TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG --------------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Tên đề tài : Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Học sinh thực hiện: Lê Thuỳ Giáng Hương. Lớp A1 Chuyên nghành 9 Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Kim Oanh

Hà Nội - 2003

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU....................8 I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu......................................................................8

MỤC LỤC

1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu...............................................................8

2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu..............................................................8

II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu.......................................................................9

1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu

đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước.........................................................10

2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của

doanh nghiệp.......................................................................................... 11

III. Kinh nghiệm về trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với

Việt Nam.....................................................................................................

........12

1. Các hình thức trợ xuất khẩu cấp chủ yếu các nước đã áp dụng................12

a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật bản...............................................................12

b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc.............................................................12

c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan...............................................................14

d. Trợ cấp xuất khẩu của Philippin...............................................................15

1

2. Những gợi ý đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập.......................17

I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm gần đây ...21

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam................................................25

1. Một số thành tựu đã đạt được......................................................................26

1.1. Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003...................................................26

1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu...............................................................34

1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.......35

1.4. Về chi phí giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp.................................35

1.5. Điều chỉnh một số quy định về GTGT.....................................................36

1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu.....................36

1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ..............36

2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam ...........................39

I. Cơ sở đề ra giải pháp...................................................................................46

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

1. Những thuận lợi và khó khăn......................................................................46

2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.. ....50

3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu.............................................52

2

II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở Việt

nam..................................................................................................................54

1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô...........................................................................54

2. Các giải pháp ở tầm vi mô..........................................................................59

70

KẾT LUẬN Danh mục tài liệu tham khảo

3

72

DANH MỤC VIẾT TẮT

Thuế chống trợ cấp (thuế đối kháng)

CVD

Bộ Thương mại Hoa kỳ

DOC

Uỷ ban châu Âu

EC

Liên minh châu Âu

EU

Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ

GATS

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

GATT

Quỹ Tiền tệ quốc tế

IMF

Uỷ ban Thương mại quốc tế của Hoa kỳ

ITC

MOFTEC

Bộ Ngoại Thương và Hợp tác kinh tế Trung quốc

Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế

OECD

SCM

Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO

SETC

Uỷ ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước Trung quốc

Ngân hàng Thế giới

WB

Tổ chức Thương mại Thế giới

WTO

4

LỜI NÓI ĐẦU ******************

Lịch sử phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với sự hình thành và

phát triển của hoạt động xuất khẩu. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển

sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực,

Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để làm động lực

thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đẩy mạnh xuất

khẩu, Nhà nước phải có những biện pháp chính sách khuyến khích ở mức cao

nhất các ngành sản xuất cho xuất khẩu, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình

xuất khẩu và quốc tế hoá nhằm phát huy mọi tiềm năng và nội lực của đất nước,

đồng thời khai thác tối đa sự hỗ trợ và hợp tác của cộng đồng quốc tế. Trợ cấp

xuất khẩu trở thành một công cụ vô cùng quan trọng trong việc thực hiện các mục

tiêu này.

Trợ cấp xuất khẩu càng trở nên cần thiết khi nhịp độ tăng trưởng kinh tế

của Việt Nam năm 1998 lần đầu tiên từ năm 1990 trở lại đây có dấu hiệu chững

lại chỉ đạt mức chưa đầy 6% còn tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt mức 1,9% là mức

thấp nhất kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế và thậm chí

vào quý I năm 1999, xuất khẩu còn giảm...Tuy xuất khẩu đã phục hồi tương đối

mạnh mẽ thời gian từ quý II/1999 đến nay, nhưng chúng ta chưa tạo ra được một

nền tảng chắc chắn để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Sự chững lại

nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu một số sản phẩm chính của Việt nam như dệt may,

giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ...năm 2001 chứng tỏ điều này. Như vậy, yêu

cầu thực tế đặt ra là chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới

phải đảm bảo sự tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững.

5

Trong thời gian ngắn đến tham khảo tài liệu và học hỏi tại Viện nghiên cứu

thương mại - Bộ thương mại, tác giả nhận thấy trợ cấp xuất khẩu là việc hết sức

quan trọng trong mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là đối với các doanh

nghiệp xuất khẩu còn non nớt trên thương trường quốc tế, thiếu kinh nghiệm,

thiếu điều kiện tài chính khi hội nhập quốc tế.

Với những gì đã học hỏi được từ Bộ thương mại cùng vốn kiến thức được

trang bị trong 4 năm học taị trường, tác giả đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề

tài :

Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập

Mục đích ngiên cứu của đề tài:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trợ cấp xuất khẩu của

Việt nam trong điều kiện hội nhập.

- Phân tích những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp

để nâng cao hiệu quả của trợ cấp xuất khẩu.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đề tài tập trung nghiên cứu một số chính sách trợ cấp xuất khẩu trên

phương diện lý luận và thực tiễn trong thời kỳ nước ta thực hiện đường lối đổi

mới chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và

đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu ủa trợ cấp xuất khẩu trong điều kiện hội

nhập.

Phương pháp nghiên cứu:

- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh ,

khái quát hoá và tổng hợp để nghiên cứu.

- Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có

điều kiện tương đồng với Việt nam để giải quyết các vấn đề nêu ra trong đề tài.

Kết cấu, nội dung của đề tài:

6

Đề tài "Trợ cấp xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập" được

trình bày theo kết cấu sau:

Mục lục

Lời nói đầu

Chương I: Cơ sở lý luận của trợ cấp xuất khẩu

Chương II: Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam và thách thức khi

gia nhập tổ chức thương mại thế giới

ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở

Việt nam trong điều kiện hội nhập

Kết luận

7

Danh mục tài liệu tham khảo

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU

I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu

1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu

Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng cho

hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh

xuất khẩu. Do đó, căn cứ để trợ cấp thông thường là lượng hàng hóa xuất khẩu

thực sự hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của Chính

phủ theo đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu

được. Tuy nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực xuất khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ cấp xuất

khẩu mà còn cần xem xét đến một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ

quả là hàng xuất khẩu được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên

thị trường nội địa của nước xuất khẩu.

Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp

sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác,

hàng hoá được trợ cấp phải là hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài.

Doanh nghiệp được trợ cấp phải là doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt ưu tiên các

đơn vị sản xuất hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ và những hàng hoá Việt Nam

có ưu thế so sánh . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.

2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu về lý thuyết chung của Việt nam

- Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch,

hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả

chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu.

- Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất

khẩu, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng

8

xuất khẩu.

- Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất

khẩu.

- Đối với thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lơn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn,

thưởng xuất khẩu.

- Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất

sau đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch,

hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.

- Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo

kim ngạch xuất khẩu.

- Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo

tỷ lệ nội địa hoá.

- Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư,

thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng.

- Tàu biển 11.500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 CV, máy thu hình màu,

máy vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh

nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền thuê đất

- Sản phẩm phần mềm: Ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu

nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế

nhập khẩu nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất

- Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

- Sản phẩm dệt may: Vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của

Chính phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương

mại

9

- Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu

- Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để

mua hàng hoá phụcvụ sản xuất xuất khẩu.

II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu

1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu đẩy

mạnh xuất khẩu của đất nước.

Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh

nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế-xã hội

nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay

ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của

nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Quyết định trợ cấp của

chính phủ thường được đưa ra nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng nhất định

có vai trò chi phối và ảnh hưởng chính trị lớn đối với chính phủ.

Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp

thông qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả

năng cạnh tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải

thiện và nâng cao.

Ví dụ ngành sản xuất bút bi của Việt Nam sản xuất mỗi chiếc bút với chi

phí là 1.000 đồng, trong khi bút bi nhập ngoại được bán tại Việt Nam với giá 900

đồng/ chiếc. Rõ ràng là bút bi ngoại có khả năng cạnh tranh cao hơn bút bi Việt

Nam. Giả sử chính phủ Việt Nam trợ cấp 200 đồng cho mỗi chiếc bút bi sản xuất

trong nước. Khi đó, giá bút bi Việt Nam bán ra có thể rẻ hơn trước kia tới 200

đồng/ chiếc, và thấp hơn giá bút bi nhập khẩu. Như vậy, nhờ có trợ cấp của chính

phủ, ngành sản xuất bút bi của Việt Nam có thể cạnh tranh với hàng nhập ngoại

và thậm chí có thể đẩy lùi bút bi nhập khẩu tại thị trường trong nước.

Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội

địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ

10

WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa.

Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô,

yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh

tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của

ngành. Đối với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi

phí rất cao trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi với những công ty “đàn anh”

đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những

khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển

ổn định.

Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất

nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành

cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản.

Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh

chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng

thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường

thương mại quốc tế tạo ra.

Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất

kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt

động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu

kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc

đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích xuất khẩu các sản

phẩm có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài.

2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh

nghiệp.

Các nước áp dụng trợ cấp xuất khẩu vì nhiều lý do. Có nước lập luận trợ cấp

xuất khẩu để đảm bảo công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó khăn, v.v... Tuy

11

nhiên, mọi lý do biện minh cho trợ cấp xuất khẩu xét cho cùng cũng đều hướng

tới mục tiêu thực sự là để đẩy mạnh xuất khẩu thông qua tác động trung gian là

cải thiện lợi thế cạnh tranh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, v.v... Trợ cấp

xuất khẩu có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức, từ thưởng theo kim ngạch

xuất khẩu đến cho vay với lãi suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu hay áp dụng thuế

suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi với ngành nghề xuất khẩu, v.v... Về lý

thuyết, nhờ có trợ cấp xuất khẩu, thị phần sản phẩm liên quan của nước xuất khẩu

trên thị trường thế giới có thể được mở rộng hơn mức hợp lý mà thực lực nước

xuất khẩu có thể tự mình giành được không có sự can thiệp của trợ cấp xuất khẩu.

Trợ cấp xuất khẩu làm cho hàng xuất khẩu sang nước khác (nước nhập khẩu)

có lợi thế cạnh tranh hơn. Nhờ có trợ cấp, hàng nước ngoài xuất sang thị trường

nước nhập khẩu sẽ tăng đáng kể về lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với lượng

sản xuất trong nước của nước nhập khẩu. Hoặc giá hàng hóa nhập khẩu được trợ

cấp có thể sụt mạnh so với giá sản phẩm tương tự do nước nhập khẩu sản xuất.

Hoặc nữa là hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp sẽ chèn ép giá sản phẩm

cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu hay ngăn cản không cho giá tăng trong

khi lẽ ra theo quy luật thị trường bình thường thì giá phải tăng.

Trợ cấp xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được

trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị

trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này.

Với lợi thế cạnh tranh nhờ trợ cấp hàng xuất khẩu của nước trợ cấp có thể

đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước khác và chiếm được thị phần

vượt mức hợp lý trong thương mại xuất khẩu thế giới.

III. Kinh nghiệm trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt Nam

1. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu các nước đã áp dụng

a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật Bản

12

Nhận thức rõ sự cấp thiết về việc thoả mãn nhu cầu ngoại tệ mạnh và sự

phát triển nền kinh tế độc lập sau thời kỳ chiến tranh nên Chính phủ Nhật Bản đã

thực thi các biện pháp trợ cấp xuất khẩu quốc gia sau:

- Hỗ trợ tài chính và thuế của Chính phủ cho xuất khẩu

Tháng 4/952 Ngân hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản được tổ chức trở lại

và trở thành một tổ chức tài chính của Chính phủ với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho

xuất khẩu của các tổ chức tài chính tư nhân. Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản

có thể tài trợ hoặc phối hợp với các ngân hàng tư nhân khác đồng tài trợ cho các

hoạt động liên quan đến xuất khẩu cần đến nguồn vốn đặc biệt mà khả năng tài

chính thông thường không tài trợ được. Các hoạt độngcủa ngân hàng xuất nhập

khẩu bao gồm: Hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu phương tiện vận tải, máy công

nghiệp; Chiết khẩu cho các tổ chức tài chính; Cho các chính phủ và công ty nước

ngoài vay tiền để nhập khẩu hàng của Nhật Bản...

Hệ thống giảm thuế thu nhập từ xuất khẩu dược xây dựng như một hệ

thống thuế hỗ trợ xuất khẩu, nhưng hệ thống này đã bị xoá bỏ khi Nhật Bản gia

nhập GATT năm 1964.

- Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản

Mục đích của bảo hiểm xuất khẩu là đảm bảo cho ự phát triển lành mạnh

của hoạt động xuất khẩu và các thương vụ khác với nước ngoài thông qua việc

bảo hiểm những rủi ro mà các bảo hiểm thông thường không thể bảo hiểm được.

Chính phủ Nhật bản trực tiếp bảo lãnh hệ thống bảo hiểm này và mở một

tài khoản đặc biệt cho hoạt động bảo hiểm xuất khẩu. Hệ thống bảo hiểm này

được thành lập năm 950 theo luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hiện nay bao gồm:

bảo hiểm xuất khẩu thông thường; bảo hiểm thay đổi giá xuất khẩu; bảo hiểm

thay đổi tỷ giá hối đoái; bảo hiểm thanh toán xuất khẩu; bảo hiểm vận chuyển

hàng hoá xuất khẩu và bảo hiểm quảng cáo ở nước ngoài.

13

- Hệ thống kiểm tra xuất khẩu

Hệ thống kiểm tra xuất khẩu đã đóng góp rất lớn vào việc cải thiện hình

ảnh và chất lượng hàng xuất khẩu Nhật Bản. Hệ thống kiểm tra xuất khẩu bao

gồm 37 cơ quan kiểm tra có thẩm quyền, tiến hành các hoạt động:

+ Kiểm tra chất lượng hoặc kiểm tra phần cơ bản của sản phẩm;

+ Kiểm tra đóng gói bao bì: kiểm tra các điều kiện bao gói để đảm bảo chất

lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển;

+ Kiểm tra nguyên liệu để chế tạo sản phẩm

+ Kiểm tra trong quá trình sản xuất để đảm bảo hoàn thiện quá trình kiểm

tra chất lượng thành phẩm xuất khẩu.

- Thành lập tổ chức thương mại Nhật Bản nhằm xúc tiến xuất khẩu bao

gồm các hoạt động:

+ Nghiên cứu thị trường;

+ Cung cấp thông tin thương mại;

+ Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế;

+ Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát

hành các ấn phẩm và các tờ rơi;

+Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ;

+ Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo

về thị trường nước ngoài;

b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc:

Sang đầu những năm 1960, việc Mỹ thực hiện cắt giảm các khoản viện trợ

đã buộc chính phủ Hàn Quốc phải tìm nguồn ngoại tệ khác để thay thế là lý do

14

quan trọng dẫn đến việc chính phủ Hàn Quốc chuyển chính sách thương mại từ

thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu.

Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng những biện pháp trợ cấp xuất khẩu sau:

- Về thuế: + Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu;

+ Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu;

+ Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị

để sản xuất hàng xuất khẩu.

- Về tài chính :

+ Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất

khẩu;

+ Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi ;

+ Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu;

+ Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu.

- Về mặt thể chế, tổ chức

+ Ban hành luật xúc tiến các nghành công nghiệp xuất khẩu, ví dụ như việc

ban hành luật xúc tiến nghành công nghiệp điện tử năm 1969;

+ Hình thành nên tổ chức thương mại và đầu tư Hàn Quốc năm 1962.

Do áp dụng các chính sách trợ cấp khuyến khích xuất khẩu nên tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu của Hàng Quốc hàng năm đạt 35% thời kỳ 1963-1969, chủ yếu

là do tăng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt

may, giày dép, dụng cụ thể thao, du lịch, da...trong thời kỳ 1962-1970, tỷ trọng

các sản phẩm này trong xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng từ 5% lên 69%.

c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan

Thái lan có một số chương trình trợ cấp cho mặt hàng gạo của mình

15

- Tín dụng giúp tạm trữ gạo: Đây là chương trình được Ngân hàng nông nghiệp

và hợp tác xã nông nghiệp (BAAC) cùng với hệ thống kho hàng hàng công

(PWO) thực hiện. Theo chương trình này, nếu gạo được trữ tại hệ thống kho của

nhà nước (PWO) thì có thể thế chấp để vay tín dụng ưu đãi. Mục tiêu của chương

trình này là nhằm giúp nông dân dự trữ gạo khi giá xuống thấp (thường là ngay

sau khi thu hoạch) và bán lại khi giá cao.

- Tín dụng giúp nông dân, nhà buôn gạo, cơ sở xay sát chế biến gạo nhằm bình

ổn giá gạo: Thái lan có nhiều chương trình thực hiện qua Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài

chính, Bộ Thương mại v.v... giúp đỡ nông dân và các nhà kinh doanh, chế biến

gạo để giúp ổn định giá gạo trong nước. Các chương trình này chủ yếu được thực

hiện thông qua vay ưu đãi với lãi suất thấp, có khi là 0%.

Nhờ kiên trì thực hiện chính sách tự do hoá thương mại và hỗ trợ xuất khẩu,

trong hơn 40 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan đã tăng từ 93 triệu

USD năm 1957 lên 62 tỷ USD năm 2000; tức là tăng gấp hơn 320 lần. Chính sự

phát triển xuất khẩu ngoạn mục này đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế năng

động của Thái Lan cho tới trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997.

Chính phủ Thái lan đã nhanh chóng thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu

Thái Lan nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau:

- Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu;

- Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc

bán các sản phẩm của Thái Lan ra thị trường Quốc tế;

- Cung cấp thông tin và dịch vụ thương mại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu Thái

Lan;

- Nâng cao trình độ nghiệp vụ kỹ thuật cho các nhà xuất khẩu Thái Lan;

- Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các

16

sản phẩm của Thái Lan;

- Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Thái Lan gặp phải;

- Phối hợp với các tổ chức trong nước và Quốc tế để đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu

của Thái Lan;

- Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng;

- Xây dựng các trang Web thương mại;

- Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ

và giới kinh doanh tư nhân;

- Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm,

phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan;

- Thuê đội ngũ cán bộ giảng dạy là các chuyên gia giỏi cả ở trong nước và nước

ngoài tham gia các chương trình đào tạo;

- Phát triển sản phẩm xuất khẩu;

- Tổ chức các cuộc thi và trao phần thưởng, thiết kế mẫu mã , bao bì, đóng gói sản

phẩm;

- Tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm;

- Tiến hành các hoạt động tuyên truyền quảng cáo nhằm mục tiêu xuất khẩu.

Toàn bộ chi phí cho những hoạt động trên đều do Ngân sách của nhà nước.

d. Trợ cấp xuất khẩu ở Philippin

Trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động hiện nay, xuất khẩu

của Philippin vẫn đạt được mức tăng trưởng khá cao và ổn định nhờ có một chính

sách trợ cấp xuất khẩu năng động và hiệu quả.

Chính phủ Philippin xây dựng cơ sở pháp lý mới ưu tiên phát triển xuất

khẩu: - Đạo luật phát triển xuất khẩu được ban hành năm 1994 quy định việc xây

17

dựng kế hoạch chiến lược phát triển xuất khẩu phải do Chính phủ đảm nhận với

sụ tham gia của các cơ quan hữu quan của chính phủ. Các chính sách kinh tế vĩ

mô được triển khai để hỗ trợ cho các nỗ lực xuất khẩu của đát nước;

- Chính thức coi phát triển xuất khẩu là một bộ phận cấu thành của chiến lược

phát triển kinh tế quốc gia.

2. Những gợi ý đối với Việt Nam

- Nhà nước nên quy định chế độ thưởng cao về kim ngạch xuất khẩu cho những

doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng nông sản như: gạo, lạc nhân, cà phê, rau,

hoa quả...và các hàng thủ công mỹ nghệ.

- Về chính sách thuế:

+ Miễn thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu;

+ Giảm 50% thuế thu nhập từ xuất khẩu;

+ Giảm thuế quan cho nhập khẩu nguyên liệu & máy móc thiết bị để sản

xuất hàng xuất khẩu.

- Về tài chính :

+ Hỗ trợ tài chính cho nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu;

+ Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi.

- Thành lập ra Vụ xúc tiến xuất khẩu nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ sau:

a. Chức năng : Xúc tiến xuất khẩu nhằm vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu

của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Để đạt được những mục tiêu xuất khẩu cụ

thể cho thời kỳ 2001 -2010 đòi hỏi những nỗ lực vựơt bậc trong công tác xúc tiến

xuất khẩu của cả Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại vàcác doanh nghiệp.

Như vậy, nếu như xuất khẩu giữ vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh

tế của đat nước thì xúc tiến xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu và có tác động

18

quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế nước

nhà.

b. Yêu cầu và nhiệm vụ: Xúc tiến xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động mới

mẻ ở Việt nam. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án "Hỗ trợ xúc tiến thương

mại và xuất khẩu" ở Việt Nam do các chuyên gia Trung tâm thương mại quốc tế

thực hiện thời gian 1998-1999 đã nêu ra những hạn chế về nhận thức, hiểu biết và

năng lực thực hiện yếu của các cơ quan chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại

và các doanh nghiệp Việt nam trong lĩnh vực liên quan tới hoạt động xúc tiến

thương mại vànhững yêu cầu bức xúc phải tăng cường các mối liên hệ giữa cộng

đồng kinh doanh, các tổ chức thương mại nhà nước và tư nhân với các cơ uan

chính phủ để thực hiện phát triển thương mại và xúc tiến xuất khẩu trong điều

kiện môi trường kinh doanh quốc tế mới. Báo cáo cũng nêu rõ những yếu kém của

các cơ quan của chính phủ trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của các doanh

nghiệp về các vấn đề như chính sách thuận lợi hoá thương mại, các dịch vụ hỗ trợ,

phát triển nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác...Từ những thực tế này yêu

cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ phải là:

+ Nâng cao nhận thức và hiểu biếtvề hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong

môi trường kinh doanh quốc tế toàn cầu hoá;

+ Tăng cường năng lực xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược

xuất khẩu quốc gia cũng như các chiến lược xuất khẩu ngành;

+ Xây dựng mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiện đại, đảm bảo

thông tin thông suốt cho mọi đói tác liên quan;

+ Xây dựng năng lực thể chế và tăng cường năng lực chuyên môn về xúc

tiến xuất khẩu;

+ Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động thương mại và xúc tiến xuất

khẩu;

19

+ Nghiên cứu thị trường;

+ Cung cấp thông tin thương mại;

+ Tổ chức hội chợ và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế;

+ Giới thiệu các sản phẩm và các ngành nghề Nhật bản thông qua việc phát

hành các ấn phẩm và các tờ rơi;

+Cung cấp các dịch vụ tư vấn thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ;

+ Xuất bản tờ tin thương mại hàng ngày, các báo cáo kinh tế và các báo cáo

về thị trường nước ngoài;

+ Thành lập quĩ xúc tiến xuất khẩu;

- Triển khai và xây dựng các kế hoạch xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu;

- Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc

bán các sản phẩm của Việt nam ra thị trường Quốc tế;

- Hỗ trợ việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hay hỗ trợ thiết kế các

sản phẩm của Việt Nam;

- Đưa ra các giải quyết các khó khăn mà xuất khẩu của Việt nam gặp phải;

- Xây dựng mục tin nhanh về xuất khẩu trên mạng;

- Xây dựng các trang Web thương mại;

- Tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại Quốc tế cho các quan chức chính phủ

và giới kinh doanh tư nhân;

- Mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao về xuất khẩu, về phát triển sản phẩm,

20

phát triển thị trường cho các đối tượng liên quan.

21

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN KHI GIA NHẬP WTO

I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần

đây

Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất nhập

khẩu đã góp phần xứng đáng của mình vào những thành tựu to lớn và rất quan

trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung

và trong 10 năm qua nói riêng.

Những nhiệm vụ đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội

1991-2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được hoàn thành về cơ bản. Điều đó

thể hiện trước hết trong việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao.

Giai đoạn 1991 - 2000 đi vào lịch sử gắn với thành tựu lớn về tăng kim

ngạch xuất khẩu, đóng góp phần xứng đáng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

suốt thời kỳ này. Từ 1991 đến nay, bình quân tăng 2,5 - 3% xuất khẩu góp phần

làm tăng 1% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm ở mức cao,

kim ngạch năm 1998 gấp khoảng 4,5 lần kim ngạch năm 1991, giai đoạn 1991 -

1995 tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm tới 28%, năm 1996 đạt kỷ lục

33,1% và năm 1997 - 22,7%, song năm 1998 chỉ tăng 1,9% - mức tăng thấp nhất

trong vòng 7 năm trở lại đây, chủ yếu do tác động của khủng hoảng tài chính -

tiền tệ Châu Á. Năm 1999 và 2000, Chính phủ đã áp dụng hàng loạt giải pháp

kích cầu đầu tư và tiêu dùng, nhờ vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được phục

hồi. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 23,3%, năm 2000 tăng 21,3%, đạt 14,3

tỷ USD, gấp 6 lần so với năm 1990. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000, kim ngạch

xuất khẩu tăng gần 21%/năm, gần gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim

ngạch xuất khẩu trên đầu người tăng từ 30 USD năm 1991 lên 74 USD năm 1995

22

và tới 180 USD năm 2000, đưa Việt Nam vào đội ngũ những nước có nền ngoại

thương tương đối phát triển (kim ngạch xuất khẩu 170 USD/người/năm).

Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nói riêng, tổng kim ngạch XNK nói chung so

GDP tăng nhanh chứng tỏ mức độ mở cửa khá mạnh của nước ta. Năm 1998, tỷ lệ

xuất khẩu trên GDP đã đạt 36% - mức trung bình trên thế giới, năm 2000 tỷ lệ này

đạt trên 45%GDP; Tỷ lệ ngoại thương của Việt Nam so với GDP tăng mạnh

(bằng mức của Hàn Quốc) nhưng còn kém xa Singapore và Hongkong, song có

thể thấy nền kinh tế định hướng xuất khẩu đã tương đối rõ. Năm 1998, tổng kim

ngạch XNK đạt tới trên 3/4 GDP, năm 1999 đạt trên 80% GDP và năm 2000 đạt

trên 90%GDP. Tuy nhiên, tổng lượng xuất khẩu tuyệt đối còn thấp (năm 2000

khoảng 29 tỷ USD) do qui mô nền kinh tế còn quá nhỏ bé. Nếu so với các nước

trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu của ta bằng 1/3 Philippines, 1/7 Indonesia và

Thái Lan, 1/10 Malaysia và bằng 1/16 của Singapore.

Bảng 1:Tổng kim ngạch XNK Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000

Kim ngạch XK Kim ngạch xuất Tổng kim Kim ngạch

so GDP (%) khẩu (USD/ ngạch XNK so xuất khẩu

người/năm) GDP (%) (tr.USD)

1991 2.087,1 29,5 13,9 30

1992 2.580,7 31,4 15,8 37

1993 2.985,2 39,2 17 42

1994 4.054,3 52 21,3 56

1995 5.448,9 64,8 26 74

1996 7.255,9 80 31,5 96

1997 9.185,0 80,6 35,6 116

1998 9.360,3 77,7 35,1 120

1999 11.540,0 81,1 40,3 150

23

2000 14.308,0 95,7 46,4 180

Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại

Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:

Tỷ trọng xuất khẩu lúa gạo và dầu thô giảm còn khoảng 30% năm 1996

(năm 1990 là 40%). Tỷ trọng hàng chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 20% năm

1996, khoảng 35% năm 1999 và gần 40% năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt

hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt

may thì năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng là cà phê, cao su, điều, giày dép than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quải (đến năm 2000, trong 12 nhóm hàng này có

4 nhóm - dầu thô, dệt may, hải sản, giày dép - có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ

USD). Tuy nhiên, rõ ràng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất bất hợp lý.

Theo một số tính toán cứ 6 USD kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 1

USD là hàng gia công. Xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu (trên 70% kim

ngạch xuất khẩu). Trong khi đó ở Trung Quốc năm 1994 xuất khẩu nguyên liệu

thô chỉ chiếm có 16,3%.

Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 2000

199 199 199 199 199 199 1997 1998 1999 2000

1 2 3 4 5 6

Nhóm I(%) 33,4 37,1 34,0 28,8 25,3 27,6 24,1 24,0 24,6 25,0

Nhóm II 14,4 13,5 17,6 23.1 28,4 30,1 35,8 35,6 36,5 35,5

(%)

Nhóm III 52,2 49,4 48,4 48,1 46,3 42,3 40,1 39,4 38,9 39,5

(%)

- Nhóm I: Công nghiệp nặng - khoáng sản

24

- Nhóm II: Công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp

- Nhóm III: Nông lâm thuỷ sản

(Nguồn : Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)

Nhập khẩu cơ bản đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi

mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp

ứng các nhu cầu cần thiết của đời sống nhân dân. Nhập khẩu máy móc, thiết bị,

nguyên nhiên - vật liệu phục vụ cho sản xuất chiếm vị trí chủ yếu, tỷ trọng hàng

tiêu dùng giảm hẳn, tình trạng nhập siêu lớn thuyên giảm đáng kể. Năm 2000, tư

liệu sản xuất chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26 - 27% là máy

móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5%

(tỷ lệ này năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối và tương đối.

Năm 1996 nhập siêu gần 4 tỷ nhưng năm 1999 thâm hụt thương mại chỉ còn 0,2

tỷ USD, tỷ trọng nhập siêu giảm từ 33% kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 -

1995 xuống còn 18% thời kỳ 1996 - 2000.

Bảng 3:Cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000

HÀNG TIÊU DÙNG NĂM TƯ LIỆU SẢN

XUẤT (%)

(%)

1991 10,1 89,9

1992 16,6 83,4

1993 15,6 84,4

1994 17,8 82,2

1995 16,5 83,5

1996 12,4 87,6

25

1997 10,1 89,9

1998 91,5 8,5

1999 93,7 6,3

2000 94,8 5,2

(Nguồn:Báo cáo tổng kết của vụ XNK-Bộ Thương Mại)

Hiện nay, nước ta đã mở rộng đáng kể thị trường, có quan hệ với trên 160

nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với trên 61 nước. Đồng thời, Việt

Nam đã bước đầu hội nhập với các thể chế kinh tế - thương mại khu vực và trên

thế giới với việc tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và xúc

tiến đàm phán để tham gia WTO.

Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm

2001, đạt được mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001

của Chính phủ, trong đó có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như hàng

dệt may (+39,3%), giầy dép (19,7%), hàng TCMN (+40%), sản phẩm gỗ (+30%),

cao su (+61,4%), hạt điều (+38%). Tốc độ tăng trưởng này không chỉ phản ánh sự

“bứt phá” trong những tháng cuối năm mà chính là kết quả của quá trình phấn đấu

bền bỉ trong cả năm 2002, thể hiện nỗ lực vượt bậc của tất cả các ngành, các cấp

và các doanh nghiệp.

Đáng chú ý là trong hoàn cảnh kinh tế, thương mại thế giới năm 2002 còn

khá trì trệ, sức mua vẫn yếu nhưng sức tiêu thụ nhìn chung vẫn được đảm bảo,

nhiều mặt hàng vẫn có lượng xuất khẩu tăng, trong đó có cả những mặt hàng nông

sản như lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Riêng gạo và cà phê lượng xuất

khẩu có giảm nhưng nguyên nhân là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động

của hạn hán, không phải do thiếu thị trường. Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển

dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ lực tăng từ 36,3% vào năm

26

2001 lên 39% vào năm 2002 nhờ sự tăng trưởng cao của các mặt hàng dệt may,

giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ. Về thị trường, nét nổi bật là xuất khẩu

sang Hoa kỳ tăng nhanh, nhất là đối với mặt hàng dệt may. Kết quả này một mặt

khẳng định ý nghĩa công tác đàm phán mở cửa thị trường, mặt khác cho thấy sự

năng động và nhanh nhạy của các doanh nghiệp đối với việc tiếp cận thị trường

mới.

II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam

1. Một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua

Để phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xuất khẩu năm 2003, ngay từ

đầu năm Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có sự chỉ đạo rất sâu sát và quyết

liệt. Trên cơ sở kiến nghị của Bộ Thương mại, ngày 20/01/2003 Chính phủ đã có

văn bản số 78/CP-KTTH về các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu năm 2003. Trong

hai ngày 20-21/02/2003 Bộ thương mại đã tổ chức hội nghị thương mại toàn quốc

2003 để bàn các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa góp

phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2003. Sau đây là một số giải

pháp đẩy mạnh xuất khẩu năm 2003:

1.1- Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003:

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sau khi trao đổi với các Bộ,

ngành hữu quan, Bộ thương mại ban hành quyết định số 0271/2003/QĐ-BTM

ngày 13/3/2003 về danh mục mặt hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm

2003 bao gồm 18 nhóm hàng:

1- Gạo

2- Lạc nhân

3- Cà phê

4- Chè

27

5- Hạt tiêu

6- Hạt điều (đã qua chế biến)

7- Rau quả (hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả)

8- Đường

9- Thuỷ sản

10- Thịt gia súc, gia cầm

11- Gốm, sứ

12- Đồ gỗ mỹ nghệ

13- Mây tre lá

14- Sản phẩm tơ và lụa

15- Sản phẩm dây điện, cáp điện

16- Sản phẩm cơ khí trọng điểm

17- Hàng dệt kim

18- Máy tính nguyên chiếc và phụ kiện

So với năm 2002, danh mục của năm 2003 được bổ sung thêm một số mặt

hàng mới là đường, sản phẩm dây điện, cáp điện, sản phẩm cơ khí trọng điểm,

máy tính nguyên chiếc và phụ kiện, sản phẩm tơ và lụa. Riêng nhóm hàng dệt

may chỉ giữ lại hàng dệt kim trong danh mục được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất

khẩu.

Trong xu thế thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về

thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường đầu tư đã trở thành nhu cầu cấp

thiết của các doanh nghiệp Việt Nam.

Hoạt động của tài trợ ngân hàng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về tài

chính cho nhà xuất khẩu mà còn cho cả nhà nhập khẩu. Tài trợ ngân hàng đã thúc

28

đẩy quá trình hoạt động của kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo nên

sự cân bằng trong cán cân thanh toán xuất nhập của nhà nước, trong đó vai trò của

ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các chiến

lược kinh tế.

Thông qua tài trợ ngân hàng giúp doanh nghiệp xuất khẩu cũng như doanh

nghiệp nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn: có những thương vụ

trong thương mại quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng. Do

đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như phân bón, sắt thép,

gạo, bột mỳ.... thường hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng (từ 10.000

đến hai 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác

giao nhận, nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này, vốn

lưu động của doanh nghiệp không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền

nhập, tài trợ ngân hàng là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng

dạng này.

Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải huy động vốn

từ những người gửi tiền, vay từ các ngân hàng thương mại khác, phải cân đối lãi

suất và thời hạn đầu vào so với lãi suất và thời hạn cho vay sao cho đủ bù đắp chi

phí, rủi ro thấp nhất và có lãi. Do đặc thù của các giao dịch xuất nhập khẩu, các

giao dịch thanh toán thường vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia, nên những

khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường kèm theo các giao dịch

thanh toán.

Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan đến

ba “khu vực” của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu:

- Khu vực thứ nhất là sản xuất, khai thác nguyên liệu cho xuất khẩu.

Những khoản tín dụng loại này thường có cả ngắn hạn, trung và dài hạn, cả

nội tệ và ngoại tệ để hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị đầu

29

vào.

- Khu vực thứ hai là thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hoạt động

này, khách hàng thường cần những khoản tín dụng ngắn hạn bằng nội tệ. Tuy

nhiên, đây cũng là khu vực yêu cầu lượng tín dụng trung, dài hạn lớn, nếu khách

hàng đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị và những dây chuyền chế biến

công nghệ cao.

- Khu vực thứ ba là lưu thông và xuất khẩu. Những khoản tín dụng ngân

hàng cho khu vực này thường có thời hạn ngắn, chủ yếu nhằm đáp ứng vốn cho

các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục chu trình sản xuất kinh doanh mới trong thời

gian kể từ khi giao hàng đến khi nhận được thanh toán từ đối tác nhập khẩu nước

ngoài.

Khách hàng vay những khoản tín dụng từ ngân hàng cho ba khu vực trên

thường là khác nhau, nhưng cả ba khu vực đó lại có mối quan hệ khăng khít và hỗ

trợ nhau cùng phát triển.

Khép kín hoạt động đầu tư cho ba khu vực này không chỉ giúp cho hoạt

động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định

cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân

hàng trong quá trình thu nợ, hạn chế rủi ro cũng như mở rộng hoạt động tín dụng

và các dịch vụ khác có liên quan.

Như vậy: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài chính

để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu,

đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ điều kiện về tài chính

để mua hàng hoá của nước đó.

* Một số hình thức tài trợ xuất khẩu.

Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ thanh

toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền tảng hoặc bổ

30

sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu cơ không thể tách

rời này có thể được dẫn giải như sau:

Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách

hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của

NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH phục vụ người XK

vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện.

Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán, tài trợ

XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh toán và tài

trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng.

- Đối với hoạt động xuất khẩu:

+ Tín dụng chiết khấu hối phiếu:

Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực

hiện bằng hình thức ngân hàng mua lại các hối phiếu thương mại trước khi đến

hạn thanh toán và khách hàng sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu

đã trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu

tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín

dụng cung ứng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu.

+ Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu:

Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất mà

bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao, anh ta có

thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ hàng hoá

này cho ngân hàng. Bằng cách đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn vốn để tiếp

tục kinh doanh trong suốt thời gian từ khi gửi hàng cho đến khi nhận được tiền từ

nhà nhập khẩu.

Điều kiện để nhận được khoản tín dụng này là khả năng truy hoàn của nhà

31

xuất khẩu. Các chứng từ liên quan nhất thiết phải là chứng từ có giá trị để cấp tín

dụng, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng. Các ngân

hàng thường ký với nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng cho loại hình

cho vay này. Tuy nhiên khoản vay này chỉ được cấp căn cứ vào giá trị của bộ

chứng từ và với một tỷ lệ tối đa nhất định tuỳ theo loại hàng hoá và khả năng

thanh toán của khách hàng (khoảng 70 →80% giá trị hàng hoá).

+ Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu:

Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể

thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng trước

tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu, L/C không

chỉ là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín dụng.

Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ cho nhà xuất

khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu

hoàn hảo được người xuất khẩu trình.

Hình thức này thường được sử dụng để tài trợ xuất khẩu trong ngắn hạn.

+ Bao thanh toán tương đối (Factoring):

Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn, đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu,

ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các

khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp, đứng ra đòi nợ

nhà nhập khẩu. Factoring không được sử dụng L/C cũng như các hối phiếu ngoại

thương vì Factoring chỉ được sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường

xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau

trong cùng một nước hoặc cho nhiều nước trong cùng một thời điểm. Do vậy, đối

tượng mua bán của Factoring là những tổ hợp kinh tế có doanh số hoạt động xuất

nhập khẩu hàng năm lớn.

32

Nghiệp vụ Factoring có những chức năng sau:

- Chức năng dịch vụ thanh toán: Tổ chức Export factor đảm nhiệm mọi

nhiệm vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán chuyển

nhượng, đảm nhiệm mọi nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà xuất khẩu

giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Như vậy, Export factor thực hiện

tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Hơn nữa, nó còn thực

hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.

- Chức năng tài chính: Export factor đảm nhiệm chức năng tài chính cung

ứng cho nhà xuất khẩu. Cơ sở để nó đảm nhiệm việc này là mối quan hệ giao dịch

giữa Export factor và Import factor.

+ Nghiệp vụ tài chính ứng trước: Dù hợp đồng Factoring được ký kết từ trước,

nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ của nhà nhập khẩu. Do

đó, nếu muốn sử dụng vốn trước ngày này, nhà xuất khẩu có thể vay của tổ chức

Factoring. Khoản tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín dụng luân

chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển

thông thường và hạn mức tín dụng từ 70→ 90% khoản thanh toán.

* Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu

Tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ

chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất

nhập khẩu. Bằng các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng cung

ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp gia

tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện các thương vụ thành công. Chính vì vậy,

tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tất cả các

bên tham gia vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.

- .Đối với doanh nghiệp XK:

- Tín dụng XNK của NH giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn.

33

Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp XNK, đặc biệt là các doanh nghiệp

XNK của Việt Nam hiện nay, có năng lực tài chính rất hạn chế. Trong khi đó, có những

thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để có thể thực hiện

được hợp đồng. Tín dụng NH cho hoạt động XNK chính là giải pháp giúp doanh nghiệp

thực hiện được những hợp đồng dạng này.

Hơn thế nữa, trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, “thương trường như chiến

trường” hiện nay, các doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi chấp nhận bán hàng

trả chậm, trả gối đầu. Song việc thu hồi nợ bán hàng gối đầu đang ngày càng trở thành nỗi

lo của các doanh nghiệp XNK. Nguy cơ mất trắng hàng trăm tỷ đồng từ phương thức bán

hàng trả chậm, gối đầu đang là thực tế đáng lo ngại cho các doanh nghiệp. Tín dụng XNK

của NH đã khiến cho các nhà XNK yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, từ

đó khắc phục được nguy cơ sụt giảm trong hoạt động bán hàng trả chậm nói riêng và

nguy cơ sụt giảm trong doanh số bán hàng XNK nói chung.

- Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, một

doanh nghiệp đã được NH đứng ra bảo lãnh, cấp tín dụng sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi vì khi

đó, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp được khẳng định. Cùng với nghệ

thuật đàm phán, và vị thế sẵn có của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể giành được

nhiều điều kiện có lợi cho mình trong quá trình thực hiện thương vụ.

- Tín dụng XNK giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong quá trình

thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của NH, doanh nghiệp sẽ có đủ vốn để thực hiện

thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng

thời vụ, gia công, chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp NK, vốn

tài trợ của NH giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ, đáp ứng kịp thời

nhu cầu của thị trường trong nước. Qua đó, giúp các doanh nghiệp XNK chớp được thời

cơ kinh doanh thu lợi nhuận cao, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh,

tồn tại, đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường; đồng thời thực hiện được các nghĩa

vụ đối với nhà nước.

34

- Bên cạnh đó, tín dụng XNK của NH còn giúp cho các doanh nghiệp có vốn để

nhập máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây truyền sản xuất, chế

biến, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ được giá thành sản phẩm, tạo khả

năng cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế.

- Ngoài ra, tài trợ của NH còn góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp XNK

trên thị trường quốc tế. Sở dĩ như vậy là do nhờ có tài trợ của NH, doanh nghiệp XNK có

khả năng thực hiện có hiệu quả những thương vụ lớn, có khả năng quan hệ, làm ăn với

các khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó củng cố, nâng cao được uy tín, vị trí của mình

trên thị trường thế giới.

- Đối với nền kinh tế đất nước:

- Tín dụng XNK của NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK

và lưu thông hàng hóa XNK. Nhờ có tài trợ của ngân hàng, hàng hoá được xuất, nhập phù

hợp với yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời vụ..., đáp ứng được nhu cầu

tiêu dùng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân, góp phần làm ổn định thị

trường và tăng tính năng động của nền kinh tế.

- Với các khoản tín dụng XNK của NH, doanh nghiệp XNK có điều kiện thay đổi,

hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng

năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất... Nhờ đó, có

điều kiện phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho người

lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước và làm động cơ

thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Tín dụng XNK còn góp phần đáng kể phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển

kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại với các

nước trên thế giới.

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, với tư cách là một thành viên hoạt

động trong các lĩnh vực kinh tế, các NHTM cùng với hoạt động tài trợ thương mại quốc

tế của mình, đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,

35

cho cân bằng cán cân thanh toán quốc gia. Và tín dụng XNK của NHTM chính là một

trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - chính trị -

xã hội của một đất nước.

Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín

dụng XNK của NH cũng phát triển ngày càng phong phú.Từ hình thức đơn giản ban đầu

là cho vay trực tiếp, ngắn hạn, đến nay, các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức tín dụng

XNK đa dạng và có hiệu quả cao.

1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu:

Tại văn bản số 78/CP-KTTH Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Thương mại

cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ chế thưởng khuyến khích

xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm 2002

(theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm 2002).

Để triển khai thực hiện, Bộ Thương mại đang trao đổi với các bộ, ngành hữu

quan để xây dựng cơ chế thị thưởng theo hướng tiếp cận như sau:

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch bình quân toàn ngành của mặt hàng được

thưởng năm 2003 so với năm 2002 sẽ là căn cứ tham khảo để xác định điều kiện

được thưởng đối với doanh nghiệp. Trong quý II/2003, trên cơ sở đánh giá tiềm

năng xuấ khâu cả năm và biến động của thị trường, Bộ thương mại sẽ công bố

mục tiêu tăng trưởng đối với từng mặt hàng trong năm 2003 để doanh nghiệp có

định hướng phấn đấu. Chỉ những doanh nghiệp nào có mức tăng kim ngạch đối

với mặt hàng được thưởng cao hơn mức tăng bình quân mà Bộ thương mại công

bố mới được xét thưởng.

Sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục

tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%.

Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng

36

từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn10% thì

không được thưởng.

1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm:

Ngày 24/01/2003 Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số

0104/2003/QĐ-BTM về Quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến

thương mại trọng điểm quốc gia. Theo quyết định này các tổ chức xúc tiến thương

mại thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, các hiệp hội ngành hàng; các Tổng công ty

ngành hàng là cơ quan đầu mối đề xuất chương trình gửi về Bộ Thương mại. Trên

cơ sở các đề xuất này, Bộ thương mại thẩm định, đánh giá và xây dựng chương

trình và tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Trước mắt đối với năm 2003, trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, Hiệp hội

và Tổng Công ty, Bộ Thương mại đang khẩn trương tổng hợp các chương trình

xúc tiến thương mại để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến sẽ hoàn

thành trong tháng 4/2003.

1.4. Về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp:

Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui

định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng

chi phí của doanh nghiệp.

1.5. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT

a. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu

Thời gian qua, các quy định về thuế GTGT đã được siết chặt hơn để hạn chế

gian lận thương mại. Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính

phủ quy định cơ sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng

thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu

qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản 1186/NHHH -

37

QLNH ngày 1/11/2002 hướng dẫn quy định trên.

b. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:

Đề nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp

tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài chính,

phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực hiện

đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo

phương pháp khấu trừ.

1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu:

Vấn đề chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu đã được các Bộ

ngành và nhiều doanh nghiệp phản ảnh. Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày

24/04/2002 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì,

phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí này để

báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Thực hiện chủ trương trên của Chính phủ, từ 1/4/2003 Bộ Bưu chính Viễn

thông sẽ áp dụng giảm giá cước đối với một loạt các dịch vụ viễn thông, trong đó

có cước dịch vụ điện thoại quốc tế, cước truy cập Internet, cước hòa mạng và

thông tin điện thoại di động. Đây là đợt giảm giá có quy mô lớn nhất từ trước đến

nay của ngành bưu chính viễn thông nhằm rút ngắn lộ trình đưa giá cước viễn

thông của ta xuống mức bằng và thấp hơn so với một số nước trong khu vực.

1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Để khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháng

11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp

nhỏ và (SME). Tháng 12/2001, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh, thành tự đứng ra thành lập các

quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME.

Nhờ có các chính sách trợ cấp của Chính phủ cho các mặt hàng xuất khẩu

38

nên Việt nam đã đạt được mức xuất khẩu cao. Các mặt hàng của Việt nam đã có

mặt trên nhiều thị trường quốc tế. Do được trợ cấp từ khâu nguyên liệu đến thành

phẩm nên có sức canh tranh mạnh

Hiện gạo do Việt Nam sản xuất có chi phi thấp hơn nhiều so với gạo nhập

khẩu. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua Việt Nam luôn là một trong số những

nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, đối với một số chủng loại

gạo cao cấp, chủ yếu được tiêu dùng ở các đô thị thì gạo nhập khẩu từ Thái lan

đang có khả năng cạnh tranh tương đối cao so với gạo được trồng trong nước.

Hiện tại, lượng nhập khẩu gạo chưa nhiều nên có lẽ ta cũng chưa nên đánh thuế

chống trợ cấp đối với gạo nhập khẩu. Tuy nhiên, trong tương lai nếu lượng nhập

khẩu gia tăng thì ta có thể xem xét đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo Thái lan.

Do được nhà nước cho vay vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, Việt nam được

đánh giá là nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay. Có thể nói hàng

thuỷ sản xuất khẩu là mặt hàng có thị trường xuất khẩu còn triển vọng sáng sủa.

Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản phẩm cơ bản, luôn

trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô toàn cầu. Buôn bán hàng

thuỷ sản thế giới đã tăng với nhịp độ trung bình hàng năm trên 10% vào thời kỳ

1985 -1995. Từ năm 1995 trở lại đây, tuy nhịp độ tăng ngach xuất khẩu thuỷ sản

có chậm hơn thời kỳ trước, nhưng thị trường thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục mở

rộng với kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giơí xấp xỉ 60 tỷ USD. Xu hướng thị

trường tương lai dự báo vẫn phát triển ổn định, đặc biệt đối với các sản phẩm thuỷ

sản thực phẩm chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản sống có giá trị gia tăng

cao.

Sản lượng thuỷ sản của Việt nam liên tục tăng thời gian từ năm 1995 trở lại

đây: năm 2000 sản lượng thủy sản cả nước đạt 2,22 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn

39

so với năm 1995, trong đó thuỷ sản khai thác đạt 1,65 triệu tấn chiếm 74,3% tổng

sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,57 triêu tấn, chiếm 25,7%. Nhịp độ tăng

sản lượng thuỷ sản trung bình hàng năm thời kỳ 1996-2000 là 12,3%.

Năm 2001 sản lượng thuỷ sản cr nước đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7% so với 2000,

trong đó sản lượng thuỷ sản khai thácđạt 1,74 triệu tấn chiếm 72,5%tổng sản

lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,66 triệu tấn, chiếm 27,5%.

Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam đã tăng từ 239 triệu USD năm 1990 lên

979 triệu USD năm 1999, 1475 triệu USD năm 2000 và 1800 triệu USD năm

2001. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 6,2 lần so với năm 1990.

Nhịp độ tăng xuất khẩu trung bình hàng năm thời kỳ 1991-2000 đạt 20%. Năm

2001, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 22% so với năm 2000. Với kim ngạch

xuất khẩu lơn ( đứng thứ ba sau dầu thô -3,17 tỷ USD và dệt may - 2 tỷ USD) và

nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao, thuỷ sản thực sự trở thànhmột trong những

động lực thúc đẩy tăng xuất khẩu chung của đất nước. Đóng góp của của riêng

xuất khẩu thuỷ sản vào nhịp độ tăng xuất khẩu chung của đất nước năm 2001 đã

là 2,58%.

Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, vấn đề đa dạng

hoá thị trường xuất khẩu cũng đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Đến

nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam đã có mặt ở hơn 60 nước trên thế giới.

Trước đây, thị trường Nhật bản thường chiếm tỷ trọng 50-60% xuất khẩu thuỷ sản

của Việt nam, đến nay giảm xuống chỉ còn dưới 30%. Đặ biệt, từtháng 8/2001,

Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật bản trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất

của Việt nam, đẩy Nhật bản xuống hàng thứ hai. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản

của Việt nam sang Nhật bản năm 2001 đạt 471 triệu USD, chiếm 26,2% tổng kim

ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam.

40

Thị trường Mỹ là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới và là

thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam hiện nay. Tỷ

trọng của thi trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩuthuỷ sản của Việt nam

tăng lên nhanh chóng trong thời gian 5 năm trở lại đây: Năm 1997, thị trường Mỹ

mới chiếm khoảng 7%-8% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, năm 1999 tăng lên

13,3%, năm 2000 lên 21%, năm 2001 lên 28,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ

sản của Việt nam.

Ngoài những mặt hàng kể trên thì kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khác

như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ cũng tăng lên đáng kể.

2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam.

Việt Nam đã áp dụng những chính sách trợ cấp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và

đã đạt được kết quả tốt tuy vẫn còn một số tồn tại cần được giải quyết như sau:

2.1. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu:

Chính phủ đã có văn bản số 78/CP-KTTH về chế độ thưởng khuyến khích

xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm trước

(theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm trước) và sau khi đánh

giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối

với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%.

Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng

từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn 10% thì

không được thưởng.

Nếu do khó khăn về thị trường, nguồn hàng hay giá cả mà kim ngạch của cả

ngành hàng tăng trưởng âm thì những doanh nghiệp nào đạt tăng trưởng dương

đều được thưởng trên phần kim ngạch vượt trội.

41

Phương pháp tiếp cận này nhằm khuyến khích, động viên những doanh

nghiệp xuất khẩu giỏi hơn mức bình quân của ngành, đồng thời cũng loại trừ được

yếu tố biến động khách quan về giá hoặc sản lượng (Chẳng hạn giá mặt hàng X

năm 2003 tăng hơn 30% so với mức bình quân của năm 2002 như vậy nếu lượng

xuất không đổi thì các doanh nghiệp trong ngành có thể đạt được mức tăng

trưởng xấp xỉ 30% mà không cần phải nỗ lực nhiều, trong khi những ngành hàng

giá không tăng hoặc gặp khó khăn về thị trường lại khó đạt được mức tăng

trưởng).

Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại quyết định này bởi tiềm lực tài chính

của các tỉnh và thành phố là có hạn, lại không đồng đều. Nếu mỗi tỉnh, thành đều

phải tự tìm nguồn để thành lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không

cao do nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở

những tỉnh có hoàn cảnh khó khăn sẽ ở vào thế bất lợi hơn so với SME ở những

tỉnh có tiềm năng. Vấn đề tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói

riêng hiện nay đang là vấn đề hết sức búc xúc. Vì vậy, đề nghị có một cơ chế tập

trung nguồn lực để thành lập 01 quỹ bảo hành tín dụng cho SME tại trung ương,

chỉ thành lập tại địa phương các chi nhánh hoặc đại lý (là chi nhánh các quỹ hỗ

trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng địa phương). Khi có nhu cầu, mọi "đại lý" đều

có thể tiếp cận với nguồn lực tập trung, hiệu quả thực tiễn vì vậy sẽ cao hơn, các

doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tất cả các tỉnh cũng ở vào thế bình đẳng hơn.

2.2. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm:

Việt Nam chưa có được những chương trình xúc tiến trọng điểm

2.3. Sửa đổi qui định về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh

nghiệp:

Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui

định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng

42

chi phí của doanh nghiệp. Theo nhiều doanh nghiệp, qui định này là chưa hợp lý

và hạn chế các hoạt động phát triển thị trường vì doanh nghiệp thuộc các ngành

hàng, lĩnh vực khác nhau, thậm chí ngay trong một doanh nghiệp thì chi phí cho

hoạt động tiếp thị tại các thời điểm kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, quy

định này dẫn đến một nghịch lý là doanh nghiệp nào có tổng chi phí giảm thì chi

phí giao dịch, tiếp thị cũng phải giảm theo.

Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nên giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu và điều

chỉnh lại quy định trên theo hướng bãi bỏ mức quy định tối đa đối với các chi phí

này hoặc nâng mức quy định tối đa từ 7% lên 15 - 20%.

2.4. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT

2.4.1. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu

Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ quy định cơ

sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế

GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng.

Tuy qui định này đã góp phần hạn chế tình trạng gian lận thương mại nhưng

mặt khác cũng đã làm phát sinh một số vướng mắc trong xuất khẩu qua đường

biên mậu, nhất là xuất khẩu qua biên giới Trung Quốc. Thực tiễn hoạt động buôn

bán với Trung Quốc thời gian qua cho thấy hình thức thanh toán qua ngân hàng

mới chỉ chiếm khoảng 15 - 20% trong tổng kim ngạch giữa hai nước, còn lại đa

phần là thanh toán theo các hình thức khác như hàng đổi hàng, thanh toán bằng

tiền mặt, thanh toán theo hình thức tạm ứng.v.v...Theo phản ảnh của một số

doanh nghiệp thì việc thực hiện quy định về thanh toán qua ngân hàng có một số

vướng mắc do phía đối tác Trung Quốc không muốn áp dụng hình thức này, chưa

kể đến việc thanh toán qua ngân hàng sẽ làm phát sinh một số chi phí giao dịch

(ước các khoản chi phí lên tới 0,3% kim ngạch xuất khẩu). Do có những vướng

mắc này mà hoạt động xuất nhập khẩu với Trung Quốc cũng đã có dấu hiệu

43

không nhộn nhịp như trước. (Theo số liệu hải quan, xuất khẩu ra quả và thuỷ sản

vào Trung Quốc sau 2 tháng đã giảm hơn 60% so với cùng kỳ).

Theo Bộ Thương mại, về lâu dài hoạt động thương mại nói chung, trong đó

có hoạt động xuất nhập khẩu qua đường biên mậu, cần từng bước chuyên nghiệp

hóa, trong đó có việc áp dụng phương thức thanh toán ngân hàng. Tuy nhiên, xuất

phát từ đặc thù trong hoạt động xuất nhập khẩu biên mậu hiện nay, nhất là trong

điều kiện việc hoàn khống thuế GTGT đã được bãi bỏ để hạn chế gian lận về thuế

GTGT, Thủ tướng Chính phủ nên cho phép tạm thời có một cơ chế riêng đối với

buôn bán qua đường biên mậu, cụ thể là xuất khẩu biên mậu được hưởng thuế

suất thuế GTGT 0% đối với các hình thức thanh toán hợp pháp, không chỉ áp

dụng đối với các trường hợp thanh toán qua ngân hàng.

2.4.2. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:

Kiến nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương

pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài

chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực

hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế

theo phương pháp khấu trừ. Do mức thuế phải nộp căn cứ vào mức doanh thu

"khoán" nên phương thức này cũng dễ làm phát sinh một số kẽ hở khi doanh thu

thực tế của đơn vị vượt quá mức "khoán" nhưng doanh nghiệp lại không báo cáo

đầy đủ với cơ quan thuế. Do vậy, vô hình chung đã tạo ra sự không bình đẳng về

nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ

và các doanh nghiệp nộp thuế khoán trong cùng một ngành hàng kinh doanh, từ

đó ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa trong nước và nhà nước cũng bị thất thu

một lượng tiền thuế.

Để khắc phục tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ cũng nên giao cho Bộ

Tài chính rà soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT

trực tiếp trên giá trị gia tăng và việc tổ chức thực hiện thu thuế GTGT theo

44

phương pháp này theo nguyên tắc bảo đảm thu đúng, thu đủ và công bằng đối với

các doanh nghiệp được tính thuế GTGT theo các phương pháp khác nhau.

2.5. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu:

Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành hữu

quan tiến hành rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu để

báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Tuy nhiên, việc rà soát một số loại chi phí dịch vụ khác vẫn chưa hoàn thành.

Kiến nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện rà soát các loại phí, lệ phí theo tinh

thần Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ. Cần có đoàn kiểm tra thực tế, không

nên dựa vào báo cáo của các cơ sở cung cấp dịch vụ. Kết quả kiểm tra cũng nên

được công bố công khai trên báo chí cho các doanh nghiệp biết. Các loại phí cần

được rà soát kỹ là phí ở cảng, phí ở các tỉnh biên giới và lệ phí cầu, đường trên

một số trục đường chính, hàng xuất khẩu thường đi qua.

Theo một số doanh nghiệp phản ảnh, mức thu phí đường bộ 80.000 đồng/

lượt đối với xe tải từ 18 tấn trở lên (theo Thông tư số 109/2002 của Bộ Tài chính

quy định về chế độ thu, quản lý, sử dụng phí giao thông đường bộ) là quá cao

(tăng thêm 20.000 đồng so với trước), mặt khác có những trạm thu phí trên cùng

một tuyến đường cách nhau không đủ 70km như quy định tại Thông tư (như trên

đường 5 trạm Quán Toan cách trạm Hải Dương chỉ có 30km) làm cho doanh

nghiệp bị đội chi phí vận tải.

2.6. Những khó khăn đối với việc áp dụng trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam

khi gia nhập WTO

Các mặt hàng đã và đang được trợ cấp xuất khẩu của Việt nam sẽ bị đánh

thuế chống trợ cấp khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới.

Thuế chống trợ cấp là một loại thuế nhập khẩu đặc biệt nhằm chống lại trợ

45

cấp của Chính phủ nước ngoài cho hàng xuất khẩu, thường được áp dụng sau khi

đã có điều tra cho thấy có tổn hại do trợ cấp đó gây ra.

Tổ chức thương mại thế giới định nghĩa rằng "thuế chống trợ cấp được hiểu

là một khoản thuế đặc biệt nhằm mục đích bồi hoàn cho khoản trợ cấp đã được

cung cấp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình chế tác, sản xuất hoặc

xuất khẩu của bất kỳ loại hàng hoá nào”. Đây là định nghĩa chặt chẽ về mặt luật

pháp và thường được các nước chấp nhận. Tuy nhiên, định nghĩa này phải được

hiểu trong bối cảnh rộng của WTO, có nghĩa là các quy định của WTO liên quan

đến quá trình điều tra, thủ tục áp dụng v.v… cũng phải được tuân thủ đầy đủ.

Về mặt kinh tế, thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế đánh vào hàng hoá

được trợ cấp nhằm triệt tiêu lợi thế do khoản trợ cấp đó đem lại. Để đạt được mục

tiêu trên, thuế chống trợ cấp phải tương đương với lợi ích mà trợ cấp đem lại cho

hàng hoá, hay chính xác hơn, thuế chống trợ cấp phải triệt tiêu được lợi thế hàng

nhập khẩu có được do nhận được trợ cấp của chính phủ so với loại hàng tương tự

được sản xuất tại nước nhập khẩu. Do đó, sau khi đánh thuế chống trợ cấp, hàng

hoá nhận được trợ cấp không còn lợi thế so với hàng tương tự được sản xuất trong

nước không được trợ cấp. Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp cũng không được đánh

quá cao, vượt quá lợi ích thực sự mà hàng nhập khẩu nhận được.

Về hình thức bên ngoài, thuế chống trợ cấp lại có nhiều điểm tương đồng

với thuế nhập khẩu. Vì vây, xét về mặt hình thức, ở một chừng mực nhất định

cũng có thể coi thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế nhập khẩu đặc biệt.

Thuế chống trợ cấp giống với thuế nhập khẩu ở các điểm sau:

(cid:31) Đối tượng chịu thuế là hàng nhập khẩu;

(cid:31) Phương pháp quản lý thuế tương đối giống với thuế thông thường: cùng

được cơ quan hải quan thu tại cửa khẩu;

(cid:31) Tác động tương đối rõ ràng và minh bạch ở khâu áp dụng nếu so với các

46

biện pháp phi thuế quan khác (mặc dù quá trình điều tra có thể bị các cơ

quan áp dụng lạm dụng vì một số mục đích nhất định).

Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp có một số điểm khác căn bản so với thuế

nhập khẩu thông thường:

(cid:31) Thuế nhập khẩu thông thường chủ yếu nhằm mục đích bảo hộ cho sản

xuất trong nước còn thuế chống trợ cấp nhằm đảm bảo môi trường cạnh

tranh bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu;

(cid:31) Thuế nhập khẩu thông thường mang tính ổn định, trong khi thuế chống

trợ cấp mang tính tình huống rõ rệt. Dù là nhằm bảo hộ cho sản xuất

trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách hay đảm bảo công bằng xã hội,

thuế nhập khẩu đều được áp dụng theo một định hướng tương đối ổn

định. Trong khi đó, thuế chống trợ cấp chỉ xuất hiện khi phát sinh trợ

cấp làm ảnh hưởng đến nhà sản xuất trong nước. Thuế chống trợ cấp sẽ

mất đi khi không còn trợ cấp nữa hay khi các nhà sản xuất trong nước

không còn chịu ảnh hưởng bất lợi của hàng hoá được nước ngoài trợ cấp

47

nữa.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ

CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

I. Cơ sở đề ra giải pháp

1. Những thuận lợi và khó khăn

Dự kiến của những năm tới, hoạt động xuất khẩu của ta có một số thuận lợi

cơ bản. Sau khi thi hành các biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã

và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu

quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . Khả năng phối hợp giữa

các cơ quan để ứng phó với các tình huống phức tạp bên ngoài cũng đang dần

được cải thiện. Bên cạnh đó, bầu không khí kinh doanh tiếp tục sôi động, Việt

nam tiếp tục được cho là điểm đến an toàn sẽ có tác động tích cực đến đầu tư và

xuất khẩu của ta trong những năm tới.

Tuy có một số thuận lợi nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu trong

những năm tới của ta sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Trong

nước, một số mặt hàng nông sản đã gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu,

hoặc do tiềm năng sản xuất giới hạn , hoặc do thị trường đã có dấu hiệu bão hoà.

Thứ hai, vấn đề năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện căn bản, việc rà soát để

giảm các chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu triển khai còn chậm. Những

vướng mắc về mặt thủ tục và mặt bằng sản xuất, đặc biệt là tính ổn định của môi

trường, chính sách đầu tư vẫn là một vấn đề bức xúc. Thứ ba, tác động của các

giải pháp về mở rộng quyền kinh doanh đối với xuất khẩu ngày càng giảm dần

sau khi đã phát huy tác dụng rất tích cực trong giai đoạn trước. Mặt khác, có thể

nhận thấy các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của ta tuy nhiều nhưng chưa đi

vào chiều sâu, có chỗ có nơi còn chưa thông suốt và chưa nhất quán, cá biệt một

48

số biện pháp nếu duy trì lâu sẽ làm tăng sức ỳ từ phía doanh nghiệp.

Bên cạnh những yếu tố trong nước, tình hình bên ngoài cũng có những nhân

tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu, trong đó nổi bất là:

- Diễn biến tình hình tại Irắc sẽ ảnh hưởng đến cục diện kinh tế trên thế giới ,

tác động lớn tới xu hướng biến động giá dầu thô, từ đó ảnh hưởng dây chuyền đến

giá cả của nhiều hàng hoá và dịch vụ trên thị trường thế giới . Mặt khác, cuộc

chiến tại Irắc cũng tác động trực tiếp tới xuất khẩu của ta vào thị trường này. Hiện

nay, ta xuất khẩu vào Irắc mỗi năm khoảng 400 – 450 triệu USD (chiếm 2,8%

trong tổng kim ngạch). Các mặt hàng chủ lực là gạo, chè, sản phẩm sữa, dầu thực

vật. Trong tình hình chiến tranh, xuất khẩu sang thị trường này sẽ có thể bị gián

đoạn. Vì vậy, ta cần phải chủ động mở thị trường mới, nhất là đối với gạo và chè

để có thể chuyển hướng kịp thời.

- Như một số nước đang phát triển khác, xuất khẩu của nước ta, nhất là hàng

dệt may và giày dép sẽ chịu sự cạnh tranh ngày càng lớn, nhất là trong điều kiện

Trung Quốc là thành viên WTO và EU đang loại bỏ hạn ngạch dệt may với một

số nước thành viên WTO thông qua các hiệp định dệt may song phương (xuất

khẩu hàng dệt may của ta vào EU năm 2002 đã giảm tới 9%). Tuy nhiên, xuất

khẩu của ta cũng có cơ hội mới khi Trung Quốc dành cho Việt Nam quy chế tối

huệ quốc như cá thành viên WTO. Lợi thế này cùng với lợi thế về vị trí địa lý là

cơ sở thuận lợi để thiết lập quan hệ buôn bán lâu dài với Trung Quốc, tăng cường

xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản , nhất là vào các tỉnh phía Tây nam

Trung Quốc.

- Từ 1/1/2003, tiến trình hội nhập của ta trong CEPT thực sự đi vào chiều

sâu. tất cả các dòng thuế còn lại trong danh mục loại trừ tạm thời phải đưa vào cắt

49

giảm xuống mức 20%, trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như xi măng, giấy,

gạch ốp lát, sắt thép, hàng điện tử , rau quả và thực phẩm chế biến... Đây sẽ là

thách lớn đối với các ngành thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, ta cũng có thêm cơ

hội xuất khẩu khi bắt đầu được hưởng mức thuế ưu đãi của các nước ASEAN –6

(hầu hết cá dòng thuế đã được giảm xuống 0-5%). các mặt hàng cần tăng cường

xuất khẩu là hàng dệt may, giày dép, hải sản, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ,

sản phẩm nhựa và các mặt hàng nông sản.

- Những thực tế mới của môi trường kinh doanh quốc tế :

Trong những thập kỷ 90, khi nói đến thương mại thế giới, thì đó không phải

là công việc kinh doanh thường lệ, bởi vì những thực tế mới đã làm thay đổi tận

gốc rễ môi trường kinh doanh. Kết qủa thành công của vòng đàm phán Uruguay,

sự thống nhất liên minh Châu Âu, việc hình thành khối tự do Bắc Mỹ, tổ chức

thương mại thế giới và nhiều khối mậu dịch khác nữa...đã làm thay đổi thị trường

toàn cầu.

Những thực tế mới này đã làm thay đổi căn bản chính sách thương mại của

các nước, dẫn đến sự cần thiết phải có các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại,

đặc biệt là xuất khẩu, trong đó các nước phải xem xét lựa chọn các sản phẩm xuất

khẩu cụ thể cũng như các chính sách trợ cấp xuất khẩu tốt nhất. Mặt khác, những

thay đổi này cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự ra đời các hình thức tài trợ

xuất khâủ mới, làm phát sinh các yêu cầu về những xu hướng mới trong thông tin

thị trường, nghiên cứu thị trường và nuôi dưỡng thế giới quan mới về công ty xuất

khẩu như là những công ty quốc tế hoá..

Những ảnh hưởng của môi trường kinh doanh mới tới các quốc gia và các

doanh nghiệp có thể tóm tắt dưới đây:

- Vấn đề tự do hoá thương mại - Các hiệp định WTO

Ngày 5 tháng tư năm 1994, tại Marakesh - Marốc, Hiệp định cuối cùng của

50

vòng đàm phán Uruguay đã được ký kết. WTO ra đời ngày tháng giêng năm

1995 với phương châm đẩy mạnh phát triển kinh tế thế giới thông qua việc đẩy

mạnh trao đổi thương mại để cải thiện việc làm và tăng thu nhập cho người lao

động. Việc giảm thuế quan do yêu cầu của tự do hoá đã tác động ngay lập tức đến

mọ khía cạnh của kinh tế thế giới:

+ Thứ nhất, thuật ngữ "cạnh tranh quốc tế "theo quan niệm cũ trở nên hạn

hẹp bởi vì hàng hoá và dịch vụ của một nước ngày nay không chỉ phải cạnh tranh

quyết liệt ở thị trường nước ngoại mà ngay ở thị trường trong nước, hàng hoá đó

cũng vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ do việc bảo hội không còn được duy trì.

+ Thứ hai, những cơ hội và thách thức mới được tạo ra từ tự do hoá

thương mại . ở nhiều nước , dưới sức ép cạnh tranh sẽ có những ngành và sản

phẩm không thể tồn tại được nữa do không còn được bảo hộ và ưu đãi. Điều này

bắt buộc các nước phải tìm ra các sản phẩm mới thay thế hay điều chỉnh sản phẩm

cho phù hợp. Chính vì vậy, việc hoạch định chiến lược xuất khẩu vốn đã khó lại

càng trở lên khó khăn hơn, dó là chưa nói tới việc phát triển xuất khẩu.

+ Thứ ba, các tập đoàn công nghiệp hùng mạnhvà các nước phát triếnẽ tìm

ra những phương thức mới để bảo hộ các ngành công nghiệp của họ. Một mặt,

cạnh tranh yêu cầu các nước phải nâng cao các tiêu chuẩn chất lượngvà dịch vụ

phục vụ khách hàng cũng như phải tuân thủ những quy định về môi trườg trong

sản xuất. Mặt khác, các tiêu chuẩn này lại được các nước công nghiệp phát triển

sử dụng như những hàng rào phi thuế quan để ngăn trở xuất khẩu cuả các nước

đang phát triển.

+ Thứ tư, các nước chậm phát triển nhất sẽ là các nước bị rủi ro nhất bởi

các tác động của tự do hoá . Các nước này hầu như chưa có hàng hoá, dịch vụ để

bán ra thị trường tự do để hưởng lợi từ việc giảm thuế quan trong khi lại phải

mởcửa thị trường ngay cho hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài. Thậm chí, các nước

51

chậm phát triển nhất cũng không có nững nguồn lực cần thiết để tiến hành hoạt

động nghieen cứu triển khai nhằm cải tiến kỹ thuật sản xuất, cung cấp sản phẩm

thích ứng với thị trường...Do vậy, ở các nước chậm phát triển này, vấn đề đau đầu

nhất là việc giải bài toán phát triển kinh tế trong môi trường toàn cầu hoá.Khi bàn

luận về chủ đề này,, rất nhiều ý kiến cho là các nước chậm phát triển phải xây

dựng chiến lược xuất khẩu trong liên quan chặt chẽ với chiến lược đầu tư và phát

triển công nghiệp.

+ Thứ năm, những thực tiễn mới từ môi trường thương mại thế giới tự do

hoá cũng đồng nghĩa với các yêu cầu rất lớn và rất cấp bách phải hỗ trợ phát triển

cho các nước đang phát triển và chuyển đổi nên kinh té để các nước này có thể

thực sự tham gia vào hệ thống thương mại đa biên.

- Giao lưu dễ dàng và nhanh chóng hơn

Sự phát triển nhanh chóng của xa lộ thông tin Internet từ đầu những năm

1990 đã tạo ra những cơ hôị chưa từng có cho các nước đang phát triển, đặc biệt

là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của họ. Mạng internet tinh vi dựa trên nền những

máy fax truyền thống và các diễn đàn điện tử hiện nay cho phép thực hiện giao

lưu quốc tế hết sức nhanh chóng với chi phí thấp hơn nhiều. Việc đưa vào sử dụng

hệ thống thư điện tử mới đây lại tạo thêm những cơ hội mới cho các nước đang

phát triển tiến hành hoạt động marketing và phân phát thông tin cho khách hàng

tiềm năng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng internet như một công cụ

marketing đắc lực: quảng cáo, thông tin về sản phẩm,giải đáp về sản phẩm và dịch

vụ nhanh chóng, bán hàng trực tiếp, cung cấp dịch vụ khách hàng, nghiên cứu thị

trường, tìm kiếm khách hàng... một cách nhanh chóng và ít tốn kém.

2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới

Nhằm góp phần thực hiện thắng lợ chủ trương đường lối của đảng về phát

52

triển kinh tế đối ngoại, thực hiện các mục tiêu xuất khẩu đã được đề ra trong chiến

lược phát triển kinh tế xã hội mười năm 2001-2010

Tư tưởng và nôi dung bao trùm về chiến lước xuất nhập khẩu của Việt nam

được đề cập tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước, tạo

công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng

cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo các loại sản phẩm có

hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.

Cụ thể là phải hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược xuất

khẩu 2001-2010, trong đó:

(1) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ:

- Năm 2005 đạt 32,4 tỷ uSD

- Năm 2010 đạt 62,7 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sau:

Về xuất khẩu hàng hoá:

- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: 15%, trong đó:

+ Thời kỳ 2001-2005 : tăng 16%

+ Thời kỳ 2006-2010: tăng 14%

- Giá trị xuất khẩu: năm 2005 đạt khoảng 28,4 tỷ USD và năm 2010 đạt

khoảng 56,4 tỷ uSD

Về xuất khẩu dịch vụ:

- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2010 đạt 15%

- Giá trị xuất khẩu năm 2005 đạt khoảng 4 tỷ USD, năm 2010 đạt 8,1 tỷ USD

(2) Cơ cấu hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu chuyển dịch theo hướng:

- Trước mắt huy động được mọi nguồn lực hiện có của đát nước để đẩy

53

mạnh xuất khẩu, tạo công anh việc làm, tăng thu ngoại tệ;

- Chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gi

tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri

thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;

- Cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm và phát triển sản phẩm mới đáp ứng

nhu cầu của thị trường.

(3) Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng mở rộng và đa dạng

hoá, dựa trên nguyên tắc:

- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia

WTO;

- Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn

động đột ngột;

- Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn,

tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn;

Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ la tinh và Châu phi.

3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu

Các chuyên gia kinh tế đã chỉ rõ rằng trong điều kiện môi trường kinh doanh

quốc tế mới hiện nay, để đảm bảo thành công trong xuất khẩu của một nước về

lâu dài và để tuân theo luật của tổ chức thương mại thế giới Việt Nam không thể

kéo dài chính sách trợ cấp xuất khẩu khi đã chính thức gia nhập WTO. Chúng ta

cần phải có những biện pháp mở rộng hoạt động thương mại ra thế giới đặc biệt

phải chú trọng tới công tác xúc tiến xuất khẩu. Công tác xúc tiến xuất khẩu ở đây

không chỉ tập trung vào các hoạt động như thông tin thương mại, các đoàn công

tác thương mại, quảng cáo thương mại và đại diện thương mại ở nước ngoài...mà

cần có những nội dung mới, đặc biệt là tăn cương năng lực sản xuất, cung cấp cho

54

xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu cũng như việc xây dựng ccá

chiến lược xuất khẩu quốc gia. Vì những vấn đề này mang tính quy luật phổ biến

ở các nước đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế nên cũng là những vấn đề

phổ biến ở Việt nam.

Thực tế, nước ta đang đứng trước những vấn đề lớn, những thách thức đối

với xuất khẩu bền vững là:

- Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu:

Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu là vật cản lớn nhất đối với xuất

khẩu bền vững của Việt nam. Nếu Việt Nam không đủ năng lực để sản xuất sản

phẩm xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới thì khó có thể duy trì

được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao làm động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Thực tế, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ những khó khăn về thị trường thường

là hệ qủa của những khó khăn trong sản xuất. Đơn cử như thị trường thịt lợn,

trước đây Việt nam đã từng có hiệp định “G to G” với Malaysia và Singapore về

xuất khẩu thịt lợn sang hai thị trường này, nhưng cdo chúng ta không có thịt lợn

để xuất hẩu sang hai thị trường đó nên đã bỏ mất hai thị truường. Ngay cả những

mặt hàng Việt nam đang dư thừa cung cấp như cà phê, hạt tiêu cũng có thể chứng

tỏ những khó khăn về thị trường đều bắt nguồn từ sản xuất mà ra. Nếu chúng ta

trồng được nhiều giống cà phê chè hơn thì chúng ta đã có thể có thị trường tốt hơn

cho xuất khẩu cà phê, hoặc chúng ta không chỉ xuất khẩu hạt tiêu đen xô mà

ngành công nghiệp chế biến có khả năng cung cấp các sản phẩm khác như hạt tiêu

trắng, hạt tiêu xanh, nhựa dầu hạt tiêu...theo yêu cầu của thị trường thế giới thì rõ

ràng có thể giải quyết vấn đề thị trường xuất khẩu hạt tiêu tốt hơn...Những bất cập

trong sản xuất cung ứng các sản phẩm trên cho xuất khẩu thường là do khan hiếm

nguồn tài trợ, thiếu các phương tiện kỹ thuật hiện đại và thiếu các dịch vụ tốt phục

vụ cho sản xuất.

55

- Thiếu sức cạnh tranh:

Cạnh tranh của đất nước, của doanh nghiệp và sản phẩm là chìa khoá để đảm

bảo xuất khẩu thành công. Những yếu kém trong cạnh tranh của nền kinh tế và

của các doanh nghiệp Việt nam được thể hiện qua thứ hạng 62/78 nước mà WEF

(đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế năm 2001) xếp hạng năng lực

cạnh tranh tổng thể của Việt nam năm 2001. Việc thiếu các phương tiện và dịch

vụ hỗ trợ thương mại mang tính cạnh tranh như công nghệ tiến tiến, phương thức

sản xuất và kiểm tra chất lượng tối ưu, hệ thống marketing hoàn hảo, kỹ thuật bao

gói tốt nhất, tài trợ xuất khẩu cạnh tranh và các kỹ năng xuất khẩu khác đã làm

giảm sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm của Việt nam trên thị trường quốc tế.

- Hiểu biết hạn chế về luật lệ xuất khẩu:

Các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt nam cần phải hiểu biết về hệ

thống phức hợp, đồ sộ các quy tắc, luật lệ của WTO để có thể hình thành lên các

chiến lược xuất khẩu quốc gia hiện thực và bán được sản phẩm ra thị trường nước

ngoài. Rất tiếc là hiện nay ở nước ta mới chỉ có rất ít các chuyên gia về lĩnh vực

này nên nhiệm vụ đào tạo và phổ biến kiến thức về các hiệp định WTO càng trở

nên khó khăn.

- Thiếu các chiến lược xuất khẩu quốc gia:

Việc nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nắm vững bí quyết kỹ thuật

xuất khẩu và thâm nhập được thị trường nước ngoài đòi hỏi phải có các chiến

lược xuất khẩu quốc gia làm cơ sở nền tảng. Chiến lược xuất khẩu quốc gia của

Việt Nam thời kỳ 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2000. Để

chiến lược được triển khai có hiệu quả, phải xây dựng các chiến lược xuất khẩu

của từng ngành và từng khu vực doanh nghiệp. Cho tới nay, rất nhiều ngành và

nhiều doanh nghiệp của Việt Nam chưa xây dựng được các chiến lược phát triển

56

xuất khẩu.

III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở việt

nam.

1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô

1.1. Thiết lập các tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp

tham gia thị trường nước ngoài, đặc biệt là các DNVVN. XTXK phải góp phần

khai thác tới mức cao nhất lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp và

các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.

1.2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo môi trường tâm lý xã hội

thuận lợi hỗ trợ các DNVVN Việt nam tham gia xuất khẩu.

1.3. Để tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất hỗ trợ hoạt động xuất

khẩu của khu vực DNVVN, Nhà nước cần có các giải pháp sau đây:

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với quá trình chuyển đổi sang

nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng.

- Trong điều kiện môi trường thương mại thế giới ngày càng trở nên toàn cầu

hóa và tự do hoá mạnh mẽ với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa

học kỹ thuật và công nghệ thông tin, mạng internet...việc phát triển xuất khẩu

nhanh và bền vững đòi hỏi các nước phải tham gia phân công lao động quôcs tế

dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng nước, mà xuất phát điểm của lợi thế cạnh

tranh là lợi thế so sánh. Qua quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước dưới

tác động ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế thay đổi, những lợithế so

sánh và lợi thế cạnh tranh của từng nước sẽ thay đổi. Như vậy XTXK của Việt

Nam trước hết phải xác định và xuất phát từ lợi thế cạnh tranh của đất nước và

các doanh nghiệp về từng sản phẩm, dịch vụ.

57

- Định hướng XTXK các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam thời gian tới là:

Trong thời gian trước mắt, XTXK vẫn phải tập trung vào việc phát triển thị

trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông lâm thuỷ sản, khoáng sản nguyên liệu,

hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nhiều lao động... nhưng

phải hướng tới việc xúc tiến mạnh mẽ các sản phẩm có giá trị gia tăng, có hàm

lượng công nghệ cao và tri thức cao hàng chế biến sâu, thiết kế, chế tạo, hàng điện

tử, tin học, kể cả phần mềm) cũng như xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ có khả

năng cạnh tranh như xuất khẩu lao động, du lịch, vận tải biển và dịch vụcảng, giao

nhận y tế giáo dục...

XTXK phải chú trọng xây dựng và nâng cao uy tín của hàng hóa và dịch vụ

Việt Nam cả ở thị trường trong nước quốc tế.

Hoạt động XTXK của Việt nam phải theo hướng xây dựng và nâng cao uy

tín của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế thông

qua các biện pháp giám sát và quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu theo tiêu

chuẩn quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến mẫu mã, đóng gói, bao bì

đồng thời tích cực tuyên truyền quảng bá ở nước ngoài tạo điều kiện cho các

doang nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc

tế như ISO 9000, ISO 14000 HACCP... nhằm xoá bỏ những rào cản kỹ thuật do

các nươc phát triển đặt ra.

XTXK phải thúc đẩy khả năng tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp

Việt nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Xuất phát từ vai trò của các DNVVN như là yếu tố tiềm năng quan trọng

trước tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung và của Việt

Nam nói riêng, hoạt động XTXK của CHính phủ phải thúc đẩy khả năng tham

gia xuất khẩu của các DNVVN. Định hướng hoạt động XTXK của Nhà nước cho

cá doanh nghiệp như sau: Thời gian trước mắt vẫn còn đẩy mạnh xuất khẩu của

58

các donh nghiệp lớn nhưng bên cạnh đó, phải tập trung mọi nỗ lực của nhà nước

và toàn xã hội hỗ trợ các DNVVN tham gia xuát khẩu, nâng phần đóng góp của

DNVVN trong xuất khẩu tương ững với tiềm năng xuất khẩu của khu vực này.

- Tăng cường các hoạt động XTXK ở nước ngoài (offshore) đi đôi với việc

cải tiến khả năng cung cấp cho xuất khâủ ở trong nước và đẩy nhanh tốc độ quốc

tế hoá các doanh nghiệp trong nước (onshore).

- Tăng cường cử cán bộ tổ chức các hoạt động XTTM ở nước ngoài, khuyến

khích các donh nghiệp mở đại diện thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện ủy

thác, công ty liên doanh trước mắt là ở các thị trường trọng điểm và các trung tâm

thương mại lớn của thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc... để phát triển

thị trường XK. Triển khai xây dựng cá trung tâm thương mại Việt Nam ở nước

ngoài, tích cực tuyên truyền, quảng bá các dịch vụ Việt Nam cũng như hình ảnh

của một đất nước Việt Nam an toàn, một đối tác thương mại tin cậy... Mặt khác,

công tác XTXK cần phải quan tâm hơn nữa tới việc phát triển cung ứng hàng hoá

và dịch vụ cho XK thông qua việc tăng cường năng lực nghiên cứu triển khai

năng lực thiết kế và chế tạo sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, đổi mới trình độ

khoa học và công nghệ để tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng

thời công tác XTXK còn phải chú ý giúp hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao

năn lực quản lý của các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ hỗ trợ về đào tạo và

dịch vụ thuận lợi hoá thương mại để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tổng

thê., biết điều chỉnh mình để thích ứng với sự thay đổi phương thức kinh doanh

cũng như đáp ứng được sự trông đợi của thị trường về một nhà cung cấp cạnh

tranh.

- Tăng cường đa dạng hoá nguồn lực XTXK, hoàn thiện về mặt tổ chức và

đa dạng hóa các dịch vụ XTXK của Chính phủ và các TSIs nhằm đáp ứng được

nhu cầu và yêu cầu của các DN XK và các khách hàng đẻ đảy mạnh XK của đất

59

nước.

- Đa dạng hóâ nguồn lực tài chính để đẩy mạnh hoạt động XTXK của cả nhà

nước và tư nhân; nỗ lực thực hiện xúc tiến đầu tư cho XK; thành lập các quỹ hỗ

trợ XTXK để hỗ trợ cho các TPOS và bản thân các DN trong các công tác như

đào tạo tư vấn, tham gia hội trở triển lãm...

1.4. Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng:

Hiện nay, cả nước đã có 13 Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Một số Hiệp hội

đã có tác dụng tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động và vai trò của Hiệp

hội còn hạn chế. Nguyên nhân là do thiếu một chế định hoàn chỉnh và đồng bộ về

tổ chức hoạt động của Hiệp hội, bộ máy chuyên trách của Hiệp hội chưa đủ mạnh

và không hợp lý (có phần bị nhà nước hóa), nội dung hoạt động của Hiệp hội

chưa được định hình. Mặt khác, đối với nước ta, Hiệp hội ngành hàng còn là vấn

đề mới.

Do tầm quan trọng của Hiệp hội trong cơ chế thị trường, kiến nghị Thủ

tướng Chính phủ:

(a) Sớm tổ chức hội nghị chuyên đề để bàn về Hiệp hội ngành hàng.

(b) Ban hành một nghị định riêng của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của

Hiệp hội ngành hàng (không xử lý chung với các loại hình hội, hiệp hội khác).

Theo quan điểm học viên, quy định mới về hiệp hội nên có sự phân công trách

nhiệm rõ ràng việc quảnlý nhà nước các hiệp hội cho các Bộ, ngành theo hướng:

Bộ Nội vụ soạn thảo ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các quy định pháp

luật về tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội, ra quyết định thành lập và quản lý

hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ quản lý ngành quyết định

thànhlập các Hiệp hội nghề nghiệp (như Hội nhà văn, hội nhà báo...) Riêng Bộ

Thương mại quản lý các Hiệp hội ngành hàng từ quyết định thành lập, điều lệ, xây

60

dựng các quy định bổ sung, nêu rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các

Hiệp hội trong lĩnh vực xuất khẩu đến theo dõi hoạt động. Sở dĩ đề xuất cơ chế

như trên là vì đặc thù và nhu cầu hoạt động của các loại hình hội, hiệp hội là rất

khác nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế, nên có một cơ chế phù hợp để tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa Bộ Thương mại,

các Bộ, ngành sản xuất và Hiệp hội ngành hàng.

(3) Cho phép định hình lại nội dung hoạt động của các hiệp hội theo các

hướng chủ yếu sau:

- Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường nội

địa; cung cấp thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên.

- Xác định phương hướng liên kết và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên.

- Bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc

chống bán phá giá.

- Phản ánh ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển

sản xuất - kinh doanh ngành hàng lên các cơ quan Chính phủ.

- Hợp tác với các tổ chức, các hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị

thế và uy tín của ngành trong cộng đồng quốc tế.

(c) Giao các Bộ, ngành hữu quan xúc tiến việc thành lập một số Hiệp hội

mới như hiệp hội đối với ngành hàng cao su, một số ngành hàng thủ công mỹ

nghệ.

1.5. Về việc bị đánh thuế chống trợ cấp xuất khẩu: nếu bị đánh thuế chống

trợ cấp trực tiếp, ta có thể khắcphục tình trạnh trên bằng cách trợ cấp gián tiếp

như: tài trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tham gia hội chợ triển lãm ở

61

nước ngoài, cấp kinh phí cho các kháo đào tạo nhân lực...

2. Các giải pháp ở tầm vi mô

2.1. Chính sách khuyến khích sản xuất

- Chính sách đối với làng nghề

Nghề thủ công truyền thống của Việt nam được duy trì và phát triển chủ yếu

là ở các làng nghề. Cả nước có đến hàng ngàn làng nghề, có những làng nghề tồn

tại và phát triển hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm nay (nghề gốm bát tràng

có từ 500 năm, nghề kim hoàn 1.400 năm, nghề tơ lụa Hà Đông 1.700 năm).

Trong quá trình phát triển, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt: một số phát triển

mạnh và lan toả sang các vùng xung quanh (như nghề gốm, chạm khảm, chế biến

gỗ, mây tre đan); một số phát triển cầm chừng, không ổn đinh ( nghề đồ sành, đúc

đồng…); nhưng có những làng nghề gặp nhiều khó khăn ít có cơ hội phát triển (

nghề giấy gió, gò đồng, dệt thổ cẩm Chăm…) thậm chí đang trong quá trình suy

vong và có khả năng mất đi (như nghề giấy sắc, tranh dân gian, dệt quai thao…)

Để các ngành, nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát

triển hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần có các chính sách khuyến

khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau:

+ Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước

là các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp

luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất kinh doanh của

mình để tranh thủ, khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của

Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai.

Như vậy, trước hết cần phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất –kinh

doanh trong làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luật,hiểu biết các chính

sách và các thủ tục đã qui định để được hưởng các chính sách khuyến khích ưu

đãi hiện có sẽ được Nhà nước ban hành. Chính sách hỗ trợ ưu đãi của hà nước đối

với các đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống

62

là mặt hàng chủ yếu trong chính sách của Nhà nước đối với các làng nghề.

+ Làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị làm ăn có tính

phường, hội cần phát huy được nội lực của mình nhưng cũng cần được sự hỗ trợ

của Nhà nước để xử lý một số vấn đề như cơ sở hạ tầng, môi trường … như việc

Nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào của các khu công nghiệp (ở các

khu công nghiệp, Nhà nước bảo đảm đầu tư 100%).

Từ đó, đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính thực hiện

các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, bến bãi, đường dây tải

điện…), dự án xử lý các vấn đề về môi trường…tại khu vực làng nghề, cụ thể là

Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không

thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước.

Các làng nghề có xuất khẩu trên 30% giá trị sản lượng hàng hoá của mình thì

được UBND tỉnh, thành phố xem xét phê duyệt các dự án đàu tư thuộc lĩnh vực

nêu trên theo qui định của chính phủ và đưa vào dự án ngân sách củ tỉnh, thành

phố để được cấp vốn theo qui định hiện hành.

- Chính sách đối với nghệ nhân

Nghệ nhân, thợ cả có vai trò rất tích cực bảo tồn và phát triển ngành nghề

cũng như làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì

không có làng nghề hợac hoặc tí nhất thì cũng không thể có làng nghề phát triển,

làng nghề lừng danh.

Muốn duy trì và phát triển làng nghề truyền thống , Nhà nước cần có chính

sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ, hỗ trợ , khuyến khích họ phát huy tài năng phát

triển nghề, phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền

63

dạy cho con cháu, đào tạo làng nghề cho lao động sản xuất…

Ngay trong thời kỳ phong kiến ở nước ta, những nghệ nhân, thợ giỏi có công

sáng tạo các sản phẩm tinh xảo, những công trình nghệ thuật, kiến trúc nổi tiếng

thường được nhà vua phong các danh hiệu “Kỳ tài hầu”, “Hàn lâm đại chiếu”,

“Cửu phẩm bá hộ”…, được thưởng và hậu đãi. Và trong thời gian qua đã có tổ

chức xét phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và thưởng huy chương “bàn tay

vàng” cho những nghệ nhân, thợ giỏi.

Trước thực tế trên, đề nghị Chính phủ có chính sách và ban hành qui chế

chính thức về phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng”

kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi đạt tiêu chuẩn qui định. Tiêu

chuẩn để được phong tặng danh hiệu nghệ nhân có thể là:

+ Phải là thợ giỏi , có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật, kỹ

xảo riêng tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo; được đồng nghiệp thừa nhận

và suy tôn về trình độ tay nghề.

+ Có nhiều thành tích sáng tạo sáng tạo ra các sản phẩm có giá trị nghệ thuật

được xã hội công nhận (được giải thưởng trong các cuộc thi, triển lãm, sản phẩm

được đặt trong bảo tàng, công trình văn hoá) hoặc sản phẩm mang lại hiệu quả

kinh tế xã hội cao (sản xuất với khối lượng lớn cho tiêu dùng và xuất khẩu, tạo

nhiều việc làm…). Có sáng kiến cảI tạo kỹ thuật sản xuất trong nghề, như sử dụng

nguyên liệu mới, cải tiến công cụ làm nghề, cải tiến thao tác kỹ thuật, có hiệu quả

trong lao động sản xuất…

+ Có thành tích truyền nghề, dạy nghề, tích cực tham gia sửa chữa, phục chế

các sản phẩm, công trình văn hoá, xây dựng công trình văn hoá mới theo yêu cầu

của Nhà nước.

Kiến nghị Chính phủ giao cho một cơ quan quản lý Nhà nước (Bộ văn hoá

thông tin hoặc Bộ Công nghiệp,…) hoặc Liên minh các hợp tác xã soạn thảo trình

Chính phủ ban hành chính sách và qui chế này. Sau khi có qui chế chính thức, cơ

64

quan này tiếp tục được giao hiệm vụ theo dõi, quản lý và tổ chức thực hiện. Việc

xét thưởng và phong thưởng danh hiệu nghệ nhân theo qui chế do Hội đồng ở

Trung ương thực hiện, có đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành tham gia, hoặc

chính phủ uỷ quyền cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập

Hội đồng xét duyệt theo qui chế chung.

- Nghệ nhân được phong tặng có quyền lợi sau:

+ Được thưởng bằng tiền khi nhận danh hiệu và huy chương

+ Được bồi dưỡng kiến thực về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng

mỹ thuật (miễn phí)

+Tuỳ theo nhuu cầu phát triển của từng ngành nghề, được Nhà nước tổ

chức cho đi thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài (miễn phí)

+ Được hưởng thù lao xứng đáng khi tham gia truyền nghề, dạy nghề và

được thưởng khi có thành tích xuất sắc.

+ Được Nhà nước bảo hộ qiuyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp

hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá.

+ Khi có sản phẩm độc đáo tinh xảo hoặc maaux mã hàng mới xuất khẩu

với khối lượng lớn thi được xét thưởng theo kết quả xuất khẩu thu được.

+ Trong trường hợp nghệ nhan, thợi giỏi tiếp xúc với khách hàng nước

ngoài chào bán và tìm được khách mua hàng theo mẫu mã mình sáng tạo ra thì

doanh nghiệp ký hợp đồng và xuất khẩu lô hàng đó phải trả thù lao về chuyển

giao quyền sở hữu công nghiệp (nếu có) hoặc tiền hoa hồng môi giới cho nghệ

nhân theo qui định của pháp luật, đồng thời nếu việc xuất khẩu có ý nghĩa, giá

trị kinh tế lớn thì nghệ nhân còn được Nhà nước xét thuởng thoả đáng.

+ Được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động của câu lạc bộ

nghệ nhân nhằm trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp.

Đối với việc đào tạo nghệ nhân, thợ giỏi cần được Nhà nước hỗ trợ như

sau:

65

+ Những người đã được phong danh hiệu nghệ nhân hoặc những thợ giởi đạt

trình độ xấp xỉ nghệ nhân do địa phương đề nghị, được Nhà nước hỗ trợ theo các

láơp bồi dưỡng kiến thức về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng mỹ thuật

theo chế độ miễn phí (vì nghệ nhân, thợ giỏi trưởng thành thông qua thực tế lao

động sản xuất và tiếp thu kinh nghiệm, bí quyết kỹ thuật gia truyền chưa được học

hành có bài bản nên sức sáng tạo bị hạn chế. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, nếu

nghện nhân thợ giỏi hợp tác gắn bó với hoạ sĩ thì sự sáng tạo trong nghề nghiệp,

sản xuất tăng lên gấp bội).

+ Nghệ nhân nào có thành tích đào tạo một nghệ nhân khác nối nghiệp mình

hoặc đào tạo thành công một thợ cả (trình độ xấp xỉ tiêu chẩn nghẹ nhân, được cơ

sở sản xuất suy tôn và địa phương xác nhận) thì được Nhà nước cấp bằng khen

hoặc trao huy chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truuyền thống” kèm

theo một khoản tiền hỗ trợ chi phí đào tạo dưới dạng một khoản tiền xứng đáng

(giá trị có thể là 50 triệu VNĐ).

+ Nhà nước cử nghệ nhân thợ giỏi ra nước ngoài tham quan khảo sát học hỏi

nghề nghiệp theo chế độ miễn phí vừa là quyền lợi của nghệ nhân như đa nêu ở

phần trên, vừa là một phương thức đào tạo nâng cao trình độ sáng tạo cho nghệ

nhân.

+ Việc thực hiện tốt chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi là một đảm bảo

duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền

thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của

dân tộc.

- Chính sách đối với lao động thủ công

Thợ thủ công trong các làng nghề truyền thống thường không học trong các

trường lớp mà chủ yếu các nghệ nhân, thợ giỏi truyền dạy nghề theo phương

pháp “cầm tay chỉ việc”, vừa làm vừa học”. Trong đó, những thủ pháp kỹ thuật ,

66

nghệ thuật, bí quyết nhà nghề thường các nghệ nhân, thợ cả chỉ truyền dạy cho

con cháu mình, không dễ lộ ra ngoàI, họ giữ gìn các bí quyết đó với ý thức đầy đủ

và cẩn trọng.

Trong lĩnh vực khác thường được Nhà nước đầu tư xây dựng các trường dạy

nghề , vậy Nhà nước cũng cần có các chính sách hỗ trợ đào tạo thợ thủ công trong

các ngành nghề truyền thống phù hợp với đặc điểm nêu trên. Để thực hiện yêu cầu

này có thể áp dụng các chính sách – biện pháp sau:

+ Mở trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi (tỉnh, thành) có nhu cầu hoặc

mở thêm khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng kỹ thuật hiện có để

đào tạo thợ phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các

làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước

hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm

đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi

phí về giảng dậy như mời giảng viên và nghệ nhân giảng bàI và hướng dẫn thực

hành, các chi phí thí nghiệm (nếu có)…

Nếu không làm được như trên thì nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ quỹ hỗ

trợ việc làm (vốn ngân sách cấp cho chương trình hỗ trợ việc làm hàng năm của

nhà nước) để các cơ sở sản xuất, nhât slà các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ

chức việc đào tạo nghề. Kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc

theo kết quả đào tạo nghề do UBND tỉnh, thành xét duyệt.

- Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ:

Để tạo diều kiện cho các cơ sở sản xuất –kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ

tiếp cận thuận lợi hơn nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất lkà một số

nguyên liệu như gỗ, song, mây, tre, lá….. ; đề nghị cho áp dụng một số chính

67

sách-biện pháp sau:

+ Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các Bộ, ngành và

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp,

đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa

phương mình quản lý (trên cơ sở hạn mức chung do thủ tướng chính phủ phê

duyệt), đề nghị ưu tiên giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản

phẩm gỗ mỹ nghệ. Tuy nhiên, các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ

nguyên liệu cho các hợp đồng đó thì mới được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho

năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao

nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm.

+ Đối với các loại nguyên liệu khác, như song mây, tre lá… các đơn vị khai

thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ

trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu (mây vườn…) phục vụ xuất

khẩu (giao đát, giảm tiền thuê đất hoặc tiền thuế sử dụng đất…) Tại Philippin,

chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty tư nhân lập nông trang trồng mây 6.000 ha,

nay đã có thu hoạch với giống mây đường kính lớn, giá trị thương mại cao. Nhà

nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung

ứng cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liẹu gỗ, nguyên liệu cho

ngành sản xuất gốm sư…, vì các cơ sở sản xuất thường không đủ khả năng vốn và

kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp này. Nguyên liệu được khai thác, xử lý

đúng qui trình công gnhệ vừa đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng

nguyên liệu đầu vào do đó nần cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh

tranh hàng hoá của ta trên thị trường thế giới.

2.2. Chính sách tài chính, tín dụng khuyến khích sản xuất và xuất khẩu

+ Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ (sửa

đổi, bổ sung Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999).

68

Theo hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành, những dự án đầu tư

sản xuất kinh doanh nội địa các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề

truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác

không thuộc các ngành nghề truyền thống. Nhưng trong xuất khẩu (nếu xuất khẩu

đạt giá trị trên 30% giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp), thì

không có sự khác biệt.

Vì vậy kiến nghị: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống

theo qui định trong trường hợp có xuất khẩu đạt trên 30% giá trị của đơn vị sản

xuất – kinh doanh, tức là đạt 2 nội dung được ưu đãi qui định trong danh mục A,

thì cho hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, thí dụ:

Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề

truyền thống (thuộc danh mục A), có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu

nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 50% cho bốn bước tiếp theo;

Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% (tức là đạt nội dung khác của danh

mục A), thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, tức là miễn ba năm thuế thu

nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho 5 năm tiếp theo.

+ Sửa đổi bổ sung các qyu định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãI

Theo nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của chín phủ về tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước, chỉ những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn (trong

đó có dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao

động) mới được vay vốn từ quỹ Hỗ trợ phát triển Nhà nước.

Vì vậy, kiến nghị chính phủ mở rộng cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án

đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống

đã được quy định trong danh mục A, không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào;

đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” quy

69

định tại Nghị định 43 nêu trên, hoặc được Quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư.

Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất thì còn có thể được

Quỹ hỗ trợ xuất khẩu Quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng

xuất khẩu.

Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các ngành nghề truyền thống

(theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành

lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ

nghệ.

Hiện nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu

vốn, không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức

sản xuất kinh doanh.

Để khuyến khích khai thác các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn

hàng cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu

đạt mức từ 50 ngàn USD trở lên kiến nghị Chính phủ cho hưởng các ưu đãi về

vốn kinh doanh như sau:

+ Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất - kinh doanh theo hợp

đồng đã ký,

+ Sau khi thực hiện hợp đồng, được uỹ Hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc

quỹ Hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo qui định taị Nghị định 43/1999/NĐ- CP

ngày 29/6/1999, tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay của Ngân

hàng.

+ Đồng thời, các nhà sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu cũng được hưởng

các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp qui định tại điều 27 Nghị định

5/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật

khuyến khích đầu tư trong nước, tức là các ưu đãi bổ sung về thuế đối với nhà đầu

tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.

70

2.3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu

+ Chính sách hỗ trợ công tác tiệp thị và xúc tiến thương mại

Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh như đã trình bày ở trên, kiến

nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến, tiếp thị mở rộng thị

trường xuất khẩu. Hơn nữa, trong thương mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước

nào không dành một nguồn kinh phí nhất định từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho

công tác xúc tiến thương mại, nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Cụ thể ,

Nhà nước hỗ trợ các hình thức sau:

a. Hỗ chợ 50% chi phí thuê gian hàng cho sở sở sản xuất kinh doanh hàng thủ

công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. 50% chi phí còn lạiđược

hỗ trọ nếu đơn vị nào ký được hợpđồng xuất khẩu với trị giá trên 50 ngàn

USDtrong thời gian hội chợ diễn ra.

Viẹc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với doanh nghiệp từ một trung tâm

xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ

tổ chức tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế.

b. Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại

một số nơi ở nước ngoài tương tự như "Việt Nam Square" tại Osaka, Nhật Bản

(có thêm ở vùng Trung Đông, Pháp hoặc Đức, Nga, Hoa Kỳ hoặc Canada, mỗi

nơi một trung tâm).

Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê

để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công

mỹ nghệ được miễn phí.

c. Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc

dẩy xuất khẩu. Hàng năm trên thế giưoí có rất nhiều lễ hội, nếu nắm bắt được nhu

cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu của từng lễ hội thì có thể bán được

nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của các dân tộc ở nước ta.

Để có thể triển khai xuất khẩu phục vụ các nhu cầu lễ hội và Noel của các

71

nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, kiến nghị:

- Ở những nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ

tìm hiểu khảo sát nhu cầu phụ vụ lễ hội và Noel tại địa bàn. Khi phát hiện nhu cầu

và tìm được đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu

mã hàng chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và

giao hàng. Chí phi cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ

100%. Nếu ký được hợp đồng có giá trị thì được xét thưởng.

- Ở những nơi nước ta chưa có cán bộ thương mại thường trú thì giao cho

Ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm quảng cáo của Bộ nghiên

cứu, có kế hoạch cử nhóm công tác (bao gồm hoạ sĩ, nghệ nhân, cán bộ kinh

doanh ngành hàng) đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán hàng theo cơ

chế chính sách nêu trên.

d. Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc hoa hồng môi

giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả khoản tiền này theo mức thoả

thuận khi ký và thực hiện hợp đồng xuất khẩu (việc môi giới được thực hiện

thông qua hợp đồng môi giới).

e. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc khai thác các hoạt động

quốc tế như hội thảo, biểu diễn thảo tác nghề nghiệp…nhằm mở rộng phát triển

ngành nghề truyền thống, phục vụ xuất khẩu. Ví dụ như tại Achentina vào tháng 4

hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ và gần 700 nghệ nhân của

các nước được mời tham gia biểu diễn, thao tác nghề, có gian hàng trưng bày

miễn phí cho nghệ nhân…Tuỳ trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ kinh

phí cho các nghệ nhân Việt nam tham gia các hoạt động này; kết hợp với việc giới

thiệu mẫu mã hàng hoá. Hơn nữa, nghệ nhân có thể chào bán, ký kết các hợp

đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các Công ty sản xuất kinh doanh trong nước,

được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp

72

đồng xuất khẩu ký được.

2.4. Chính sách thưởng xuất khẩu

Theo qui định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/ năm trở lên.

Đây là một tiêu chuẩn quá cao và khó có doanh nghiệp nào đạt được tiêu chuẩn để

đưa vào diện được xét thưởng.

Để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích cự tham gia đẩy mạnh

xuất khẩu, đồng thời cũng là cách hỗ trợ vượt qua những khó khăn trong sản xuất

kinh doanh; kiến nghị cho áp dụng tiêu chuẩn kim ngạch xét thưởng ở từ mức 2

triệu USD/năm trở lên; vì nếu có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt mức kim

ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên 2 triệu USD/năm, thì đó là điều

đáng mừng. Vả lại, nếu có được thưởng thì doanh nghiệp cũng chỉ được hưởng 1

lần trong cả cuộc đời tồn tại của mình; còn sau đó nếu doanh nghiệp duy trì và

phát triển tốt để được xét thưởng tốt thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng

kim ngạch xuất khẩu đạt mức qui định. Mức hiện hành là 20%/năm đối với toàn

bộ kim ngạch của đơn vị năm sau so với năm trước.

KẾT LUẬN

*******************

Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đang bước vào một nền kinh tế mới. Đó là

nền kinh tế dựa trên nền tảng của tri thức và công nghệ. Môi trường thương mại

quốc tế đã có những thay đổi căn bản trước làn sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá,

tự do hoá và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ...Những thay đổi cơ bản của môi trường thương mại quốc tế một mặt tạo ra

những cơ hội to lớn cho sự phát triển của các quốc gia, nhưng mặt khác lại đặt các

nước trước thách thức lớn nhất cho phát triển, đó là cạnh tranh khốc liệt hơn bao

73

giờ hết. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh sống còn này, các nước, khi

tham gia thương mại quốc tế, phải có các chiến lược phát triển xuất khẩu thích

ứng và tiến hành các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu phù hợp.

Điều này càng đúng với Việt nam khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến

hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng hội nhập vào nền kinh tế thế

giới và khu vực. Mục tiêu nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu tăng gấp hợ hai lần nhịp

độ tăng trưởng GDP trong chiến luức phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 có

thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào những nỗ lực phát triển xuất khẩu của

Nhà nước và các doanh nghiệp Việt nam trong việc tranh thủ tối đa các cơ hội

mới mở ra từ môi trường kinh doanh quốc tế và vượt lên những thách thức của

cạnh tranh khốc liệt. Chính vì vậy, việc chú trọng vào trợ cấp xuất khẩu càng trở

nên quan trọng và cũng là lý do khiến tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài "Trợ cấp

xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập".

Những đóng góp của bản khoá luận cho trợ cấp xuất khẩu của Việt nam

được thể hiện ở những điểm mà tác giả tóm tắt sau đây:

- Nêu ra các hình thức trợ cấp xuất khẩu chủ yếu của một số nước có điều

kiện tương tự Việt nam đã áp dụng;

- Phân tích những thành tựu và tồn tại của trợ cấp xuất khẩu Việt nam đã

áp dụng trong thời gian qua;

- Nêu ra những thuận lợi và thách thức đối với việc áp dụng trợ cấp xuất

khẩu khi gia nhập thị trường quốc tế

Để từ đó rút ra kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ

cấp xuất khẩu trong điều kiện hôi nhập.

Hoàn thành bản khoá luận này, em hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ

74

bé để các cơ quan nghiên cứu thương mại có thể đánh giá đúng những mặt tốt và

chưa tốt trong quá trình thực hiện vừa qua, đưa ra một số gợi ý để các cơ quan

nghiên cứu thương mại nghiên cứu tham khảo. Hy vọng trong điều kiện hội nhập,

Việt nam sẽ đạt được nhiều thành tựu và mở rộng các mặt hàng xuất khẩu quan

trọng và, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu ra những chính

sách trợ cấp xuất khẩu hiệu quả, hợp pháp trong tiến trình hội nhập.

*********************************

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

ΘΘΘ

- Báo cáo tổng kết của vụ XNK - Bộ thương mại 2002.

- Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001

- Giáo trình Thanh toán quốc tế . Chủ biên: PGS.NGƯT.Đinh Xuân Trình

- Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh

75

ngoại tệ - Tác giả: Lê Văn Tư & Lê Tùng Vân, NXB: Thống kê.

- Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 Chủ biên:

PTS. Phạm Quyền & PTS. Lê Minh Tâm.

- Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam 2001- 2010.

- Quyết định 195/ 1999/ QĐ - TTg về quỹ hỗ trợ xuất khẩu.

- Viện nghiên cứu thương mại, Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt

nam, Hà Nội năm 1999

- Thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế, hà nội, 1999

- KS.Vũ Lưu, báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ “ Cơ sở khoa học về chiến

lược hỗ trợ xuất khẩu cho các hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt

nam”, Hà nôi, 1999

- Luận án tiến sĩ " Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp

chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở Việt nam hiện nay" của Nguyễn Thị Hồng Minh,

76

thứ trưởng Bộ Thuỷ sản, 1996.