LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất ở Việt nam
lượt xem 27
download
Ở nước ta hiện nay, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất và cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường quyền sử dụng đất nằm trong thị trường bất động sản, một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Nhà nước thực hiện quyền...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất ở Việt nam
- LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất ở Việt nam
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở nước ta hiện nay, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất và cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường quyền sử dụng đất nằm trong thị trường bất động sản, một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai thông qua các quyền: Quyết định mục đích sử dụng đất; quy định hạn mức, thời gian sử dụng đất... Điều này, một mặt đảm bảo cho việc quản lý nhà nước về đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả. Mặt khác, đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các chủ thể trong sử dụng đất. Định giá đất là một trong những biện pháp quản lý đất của Nhà nước. Thông qua định giá đất, Nhà nước xác định nghĩa vụ tài chính cho các chủ thể sử dụng đất, khuyến khích các chủ thể đầu tư phát triển kinh tế; đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa... Cùng với Luật đất đai 2003, Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004, Nhà nước đã ban hành Nghị định 188/NĐ-CP ngày 16/12/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá đất và một loạt các Nghị định khác trực tiếp, gián tiếp đề cập tới giá đất, trong đó có đất xây dựng. Đây là những văn bản mới được ban hành nên không tránh khỏi những khiếm khuyết cần phải bổ sung, hoàn thiện dần. Các quy định về định giá đất phải dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về giá cả ruộng đất phù hợp với thực tiễn nước ta. Vì vậy, "Vận dụng lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất vào định giá đất ở Việt nam" được chọn làm đề tài luận văn cao học này. 2. Tình hình nghiên cứu
- Đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về địa tô, giá cả ruộng đất và thị trường quyền sử dụng đất như: Một số vấn đề về lý luận của C. Mác và Lênin về địa tô, ruộng đất của PGS.TS Nguyễn Đình Kháng và TS. Vũ Văn Phúc. Trong công trình này, các tác giả đã đề cập tới những luận điểm của Mác về địa tô, giá cả ruộng đất, nguồn gốc, bản chất, các hình thái biểu hiện... một cách khái quát. Đồng thời đề cập tới cơ sở kinh tế, chính trị của lý luận Lênin về cách mạng ruộng đất, về sở hữu công cộng đối với đất đai. Ngoài ra, các tác giả đã phân tích một cách hệ thống tình hình quản lý, sử dụng đất ở nước ta từ 1988 đến 2000. Có thể nói đây là một công trình có tính chất khái quát lý luận Mác và Lênin về đất đai và vận dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên công trình này mới dừng lại ở mức độ làm cơ sở cho đổi mới quản lý đất đai theo Luật đất đai 2003. Thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Tuyết Mai. Quá trình hình thành và phát triển thị trường đất đai ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Đợi. ở các công trình này, các tác giả đã đề cập tới các vấn đề của thị trường đất đai cả về lịch sử cũng như hiện tại. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới thị trường thứ cấp, tới việc chuyển nhượng, cho thuê... chưa đề cập tới vấn đề định giá đất của Nhà nước. Ngoài ra còn có một số bài báo đề cập vấn đề giá cả đất đai trước và sau Nghị định 188/NĐ-CP. Nhìn chung, các công trình này mới chỉ tập trung phản ánh tình hình vận động của thị trường đất đai, thị trường bất động sản mà chưa đi sâu vào phân tích nguyên nhân sâu xa của sự vận động ấy. Như vậy, đã có khá nhiều công trình trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu đến giá đất, nhưng vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xem xét các quy định về cách định giá đất theo tinh thần nghị định 188/NĐ-CP và các Nghị định khác thì chưa có một công trình nào. Do đó, đề tài này không trùng lặp với bất kỳ một công trình nào đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- 3.1. Mục đích: Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về giá cả ruộng đất, đối chiếu với các văn bản của Đảng, Nhà nước về định giá đất xây dựng, đề xuất phương hướng hoàn thiện và vận dụng các quy định đó. 3.2. Nhiệm vụ: - Một là: Trình bày khái quát lý luận Mác - Lênin về giá cả ruộng đất. - Hai là: Chỉ ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp; từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện và vận dụng các quy định về giá đất. 3.3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn trong phạm vi: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về địa tô, giá cả ruộng đất; các văn bản của Đảng và Nhà nước về định giá đất vừa ban hành và đang có hiệu lực, nhưng chú trọng giá đất xây dựng. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về đất đai và quan hệ đất đai, coi trọng việc sử dụng: Phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết hợp lô gíc với lịch sử… 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Làm rõ những điểm cốt lõi trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về giá cả ruộng đất. - Vận dụng lý luận ấy vào việc khảo sát các văn bản của Nhà nước về định giá đất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chỉ ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp. - Đề xuất những phương hướng có tính chất phương pháp luận để hoàn thiện các văn bản nói trên. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy về địa tô và giá cả ruộng đất; cho việc hoàn thiện việc quy định giá đất ở nước ta.
- 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 2 chương, 6 tiết. lao động có thể khai phá, cải tạo đất, làm cho đất màu mỡ hơn, thuận tiện hơn trong việc sử dụng vào các hoạt động kinh tế, xã hội song lao động không thể tạo ra đất. Nhưng trong kinh tế thị trường đất cũng được mua bán như một hàng hoá, nên cũng có giá cả, và được coi như cũng có giá trị. Tuy nhiên cách quy định giá cả và giá trị của đất cũng khác với cách quy định giá trị của hàng hoá thông thường. C.Mác đã nhận xét: “Chính cái địa tô đã được tư bản hoá cấu thành giá mua hoặc giá trị của ruộng đất: Đó là một phạm trù prima facie (mới thoạt nhìn) thì cũng bất hợp lý như giá cả của lao động, vì đất không phải là sản phẩm của lao động và do đó không có giá trị. Nhưng mặt khác, đằng sau cái hình thái bất hợp lý ấy, ẩn giấu một quan hệ sản xuất hiện thực” [38, tr.252 - 253]. Ruộng đất cũng là một trong những đối tượng của sở hữu, hơn nữa lại là một đối tượng sở hữu đặc biệt. Sở hữu ruộng đất bao gồm quyền sở hữu về mặt pháp lý, quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng. Ba quyền này có thể tập trung vào một chủ thể (như người tiểu nông), nhưng cũng có thể tách riêng. Xu hướng chung là sản xuất hàng hoá càng phát triển thì quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất càng tách khỏi quyền sở hữu về pháp lý. Ruộng đất có thể thuộc chế độ sở hữu công cộng (công hữu) hoặc thuộc chế độ sở hữu tư nhân (tư hữu). Không phải đến chế độ xã hội chủ nghĩa mới diễn ra việc quốc hữu hoá ruộng đất mà ngay cả ở một số nước theo chế độ phong kiến ở Châu á trước đây, và một số nước tư bản chủ nghĩa, ruộng đất cũng thuộc quyền sở hữu pháp lý của nhà nước. C.Mác đã chỉ rõ: “Nếu đối lập với những người sản xuất trực tiếp không phải là những kẻ sở hữu ruộng đất tư nhân mà là nhà nước, như ở Châu á, với tư cách là một kẻ sở hữu ruộng đất đồng thời là một vua chúa, thì địa tô kết hợp làm một với thuế khoá, hay nói cho đúng hơn, trong trường hợp đó, không có thuế khoá nào khác phân biệt với hình thái địa tô… ở đây, nhà nước là kẻ sở hữu ruộng đất tối cao. Chủ quyền ở đây là quyền sở hữu ruộng đất tập trung trên phạm vi cả nước. Nhưng trong trường hợp đó lại không có quyền sở
- hữu tư nhân đối với ruộng đất, mặc dù vẫn có quyền chiếm hữu ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất, quyền này hoặc là của tư nhân, hoặc là của cộng đồng” [38, tr.499]. V.I. Lênin đã nhấn mạnh luận điểm của C.Mác rằng: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã gặp (và đã khống chế được) những chế độ sở hữu ruộng đất hết sức khác nhau. Sản xuất lớn đòi hỏi việc chiếm hữu thực tế và việc sử dụng ruộng đất tập trung quy mô lớn, nhưng các doanh nghiệp tư nhân không những kinh doanh ruộng đất của mình mà còn kinh doanh ruộng đất thuê của các chủ ruộng tư nhân, của nhà nước hay của những công xã. Vì vậy, “về mặt logic, chúng ta có thể hình dung được nền nông nghiệp tổ chức theo lối thuần túy tư bản chủ nghĩa trong đó hoàn toàn không có sở hữu tư nhân về ruộng đất, ruộng đất là sở hữu của nhà nước hay của công xã…” [34, tr.139 - 140]. Chủ nghĩa tư bản hoàn toàn tách ruộng đất với tư cách là tư liệu lao động khỏi quyền sở hữu ruộng đất và người sở hữu ruộng đất. Nhưng “công lao lớn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là, một mặt thì hợp lý hoá nông nghiệp, việc hợp lý hóa này lần đầu tiên đã tạo khả năng kinh doanh nông nghiệp theo phương thức xã hội, và mặt khác làm cho quyền sở hữu ruộng đất trở thành một điều phi lý” [38, tr.245]. "Sở hữu ruộng đất khác với các hình thức sở hữu khác ở chỗ là, đến một trình độ phát triển kinh tế nhất định nó trở nên thừa và có hại, ngay cả khi xét trên quan điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [38, tr.252]. Như vậy, việc nhà nước nắm quyền sở hữu pháp lý về ruộng đất, giao quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, cho các doanh nghiệp... như ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với xu hướng tiến bộ của sự phát triển kinh tế - xã hội… Khi ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân thì việc mua bán bao gồm việc chuyển nhượng cả 3 quyền nói trên và tồn tại địa tô tuyệt đối. Khi quốc hữu hoá ruộng đất sẽ xoá bỏ địa tô tuyệt đối và trên thị trường chỉ diễn ra việc chuyển nhượng quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất, nói cách khác là chỉ mua bán quyền sử dụng ruộng đất.
- 1.2. Giá cả ruộng đất Như đã nói ở trên, ruộng đất là một loại hàng hoá đặc biệt, nên cách xác định giá cả ruộng đất khác với giá cả hàng hoá thông thường. Giá cả ruộng đất thực chất là địa tô tư bản hoá. Quyền sở hữu ruộng đất cho phép địa chủ thu khoản chênh lệch giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận trung bình; lợi nhuận đó được đem tư bản hoá và biểu hiện thành giá cả của ruộng đất. Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, bất cứ một khoản thu nhập nào cũng được coi như là con đẻ của một tư bản nào đấy. Địa tô là hình thái dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, tức là đem lại thu nhập. Đó là một số tiền mà địa chủ thu được hàng năm nhờ cho thuê một mảnh địa cầu, và được coi như lợi tức của một tư bản tưởng tượng. Vì vậy, theo C.Mác, ở Anh, giá mua ruộng đất được tính theo một số nhiều ít là bao nhiêu year’s purchase (thu nhập hàng năm). Thí dụ: Tỷ suất lợi tức trung bình hiện hành là 5% thì một khoản địa tô thu được hàng năm là 200Ê (bảng Anh) có thể coi là lợi tức của một tư bản là 4000Ê; 4000Ê này cấu thành giá mua hay còn gọi là giá trị của ruộng đất. Công thức tính giá 200£ x 100 R 4000£ . cả ruộng đất = ' 5 z Như vậy, một nhà tư bản bỏ ra 4000Ê để mua một khoảnh đất mang lại cho ông ta một khoản địa tô hằng năm là 200Ê, thì coi như ông ta thu được lợi tức trung bình hằng năm là 5% về số tư bản ấy, cũng giống như ông ta đầu tư vào mua chứng khoán sinh lợi tức hay trực tiếp gửi vào ngân hàng theo tỷ suất lợi tức 5%. Nhưng khoản thu nhập hằng năm từ địa tô ấy khi ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân lại rất khác so với khi ruộng đất đã được quốc hữu hoá, do đó việc hình thành giá cả ruộng đất trong hai trường hợp trên cũng không giống nhau hoàn toàn. 1.2.1. Giá cả ruộng đất trong trường hợp ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân Trong điều kiện ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân thì tất cả những gì mà người thuê ruộng đất trả cho chủ đất, đều biểu hiện ra là địa tô cả, dù các yếu tố cấu thành của khoản cống nạp ấy như thế nào, dù nó được lấy từ nguồn nào ra thì cũng đều được coi là địa tô chính cống, đều là khoản thu nhập mà việc cho thuê ruộng đất đã mang lại
- và đều quyết định giá cả ruộng đất. Địa tô bao gồm địa tô đất canh tác, đất xây dựng, hầm mỏ, ngư trường, lâm trường... Nhưng khi nghiên cứu C.Mác chỉ nghiên cứu địa tô trên đất trồng lúa mì. Vì, tất cả các loại địa tô đều theo quy luật như địa tô trong nông nghiệp. Có những yếu tố ngoại lai, về bản chất không phải là địa tô, nhưng cùng với tiến trình phát triển kinh tế, yếu tố đó lại cấu thành một khoản phụ thêm không ngừng tăng lên trong tổng số địa tô, vì được nộp cho địa chủ dưới hình thức tiền thuê ruộng, và chúng cũng có tác dụng quyết định đối với giá cả ruộng đất như địa tô thực sự vậy. Bởi vậy, cần phân tích cụ thể phạm trù thu nhập hàng năm từ việc cho thuê ruộng đất. Thu nhập đó bao gồm: 1.2.1.1. Địa tô chênh lệch I Đây là lợi nhuận siêu ngạch của những người sản xuất sử dụng ruộng đất có điều kiện thuận lợi (độ mầu mỡ tốt hơn hay vị trí tiện lợi hơn). Lợi nhuận siêu ngạch này bằng số chênh lệch giữa giá cả sản xuất cá biệt của những người sản xuất có những điều kiện thuận lợi hơn ấy và giá cả sản xuất chung, tức là giá cả sản xuất xã hội có tác dụng điều tiết thị trường trong toàn bộ ngành sản xuất đó; giá cả sản xuất chung này do giá cả sản xuất trong điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Số chênh lệch ấy bằng số trội lên của giá cả sản xuất chung so với giá cả sản xuất cá biệt. Giá trị của hàng hoá do sử dụng ruộng đất có điều kiện thuận lợi, tương đối nhỏ hơn vì để sản xuất ra hàng hoá đó chỉ cần một số lao động nhỏ hơn. Lao động sử dụng trong trường hợp này có năng suất cao hơn; sức sản xuất của lao động này lớn hơn sức sản xuất của lao động sử dụng trong phần lớn những ruộng đất xấu hơn. Để sản xuất cùng một khối lượng hàng hoá lao động này chỉ cần một lượng tư bản bất biến nhỏ hơn, tức là một lượng lao động vật hoá ít hơn; hơn nữa nó cũng đòi hỏi một lượng lao động sống ít hơn. Sức sản xuất cá biệt cao hơn đó làm cho chi phí sản xuất, do đó làm cho giá cả sản xuất, giảm bớt. Sở dĩ người sản xuất thu được khoản lợi nhuận siêu ngạch ấy là nhờ được sử dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi đã bị độc chiếm, cũng giống như tư bản đã độc chiếm những lực lượng xã hội tự nhiên của lao động do hiệp tác, phân công... đem lại.
- Đây là một lực tự nhiên mà không phải bất kỳ tư bản nào trong cùng một lĩnh vực sản xuất cũng có thể chi phối được. Đây là một lực tự nhiên bị độc chiếm; tư bản không thể tạo ra điều kiện tự nhiên ấy để nâng cao sức sản xuất của lao động, như sử dụng tính đàn hồi của hơi nước chẳng hạn. Trong thiên nhiên người ta chỉ tìm thấy điều kiện tự nhiên ấy ở một số địa điểm nhất định, và ở nơi nào không có điều kiện tự nhiên ấy thì dù có bỏ ra một số tư bản nhất định người ta cũng vẫn không thể tạo ra điều kiện ấy được. Điều kiện tự nhiên này không gắn liền với những sản phẩm của lao động như máy móc, than..v..v. mà gắn liền với một bộ phận đất đai nào đó. Những người sản xuất đã chiếm được những điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ gạt những người khác ra ngoài, không để cho họ lợi dụng những điều kiện ấy (trong thời hạn hợp đồng), vì đất đai, đặc biệt là đất đai tốt, là có hạn. Sự chiếm hữu lực tự nhiên ấy tạo nên một thứ độc quyền trong tay người chiếm hữu nó. Lực tự nhiên có thể độc chiếm ấy bao giờ cũng gắn chặt với đất. Người chủ đất có thể cho phép hay không cho phép sử dụng. Như vậy, lợi nhuận siêu ngạch bắt nguồn từ việc sử dụng lực tự nhiên không phải do tư bản mang lại, mà là kết quả của việc tư bản sử dụng lực tự nhiên có thể độc chiếm và đã bị độc chiếm. Trong điều kiện ấy, lợi nhuận siêu ngạch chuyển hoá thành địa tô, nghĩa là rơi vào tay chủ đất được gọi là địa tô chênh lệch I. Nếu bản thân nhà tư bản lại đồng thời là chủ đất thì sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch đó, không phải nộp tô. Tóm lại, đặc điểm của địa tô chênh lệch I là: Thứ nhất, khoản chênh lệch giữa giá cả sản xuất cá biệt của một tư bản cá biệt sử dụng các lực lượng tự nhiên bị độc chiếm với giá cả sản xuất chung của tư bản đầu tư vào lĩnh vực sản xuất đó. Thứ hai, loại địa tô này xuất hiện không phải do sức sản xuất của tư bản đã sử dụng, hoặc của lao động do tư bản ấy chiếm hữu, đã tăng lên một cách tuyệt đối, mà là kết quả của sức sản xuất tương đối lớn hơn của một lĩnh vực nào đó, so với những khoản đầu tư không được hưởng các điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi. Thứ ba, lực lượng tự nhiên ấy không phải là nguồn sinh ra lợi nhuận siêu ngạch, mà chỉ là cơ sở tự nhiên của lợi nhuận siêu ngạch vì nó là cơ sở tự nhiên của một sức sản xuất đặc biệt cao của lao động.
- Thứ tư, bản thân quyền sở hữu khoảnh đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi hoàn toàn không liên quan gì đến việc tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch ấy vẫn tồn tại ngay cả trong trường hợp không có quyền sở hữu ruộng đất nào cả. Quyền sở hữu ruộng đất chỉ đem lại cho chủ đất cái khả năng chuyển lợi nhuận siêu ngạch ấy thành địa tô, chuyển từ túi nhà tư bản sử dụng ruộng đất sang túi chủ đất mà thôi. Thứ năm, giá cả của ruộng đất (có điều kiện tự nhiên thuận lợi ấy) không gia nhập trực tiếp vào giá cả sản xuất hàng hoá. 1.2.1.2. Địa tô chênh lệch II Đây là lợi nhuận siêu ngạch do thâm canh mà có. Địa tô chênh lệch I là kết quả của năng suất khác nhau giữa hai tư bản ngang nhau, bỏ vào những đất đai có diện tích ngang nhau, nhưng mức độ phì nhiêu (hay vị trí) khác nhau nên nó là sự chênh lệch giữa sản phẩm của tư bản bỏ vào loại đất xấu không đem lại địa tô (không kể địa tô tuyệt đối) và sản phẩm của tư bản bỏ vào một loại đất tốt hơn quyết định. Thành thử mỗi lần đầu tư mới đều có nghĩa là mở rộng hơn nữa việc canh tác, diện tích canh tác tăng thêm, nói cách khác, là quảng canh. Còn địa tô chênh lệch II lại là kết quả của những lượng tư bản có năng suất khác nhau được liên tục bỏ vào cùng một khoảnh đất, nghĩa là thâm canh. Cơ sở và điểm xuất phát của địa tô chênh lệch II vẫn là địa tô chênh lệch I. Khi việc canh tác đã đạt đến một trình độ nhất định và khi đất đã bị kiệt màu đi một cách tương ứng thì tư bản, ở đây hiểu theo cái nghĩa là những tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra, sẽ trở thành yếu tố quyết định trong việc canh tác ruộng đất. Việc thâm canh đòi hỏi phải tăng quy mô kinh doanh tối thiểu, mà dưới mức đó thì một doanh nghiệp cá biệt không thể tiến hành kinh doanh một cách có kết quả được. Tư bản nào vượt quá mức trung bình cao hơn mức tối thiểu trên thì có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch. Địa tô chênh lệch II chỉ là một biểu hiện khác của địa tô chênh lệch I, nhưng về thực chất thì nhất trí với nó. ở địa tô chênh lệch I, ruộng đất xấu nhất không mang lại địa tô, ở địa tô chênh lệch II, bộ phận tư bản sinh lợi ít nhất không đem lại địa tô (chênh lệch) nào cả nhưng nó lại quyết định giá cả sản xuất chung, chừng nào việc
- cung cấp sản phẩm theo giá cả sản xuất chung đó vẫn còn cần thiết, nên những bộ phận tư bản còn lại (cùng đầu tư liên tiếp trên cùng một khoảnh đất) sẽ mang lại lợi nhuận siêu ngạch tuỳ theo sự chênh lệch giữa các sản phẩm thu được. Việc thâm canh tạo ra độ phì nhiêu nhân tạo, là công lao của người trực tiếp canh tác. Nên trong thời hạn hợp đồng thuê đất còn hiệu lực, lợi nhuận siêu ngạch do thâm canh mà có, thuộc về người sử dụng đất. Nhưng khi hết hạn hợp đồng thuê đất, sự phì nhiêu chênh lệch có tính nhân tạo của đất sẽ nhập làm một với độ phì tự nhiên của đất và chủ sở hữu ruộng đất sẽ nhập địa tô chênh lệch II này vào địa tô nói chung để nâng mức địa tô cho thuê ruộng trong hợp đồng tiếp theo. Đó là lý do vì sao ở các nước tư bản chủ nghĩa còn chế độ tư hữu về ruộng đất diễn ra cuộc đấu tranh của các tá điền đòi có được những khế ước thuê đất dài hạn, còn địa chủ lại muốn cho thuê đất ngắn hạn, mà địa chủ lại chiếm ưu thế. Hợp đồng thuê đất ngắn hạn sẽ cản trở thâm canh hợp lý. Người thuê đất mới không những phải có sẵn một lượng tư bản đủ để tiếp tục canh tác theo mức thâm canh trước đây mà còn phải nộp địa tô cao hơn. Do mức địa tô tăng lên nên giá cả ruộng đất cũng tăng lên. 1.2.1.3. Địa tô tuyệt đối Khi nghiên cứu địa tô chênh lệch C.Mác đã giả định rằng loại đất xấu nhất không mang lại địa tô. Nhưng trong điều kiện tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất thì địa chủ không bao giờ bằng lòng cho người khác mướn không ruộng đất của mình. Cho mượn không ruộng đất chẳng khác nào xoá bỏ quyền tư hữu về ruộng đất. Sự tồn tại quyền tư hữu này chính là cái hàng rào đối với việc đầu tư và việc tự do sử dụng tư bản vào ruộng đất. Chỉ riêng quyền sở hữu ruộng đất về mặt pháp lý không đem lại địa tô cho chủ đất, nhưng đem lại cho chủ đất cái quyền thu từ người thuê đất một khoản tiền, dù đất ấy được sử dụng vào mục đích nông nghiệp hay mục đích khác như xây dựng... chính vì thế ở các nước văn minh thường có một phần ruộng đất không được canh tác, như nhận xét của Phua-ri-ê. Bởi vì, chỉ khi nào việc sử dụng đất có khả năng đem lại cho chủ đất một khoản tiền thuê thì đất mới được cho thuê, như vậy giá cả thị trường phải cao hơn giá cả sản xuất thì người sử dụng đất mới có khoản dư ra để trả tiền thuê đất ấy. Khoản này được gọi là địa tô tuyệt đối. Nguồn gốc của địa tô tuyệt đối là do nông
- sản được bán theo giá trị thị trường cao hơn giá cả sản xuất, bởi vì cấu thành hữu cơ tư bản trong nông nghiệp thấp hơn cấu thành hữu cơ tư bản trung bình của tư bản xã hội, và tư bản bỏ vào ruộng đất gặp phải chướng ngại là quyền tư hữu ruộng đất, nên không tham gia vào quá trình bình quân hóa lợi nhuận. Trong ngành nông nghiệp cấu thành hữu cơ tư bản thấp hơn cấu thành hữu cơ trung bình của tư bản xã hội, nghĩa là bộ phận tư bản khả biến ứng ra dưới hình thái tiền công so với bộ phận tư bản bất biến ứng ra để trả các điều kiện vật chất của lao động, cao hơn trong tư bản xã hội trung bình, nên giá trị của nông sản cao hơn giá cả sản xuất của nó. Điều đó có nghĩa là nhờ sử dụng tương đối nhiều lao động sống hơn nên nếu cùng với một tỷ suất giá trị thặng dư như nhau sẽ thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, do đó được nhiều lợi nhuận hơn so với một phần tương ứng như vậy của tư bản xã hội trung bình. Nếu sự di chuyển tư bản được tự do từ các lĩnh vực khác vào nông nghiệp thì sự cạnh tranh sẽ san bằng lợi nhuận nói trên với lợi nhuận trung bình. Nhưng ở đây tư bản vấp phải một sức mạnh ở bên ngoài mà nó không thể khắc phục được, hạn chế việc di chuyển tư bản vào nông nghiệp, đó là độc quyền sở hữu và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Sức mạnh bên ngoài này loại trừ sự san bằng chung giá trị thặng dư thành lợi nhuận trung bình nên trong nông nghiệp hình thành thêm một lợi nhuận siêu ngạch do cái phần trội lên của giá trị nông sản so với giá cả sản xuất của chúng sinh ra, lợi nhuận siêu ngạch này được chuyển hoá thành địa tô tuyệt đối. Trong thực tế có thể nông sản được bán cao hơn giá cả sản xuất nhưng thấp hơn giá trị của chúng tuỳ theo quan hệ cung cầu, và lượng lợi nhuận siêu ngạch thu được có thể cao hơn hay thấp hơn số tiền nộp địa tô tuyệt đối. Nếu do tiến bộ khoa học và công nghệ ứng dụng vào nông nghiệp khiến cho cấu thành hữu cơ trung bình của tư bản nông nghiệp cao bằng hoặc cao hơn cấu thành của tư bản xã hội trung bình thì lợi nhuận siêu ngạch để chuyển thành địa tô tuyệt đối như đã nói ở trên sẽ biến mất. Trong trường hợp đó quyền tư hữu về ruộng đất trở thành trở ngại cho việc canh tác đòi hỏi phải xoá bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất. 1.2.1.4. Lợi tức thu từ tư bản bỏ vào cải tạo đất hay từ những công trình xây dựng gắn với đất (C.Mác gọi là ruộng đất - tư bản, terre - capital)
- Khoản lợi tức thu được từ tư bản bỏ vào ruộng đất tương đối ngắn, như trường hợp cải tạo những thuộc tính hoá học, sử dụng phân bón... hoặc được cố định trong thời hạn dài hơn, như trường hợp xây dựng các kênh đào tiêu nước, hệ thống tưới nước, san bằng mặt đất, xây dựng các công trình kiến trúc dùng vào việc kinh doanh..., thuộc phạm trù tư bản cố định. Những tư bản trên do người sử dụng ruộng đất đầu tư và trong thời hạn hợp đồng thuê đất thì người sử dụng đất được hưởng lợi tức ấy. Lợi tức này không phải là địa tô hiểu theo đúng nghĩa của từ này. Nhưng khi mãn hạn hợp đồng thuê đất thì những sự cải thiện đã được thực hiện nói trên lại thuộc về người chủ đất với tư cách là sở hữu của người chủ đất, là những vật phụ thuộc không thể tách rời khỏi ruộng đất cho thuê. Khi chuyển sang một hợp đồng cho thuê mới, người chủ đất tính thêm vào địa tô chính cống số lợi tức về khoản tư bản nói trên, dù người thuê đất là người đã tiến hành những việc cải thiện trước đây hay là người khác. Bằng cách đó địa tô của chủ đất phình lên, và nếu họ muốn bán đất thì giá trị (hay đúng hơn là giá cả) của đất ấy bây giờ đã tăng thêm lên. Họ không những bán đất mà còn bán cả những tư bản đã bỏ vào ruộng đất mà họ không phải tốn kém gì cả. Đó là một trong những bí quyết giải thích tại sao cùng với sự phát triển kinh tế, các địa chủ ngày càng giàu thêm, địa tô của họ không ngừng bành trướng và giá cả của ruộng đất của họ ngày càng tăng lên. Vậy là họ đã bỏ vào túi họ cái thành quả của sự phát triển kinh tế - xã hội mà họ đã không hề góp công vào đó. Điều này cũng là một trở ngại lớn cho việc hợp lý hoá nông nghiệp vì những người sử dụng đất sẽ tránh mọi việc cải thiện chất đất và mọi khoản chi phí mà họ không mong thu về được hết trong thời hạn thuê đất. 1.2.2. Giá cả ruộng đất trong trường hợp quốc hữu hoá ruộng đất Trong trường hợp quốc hữu hoá ruộng đất thì khi mua bán (hay chuyển nhượng) sẽ không chuyển nhượng quyền sở hữu pháp lý mà chỉ chuyển quyền chiếm hữu và quyền sử dụng ruộng đất. Quyền sở hữu pháp lý về ruộng đất thuộc về nhà nước, địa tô tuyệt đối được xoá bỏ hoàn toàn, còn địa tô chênh lệch I nộp vào ngân sách nhà nước. Nếu việc giao quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất được quy định dài hạn (từ 20 đến 30 năm trở lên) thì lợi nhuận siêu ngạch hình thành khoản thu nhập hàng năm dưới hình thái địa tô thuộc về người trực tiếp sử dụng ruộng
- đất, gồm địa tô chênh lệch II và lợi tức thu từ tư bản đầu tư vào cải tạo và xây dựng các công trình gắn với đất. R Việc tính giá cả ruộng đất vẫn theo công thức , nhưng R ở đây chỉ gồm các z' khoản vừa kể trên, nên giá cả ruộng đất, hay nói chính xác hơn, giá cả quyền sử dụng đất (nếu không kể nhân tố bên ngoài như đầu cơ, cạnh tranh, quan hệ cung cầu...) sẽ thấp hơn giá cả ruộng đất trong trường hợp tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất. ở nước ta có ý kiến cho rằng quy định “mua bán hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hình thành thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất” là thiếu căn cứ khoa học. Nhưng trong thực tế khi mua bán hàng hoá đặc biệt, người ta cũng chỉ chuyển quyền sử dụng mà không chuyển quyền sở hữu, như hàng hoá tư bản và hàng hóa - sức lao động... Khi cho vay người ta chỉ chuyển quyền sử dụng tư bản, quyền sở hữu tư bản vẫn thuộc về người cho vay. Người công nhân chỉ bán quyền sử dụng sức lao động của mình theo thời hạn hợp đồng chứ không bán quyền sở hữu sức lao động đó, nếu bán cả quyền sở hữu thì người bán sức lao động sẽ trở thành người nô lệ. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường của ruộng đất R Công thức , tính giá cả ruộng đất chưa phải là giá cả thị trường của nó. Cũng z' như giá cả các hàng hoá khác, trên thi trường giá cả ruộng đất còn chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác nữa, như cạnh tranh, quan hệ cung cầu, đầu cơ... Khi định giá đất sát giá thị trường phải tính đến ảnh hưởng của của tất cả các yếu tố đó. 1.3.1. Tất cả những nhân tố ảnh hưởng đến địa tô, hay nói đúng hơn, đến khoản thu nhập từ tiền cho thuê ruộng đất, đều ảnh hưởng đến giá cả ruộng đất Những nhân tố làm tăng hay giảm khoản thu nhập nói trên đều làm tăng hay giảm giá cả ruộng đất. Những nguyên nhân làm tăng giảm địa tô chênh lệch I không những chỉ có mức độ phì nhiêu và vị trí của ruộng đất mà còn có những nguyên nhân
- khác nữa, như cách phân bổ thuế, những sự chênh lệch bắt nguồn từ sự phát triển khác nhau của nông nghiệp ở các vùng khác nhau... C.Mác chỉ ra rằng sự phân bổ thuế ảnh hưởng đến địa tô chênh lệch I tuỳ theo nó có tác dụng đồng đều hay không đồng đều; trường hợp không đồng đều xảy ra khi thuế khoá không được thu tập trung như ở nước Anh chẳng hạn, và khi người ta không đánh thuế vào địa tô mà lại đánh thuế vào ruộng đất. Còn sự phát triển không đồng đều trong nông nghiệp là một vấn đề có tính chất truyền thống. Hai nguyên nhân khác nhau của địa tô chênh lệch tức là độ phì nhiêu và vị trí, có thể phát sinh ngược chiều nhau. Một khoảnh đất có thể ở vào một vị trí rất tốt, nhưng đồng thời lại rất ít màu mỡ và ngược lại. Cần lưu ý rằng sự tiến bộ của nền sản xuất xã hội nói chung có tác dụng san bằng đối với vị trí (của các khoảnh đất) với tư cách là cơ sở của địa tô chênh lệch, bằng cách lập nên những thị trường địa phương và bằng cách làm thay đổi vị trí của đất đai do sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải. Mặt khác sự tiến bộ của nền sản xuất xã hội lại làm cho sự chênh lệch giũa những vị trí cá biệt của các khoảnh đất tăng bằng cách tách rời nông nghiệp với công nghiệp, bằng cách hình thành những trung tâm sản xuất lớn và tăng cường tính chất cô lập tương đối của nông thôn, hay giữa các vùng. Độ phì nhiêu tự nhiên của ruộng đất, ngoài yếu tố khí hậu, còn được quyết định bởi sự khác nhau trong cấu thành hoá học của lớp đất trên mặt, nghĩa là bởi sự khác nhau trong dung lượng các chất dinh dưỡng cần thiết cho thực vật. Nhưng hai khoảnh đất có cùng một thành phần hoá học như nhau do đó về mặt này, chúng có cùng một độ phì nhiêu tự nhiên như nhau - vẫn có thể khác nhau - về độ phì nhiêu thực tế, hiện thực, tuỳ theo các chất dinh dưỡng ấy tồn tại dưới một hình thái dễ tiêu hoá đến mức nào. Vì vậy trên những đất có cùng một độ phì nhiêu tự nhiên như nhau người ta có thể lợi dụng độ phì nhiêu tự nhiên ấy đến mức nào một phần là nhờ sự phát triển của hoá học, một phần là nhờ vào sự phát triển của cơ khí trong nông nghiệp. Như vậy, tính chất phì nhiêu ấy tuy là thuộc tính khách quan của đất nhưng thay đổi theo sự phát triển của hoá học và cơ khí trong nông nghiệp. Việc sắp đặt các loại đất tốt, xấu còn phải căn cứ vào từng giai đoạn phát triển ấy. Đối với đất xây dựng, độ phì nhiêu không mấy ảnh hưởng tới địa tô chênh lệch
- I. Có chăng là yếu tố địa hình, yếu tố cơ học của đất đai ảnh hưởng quá trình xây dựng... yếu tố ảnh hưởng địa tô chênh lệch I của đất xây dựng lại là vị trí. Nếu như trong nông nghiệp chênh lệch thu nhập giữa mảnh đất sát đường giao thông và mảnh đất xa hơn do yếu tố vị trí là không lớn, thì đối với đất xây dựng lại rất lớn. Địa tô chênh lệch II còn chịu ảnh hưởng của sự khác nhau trong cách phân phối tư bản (và khả năng tín dụng) giữa những người kinh doanh, vì vậy hệ thống tiền tệ - tín dụng cũng ảnh hưởng đến trình độ thâm canh, do đó ảnh hưởng đến địa tô chênh lệch II và qua đó tác động đến giá cả ruộng đất. Và như trong mục 1.2 đã phân tích, tổng địa tô còn chịu ảnh hưởng của các quy định pháp lý về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất. 1.3.2. Tỷ suất lợi tức Nếu địa tô là một đại lượng không biến đổi, thì giá cả ruộng đất có thể tăng hay giảm, theo tỷ lệ nghịch với sự lên xuống của tỷ suất lợi tức. Trong thí dụ đã nêu ở trên, nếu bây giờ tỷ lệ suất lợi tức hiện hành giảm từ 5% xuống 4%, thì một khoản địa tô hàng năm là 200Ê sẽ là số tiền thu nhập hàng năm được sinh sôi từ một tư bản là 5000Ê chứ không phải là 4000Ê, do đó giá cả của khoảnh đất ấy cũng tăng từ 4000Ê lên 5000Ê. Trong trường hợp tỷ suất lợi tức tăng lên thì tình hình sẽ ngược lại. Đó là sự vận động của giá cả ruộng đất không liên quan gì đến sự vận động của bản thân địa tô và chỉ do tỷ suất lợi tức điều tiết. C. Mác đã phát hiện ra quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tỷ suất lợi nhuận nói chung (không kể những tình huống đặc biệt, như khủng hoảng kinh tế) có ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức, nên tỷ suất lợi tức cũng có xu hướng giảm xuống, xu hướng này còn do tư bản - tiền tệ cho vay tăng lên, cho nên giá cả ruộng đất có xu hướng tăng lên một cách độc lập ngay cả với sự vận động của địa tô và với giá cả các sản phẩm của ruộng đất trong đó địa tô là một bộ phận. 1.3.3. Cạnh tranh và quan hệ cung cầu về ruộng đất Cũng như các hàng hoá khác, giá cả ruộng đất cũng chịu ảnh hưởng của cạnh tranh và quan hệ cung cầu. Khi nghiên cứu lý luận về địa tô và giá cả ruộng đất. C. Mác vận dụng phương pháp trừu tượng hoá, gạt bỏ tất cả sự biến động do cạnh tranh
- gây ra. Nhưng trong thực tiễn, độc quyền về sở hữu ruộng đất chỉ cản trở sự cạnh tranh của tư bản từ các ngành phi nông nghiệp còn trong nội bộ ngành nông nghiệp vẫn diễn ra sự cạnh tranh giữa các tư bản nông nghiệp cá biệt dẫn đến hình thành giá trị thị trường hàng hoá nông sản. Những doanh nghiệp đi đầu trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới, tăng sức sản xuất của lao động, từ đó nâng cao năng suất lao động và hạ giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị thị trường sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch, còn những doanh nghiệp lạc hậu sẽ bị thua lỗ. Trong tình hình đó giá cả thị trường của ruộng đất tốt sẽ tăng lên, còn ruộng đất xấu thì bị gạt ra ngoài vòng cạnh tranh. Việc phân tích lý luận trừu tượng về địa tô và giá cả ruộng đất cũng giả định không xét sự biến động của quan hệ cung cầu. Nhưng trên thị trường bất động sản nhân tố này cũng tác động trực tiếp đến giá cả ruộng đất. Đặc điểm của quan hệ cung cầu về ruộng đất là cầu không ngừng tăng lên do cầu về đất xây dựng nhà ở, khu công nghiệp ngày một tăng, trong khi cung lại tăng chậm (nhờ khai phá đất mới) hoặc không tăng. Lượng cầu về đất xây dựng làm tăng thêm giá trị của đất với tư cách là khoảng không gian và cơ sở, đồng thời làm tăng thêm cả lượng cầu về đất dùng làm vật liệu xây dựng. A.Smith đã dẫn ra sự kiện việc lát đá các đường phố ở Luân Đôn đã khiến cho những người sở hữu một vài ghềnh đá trơ trọi trên bờ biển Scốt - Len, thu được một khoản địa tô trên những mảnh đất trước kia hoàn toàn vô dụng. Địa tô đất xây dựng tăng lên không những do sự tăng nhân khẩu đi kèm với nhu cầu nhà ở tăng lên mà còn do xây dựng các công trình kiến trúc công nghiệp, đường sắt, kho tàng, nhà xưởng, bến tàu... vì đó giá cả đất tăng lên. 1.3.4 Tệ đầu cơ ruộng đất Khi nghiên cứu lý luận về địa tô và giá cả ruộng đất C.Mác đã loại trừ yếu tố đầu cơ. Nhưng trong kinh tế thị trường nếu sự quản lý của nhà nước không chặt chẽ thì tệ đầu cơ sẽ làm hỗn loạn giá cả nhà đất. Không ít nước tư bản chủ nghĩa đã bị tệ đầu cơ ruộng đất gây ra cơn sốt dẫn đến cái gọi là "nền kinh tế bong bóng" và lún sâu vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Khi tính giá đất sát với giá cả thị trường đòi hỏi phải loại trừ các yếu tố đầu cơ đồng thời phải có các biện pháp hữu hiệu để thực hiện việc loại trừ này. Thí dụ: có
- nước quy định người mua nhà chỉ được bán lại sau một thời gian nhất định (một vài năm); người mua đất (hay mua quyền sử dụng đất) mà không đưa vào sử dụng sau một thời hạn nhất định sẽ bị đánh thuế cao hơn thuế sử dụng đất thông thường nhiều lần... 1.3.5. Trình độ phát triển kinh tế thị trường Lý luận về địa tô tư bản chủ nghĩa giả định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hoàn toàn chi phối nông nghiệp, nông nghiệp thương phẩm đã được xã hội hoá cao, gắn vơi thị trường. Nếu nông nghiệp còn phổ biến là sản xuất tự cung tự cấp hay sản xuất hàng hoá nhỏ, chưa đạt đến trình độ kinh tế thị trường hiện đại, thì phải tuỳ tình hình cụ thể mà vận dụng lý luận trừu tượng nói trên cho phù hợp. Người tiểu nông có thể tiếp tục kinh doanh ngay cả khi không thu được lợi nhuận mà chỉ thu nhập đủ nuôi sống mình và gia đình mình. C.Mác nhận xét: “Để cho người tiểu nông có thể canh tác ruộng đất của mình hoặc có thể mua ruộng đất để canh tác, thì không nhất thiết - như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bình thường - là giá cả thị trường của nông sản phẩm cứ phải lên cao đến mức đủ đem lại lợi nhuận trung bình cho anh ta, và càng không nhất thiết cứ phải lên cao đến mức đủ đem lại cho anh ta một số trội ra ngoài lợi nhuận trung bình và được cố định lại dưới hình thái địa tô. Do đó, không nhất thiết là giá cả thị trường phải lên tới mức giá trị của sản phẩm hoặc giá cả sản xuất của sản phẩm của người tiểu nông. Đó là một nguyên nhân làm cho giá cả ngũ cốc trong những nước mà chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ chiếm địa vị thống trị, thường thấp hơn so với những nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Một bộ phận lao động thặng dư của những nông dân làm việc trong những điều kiện bất lợi nhất, được biếu không cho xã hội và không tham gia vào sự điều tiết giá cả sản xuất hoặc vào sự hình thành giá trị nói chung. Do đó giá cả thấp ấy là hậu quả của sự bần cùng của những người sản xuất, chứ không phải là kết quả của năng suất lao động của họ” [38, tr.522-523]. Mặt khác, người tiểu nông thường không được tiếp cận rộng rãi với thị trường tiền tệ, tín dụng, thậm chí còn phải vay nặng lãi. Bởi vậy, trong tình hình này không
- R thể vận dụng công thức một cách máy móc để tính giá cả ruộng đất, nhất là ở những z' vùng còn tồn tại kinh tế tự cung tự cấp. 1.3.6. Sức mua của tiền Giá cả thị trường của ruộng đất cũng biến động tỷ lệ nghịch với sức mua (hay giá trị) của tiền. Bởi vậy, thông thường người ta lấy vàng để định giá đất nhằm hạn chế ảnh hưởng của lạm phát giấy bạc ngân hàng. 1.3.7. Sự quản lý của nhà nước Trong kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước (kinh tế hỗn hợp - Mixed Economy), nhà nước không để giá cả bất động sản biến động tự phát mà chủ động điều tiết bằng hệ thống pháp luật, bằng cách phân bổ thuế, bằng các biện pháp chống đầu cơ... Trên đây là nói về ruộng đất đã được sử dụng, còn những ruộng đất chưa được sử dụng thì giá cả của nó sẽ do giá cả của những đất đã được sử dụng cùng một phẩm chất và ở vào một vị trí ngang như nhau quyết định. Trong trường hợp này phải chú ý thời điểm định giá. 1.4. ảnh hưởng của giá cả ruộng đất tới sự phát triển kinh tế - xã hội Mọi ngành, mọi lĩnh vực đều trực tiếp hay gián tiếp sử dụng đất, do đó giá cả ruộng đất tác động đến tất cả các ngành và mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong kinh tế thị trường hiện đại hình thành đồng bộ hệ thống thị trường, từ thị trường hàng hoá thông thường đến thị trường các hàng hoá đặc biệt, như thị trường vốn, thị trường bất động sản (bao gồm đất hay quyền sử dụng đất)... Sự phát triển của thị trường bất động sản, sự biến động của giá cả ruộng đất tác động đến các thị trường hàng hoá khác và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. 1.4.1. Giá cả ruộng đất và địa tô cao sẽ cản trở sự hợp lý hoá sản xuất, kinh doanh Mục 121 đã phân tích trong điều kiện ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân thì địa tô
- ngày càng tăng, do đó giá cả ruộng đất cũng tăng theo. Điều này cản trở việc hợp lý hoá nông nghiệp, bởi vì việc bỏ tiền ra để mua ruộng đất (hay nộp tô) không phải là một việc đầu tư vào nông nghiệp. Việc bỏ tiền ra ấy làm giảm bớt một cách tương ứng số vốn được sử dụng vào sản xuất, giảm bớt quy mô tư liệu sản xuất, vì vậy thu hẹp cơ sở kinh tế của việc tái sản xuất. Giá cả ruộng đất - một yếu tố bản thân nó không liên quan gì đến sản xuất - có thể lên cao đến mức khiến cho việc sản xuất không thể tiến hành được. A Smith đã dẫn ra tư liệu về một số mỏ than ở Anh mà sản phẩm của nó chỉ vừa đủ trả công lao động, bù lại tư bản đã đầu tư vào đó và đem lại chút ít lợi nhuận, nhưng không thể nộp địa tô nên chỉ có địa chủ mới có thể khai thác những hầm mỏ ấy, không một ai khác có thể kinh doanh những mỏ than này vì địa chủ không cho phép bất cứ ai kinh doanh mỏ than mà không nộp địa tô. Việc cho thuê ruộng đất ngắn hạn để khi mãn hạn hợp đồng địa chủ nhập địa tô chênh lệch II và lợi tức thu được từ việc cải tạo đất và các công trình xây dựng trên đất vào tổng địa tô, đã khiến người thuê đất không những không muốn đầu tư thâm canh mà còn ra sức vắt kiệt độ mầu mỡ của đất, dẫn đến tình trạng “mẫu mỡ đất đai ngày càng giảm sút” mà một số nhà kinh tế tư sản lầm tưởng đó là một quy luật kinh tế khách quan. C.Mác đã chỉ rõ đó chỉ là hậu quả của chế độ tư hữu về ruộng đất, còn ruộng đất nếu được xử lý thích đáng thì sẽ ngày càng tốt lên. C.Mác đã nhận xét: “Trong nền nông nghiệp nhỏ, giá cả ruộng đất - hình thức và kết quả của quyền tư hữu ruộng đất - biểu thị thành một giới hạn đối với bản thân sản xuất. Trong nền đại công nghiệp, cũng như trong chế độ đại sở hữu ruộng đất dựa trên phương thức tư bản chủ nghĩa, quyền tư hữu cũng là một trở ngại, vì nó hạn chế các khoản đầu tư sản xuất của người Phéc-mi-ê, những khoản đầu tư này rút cục không có lợi cho anh ra, mà có lợi cho địa chủ” [38, tr.532]. Mục 122 đã phân tích giá cả ruộng đất trong điều kiện quốc hữu hoá ruộng đất, nhờ xoá bỏ địa tô tuyệt đối và giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, địa tô thấp và giá
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: " Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam "
17 p | 774 | 266
-
Luận văn: Vận dụng lý thuyết quản trị chiến lược vào chiến lược kinh doanh của Tổng Công ty Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp
37 p | 641 | 226
-
Luận văn '' Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay''
26 p | 349 | 122
-
LUẬN VĂN: vận dụng lý luận về lạm phát để phân tích chích sách quản lý tiền tệ chống lạm phát của chính phủ việt nam .tình trạng thiểu phát hiện nay có hạI gì ? giảI pháp khắc phục
34 p | 247 | 79
-
Luận văn Ứng dụng lý thuyết điều khiển thích nghi bền vững nâng cao chất lượng hệ truyền động quấn băng vật liệu
77 p | 240 | 74
-
LUẬN VĂN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay
99 p | 280 | 68
-
Luận văn "Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam"
20 p | 198 | 60
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta
107 p | 366 | 59
-
Luận văn "Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông"
9 p | 227 | 29
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận kinh tế học để phân tích các biện pháp làm tăng lợi nhuận trong công ty “Cổ phần đồ hộp Hạ Long
16 p | 120 | 24
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
22 p | 98 | 19
-
LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận địa tô chênh lệch II của C.Mác vào việc thâm canh cây trồng ở Phú Yên
86 p | 136 | 17
-
Tiểu luận KTCT: Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
20 p | 104 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán tại các công ty lâm nghiệp ở Việt Nam
233 p | 66 | 10
-
Tiểu luận KTCT:“Vận dụng lý luận tăng lợi nhuận để phân tích thực tế về phát triển sản xuất ở công ty Da giầy Hà Nội ”
15 p | 110 | 8
-
Tiểu luận triết: Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
12 p | 116 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp Kế toán - Kiểm toán: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - Nguyễn Thị Loan Phượng
91 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn