân
Nghệ nhân, thợ cả có vai trò rất tích cực bảo tồn và phát triển ngành nghề
cũng như làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì
không có làng nghề hợac hoặc tí nhất thì cũng không thể có làng nghề phát triển,
làng nghề lừng danh.
Muốn duy trì và phát triển làng nghề truyền thống , Nhà nước cần có chính
sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ, hỗ trợ , khuyến khích họ phát huy tài năng phát
triển nghề, phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền
63
dạy cho con cháu, đào tạo làng nghề cho lao động sản xuất…
Ngay trong thời kỳ phong kiến ở nước ta, những nghệ nhân, thợ giỏi có công
sáng tạo các sản phẩm tinh xảo, những công trình nghệ thuật, kiến trúc nổi tiếng
thường được nhà vua phong các danh hiệu “Kỳ tài hầu”, “Hàn lâm đại chiếu”,
“Cửu phẩm bá hộ”…, được thưởng và hậu đãi. Và trong thời gian qua đã có tổ
chức xét phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và thưởng huy chương “bàn tay
vàng” cho những nghệ nhân, thợ giỏi.
Trước thực tế trên, đề nghị Chính phủ có chính sách và ban hành qui chế
chính thức về phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng”
kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi đạt tiêu chuẩn qui định. Tiêu
chuẩn để được phong tặng danh hiệu nghệ nhân có thể là:
+ Phải là thợ giỏi , có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật, kỹ
xảo riêng tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo; được đồng nghiệp thừa nhận
và suy tôn về trình độ tay nghề.
+ Có nhiều thành tích sáng tạo sáng tạo ra các sản phẩm có giá trị nghệ thuật
được xã hội công nhận (được giải thưởng trong các cuộc thi, triển lãm, sản phẩm
được đặt trong bảo tàng, công trình văn hoá) hoặc sản phẩm mang lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao (sản xuất với khối lượng lớn cho tiêu dùng và xuất khẩu, tạo
nhiều việc làm…). Có sáng kiến cảI tạo kỹ thuật sản xuất trong nghề, như sử dụng
nguyên liệu mới, cải tiến công cụ làm nghề, cải tiến thao tác kỹ thuật, có hiệu quả
trong lao động sản xuất…
+ Có thành tích truyền nghề, dạy nghề, tích cực tham gia sửa chữa, phục chế
các sản phẩm, công trình văn hoá, xây dựng công trình văn hoá mới theo yêu cầu
của Nhà nước.
Kiến nghị Chính phủ giao cho một cơ quan quản lý Nhà nước (Bộ văn hoá
thông tin hoặc Bộ Công nghiệp,…) hoặc Liên minh các hợp tác xã soạn thảo trình
Chính phủ ban hành chính sách và qui chế này. Sau khi có qui chế chính thức, cơ
64
quan này tiếp tục được giao hiệm vụ theo dõi, quản lý và tổ chức thực hiện. Việc
xét thưởng và phong thưởng danh hiệu nghệ nhân theo qui chế do Hội đồng ở
Trung ương thực hiện, có đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành tham gia, hoặc
chính phủ uỷ quyền cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập
Hội đồng xét duyệt theo qui chế chung.
- Nghệ nhân được phong tặng có quyền lợi sau:
+ Được thưởng bằng tiền khi nhận danh hiệu và huy chương
+ Được bồi dưỡng kiến thực về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng
mỹ thuật (miễn phí)
+Tuỳ theo nhuu cầu phát triển của từng ngành nghề, được Nhà nước tổ
chức cho đi thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài (miễn phí)
+ Được hưởng thù lao xứng đáng khi tham gia truyền nghề, dạy nghề và
được thưởng khi có thành tích xuất sắc.
+ Được Nhà nước bảo hộ qiuyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá.
+ Khi có sản phẩm độc đáo tinh xảo hoặc maaux mã hàng mới xuất khẩu
với khối lượng lớn thi được xét thưởng theo kết quả xuất khẩu thu được.
