LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên
lượt xem 17
download
Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong điều kiện một nước có tới 76 % dân số sống ở nông thôn và trên 70 % lao động làm nông nghiệp và tiến đến năm 2010 giảm lao động trong nông nghiệp xuống còn dưới 50% trong tổng lao động xã hội, thì việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nội dung cốt lõi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên
- LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong điều kiện một nước có tới 76 % dân số sống ở nông thôn và trên 70 % lao động làm nông nghiệp và tiến đến năm 2010 giảm lao động trong nông nghiệp xuống còn dưới 50% trong tổng lao động xã hội, thì việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nội dung cốt lõi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay. Nền nông nghiệp nước ta sản xuất còn lạc hậu, mang nặng tính tự cấp, tự túc, quy mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, bình quân đất nông nghiệp trên lao động thuộc loại thấp trên thế giới. Do vậy, việc thâm canh tăng năng suất cây trồng là một biện pháp vừa cơ bản vừa cấp bách để nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng nông sản trên thị trường thế giới, từng bước cải thiện đời sống nông dân và phát triển kinh tế nông thôn. Phú Yên là tỉnh Duyên hải nam Trung bộ vừa có đồng bằng vừa có vùng núi và vùng biển, cơ cấu kinh tế đa dạng. Song, nhìn chung nông nghiệp vẫn là ngành chính của tỉnh, dân số chủ yếu sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Trong những năm qua, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho nông nghiệp của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đến nay việc đề ra những cơ chế, chính sách để thúc đẩy thâm canh cây trồng còn nhiều hạn chế nên năng suất cây trồng còn thấp, công tác quy hoạch, phân vùng để phát triển trồng trọt còn nhiều bất cập, chưa được cụ thể hoá, số diện tích chuyên canh cây trồng còn ít về diện tích còn nhỏ về qui mô, việc áp dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ còn gặp nhiều khó khăn, thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra hàng nông sản chưa thật sự ổn định và chứa đựng nhiều nhân tố rủi ro, vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp còn thấp, đầu tư chưa cân xứng với tiềm năng đất nông nghiệp, nên năng suất một số loại cây trồng chủ lực trên địa bàn tỉnh chưa cao.
- Nghiên cứu lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của Mác nói chung và địa tô chênh lệch II nói riêng, sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở lý luận đặc biệt quan trọng, trên cơ sở đó đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, lãnh đạo, chỉ đạo trong thực tiễn phát triển cây trồng, nâng cao năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước cải thiện đời sống nông dân và xây dựng nông thôn mới là vấn đề rất cấp thiết. Với những lý do trên, qua quá trình nghiên cứu địa tô chênh lệch II của Mác tôi chọn đề tài: "Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên" để làm luận văn thạc sĩ là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn ở Phú Yên hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nâng cao năng suất cây trồng trong lĩnh vực nông nghiệp, đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, điều này được thể hiện trong Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và đã được nhiều ngành chuyên môn, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: PGS. TS Nguyễn Đình Kháng và TS.Vũ Văn Phúc: Một số vấn đề lý luận của Mác và Lênin về địa tô, ruộng đất; Lê Đình Thắng: Vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 2/ 1998; Nguyễn Điền: Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 2/ 2000; Lê Thế Tiến: Trao đổi kinh nghiệm về chuyển đổi ruộng đất trong nông nghiệp, Tạp chí Địa chính, số 5 + 6/1997; Nguyễn Quốc Thái: Một số vấn đề về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 320 tháng 1/ 2005; TS. Lê Xuân Bá và KS Lưu Đức Khải: Tổ chức lại việc sử dụng ruộng đất nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hoá, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 338, tháng 6/ 2001; TS. Phạm Thị Khanh: Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị số 11/ 2005; Lê Minh Tuynh, Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế năm 2002; TS Nguyễn Thế Tràm: Quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ (1999 – 2000); Trịnh Thị Nga, Chuyển dịch cơ cấu kinh
- tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Phú Yên, Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 1999 và nhiều công trình nghiên cứu khác. Mặc dù nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng các tác giả đã thấy được vị trí tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng địa phương, đồng thời qua nghiên cứu các tác giả cũng đã phân tích rõ những thuận lợi và khó khăn, những mặt làm được và chưa làm được của ngành nông nghiệp nước ta trong thời gian qua, qua đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi cao nhằm thúc đẩy nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng phát triển. Tuy nhiên, nghiên cứu sự vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của Mác vào thâm canh cây trồng trên địa bàn tỉnh Phú Yên nhằm thúc đẩy ngành trồng trọt của tỉnh phát triển dưới giác độ kinh tế - chính trị thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về địa tô chênh lệch II của Mác và khảo sát thực tiễn ngành trồng trọt của tỉnh, luận văn tập trung làm rõ thực trạng về thâm canh cây trồng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy thâm canh tăng năng suất cây trồng trên địa bàn tỉnh có hiệu quả kinh tế cao hơn. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ: phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về địa tô chênh lệch II của Mác, thực tiễn ngành trồng trọt và thực trạng thâm canh tăng năng suất cây trồng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, nhằm rút ra những vấn đề bức xúc nhất hiện nay cần giải quyết, từ đó đề xuất phương hướng và những giải pháp khả thi để thâm canh tăng năng suất cây trồng ở Phú Yên trong thời gian tới nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về địa tô, mà trọng tâm là địa tô chênh lệch II của Mác, từ đó vận dụng vào thực tiễn thâm canh tăng năng suất cây trồng trên phạm vi một tỉnh nông nghiệp.