+ Trong trường hợp nghệ nhan, thợi giỏi tiếp xúc với khách hàng nước
ngoài chào bán và tìm được khách mua hàng theo mẫu mã mình sáng tạo ra thì
doanh nghiệp ký hợp đồng và xuất khẩu lô hàng đó phải trả thù lao về chuyển
giao quyền sở hữu công nghiệp (nếu có) hoặc tiền hoa hồng môi giới cho nghệ
nhân theo qui định của pháp luật, đồng thời nếu việc xuất khẩu có ý nghĩa, giá
trị kinh tế lớn thì nghệ nhân còn được Nhà nước xét thuởng thoả đáng.
+ Được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động của câu lạc bộ
nghệ nhân nhằm trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp.
Đối với việc đào tạo nghệ nhân, thợ giỏi cần được Nhà nước hỗ trợ như
sau:
65
+ Những người đã được phong danh hiệu nghệ nhân hoặc những thợ giởi đạt
trình độ xấp xỉ nghệ nhân do địa phương đề nghị, được Nhà nước hỗ trợ theo các
láơp bồi dưỡng kiến thức về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng mỹ thuật
theo chế độ miễn phí (vì nghệ nhân, thợ giỏi trưởng thành thông qua thực tế lao
động sản xuất và tiếp thu kinh nghiệm, bí quyết kỹ thuật gia truyền chưa được học
hành có bài bản nên sức sáng tạo bị hạn chế. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, nếu
nghện nhân thợ giỏi hợp tác gắn bó với hoạ sĩ thì sự sáng tạo trong nghề nghiệp,
sản xuất tăng lên gấp bội).
+ Nghệ nhân nào có thành tích đào tạo một nghệ nhân khác nối nghiệp mình
hoặc đào tạo thành công một thợ cả (trình độ xấp xỉ tiêu chẩn nghẹ nhân, được cơ
sở sản xuất suy tôn và địa phương xác nhận) thì được Nhà nước cấp bằng khen
hoặc trao huy chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truuyền thống” kèm
theo một khoản tiền hỗ trợ chi phí đào tạo dưới dạng một khoản tiền xứng đáng
(giá trị có thể là 50 triệu VNĐ).
+ Nhà nước cử nghệ nhân thợ giỏi ra nước ngoài tham quan khảo sát học hỏi
nghề nghiệp theo chế độ miễn phí vừa là quyền lợi của nghệ nhân như đa nêu ở
phần trên, vừa là một phương thức đào tạo nâng cao trình độ sáng tạo cho nghệ
nhân.
+ Việc thực hiện tốt chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi là một đảm bảo
duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền
thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của
dân tộc.
- Chính sách đối với lao động thủ công
Thợ thủ công trong các làng nghề truyền thống thường không học trong các
trường lớp mà chủ yếu các nghệ nhân, thợ giỏi truyền dạy nghề theo phương
pháp “cầm tay chỉ việc”, vừa làm vừa học”. Trong đó, những thủ pháp kỹ thuật ,
66
nghệ thuật, bí quyết nhà nghề thường các nghệ nhân, thợ cả chỉ truyền dạy cho
con cháu mình, không dễ lộ ra ngoàI, họ giữ gìn các bí quyết đó với ý thức đầy đủ
và cẩn trọng.
Trong lĩnh vực khác thường được Nhà nước đầu tư xây dựng các trường dạy
nghề , vậy Nhà nước cũng cần có các chính sách hỗ trợ đào tạo thợ thủ công trong
các ngành nghề truyền thống phù hợp với đặc điểm nêu trên. Để thực hiện yêu cầu
này có thể áp dụng các chính sách – biện pháp sau:
+ Mở trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi (tỉnh, thành) có nhu cầu hoặc
mở thêm khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng kỹ thuật hiện có để
đào tạo thợ phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các
làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước
hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm
đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi
phí về giảng dậy như mời giảng viên và nghệ nhân giảng bàI và hướng dẫn thực
hành, các chi phí thí nghiệm (nếu có)…
Nếu không làm được như trên thì nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ quỹ hỗ
trợ việc làm (vốn ngân sách cấp cho chương trình hỗ trợ việc làm hàng năm của
nhà nước) để các cơ sở sản xuất, nhât slà các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ
chức việc đào tạo nghề. Kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc
theo kết quả đào tạo nghề do UBND tỉnh, thành xét duyệt.
- Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ:
Để tạo diều kiện cho các cơ sở sản xuất –kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
tiếp cận thuận lợi hơn nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất lkà một số
nguyên liệu như gỗ, song, mây, tre, lá….. ; đề nghị cho áp dụng một số chính
67
sách-biện pháp sau:
+ Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các Bộ, ngành và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp,
đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa
phương mình quản lý (trên cơ sở hạn mức chung do thủ tướng chính phủ phê
duyệt), đề nghị ưu tiên giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản
phẩm gỗ mỹ nghệ. Tuy nhiên, các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ
nguyên liệu cho các hợp đồng đó thì mới được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho
năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao
nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm.
+ Đối với các loại nguyên liệu khác, như song mây, tre lá… các đơn vị khai
thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ
trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu (mây vườn…) phục vụ xuất
khẩu (giao đát, giảm tiền thuê đất hoặc tiền thuế sử dụng đất…) Tại Philippin,
chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty tư nhân lập nông trang trồng mây 6.000 ha,
nay đã có thu hoạch với giống mây đường kính lớn, giá trị thương mại cao. Nhà
nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung
ứng cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liẹu gỗ, nguyên liệu cho
ngành sản xuất gốm sư…, vì các cơ sở sản xuất thường không đủ khả năng vốn và
kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp này. Nguyên liệu được khai thác, xử lý
đúng qui trình công gnhệ vừa đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng
nguyên liệu đầu vào do đó nần cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh hàng hoá của ta trên thị trường thế giới.
2.2. Chính sách tài chính, tín dụng khuyến khích sản xuất và xuất khẩu
+ Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ (sửa
đổi, bổ sung Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999).
68
Theo hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành, những dự án đầu tư
sản xuất kinh doanh nội địa các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề
truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác
không thuộc các ngành nghề truyền thống. Nhưng trong xuất khẩu (nếu xuất khẩu
đạt giá trị trên 30% giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp), thì
không có sự khác biệt.
Vì vậy kiến nghị: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống
theo qui định trong trường hợp có xuất khẩu đạt trên 30% giá trị của đơn vị sản
xuất – kinh doanh, tức là đạt 2 nội dung được ưu đãi qui định trong danh mục A,
thì cho hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, thí dụ:
Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề
truyền thống (thuộc danh mục A), có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 50% cho bốn bước tiếp theo;
Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% (tức là đạt nội dung khác của danh
mục A), thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, tức là miễn ba năm thuế thu
nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho 5 năm tiếp theo.
+ Sửa đổi bổ sung các qyu định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãI
Theo nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của chín phủ về tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước, chỉ những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn (trong
đó có dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao
động) mới được vay vốn từ quỹ Hỗ trợ phát triển Nhà nước.
Vì vậy, kiến nghị chính phủ mở rộng cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án
đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống
đã được quy định trong danh mục A, không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào;
đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” quy
69
định tại Nghị định 43 nêu trên, hoặc được Quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất thì còn có thể được
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu Quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng
xuất khẩu.
Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các ngành nghề truyền thống
(theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành
lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ.
Hiện nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu
vốn, không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức
sản xuất kinh doanh.
Để khuyến khích khai thác các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn
hàng cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu
đạt mức từ 50 ngàn USD trở lên kiến nghị Chính phủ cho hưởng các ưu đãi về
vốn kinh doanh như sau:
+ Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất - kinh doanh theo hợp
đồng đã ký,
+ Sau khi thực hiện hợp đồng, được uỹ Hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc
quỹ Hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo qui định taị Nghị định 43/1999/NĐ- CP
ngày 29/6/1999, tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay của Ngân
hàng.
+ Đồng thời, các nhà sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu cũng được hưởng
các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp qui định tại điều 27 Nghị định
5/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật
khuyến khích đầu tư trong nước, tức là các ưu đãi bổ sung về thuế đối với nhà đầu
tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
70
2.3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu
+ Chính sách hỗ trợ công tác tiệp thị và xúc tiến thương mại
Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh như đã trình bày ở trên, kiến
nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến, tiếp thị mở rộng thị
trường xuất khẩu. Hơn nữa, trong thương mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước
nào không dành một nguồn kinh phí nhất định từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho
công tác xúc tiến thương mại, nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Cụ thể ,
Nhà nước hỗ trợ các hình thức sau:
a. Hỗ chợ 50% chi phí thuê gian hàng cho sở sở sản xuất kinh doanh hàng thủ
công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. 50% chi phí còn lạiđược
hỗ trọ nếu đơn vị nào ký được hợpđồng xuất khẩu với trị giá trên 50 ngàn
USDtrong thời gian hội chợ diễn ra.
Viẹc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với doanh nghiệp từ một trung tâm
xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ
tổ chức tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế.
b. Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại
một số nơi ở nước ngoài tương tự như "Việt Nam Square" tại Osaka, Nhật Bản
(có thêm ở vùng Trung Đông, Pháp hoặc Đức, Nga, Hoa Kỳ hoặc Canada, mỗi
nơi một trung tâm).
Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê
để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công
mỹ nghệ được miễn phí.
c. Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc
dẩy xuất khẩu. Hàng năm trên thế giưoí có rất nhiều lễ hội, nếu nắm bắt được nhu
cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu của từng lễ hội thì có thể bán được
nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của các dân tộc ở nước ta.
Để có thể triển khai xuất khẩu phục vụ các nhu cầu lễ hội và Noel của các
71
nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, kiến nghị:
- Ở những nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ
tìm hiểu khảo sát nhu cầu phụ vụ lễ hội và Noel tại địa bàn. Khi phát hiện nhu cầu
và tìm được đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu
mã hàng chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và
giao hàng. Chí phi cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ
100%. Nếu ký được hợp đồng có giá trị thì được xét thưởng.
- Ở những nơi nước ta chưa có cán bộ thương mại thường trú thì giao cho
Ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm quảng cáo của Bộ nghiên
cứu, có kế hoạch cử nhóm công tác (bao gồm hoạ sĩ, nghệ nhân, cán bộ kinh
doanh ngành hàng) đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán hàng theo cơ
chế chính sách nêu trên.
d. Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc hoa hồng môi
giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả khoản tiền này theo mức thoả
thuận khi ký và thực hiện hợp đồng xuất khẩu (việc môi giới được thực hiện
thông qua hợp đồng môi giới).
e. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc khai thác các hoạt động
quốc tế như hội thảo, biểu diễn thảo tác nghề nghiệp…nhằm mở rộng phát triển
ngành nghề truyền thống, phục vụ xuất khẩu. Ví dụ như tại Achentina vào tháng 4
hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ và gần 700 nghệ nhân của
các nước được mời tham gia biểu diễn, thao tác nghề, có gian hàng trưng bày
miễn phí cho nghệ nhân…Tuỳ trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ kinh
phí cho các nghệ nhân Việt nam tham gia các hoạt động này; kết hợp với việc giới
thiệu mẫu mã hàng hoá. Hơn nữa, nghệ nhân có thể chào bán, ký kết các hợp
đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các Công ty sản xuất kinh doanh trong nước,
được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp
72
đồng xuất khẩu ký được.
2.4. Chính sách thưởng xuất khẩu
Theo qui định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/ năm trở lên.
Đây là một tiêu chuẩn quá cao và khó có doanh nghiệp nào đạt được tiêu chuẩn để
đưa vào diện được xét thưởng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích cự tham gia đẩy mạnh
xuất khẩu, đồng thời cũng là cách hỗ trợ vượt qua những khó khăn trong sản xuất
kinh doanh; kiến nghị cho áp dụng tiêu chuẩn kim ngạch xét thưởng ở từ mức 2
triệu USD/năm trở lên; vì nếu có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt mức kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên 2 triệu USD/năm, thì đó là điều
đáng mừng. Vả lại, nếu có được thưởng thì doanh nghiệp cũng chỉ được hưởng 1
lần trong cả cuộc đời tồn tại của mình; còn sau đó nếu doanh nghiệp duy trì và
phát triển tốt để được xét thưởng tốt thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu đạt mức qui định. Mức hiện hành là 20%/năm đối với toàn
bộ kim ngạch của đơn vị năm sau so với năm trước.
KẾT LUẬN
*******************
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đang bước vào một nền kinh tế mới. Đó là
nền kinh tế dựa trên nền tảng của tri thức và công nghệ. Môi trường thương mại
quốc tế đã có những thay đổi căn bản trước làn sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá,
tự do hoá và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ...Những thay đổi cơ bản của môi trường thương mại quốc tế một mặt tạo ra
những cơ hội to lớn cho sự phát triển của các quốc gia, nhưng mặt khác lại đặt các
nước trước thách thức lớn nhất cho phát triển, đó là cạnh tranh khốc liệt hơn bao
73
giờ hết. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh sống còn này, các nước, khi
tham gia thương mại quốc tế, phải có các chiến lược phát triển xuất khẩu thích
ứng và tiến hành các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu phù hợp.
Điều này càng đúng với Việt nam khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng hội nhập vào nền kinh tế thế
giới và khu vực. Mục tiêu nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu tăng gấp hợ hai lần nhịp
độ tăng trưởng GDP trong chiến luức phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 có
thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào những nỗ lực phát triển xuất khẩu của
Nhà nước và các doanh nghiệp Việt nam trong việc tranh thủ tối đa các cơ hội
mới mở ra từ môi trường kinh doanh quốc tế và vượt lên những thách thức của
cạnh tranh khốc liệt. Chính vì vậy, việc chú trọng vào trợ cấp xuất khẩu càng trở
nên quan trọng và cũng là lý do khiến tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài "Trợ cấp
xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập".
Những đóng góp của bản khoá luận cho trợ cấp xuất khẩu của Việt nam
được thể hiện ở những điểm mà tác giả tóm tắt sau đây:
- Nêu ra các hình thức trợ cấp xuất khẩu chủ yếu của một số nước có điều
kiện tương tự Việt nam đã áp dụng;
- Phân tích những thành tựu và tồn tại của trợ cấp xuất khẩu Việt nam đã
áp dụng trong thời gian qua;
- Nêu ra những thuận lợi và thách thức đối với việc áp dụng trợ cấp xuất
khẩu khi gia nhập thị trường quốc tế
Để từ đó rút ra kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ
cấp xuất khẩu trong điều kiện hôi nhập.
Hoàn thành bản khoá luận này, em hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ
74
bé để các cơ quan nghiên cứu thương mại có thể đánh giá đúng những mặt tốt và
chưa tốt trong quá trình thực hiện vừa qua, đưa ra một số gợi ý để các cơ quan
nghiên cứu thương mại nghiên cứu tham khảo. Hy vọng trong điều kiện hội nhập,
Việt nam sẽ đạt được nhiều thành tựu và mở rộng các mặt hàng xuất khẩu quan
trọng và, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu ra những chính
sách trợ cấp xuất khẩu hiệu quả, hợp pháp trong tiến trình hội nhập.
*********************************
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
ΘΘΘ
- Báo cáo tổng kết của vụ XNK - Bộ thương mại 2002.
- Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001
- Giáo trình Thanh toán quốc tế . Chủ biên: PGS.NGƯT.Đinh Xuân Trình
- Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh
75
ngoại tệ - Tác giả: Lê Văn Tư & Lê Tùng Vân, NXB: Thống kê.
- Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 Chủ biên:
PTS. Phạm Quyền & PTS. Lê Minh Tâm.
- Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam 2001- 2010.
- Quyết định 195/ 1999/ QĐ - TTg về quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
- Viện nghiên cứu thương mại, Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt
nam, Hà Nội năm 1999
- Thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế, hà nội, 1999
- KS.Vũ Lưu, báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ “ Cơ sở khoa học về chiến
lược hỗ trợ xuất khẩu cho các hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt
nam”, Hà nôi, 1999
- Luận án tiến sĩ " Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp
chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở Việt nam hiện nay" của Nguyễn Thị Hồng Minh,
76
thứ trưởng Bộ Thuỷ sản, 1996.