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Vận dụng vào một tỉnh khu vực Duyên hải nam Trung bộ - Tỉnh Phú Yên, thời gian từ khi có luật đất đai năm 1993 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học và các phương pháp phổ biến khác trong nghiên cứu kinh tế - chính trị. Trong đó luận văn tập trung nhiều cho phương pháp khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp những kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó, luận văn rút ta những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn nhằm phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn phát triển ngành trồng trọt ở địa phương. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần: Phân tích thực trạng những chủ trương, chính sách của tỉnh về phát triển ngành trồng trọt ở Phú Yên, đối chiếu lý luận địa tô chênh lệch II của Mác, trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng, giải pháp khả thi để thâm canh cây trồng trên địa bàn tỉnh Phú Yên có hiệu quả hơn. Góp phần bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt của tỉnh nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu 3 chương, 6 tiết.
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH II CỦA MÁC VÀ VAI TRÒ THÂM CANH CÂY TRỒNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH CỦA MÁC 1.1.1. Địa tô chênh lệch - Lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp và vấn đề độc quyền kinh doanh ruộng đất Một là: Những giả thiết để phân tích địa tô chênh lệch Để nghiên cứu địa tô chênh lệch, Mác đưa ra hai giả thiết, những giả thiết này phản ánh cơ sở hiện thực đã được nhận thức, trên cơ sở đó mà phát sinh địa tô chênh lệch. Đây là những giả thiết khoa học thật sự. Giả thiết thứ nhất, giá cả những sản phẩm của ruộng đất và hầm mỏ phải trả tô để được bán theo giá cả sản xuất của chúng, cũng giống như những hàng hoá khác trong nền kinh tế hàng hoá tự do cạnh tranh. Đây là những điều kiện bình thường, không xét tới những biến động ngẫu nhiên của giá cả. Giả thiết thứ hai, để chỉ rõ tính chất chung của hình thái địa tô Mác giả định, phần lớn công xưởng trong một nước nhất định chạy bằng hơi nước, còn một số ít công xưởng lại chạy bằng thác nước tự nhiên. Vấn đề đặt ra là cần làm sáng tỏ vì sao "một phần lợi nhuận lại có thể chuyển hoá thành địa tô, tức là làm thế nào mà một phần trong giá cả hàng hoá lại có thể rơ i vào tay địa chủ" [14, tr.279]. Để trả lời vấn đề trên phải căn cứ vào lý luận của Mác về lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất mới có thể giải thích được. Ở đây có hai cách tính với độ chính xác khác nhau: - Nếu tính đơn giản thì "trong các công xưởng chạy bằng sức nước, chi phí sản xuất chỉ là 90 chứ không phải là 100. Vì giá cả sản xuất có tác dụng điều tiết thị trường đối với khối lượng hàng hoá ấy là 115, với một lợi nhuận là 15%, cho nên các chủ xưởng có máy móc chạy bằng sức nước cũng sẽ bán theo giá 115, nghĩa là theo giá
- cả trung bình có tác dụng điều tiết giá cả thị trường. Vậy lợi nhuận của họ sẽ lên đến 25 chứ không phải 15…" [14, tr. 280]. - Nếu tính chính xác hơn thì con số 25 sẽ được chia ra 13,5 - 11,5 chứ không phải 15 -10 (vì để cho gọn). Nhà tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch không phải do bán hàng hoá cao hơn giá cả sản xuất, mà là vì hàng hoá của họ sản xuất ra trong điều kiện thuận lợi hơn, giá cả sản xuất cá biệt thấp hơn giá trung bình của xã hội. Do vậy, để nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta bắt đầu nghiên cứu từ lợi nhuận siêu ngạch. Hai là: Lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp do đâu mà có. Đặc điểm dễ nhận biết của của địa tô, đó là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch không phải do kết quả ngẫu nhiên trong lưu thông mà là một hiện tượng bình thường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, để hiểu thế nào là địa tô chênh lệch thì phải đi sâu phân tích lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp. Sở dĩ giá cả sản xuất cá biệt của những xí nghiệp sử dụng thác nước thấp hơ n là vì nó chi phí tổng số lao động nhỏ hơn, năng suất lao động của nó cao hơn năng suất lao động của những xí nghiệp cùng loại. Năng suất lao động cao hơn không đem lại lợi ích cho người lao động mà chỉ đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho những kẻ độc chiếm thác nước: "Lợi nhuận siêu ngạch ấy chỉ có thể là do sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt mà ra thôi…" [14, tr. 283]. Song vấn đề quan trọng là phải phân biệt rõ lợi nhuận siêu ngạch nói chung với lợi nhuận siêu ngạch hình thành địa tô tư bản chủ nghĩa. Một vấn đề đặt ra là: Do đâu chủ xưởng dùng thác nước thu được lợi nhuận siêu ngạch? Đó là nhờ vào một lực lượng tự nhiên, còn máy hơi nước là sản phẩm của lao động nên muốn sử dụng nó, phải trả bằng một vật ngang giá. Tức là lượng tư bản bỏ ra mua máy hơ i nước phải tính vào chi phí sản xuất. Tuy nhiên, thác nước hay áp lực hơi nước đều là lực lượng tự nhiên cả, song việc sử dụng thác nước lại ít tốn kém hơn. Lợi nhuận siêu ngạch nói chung là nhờ giảm chi phí cá biệt do ứng dụng khoa học, có năng suất lao động cá biệt cao hơn năng suất trung bình, nếu so sánh lợi nhuận siêu ngạch trong công nghiệp và lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp chúng ta thấy rằng, lợi nhuận siêu ngạch trong công nghiệp không ổn định ở một đơn vị nào cả, nó
- chỉ tạm thời thôi. Vì vậy, trong nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, "nguyên nhân đẻ ra lợi nhuận siêu ngạch là ở ngay trong bản thân tư bản" [14, tr. 286], không có gì ngăn cản mọi tư bản đầu tư như nhau, cạnh tranh, có xu hướng san bằng sự khác nhau về hiệu quả đầu tư. Nhưng đối với lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp lại không như vậy. Sức sản xuất của thác nước tự nhiên được nâng cao không phải là nguyên nhân bên trong của quá trình sản xuất của tư bản, mà nó là do việc sử dụng một lực lượng tự nhiên có hạn và gắn liền với đất đai. "Đây là một lực tự nhiên có thể độc chiếm được, một lực lượng tự nhiên mà - như trường hợp thác nước - chỉ có những kẻ nào chiếm hữu những bộ phận đất đai đặc biệt với tất cả những cái gì phụ thuộc vào đất đai ấy, mới có thể chi phối được" [14, tr. 286]. Vậy lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp là do sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung với giá cả sản xuất cá biệt trong nông nghiệp do điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Ba là: Vấn đề độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa. Theo Mác: "điều kiện tự nhiên này không gắn liền với những sản phẩm mà lao động có thể chế tạo ra được, như máy móc, than..., mà gắn liền với những điều kiện tự nhiên nhất định của những bộ phận đất đai nào đó" [14, tr. 287]. Những điều kiện tự nhiên đó không gắn liền với sản phẩm do lao động tạo ra mà gắn với những điều kiện tự nhiên và nhà tư bản có thể độc chiếm. Số chủ xưởng đã chiếm hữu thác nước gạt số chủ xưởng không chiếm hữu được thác nước ra ngoài, không để cho họ lợi dụng lực lượng tự nhiên ấy, vì đất đai - đặc biệt là đất đai có sẵn sức nước là có hạn. Sự chiếm hữu lực lượng tự nhiên đó tạo nên một sự độc quyền trong tay người chiếm hữu, cho phép tư bản bỏ vào đầu tư ở đó có hiệu quả hơn. Đây là sự độc quyền kinh doanh về thác nước, về ruộng đất mà người kinh doanh khác không có điều kiện làm như vậy. Thuật ngữ độc quyền chiếm hữu ở đây có nghĩa là độc chiếm lấy để sử dụng, để kinh doanh, khác với phạm trù "sở hữu" mà Mác đã phân biệt: chiếm hữu, tức là những người có trong tay một vật gì đó, do đó có quyền chi phối vật ấy, nhưng không nhất thiết phải là người sở hữu vật ấy, khác với những người sở hữu vật ấy.
- Mác viết: Nếu bản thân nhà tư bản lại là kẻ sở hữu thác nước ấy, thì tình hình cũng sẽ không thay đổi gì cả. Hắn cũng sẽ thu được 10 p.xt. Lợi nhuận siêu ngạch như thế, nhưng không phải với tư cách là nhà tư bản, mà với tư cách là kẻ sở hữu thác nước, chính là vì số trội ra ấy không phải do bản thân của hắn với tư cách là tư bản sinh ra, mà là do việc sử dụng một lực lượng tự nhiên sinh ra - một lực lượng tự nhiên khác với tư bản của hắn, có một khối lượng có giới hạn, có thể độc chiếm được - cho nên số trội ra ấy mới chuyển hoá thành địa tô [14, tr.288]. Để hiểu được địa tô chênh lệch chúng ta cần nắm những đặc điểm cơ bản của nó. Đặc trưng, đặc điểm của địa tô chênh lệch: - Loại địa tô này được gọi là địa tô chênh lệch vì nó không gia nhập với tư cách là một yếu tố quyết định vào giá cả sản xuất chung của hàng hoá mà nó lại lấy giá cả sản xuất chung ấy để làm tiền đề. Nó bao giờ cũng là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung với giá cả sản xuất cá biệt của tư bản sử dụng lực lượng tự nhiên một cách độc quyền. - Địa tô chênh lệch không phải là kết quả của năng suất tuyệt đối của tư bản đã sử dụng, hoặc của lao động do tư bản ấy chiếm dụng mà là kết quả của năng suất tương đối lớn hơn của những tư bản cá biệt đầu tư vào một khu vực sản xuất nào đó có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi. - Với địa tô chênh lệch, lực lượng tự nhiên không phải là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận siêu ngạch mà chỉ là cơ sở tự nhiên của lợi nhuận siêu ngạch. Ở đây chỉ là nhờ điều kiện tự nhiên đó khiến cho có thể nâng cao năng suất lao động lên. - Quyền sở hữu ruộng đất không phải là nguyên nhân sinh ra lợi nhuận siêu ngạch mà chỉ là nguyên nhân làm cho lợi nhuận siêu ngạch chuyển hoá thành địa tô lọt vào tay địa chủ. Điều này cũng có nghĩa là dù không tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất, song nếu có nông nghiệp sản xuất hàng hoá thì vẫn có hiện tượng địa tô chênh lệch. - Địa tô chênh lệch đề ra một phạm trù phát sinh, đó là giá cả ruộng đất (giá cả thác nước).
- … giá cả ấy của thác nước nói chung là một biểu hiện bất hợp lý, ẩn giấu ở đằng sau lưng nó một quan hệ kinh tế hiện thực. Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như mọi lực lượng tự nhiên, không có giá tr ị nào cả, vì không có một lao động nào được vật hoá ở trong nó; do đó, nó cũng không có giá cả, vì theo lẽ thường, giá cả không phải cái gì khác hơ n là biểu hiện tiền tệ của giá trị… Giá cả đó chẳng qua chỉ là địa tô đã tư bản hoá [14, tr.291]. Địa tô chênh lệch gồm có địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II 1.1.2. Bản chất - Điều kiện hình thành địa tô chênh lệch I Thứ nhất: Bản chất địa tô chênh lệch I. Qua định nghĩa về địa tô của Ricácđô: ""Địa tô"... bao giờ cũng là sự chênh lệch giữa sản phẩm thu được do sử dụng hai lực lượng tư bản và lao động ngang nhau" [14,tr. 293], Mác cho rằng, định nghĩa đó đúng, song chưa đủ, cần phải nói thêm yếu tố: trên cùng một diện tích đất đai như nhau. Thực ra, địa tô chênh lệch I là địa tô thu được do có tư bản ngang nhau, lao động ngang nhau, diện tích đất ngang nhau trên những mảnh ruộng khác nhau, có kết quả sản phẩm khác nhau. Nó là phần lợi nhuận siêu ngạch trên những mảnh ruộng có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Thứ hai: Điều kiện hình thành địa tô chênh lệch I Điều kiện chung để khảo sát địa tô chênh lệch I là: tư bản ngang nhau, lao động ngang nhau, diện tích đất đai ngang nhau. Khi đã có những điều kiện chung đó, nhưng lại có kết quả khác nhau trên những thửa ruộng khác nhau thì sẽ có lợi nhuận siêu ngạch. Hai nguyên nhân chính dẫn đến kết quả khác nhau đó là độ phì tự nhiên và vị trí thuận lợi khác nhau của các mảnh đất. Ngoài ra, nếu xét kỹ còn có các nguyên nhân phụ khác nữa như: - Cách phân bố thuế có thể tác động không đồng đều giữa các mảnh ruộng cũng cho những kết quả khác nhau. - Có sự chênh lệch về hiệu quả do sự phát triển nông nghiệp hàng hoá giữa các vùng trong một nước không đồng đều, hay vì tập quán canh tác truyền thống khác nhau.
- - Tư bản phân phối không đồng đều giữa những người kinh doanh nông nghiệp khác nhau. Ở đây chúng ta cần đi sâu phân tích hai nguyên nhân chính: độ phì và vị trí của mảnh ruộng, ta thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng, và chúng có thể phát sinh thuận chiều nhau hoặc ngược chiều nhau: + Có thể độ phì cao, vị trí thuận lợi thì lợi nhuận siêu ngạch thu được càng lớn; + Có thể độ phì cao, song vị trí thuận lợi kém, lợi nhuận siêu ngạch cũng sẽ thấp hơn; + Có thể độ phì thấp, song vị trí thuận lợi, lợi nhuận siêu ngạch cũng sẽ thấp hơn; + Có thể độ phì thấp, vị trí không thuận lợi thì lợi nhuận siêu ngạch sẽ có ít hoặc không còn nữa. Chính sự tác động qua lại như trên, nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu các loại đất đưa vào canh tác, khai hoang có thể theo quá trình khác nhau; nếu vị trí sử dụng đất từ thuận lợi đến không thuận lợi, thì trình tự khai thác có thể từ đất tốt chuyển dần sang đất xấu (thực ra vẫn là đất tốt ở xa tương đương với đất xấu ở gần). Vấn đề vị trí của đất có tính tương đối và lịch sử. Vì một mặt sự tiến bộ của xã hội có tác dụng san bằng các chênh lệch về hiệu quả; mặt khác, sự tiến bộ ấy lại có thể làm chênh lệch về hiệu quả. Sự tiến bộ về giao thông vận tải, về tốc độ và quy mô của các công trình xây dựng nhiều khi làm đảo lộn về trật tự thuận lợi. Nội dung, mức độ về độ phì của đất đai. Độ phì của đất, đó là dung lượng khác nhau về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sinh vật ở đất (cấu thành hoá, sinh học của các lớp đất khác nhau). Định nghĩa này chưa đề cập thêm nhân tố khí hậu. Độ phì tự nhiên của đất khác với độ phì nhân tạo, tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Không nên hiểu độ phì tự nhiên theo cách nhìn siêu hình, phi lịch sử, phi thực tế. Chẳng hạn, hai mảnh đất có thành phần hoá học như nhau, nhưng chúng vẫn có thể khác nhau về độ phì thực tế. Điều đó còn tuỳ thuộc vào sự phát triển của khoa học và kỹ thuật ứng dụng vào nông nghiệp: "Mặc dù tính chất phì nhiêu ấy là một thuộc tính khách quan của đất, nhưng về mặt kinh tế thì bao
- giờ nó cũng bao hàm một mối quan hệ nhất định, - mối quan hệ với trình độ phát triển nhất định của hoá học và của cơ khí trong nông nghiệp, và vì vậy mà nó thay đổi theo trình độ phát triển ấy" [14, tr.296]. Về mặt xu hướng chuyển dịch cơ cấu sử dụng các loại đất đưa vào canh tác, Mác phê phán quan niệm cứng nhắc: chỉ có dùng đất tốt đến đất xấu. Thực ra, xu hướng chuyển dịch có thể theo nhiều chiều khác nhau từ tốt đến xấu, từ xấu đến tốt hoặc cũng có thể từ trung bình đến tốt, từ trung bình đến xấu. Độ phì tự nhiên của ruộng đất có thể là kết quả của độ phì nhân tạo. Độ phì nhân tạo có thể chuyển hoá thành độ phì tự nhiên (Mác trở lại vấn đề này ở Chương 40). Trong học thuyết giá trị thặng dư, Mác nêu: Độ phì ruộng đất = Độ phì nhiêu tự nhiên + Độ phì nhiêu nhân tạo đã chuyển hoá. Như vậy, khi nói độ phì của đất thì không nên hiểu đơn thuần là độ phì tự nhiên mà còn bao hàm độ phì nhân tạo nữa. Trình độ lao động cũng là nhân tố quan trọng tác động đến độ phì của đất. Để nghiên cứu địa tô chênh lệch, trong ví dụ của mình Mác đã nêu 3 biểu, qua phân tích, chứng minh, và phê phán Ricácđô, cuối cùng ông vạch ra rằng: Có thể từ tốt đến xấu hoặc từ xấu đến tốt hoặc là dùng xen kẽ chứ không nhất thiết từ tốt đến xấu. Từ đó, Mác đi đến kết luận sau: - Trình tự địa tô bao giờ cũng biểu hiện bằng trình tự đi xuống, vì khi nghiên cứu về địa tô bao giờ người ta cũng xuất phát từ loại đất đem lại địa tô cao nhất và kết thúc bằng loại đất không đem lại địa tô nào cả. - Giá cả sản xuất điều tiết thị trường là giá cả sản xuất của loại đất xấu nhất không đem lại địa tô. - Địa tô chênh lệch do sự chênh lệch về mức độ phì nhiêu tự nhiên của các loại đất đẻ ra. Do đó ta thấy, sở dĩ có địa tô chênh lệch là vì diện tích của loại đất tốt nhất là có hạn, và những tư bản ngang nhau phải đầu tư vào những loại đất có độ phì khác nhau, vì thế cùng một tư bản ngang nhau nhưng lại thu được một số lượng sản phẩm không ngang nhau. - Chênh lệch có thể phát sinh khi chuyển từ một loại đất tốt sang một loại đất xấu hơn, hoặc ngược lại, chuyển từ một loại đất xấu sang một loại đất tốt hơn, hoặc chuyển theo cả hai chiều hướng xen kẽ nhau.
- - Địa tô chênh lệch có thể phát sinh trong trường hợp giá cả nông sản phẩm tăng, giữ nguyên hoặc giảm. Trong trường hợp giá cả sản xuất giảm xuống mà tổng sản lượng và tổng địa tô vẫn có thể tăng lên, và khi đó những khoảnh đất từ trước không đem lại địa tô thì nay có thể có địa tô. 1.1.3. Lý luận về địa tô chênh lệch II của Mác Thứ nhất: Bản chất địa tô chênh lệch II. Mác viết: Địa tô chênh lệch… là kết quả của năng suất khác nhau giữa hai tư bản ngang nhau, bỏ vào những đất đai có diện tích ngang nhau, nhưng mức độ phì nhiêu khác nhau, cho nên địa tô chênh lệch trên đây là do sự chênh lệch giữa sản phẩm của tư bản bỏ vào loại đất xấu nhất không đem lại địa tô và sản phẩm của tư bản bỏ vào một loại đất tốt hơn, quyết định [14, tr.329]. Mỗi lần đầu tư mới đều có nghĩa là mở rộng hơn nữa việc canh tác đất đai. Địa tô chênh lệch I gắn với quảng canh. Địa tô chênh lệch II là kết quả khác nhau của những lần đầu tư, tư bản nối tiếp nhau trên một diện tích. Nó là do sự chênh lệch sản phẩm giữa những lần đầu tư khác nhau trên cùng một diện tích của một mảnh ruộng. Thứ hai: Sự giống và khác nhau giữa địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. * Giống nhau: + Đều là kết quả của sự hình thành lợi nhuận siêu ngạch. Mác nêu rõ: Trường hợp 1, đầu tư song song đưa lại địa tô chênh lệch I. Trường hợp 2, có thể đạt được kết quả như vậy, với những chỉ tiêu như vậy bằng cách đầu tư những lần khác nhau, đầu tư lần lượt trên cùng một diện tích, một đám đất. Để làm rõ vấn đề trên Mác nêu ra ví dụ: Tiêu chí A B C D Chi phí tư bản (K) 50 50 50 50 Lợi nhuận ( P) 10 10 10 10 4 (sản Sản lượng ( Q) 1 2 3 phẩm)
- Giá cả sản xuất 60 60 60 60 Lợi nhuận siêu ngạch 0 60 120 180 + Trường hợp 1: A, B, C, D là loại ruộng đất kể từ xấu đến tốt. + Trường hợp 2: A, B, C, D là các lần đầu tư từ lần có hiệu quả thấp đến lần đầu tư có hiệu quả cao trên cùng một đám đất, cùng một diện tích. Xét cả 2 trường hợp, lợi nhuận siêu ngạch của tư bản được hình thành đều giống nhau. Vậy, địa tô chẳng qua chỉ là hình thái lợi nhuận siêu ngạch cấu thành thực tế của nó. Có thể nói, địa tô chênh lệch vẫn chỉ là kết quả của năng suất khác nhau giữa những tư bản ngang nhau, bỏ vào ruộng đất. * Khác nhau: + Lhác nhau về cách đầu tư tư bản: Đầu tư rải ra hay song song cùng một lúc trên các khoảnh đất khác nhau có diện tích bằng nhau để có địa tô chênh lệch I. Đầu tư tập trung, liên tiếp, nối tiếp nhau trên cùng một khoảnh đất thuộc về địa tô chênh lệch II. + Khác nhau về chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô: Xem xét sự biến đổi hình thái chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch từ tay tư bản kinh doanh vào tay địa chủ thì có sự khác nhau rất lớn. Đầu tư liên tục khác đầu tư song song. Đầu tư liên tục, việc chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô khó khăn hơn, với những lý do sau: Một là, phương pháp đầu tư liên tục đặt sự chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô trong một giới hạn chật hẹp. Khi còn khế ước thuế đất thì việc chuyển hoá ấy không thực hiện được, lợi nhuận siêu ngạch thuộc về nhà tư bản kinh doanh. Hai là, sự chuyển hoá ấy lại có tính "co giãn" vì có sự mặc cả giữa địa chủ và nhà tư bản, đó là nguyên nhân đấu tranh giữa địa chủ và nhà tư bản trong việc xác định kết quả thực tế. Mức tô để xác định lúc cho thuê đất (địa chủ chỉ muốn cho thuê ngắn hạn). Thực ra lợi nhuận siêu ngạch khi chưa chuyển hoá thì đó là địa tô “tiềm thế”. Ba là, khác nhau về điều kiện của sự hình thành lợi nhuận siêu ngạch trong địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Lợi nhuận siêu ngạch trong địa tô chênh lệch I là do chênh lệch về độ phì khác nhau.
- Lợi nhuận siêu ngạch trong địa tô chênh lệch II là do mức độ phì của các vụ mùa trên cùng một thửa ruộng, hoặc do hiệu suất khác nhau của các lần đầu tư t ư bản khác nhau. * Mối quan hệ giữa địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II: Xét về mặt lịch sử cũng như sự vận động của chúng ở mỗi thời kỳ nhất định thì địa tô chênh lệch I là cơ sở và điểm xuất phát của địa tô chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I xuất hiện trước. Địa tô chênh lệch II chỉ vận động trên cơ sở những ruộng đất đã canh tác đã có địa tô chênh lệch I (quảng canh đi trước thâm canh). Những người đi khẩn hoang thì bỏ ra ít tư bản thôi, nhân tố chính là lao động và đất đai. Trong nông nghiệp trước chủ nghĩa tư bản nghề trồng trọt tách khỏi chăn nuôi, thì từ đầu đã quảng canh. Nhất là nghề chăn nuôi, ngay từ đầu chăn nuôi đã có tính tập thể, do đó lúc đầu sản xuất trên quy mô rộng (quảng canh). Về mặt logíc, do những quy luật tự nhiên chi phối, khi canh tác đạt đến một trình độ nhất định, đất đai đã bạc màu thì việc đầu tư tập trung tư liệu sản xuất trở thành yếu tố quyết định (thâm canh). Sự vận động của địa tô chênh lệch II trong một lúc nhất định chỉ biểu hiện ra là cơ sở hỗn tạp của địa tô chênh lệch I. Địa tô chênh lệch II chẳng qua chỉ là một biểu hiện khác đi của địa tô chênh lệch I nhưng về thực chất là thống nhất với nhau, trong địa tô chênh lệch II có một yếu tố không thể hiện ra trong bản thân địa tô chênh lệch I. Trong trường hợp nhà tư bản có tư bản lớn bỏ ra để thuê tiếp đám đất đó để tiến hành thâm canh, song lợi nhuận siêu ngạch không rơi vào túi địa chủ ngay trong thời kỳ còn hợp đồng thuê đất. Địa tô chênh lệch nói chung, đặc biệt khi hình thái thứ hai gắn liền với hình thái thứ nhất thì có thể dẫn đến sự kết hợp phức tạp. Phải chăng địa tô chênh lệch II không tồn tại trong thực tế ? Nói như vậy không đúng, thực ra, đất tốt lên thì địa chủ bao giờ cũng nâng giá thuê ruộng đất lên. Số chênh lệch thêm đó là có tồn tại thực (còn hình thức biểu hiện thì lại khác). Thứ ba: Lợi nhuận siêu ngạch sinh ra từ địa tô chênh lệch II Đặc điểm của sự phân phối tư bản trong nông nghiệp có khác với trong công nghiệp. Điều đó có ảnh hưởng đến địa tô chênh lệch II:
- - Trong công nghiệp mỗi ngành kinh doanh cá biệt đều hình thành tư bản trung bình, tư bản nào vượt mức trung bình thì có thể thực hiện lợi nhuận siêu ngạch. Ngược lại thì không thu được lợi nhuận siêu ngạch. - Trong nông nghiệp phương thức sản xuất tư bản công nghiệp xâm nhập một cách dần dần. Trong trường hợp không có nhập khẩu lúa mì, thì những người giả định giá cả sản xuất đã từng là những người nắm trong tay phần lớn tư bản nông nghiệp, sản xuất trên ruộng đất xấu. Những người nông dân sản xuất nhỏ, tuy bỏ ra nhiều lao động, nhưng vì lao động của họ cô lập, tách khỏi những điều kiện vật chất, điều kiện xã hội năng suất lao động cao, do đó cho phép nhà tư bản lớn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Sự hình thành lợi nhuận siêu ngạch trong địa tô chênh lệch II với giả định: không bàn đến các điều kiện để chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô. Mác làm rõ lợi nhuận siêu ngạch do thâm canh đưa lại. Việc thâm canh ruộng đất dẫn đến kết quả là: + Nó làm tăng độ phì của ruộng đất lên + Vẫn trên cơ sở diện tích đã có mà tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tạo ra sản phẩm mới làm tăng khối lượng sản phẩm, tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Mác đã dùng các biểu đồ để phân tích, chứng minh qua phân tích cho thấy địa tô chênh lệch nói chung, đặc biệt địa tô chênh lệch II gắn với địa tô chênh lệch I thì dẫn đến những trường hợp phức tạp. Thế mà Ricácđô lại chỉ xem xét một cách giản đơn rằng: chỉ có một trường hợp duy nhất phát sinh địa tô chênh lệch II, đó là: đầu tư phụ thêm năng suất giảm dần. Giá cả sản xuất tăng lên. Tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Từ đó mà hình thành địa tô chênh lệch cao hơn. Theo Mác, quan điểm của Ricácđô chỉ là một trong những trường hợp có thể có, chứ không phải là một tất yếu duy nhất. Đồng thời, Mác còn nêu ra 5 trường hợp : Một là, đầu tư phụ thêm năng suất thấp chỉ đem lại lợi nhuận chứ không có lợi nhuận siêu ngạch thì chẳng khác gì canh tác trên ruộng đất xấu nhất. Hai là, đầu tư phụ thêm năng suất cao hơn trước, giá cả sản xuất không đổi, thì lợi nhuận siêu ngạch được hình thành.
- Ba là, đầu tư phụ thêm năng suất giảm, lợi nhuận siêu ngạch nhỏ hơn trước. Kết luận lợi nhuận siêu ngạch là địa tô tiềm thế, không nhất thiết phải gắn liền với giá sản xuất tăng lên như quan điểm của Ricácđô. Bốn là, sự khác nhau căn bản giữa hai hình thái địa tô chênh lệch. Với địa tô chênh lệch I, nếu giá sản xuất không đổi, sự chênh lệch giữa các loại đất không đổi, thì kết quả là: + Diện tích được mở rộng - tư bản bỏ ra tăng lên + Tổng sản phẩm tăng và tổng địa tô tăng, còn các chỉ tiêu khác chưa xác định ngay được. Với địa tô chênh lệch II, nếu giá cả sản xuất không đổi, sự chênh lệch các loại đất không đổi, thì có thể cho thấy lần đầu tư thứ hai so với lần đầu tư thứ nhất (t ư bản bỏ ra gấp đôi, với một số diện tích không đổi): . Tổng số địa tô tăng gấp đôi. . Tổng số sản phẩm tăng gấp đôi. . Tỷ suất địa tô không đổi. . Mức địa tô bằng hiện vật và bằng tiền trên một đơn vị diện tích tăng lên (chỉ tiêu chất lượng) và do đó giá cả ruộng đất tăng lên. Năm là, ý nghĩa của việc nghiên cứu địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II: + Địa tô chênh lệch I tương ứng với quảng canh, mở rộng diện tích. Tuy rằng năng suất ruộng đất, hiệu suất đầu tư của tư bản và địa tô trên một đơn vị diện tích không thay đổi. Nhưng tổng sản phẩm, tổng địa tô tăng lên. + Địa tô chênh lệch II chính là do thâm canh mà có. Đồng thời tăng vụ mùa cải thiện được độ phì thì cũng có ý nghĩa như thâm canh. Nói chung, với địa tô chênh lệch II do thâm canh mà có thì vấn đề cơ bản: năng suất trồng trọt cũng là năng suất ruộng đất, thì sản lượng trên một đơn vị diện tích tăng lên. Điều này có ý nghĩa với tất cả các nước, các giai đoạn phát triển. Thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích đó là phương hướng phát triển nông nghiệp ở nước ta.
- + Lý luận địa tô chênh lệch I, địa tô chênh lệch II là cơ sở lý luận phương hướng sử dụng có hiệu quả đất đai trong nền nông nghiệp hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Thứ tư: Khảo sát địa tô chênh lệch II với 3 trường hợp cơ bản * Trường hợp cơ bản thứ nhất: giả định giá cả sản xuất đứng yên Ở đây giả định giá cả của sản phẩm trên đất xấu nhất A đóng vai trò điều tiết thị trường. Mác nghiên cứu sự biến động của hiệu suất tư bản đầu tư phụ thêm theo ba khả năng là: tăng, giảm, đứng yên (trong điều kiện giá cả sản xuất đứng yên). Từ đó xem xét sự biến động đó đưa đến kết quả lợi nhuận siêu ngạch như thế nào? cũng chính là khảo sát hiệu suất đầu tư lần thứ hai ra sao? Trường hợp thứ nhất: đầu tư phụ thêm trên các loại đất B, C, D chỉ mang lại lợi nhuận (tức không mang lại lợi nhuận siêu ngạch). Trường hợp này giống như tăng diện tích đất canh tác trên đất xấu nhất (A). Tuy vậy, vẫn có thêm một số sản phẩm cho nên trong những điều kiện nhất định người ta vẫn làm (có thể đây là trường hợp tăng vụ nhưng không tăng thêm được hiệu quả của lần đầu tư sau). Trường hợp thứ hai: Trên mỗi loại đất, sản xuất tăng lên cùng một tỷ lệ với tư bản đầu tư phụ thêm, nhưng lợi nhuận không đổi. Trường hợp này, đứng về sản phẩm và lượng địa tô mà nói thì không khác gì việc tăng thêm diện tích canh tác trên những ruộng đất loại [14, tr. 348]. Trường hợp thứ ba: tư bản đầu tư tăng lên đem lại sản phẩm tăng lên. Nhưng lợi nhuận siêu ngạch giảm dần [14, tr.350]. Mác rút ra quy luật trong trường hợp này, địa tô trên tất cả các loại đất đều tăng lên một cách tuyệt đối. Mặc dù nó không tăng một cách tỷ lệ với tư bản đầu tư phụ thêm [14, tr.352]. Trường hợp thứ tư: đầu tư phụ thêm trên các loại đất tốt B, C, D đem lại một số sản phẩm lớn hơn so với khoản đầu tư ban đầu. Lợi nhuận siêu ngạch tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng tư bản đầu tư. Việc đầu tư phụ thêm có kèm theo cải thiện chất đất. Mác đưa ra một loạt con số, có thể sắp xếp theo bảng dưới đây để phân tích "hiệu quả kinh tế của 3 kiểu đầu tư" [14, tr.354], Cách đầu tư cũ Phương thức Đầu tư mới Chỉ tiêu
- 1 2 3 100 50 100 200 K(chi phí tư bản) 10 10 20 40 Q (sản lượng) Qua phân tích các phương thức đầu tư mới cho thấy: + Cách đầu tư mới 1: rút được tư bản đầu tư xuống (từ 100 xuống 50), tiết kiệm lao động sống mà vẫn bảo đảm được sản lượng là 10, giải phóng được tư bản và lao động để phát triển các ngành khác. + Cách đầu tư mới 2: với một lượng tư bản như cũ mà tăng sản phẩm gấp đôi (từ 10 tăng lên 20), do đó mà tiết kiệm tư bản phụ thêm, bằng cách khai thác tư bản sẵn có một cách tốt hơn. + Cách đầu tư mới 3: là cần thiết mở rộng sản xuất: tư bản tăng, hiệu quả tăng, sản phẩm tăng cao hơn (tư bản tăng gấp 2, sản phẩm tăng gần gấp 2). Đây là làm cách mạng khoa học - kỹ thuật, vừa mở rộng sản xuất vừa tăng hiệu quả kinh tế. Ở đây cần chú ý, Mác phân tích tại sao tư bản có xu hướng giảm. Tư bản khả biến tăng, tư bản bất biến? Vì theo quan điểm sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu không xét việc tăng thêm giá trị thặng dư, mà chỉ xét giảm chi phí sản xuất thì sử dụng t ư bản bất biến bao giờ cũng rẻ hơn tư bản khả biến. Kết luận: - Các khoản đầu tư trên các loại đất tốt đều tiến hành được, dù hiệu suất của chúng tăng lên hoặc giảm xuống. - Hiện tượng đặc trưng của địa tô chênh lệch I khác địa tô chênh lệch II là ở chỗ mức địa tô tính trên mỗi đơn vị diện tích tăng lên vì tư bản bỏ vào một đơn vị diện tích tăng. - Nếu tư bản phụ thêm bỏ ra nối tiếp trong không gian, bên cạnh nhau, trên những đất mới phụ thêm có phẩm chất tương đương đất cũ chứ không phải bỏ ra một cách liên tiếp trong thời gian của cùng đám đất thì tổng địa tô sẽ tăng. Nhưng địa tô trên một đơn vị diện tích thì không tăng (quảng canh), tức là thâm canh hơn quảng canh. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì càng đi vào thâm canh. Do đó, địa tô càng tăng, địa chủ càng chiếm nhiều hơn sản phẩm thặng dư của xã hội. - So sánh hai mức, trong đó giá sản xuất điều tiết, cũng như chênh lệch giữa các loại đất, lượng tư bản đầu tư đều như nhau. Những nước chủ yếu là đầu tư liên
- tiếp trên một đơn vị diện tích hẹp (thâm canh) thì tỷ lệ: địa tô trên một đơn vị diện tích cao, do đó giá cả ruộng đất cao hơn nước kia. * Trường hợp cơ bản thứ hai: giá cả sản xuất ngày càng giảm. Khi giá cả sản xuất giảm, có nghĩa là giá cả sản xuất trên ruộng A không đóng vai trò điều tiết nữa mà giá cả thấp hơn giá trị. Một là, trường hợp hiệu suất tư bản đầu tư không đổi. Loại đất A rút ra khỏi sản xuất - giá cả sản xuất điều tiết thị trường là giá cả của sản phẩm trên loại ruộng tốt hơn loại đất A. - Giả định, trên các loại ruộng đất khác nhau, sản phẩm tăng lên cùng một tỷ lệ với tư bản bỏ vào ruộng đất ấy. Qua phân tích nhận thấy, trong đó một loại đất (A) rút ra khỏi sản xuấ và nhiều trường hợp khác xảy ra tuỳ theo việc đầu tư thêm nhằm vào loại đất nào đó. Qua khảo sát có thể rút ra quy luật: trong khi năng suất không đổi, nếu như việc đầu tư một tư bản phụ thêm làm cho giá cả hạ xuống từ các loại đất tốt hơn có địa tô (tức là các loại đất tốt hơn A) thì tổng số tư bản có xu thế là không tăng cùng một tỷ lệ của sản lượng và vốn đầu tư bằng lúa mì. Hai là, trường hợp tỷ suất hiệu suất của tư bản phụ giảm. Giả định sản phẩm của đất A trở nên thừa và giá cả sản xuất điều tiết là giá cả của sản phẩm ở loại đất tốt hơn. Nhưng việc đầu tư phụ thêm có hiệu suất. Tuy trong trường hợp này, địa tô bằng lúa mì có thể tăng, giảm hoặc không đổi (do đó khó mà khái quát). Ba là, trường hợp tỷ suất hiệu suất của tư bản phụ tăng. Ở đây cần xét hai tình huống nhỏ: - Tư bản phụ thêm bỏ vào đất A - đem lại một số sản phẩm nhiều hơn trước. Do đó mà giá bán một đơn vị sản phẩm giảm xuống. - Có ba biến lệ: Giá cả sản xuất giảm, hiệu suất tư bản phụ thêm như cũ - loại đất A bị loại ra; giá cả sản xuất giảm, hiệu suất tư bản giảm, loại đất A càng bị loại ra nhanh hơn; Giá cả sản xuất giảm, hiệu suất tư bản tăng. Với biến lệ này, loại đất A xấu nhất không nhất thiết bị loại ra mà có thể đất A được thâm canh đem lại hiệu suất cao hơn. Khi đó xảy ra hai trường hợp: + Nếu thâm canh chưa trở thành phổ biến, thì giá cả sản xuất không đổi.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: " Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam "
17 p | 774 | 266
-
Luận văn: Vận dụng lý thuyết quản trị chiến lược vào chiến lược kinh doanh của Tổng Công ty Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp
37 p | 641 | 226
-
Luận văn '' Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay''
26 p | 348 | 122
-
LUẬN VĂN: vận dụng lý luận về lạm phát để phân tích chích sách quản lý tiền tệ chống lạm phát của chính phủ việt nam .tình trạng thiểu phát hiện nay có hạI gì ? giảI pháp khắc phục
34 p | 247 | 79
-
Luận văn Ứng dụng lý thuyết điều khiển thích nghi bền vững nâng cao chất lượng hệ truyền động quấn băng vật liệu
77 p | 240 | 74
-
LUẬN VĂN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay
99 p | 279 | 68
-
Luận văn "Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam"
20 p | 198 | 60
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta
107 p | 366 | 59
-
Luận văn "Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông"
9 p | 227 | 29
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất ở Việt nam
53 p | 197 | 27
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận kinh tế học để phân tích các biện pháp làm tăng lợi nhuận trong công ty “Cổ phần đồ hộp Hạ Long
16 p | 120 | 24
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
22 p | 98 | 19
-
Tiểu luận KTCT: Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
20 p | 104 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán tại các công ty lâm nghiệp ở Việt Nam
233 p | 66 | 10
-
Tiểu luận KTCT:“Vận dụng lý luận tăng lợi nhuận để phân tích thực tế về phát triển sản xuất ở công ty Da giầy Hà Nội ”
15 p | 110 | 8
-
Tiểu luận triết: Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
12 p | 116 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp Kế toán - Kiểm toán: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - Nguyễn Thị Loan Phượng
91 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn