Luật so sánh và nghiên cứu, giảng dạy luật so sánh ở việt nam hiện nay
lượt xem 7
download
Bài viết này nghiên cứu khái niệm luật so sánh, và ứng dụng luật so sánh vào nghiên cứu và giảng dạy ở nước ta hiện nay. Luật so sánh là môn khoa học với đối tượng so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra những điểm tương đồng khác biệt giữa chúng (Michael Bogdan, 1994). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luật so sánh và nghiên cứu, giảng dạy luật so sánh ở việt nam hiện nay
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 LUẬT SO SÁNH VÀ NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY LUẬT SO SÁNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ThS. Trịnh Tuấn Anh(*) Tóm tắt Luật so sánh là môn khoa học với đối tượng so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra những điểm tương đồng khác biệt giữa chúng (Michael Bogdan, 1994). Bài viết nghiên cứu khái niệm luật so sánh, và ứng dụng luật so sánh vào nghiên cứu và giảng dạy ở nước ta hiện nay. 1. Khái niệm luật so sánh các khái niệm luật học so sánh và luật so “Luật so sánh” là thuật ngữ gây nhiều sánh, khái niệm thứ nhất, theo nội dung, tranh luận trong khoa học pháp lý thế giới. giàu có và có dung lượng lớn hơn nhiều và Có thể thấy cho tới nay, tên gọi của ngành có tính chất tổng hợp” (Ngô Huy Cương, khoa học này vẫn chưa được sử dụng thống 2003). Theo chúng tôi, dù sử dụng dưới bất nhất giữa các học giả luật so sánh trên thế kỳ thuật ngữ nào thì những thuật ngữ này giới. Ví dụ “luật so sánh” (comparative) đều hàm chỉ một ngành khoa học nghiên theo cách gọi của De Cruz, Michael cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác Bogdan; “so sánh luật” (comparision of nhau trên thế giới. Bởi thế, Hội khoa học law) theo Konrad Zweigert and Hein Koetz; pháp lý quốc tế (IALS) khẳng định: “luật học so sánh” (comparative “Khuyến khích việc phát triển khoa học jurisprudence) theo Jonh Salmon.(Nguyễn pháp lý khắp thế giới thông qua việc nghiên Thị Ánh Vân, 2006). Ở Việt Nam, tên gọi cứu các luật nước ngoài, và sử dụng của ngành khoa học này chưa được sử dụng phương pháp so sánh”. thống nhất trong khoa học pháp lý. Ví dụ Có nhiều định nghĩa khác nhau về luật “luật học so sánh” (Võ Khánh Vinh, 1992); so sánh. Tuy nhiên, các định nghĩa về luật “so sánh pháp luật” (Đỗ Văn Đại, 2007), so sánh được các học giả sử dụng thường “luật so sánh” (Trường Đại học Luật Hà không tập trung giải quyết về bản chất mà Nội, 2017). Thực tế, thuật ngữ “luật so chỉ tập trung vào đối tượng và chức năng sánh” đã được sử dụng từ rất lâu đời và đến của nó (H. C. Gutteridge, 1971). Chẳng hạn, nay là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất giáo sư Michael Bogdan đã định nghĩa luật (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017). Tuy so sánh theo kiểu liệt kê rằng: nhiên, theo tác giả Đỗ Văn Đại thì: “Thuật “Luật so sánh bao gồm: ngữ luật so sánh dường như là hậu quả của - So sánh các hệ thống pháp luật khác việc dịch máy móc một số tài liệu nước nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác ngoài. Thực tế cho thấy không có luật so biệt; sánh mà chỉ có so sánh pháp luật mà thôi” - Sử dụng những sự tương đồng và (Đỗ Văn Đại, 2007). Tác giả Ngô Huy khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn Cương quan niệm: “Không nên đồng nhất gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ (*) Giảng viên khoa Kinh tế, Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống 1
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG pháp luật hoặc tìm ra những vấn đề cốt lõi, Thứ hai, luật so sánh sử dụng phương cơ bản của các hệ thống pháp luật; pháp so sánh các hệ thống pháp luật khác - Xử lý những vấn đề mang tính chất nhau để tìm ra những điểm tương đồng và phương pháp nảy sinh trong quá trình so khác biệt giữa chúng là một đặc điểm quan sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi trọng nhất của luật so sánh. Nói cách khác, nghiên cứu pháp luật nước ngoài” (Michael hạt nhân của luật so sánh là “so sánh”, nghĩa Bogdan, 1994). là xem xét các yếu tố có tính chất so sánh Giáo sư Konrad Zweigert & Hein của hai hay nhiều hệ thống pháp luật và xác Koetz cho rằng: “Luật so sánh là sự so sánh định các điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế các yếu tố đó. Việc lựa chọn hệ thống pháp giới, và bản thân thuật ngữ này đã gợi nên luật và các yếu tố để so sánh, đương nhiên một hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực pháp phụ thuộc vào mục đích so sánh và mối luật mà đối tượng và sự so sánh ở đó là quy quan tâm của tác giả so sánh (Michael trình của hoạt động này” (Konrad Zweigert Bogdan, 1994). Luật so sánh ra đời mang & Hein Koetz, 1992) trong mình rất nhiều cách thức phân loại các GS. Peter de Cruz định nghĩa: “Luật so hệ thống pháp luật khác nhau. Các nhà luật sánh là khoa học nghiên cứu có hệ thống học so sánh thường dựa vào những tiêu chí các truyền thống pháp luật và các quy phạm khác nhau để phân loại các hệ thống pháp pháp luật nào đó trên cơ sở so sánh” (Peter luật. Dựa vào những yếu tố căn bản hình de Cruz, 1999) thành đến pháp luật như tôn giáo, luân lý, Mặc dù những định nghĩa trên không công lý, GS.Vũ Văn Mẫu phân loại các hệ hoàn toàn thống nhất định nghĩa “luật so thống pháp luật trên thế giới thành ba loại: sánh”, theo chúng tôi “luật so sánh” có đặc (i) Hệ thống pháp luật Hồi giáo và Ấn Độ trưng cơ bản để nhận diện với các môn khoa (ảnh hưởng tôn giáo) ; (ii) Hệ thống pháp học khác. luật Trung Hoa (ảnh hưởng luân lý); (iii) Hệ Thứ nhất, trước hết phải khẳng định thống pháp luật Pháp La Mã, hệ thống pháp luật so sánh không phải ngành luật theo luật Anh Mỹ, và pháp luật các nước xã hội quan điểm pháp lý truyền thống; hoặc lĩnh chủ nghĩa (ảnh hưởng công lý) (Vũ Văn vực pháp luật thực định mà luật so sánh với Mẫu, 1961). GS. Konrad Zweigert & Hein tư cách là môn khoa học pháp lý độc lập có Koetz dựa vào các yếu tố lịch sử, tư duy đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Luật pháp lý, nguồn pháp luật…phân chia thành: so sánh là một khoa học pháp lý thuần, có (i) hệ thống pháp luật La Mã; (ii) hệ thống tính chất tổng quát và không tác động trực pháp luật Đức; (iii) hệ thống pháp luật Bắc tiếp tới thực tiễn tranh chấp (Ngô Huy Âu; (iv) hệ thống pháp luật Anh- Mỹ; (v) hệ Cương, 2003). Đối tượng nghiên cứu của thống pháp luật XHCN; (vi) hệ thống pháp luật so sánh là pháp luật, văn bản pháp luật, luật Viễn Đông; (vii) hệ thống pháp luật các chế định pháp luật cũng như các nhóm Hindu; (viii) hệ thống pháp luật Đạo hồi quy phạm pháp luật khác nhau thuộc các (Ngô Huy Cương, 2006). chế độ chính trị xã hội khác nhau (Nguyễn Thứ ba, luật so sánh không đồng nghĩa Bá Diến, 1996). với nghiên cứu pháp luật nước ngoài. GS 2
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 Glendon, Gorden và Osakwe đã thừa nhận được xem xét trên cơ sở bảo đảm tính tương rằng: “Luật so sánh không phải là sự nghiên thích với thông lệ quốc tế”. Đặc biệt, trong cứu một hệ thống pháp luật nước ngoài hay giai đoạn kỷ nguyên số 4.0 thì yêu cầu nước một phần của hệ thống pháp luật nước ta phải đẩy mạnh thực hiện việc rà soát, sửa ngoài. Một khoá học đại cương ở một đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản trường đại học ở Anh hay Mĩ về Luật tư của quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ Pháp hoặc một khoá học chuyên sâu về Luật quốc tế và tương thích với hầu hết các hợp đồng của Pháp có thể rất có giá trị về lí nguyên tắc, tập quán quốc tế, góp phần quan luận và thực tiễn nhưng vẫn chỉ là một khoá trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp học về luật của Pháp chứ không phải là luật của Việt Nam (Thông tấn xã Việt Nam, Luật so sánh. Hiển nhiên là không thể theo 2015). Xuất phát từ vai trò của Luật so sánh học khoá học này mà không có sự so sánh trong quá trình hài hòa pháp luật, việc áp với nội luật và người học không thể không dụng luật so sánh vào hoạt động xây dựng mở mang sự hiểu biết của mình về nội luật và hòa thiện pháp luật ở nước ta đã được sử nhờ khoá học này nhưng tất cả những cái đó dụng trong thời gian mấy chục năm trở lại không thể làm thay đổi bản chất của khoá đây, và ngày càng được được sử dụng phổ học và đó vẫn chỉ là khoá học về luật của biến trong hầu hết các ngành luật như hình Pháp” (M. A. Glendon, M.W. Gordon, and sự, dân sự, sở hữu trí tuệ, ngân hàng, chứng C. Osakwe, 1994). khoán, cạnh tranh, doanh nghiệp….Luật so 2. Ứng dụng luật so sánh vào nghiên cứu sánh có vai trò to lớn trong việc hoàn thiện và giảng dạy ở nước ta hiện nay pháp luật nước ta về mặt khối lượng và chất 2.1.Ứng dụng luật so sánh vào hoạt lượng điều chỉnh cũng như về phương pháp động xây dựng và hoàn thiện pháp luật hoàn thiện pháp luật. Trong hoàn cảnh nước Luật so sánh có vai trò quan trọng ta hiện nay, luật so sánh đã phần nào phát trong quá trình hài hòa pháp luật, có nghĩa huy được vai trò của nó nhưng còn hạn chế là quá trình làm cho các nguyên tắc pháp vì chúng ta còn thiếu luật gia hiểu biết tốt luật của hai hay nhiều hệ thống pháp luật trở pháp luật nước ngoài (Đỗ Văn Đại, 2004). nên gần giống nhau. Cụm từ “tính thống Trong phạm vi bài viết, chúng tôi phân tích nhất” của pháp luật có nghĩa là nhằm chủ ứng dụng luật so sánh trong xây dựng và định ban hành những nguyên tắc pháp luật hoàn thiện Bộ luật dân sự (BLDS) năm tương tự giống nhau trong hai hay nhiều hệ 2005. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Dân thống pháp luật. Đây là quá trình đầy trắc sự năm 2005, cấu trúc của Bộ luật Dân sự trở vì không chỉ có các ý kiến khác nhau về theo mô hình của Bộ luật Dân sự Cộng hoà sự thiết hiểu biết về tư tưởng pháp luật, các Liên bang Nga năm 1964 vẫn được đánh giá khái niệm pháp luật giữa các nước thường cao bởi cấu trúc đó tạo nên cấu trúc chỉnh làm gia tăng sự khác biệt. Với đặc thù của thể thống nhất của toàn Bộ luật, tạo cảm mô hình pháp luật chuyển đổi như nước ta, giác có sự rõ ràng, mạch lạc giữa các quy thì yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng định trong Bộ luật. Tuy nhiên cũng có ý và hoàn thiện pháp luật “xây dựng và thông kiến cho rằng trên cơ sở nghiên cứu xu qua các văn bản quy phạm pháp luật thường hướng lập pháp ở các nước trên thế giới, 3
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG trong điều kiện hiện nay cần có sự thay đổi Đại học tổng hợp Okxford đã có Bộ môn nhất định vì lập pháp hiện đại đã trở nên Luật so sánh với Trưởng bộ môn là Giáo sư thực dụng hơn, hướng tới việc đạt hiệu quả G. Men. Ở Mỹ, việc nghiên cứu và giảng điều chỉnh pháp luật cao nhất (Ngô Hoàng dạy Luật So sánh được thực hiện trong ở các Oanh, Phạm Trí Hùng, 2007). Do vậy, luật Bộ môn Pháp luật La Mã ở Trường Đại học so sánh với hệ thống hiểu biết chung của nó tổng hợp Jelexk (1876) và Trường Đại học về các hệ thống pháp luật, các dòng họ pháp tổng hợp Columbia (1880) (Phạm Trí Hùng, luật trên thế giới cùng với những phương 2009). Ở nước ta, luật so sánh chỉ mới được pháp nghiên cứu pháp luật nước ngoài được đưa vào giảng dạy ở trường đại học hơn đưa ra có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc chục năm nay trở lại đây. Các cơ sở đào tạo tạo ra sự tương thích của các chế định trong chuyên về luật cũng đã phát triển lĩnh vực Bộ luật Dân sự đối với các Điều ước và luật so sánh thông qua việc thành lập các thông lệ quốc tế (Trường Đại học Luật Hà trung tâm luật so sánh của Khoa luật – Đại Nội, 2006). Khảo sát Bộ luật dân sự năm học quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Luật 2005, chúng tôi thấy luật dân sự Việt Nam Hà Nội; Khoa luật – Đại học Cần Thơ. Các có xu hướng định hình cách thức phân loại trung tâm luật so sánh của các cơ sở đào tạo tài sản tương tự như hệ thống pháp luật luật ngoài nhiệm vụ nghiên cứu luật so sánh Pháp - Đức, cụ thể Ðiều 518 Bộ luật Dân sự còn đảm nhiệm chức năng giảng dạy luật so của Cộng hòa Pháp năm 1804 không định sánh cho các sinh viên ở các bậc học khác nghĩa tài sản là gì mà chỉ nói rằng tài sản nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, giảng dạy bao gồm động sản và bất động sản. Nghiên Luật So sánh ở trường đại học chưa mang cứu chế định hợp đồng trong BLDS năm tính hiệu quả do chương trình giảng dạy quá 2005 cho thấy, chế định hợp đồng được áp tải, sinh viên bị ảnh hưởng nhiều bởi việc dụng chung cho việc ký kết và thực hiện học các môn học khác (Phạm Trí Hùng, mọi loại hợp đồng rõ ràng chịu ảnh hưởng 2009). Đồng thời, công tác biên soạn các các quốc gia có hệ thống pháp luật XHCN giáo trình và tài liệu chuyên khảo về nghiên như Trung Quốc. Điển hình, Luật Hợp đồng cứu giảng dạy luật so sánh chưa được “chú Trung Hoa thông qua ngày 15/3/1999 có trọng”, cụ thể từ khi thực hiện việc giảng hiệu lực áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng, dạy luật so sánh tại các cơ sở đào tạo luật thì dù phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay các giáo trình luật so sánh được xuất bản và sinh hoạt, tiêu dùng (Bùi Ngọc Cường, biên soạn bằng Tiếng Việt chiếm tỉ lệ “rất 2005). ít”, tiêu biểu là ”Giáo trình luật so sánh” 2.2.Nghiên cứu và giảng dạy luật so của Trường Đại học Luật Hà Nội, và “Giáo sánh ở nước ta hiện nay trình luật học so sánh” của Học viện Khoa Việc nghiên cứu và giảng dạy luật so học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội sánh ở các nước trên thế giới đã có hơn 150 Việt Nam). Học giả Mỹ Pound đã phát biểu năm lịch sử. Từ nửa sau của Thế kỷ 19 ở một cách chính xác rằng việc nghiên cứu so một loạt các nước châu Âu, Luật so sánh đã sánh luật chỉ có thể có hiệu quả với điều được hình thành như một khoa học pháp lý kiện các giảng viên thấy rõ được khả năng và như một môn học. Năm 1861 ở Trường của khoa học Luật so sánh này và biết hiện 4
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 thực hoá các khả năng của nó (Phạm Trí đáp ứng được các yêu cầu của thị trường Hùng, 2009). Tuy nhiên, việc giảng dạy và dịch vụ pháp lí quốc tế (Dương Thanh Mai, nghiên cứu luật so sánh là một chủ đề nóng 2005). Việt Nam là một nước theo truyền bỏng trong giáo dục pháp luật những năm thống pháp luật XHCN, và đang trong quá gần đây, đặc biệt là trong chương trình trình chuyển đổi nên nghiên cứu và giảng giảng dạy cử nhân Luật Kinh tế. Nghiên cứu dạy luật so sánh cần chú ý đến những khác chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành biệt của pháp luật Phương Tây, nhất là Họ Luật Kinh tế của các cơ sở đào tạo luật như Pháp luật Anh- Mỹ. Ngoài ra cần chú ý Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. truyền đạt cho người học bằng phương pháp Hồ Chí Minh; Trường Đại học Luật- Đại của họ pháp luật mà họ đang tiếp cận (Ngô học Huế; Trường Đại học Kinh tế Luật- Đại Huy Cương, 2003). Việc dạy luật so sánh học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Trường Đại cho học viên chỉ có hiệu quả khi học viên đã học Kinh doanh & Công nghệ Hà có một khối lượng kiến thức về pháp luật. Nội…chúng tôi thấy sự “vắng bóng” môn Theo chúng tôi luật so sánh có thể được học luật so sánh trong thời gian gần đây. giảng dạy cho học viên vào năm thứ tư cho Điều này, gây sự khó hiểu, bởi theo chúng chương trình đại học và giảng dạy từ năm tôi, việc giảng dạy và nghiên cứu luật so đầu tiên đối với chương trình sau đại học. sánh trong chương trình đào tạo cử nhân 3. Kết luận luật là “cần thiết”, bởi sự toàn cầu hoá mà Việc sử dụng luật so sánh trong hoạt các cơ sở đào tạo luật phải nghiên cứu, và động xây dựng và hoàn thiện pháp luật sẽ giảng dạy nhiều hơn về pháp luật của các giúp các quốc gia có thể tiết kiệm được chi nước trên thế giới. Thực tiễn pháp lý cho phí, thời gian và lao động trong hoạt động thấy pháp luật ngày càng mang tính quốc tế lập pháp mà vẫn đảm bảo được tính khả thi hơn, và các cơ sở đào tạo luật phải bổ sung và hiệu quả của pháp luật khi nó đi vào đời các vấn đề mới này vào chương trình giảng sống xã hội (Nguyễn Quốc Hoàn, 2007). dạy để sinh viên được chuẩn bị tốt hơn và Việc nghiên cứu, và giảng dạy luật so sánh, điều này cũng liên quan đến giảng dạy Luật đồng thời việc ứng dụng luật so sánh trong So sánh (Phạm Trí Hùng, 2009). Theo các hoạt động lập pháp đang được các quốc gia giáo sư đang trực tiếp giảng dạy tại các tăng cường và chú trọng trong bối cảnh hội trường và các quan chức tại các cơ quan nhà nhập quốc tế. Do đó, việc giảng dạy và nước, có một số lí do chính làm cho việc nghiên cứu luật so sánh cần được “gia tăng” nghiên cứu và giảng dạy luật so sánh ngày về số lượng và chất lượng trong hoạt động càng có vị trí quan trọng ở Canada, đó là đòi đào tạo chương trình đại học, và sau đại học. hỏi của quá trình hội nhập quốc tế. Đây TÀI LIỆU THAM KHẢO cũng chính là lí do thúc đẩy các trường đại [1]. Nguyễn Thị Ánh Vân (2006), “Hiểu thế học ở Canada tăng cường sức cạnh tranh của nào về sử dụng luật so sánh trong mình bằng việc cung cấp các chương trình nghiên cứu và giảng dạy luật”, Tạp chí nghiên cứu, đào tạo ở bậc đại học và sau đại Luật học, Số 10, học về luật so sánh nhằm cung cấp nhiều hơn với chất lượng cao hơn các chuyên gia 5
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG [2]. Võ Khánh Vinh (1992), “Tìm hiểu về [13]. Dương Thanh Mai (2005), “Về việc tổ luật học so sánh”, Tạp chí Nhà nước và chức nghiên cứu, giảng dạy Luật so Pháp luật, Số 77, sánh tại khoa Luật của một số trường [3]. Đỗ Văn Đại (2007), “Suy nghĩ về đại học Canada”, Tạp chí Luật học , Số nghiên cứu so sánh pháp luật”, Tạp chí 4, Luật học, Số 11(90), [14]. Bùi Ngọc Cường (2005), “Một số vấn [4]. Đỗ Văn Đại (2004), “Vai trò của Luật đề hoàn hiện pháp luật về hợp đồng ở so sánh trong công cuộc hoàn thiện Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học luật, số 5/2005, pháp lý, Số 01(20), [15]. Phạm Trí Hùng (2009),” Giảng dạy [5]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), luật so sánh ở các nước trên thế giới”, “Giáo trình luật so sánh”, Nhà xuất bản nguồn: Công an nhân dân, Hà Nội. https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/20 [6]. Ngô Huy Cương (2003), “Luật so sánh 09/07/26/3399/, truy cập ngày và việc dạy luật so sánh ở Việt Nam: Từ 22.8.2019. một quan điểm tới một quan điểm về một [16]. Thông tấn xã Việt Nam (2015), số vấn đề cơ bản”, Tạp chí Khoa học “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Hệ kinh tế- luật, ĐHQGHN, Số 2/2003. thống pháp luật Việt Nam phù hợp với [7]. Nguyễn Bá Diến (1996), “Tính tất yếu các cam kết trong ASEAN”, Tạp chí của việc nghiên cứu luật so sánh”, Tạp cộng sản. chí Luật học, Số 5, [17]. H.C. Gutteridge (1971), “Comparative [8]. Vũ Văn Mẫu (1961), “Dân Luật khái Law, An introduction to the comparative luận”, In lần thứ 2, Nxb. Bộ Quốc gia method of legal study and research”, Giáo dục, Sài Gòn. Cambridge University Press. [9]. Ngô Huy Cương (2006), “Góp phần [18]. Michael Bogdan (1994), “Comparative bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam law”, KLuwer Law and Taxation, hiện nay”, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, [19]. Konrad Zweigert & Hein Koetz [10]. Ngô Hoàng Oanh, Phạm Trí Hùng (1992),“An Introduction to Comparative (2007), “Luật so sánh và thực tiễn xây Law Clarendon”, PressOxford, dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam”, Tạp chí [20]. Peter de Cruz (1999), “Comparative in Luật học, Số 4/2007, a changing world”, Cavendish [11]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Publishing Limited. “Ứng dụng của Luật So sánh trong hoạt [21]. M. A. Glendon, M.W. Gordon, and động lập pháp”, Tài liệu hội thảo khoa C. Osakwe (1994), “Comparative Legal học, Hà Nội, Traditions: Text, Materials and Cases [12]. Nguyễn Quốc Hoàn (2007), “Sử dụng on the Civil and Common Law trực tiếp luật so sánh trong hoạt động Traditions, with special Reference to lập pháp”, Tạp chí Luật học, Số 4/2007, French, German, English and European Law”, West Group, 6
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 VAI TRÒ CỦA NHÀ TRƯỜNG TRONG VIỆC TẠO RA MÔI TRƯỜNG SÁNG TẠO ĐỔI MỚI ĐỂ THÚC ĐẨY TINH THẦN KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN TS. Lê Công Toàn(*) Tóm tắt "So far, universities are pursuing scientific research activities that are primarily aimed at publishing in scientific journals, and pursuing rankings; There is little research associated with technology transfer and start-ups outside the school. In the national innovation system in any country, universities, governments, and businesses are the three pillars of the knowledge society. When these three key elements are linked, it will facilitate the creation of knowledge, technology and added value for society. Therefore, more than ever, the school can not remain as "ivory tower" as before. In addition to the two traditional roles of teaching and research, schools today must be aware of the importance of the third mission, namely, the promotion of innovative, entrepreneurial, and entrepreneurial mindsets. Meeting the needs of enterprises to serve the community and social life" 1.Khởi nghiệp một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, mua bán Start-up (khởi nghiệp) là thuật ngữ lại một sản phẩm hay cửa hàng đang hoạt chỉ về những công ty đang trong giai đoạn động hoặc hoạt động sinh lợi nào đó. bắt đầu kinh doanh nói chung (Start-up Start-up cũng có nghĩa là mỗi chúng company). Nó là một tổ chức được thiết kế ta tạo ra giá trị có lợi cho con người, cho xã nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong hội hoặc nhóm khởi nghiệp, cho các cổ những điều kiện không chắc chắn nhất. đông của công ty, cho người lao động, cho Theo Investopedia, start-up là công ty cộng đồng và cho đất nước. Khởi nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình bằng việc thành lập doanh nghiệp sẽ tạo hoạt động. Những công ty đang ở trong giai tăng trưởng kinh tế và dưới một góc độ nào đoạn này thường được cấp vốn bởi chính đó sẽ tham gia vào việc phát triển kinh tế và những người sáng lập viên để phát triển sản xã hội. phẩm và dịch vụ mà họ tin rằng có nguồn Start-up cũng có thể hiểu là mỗi cung. Do nguồn thu hạn hẹp và chi phí cao, chúng ta tự mở cho mình một cửa hàng như hầu hết các startup với quy mô nhỏ thường bún bò, phở, xôi sáng, quán cafe, tiệm không ổn định trong dài hạn nếu không có Internet, cửa hàng mỹ phẩm, cửa hàng tiêu nguồn vốn hỗ trợ từ các quỹ đầu tư. dùng hay mở trang trại trồng cây, chăn nuôi, Có thể hiểu rằng: Start-up là mỗi xưởng sản xuất một mặt hàng nào đó hay chúng ta có ý định tự mình có một công việc đơn giản là chỉ thương mại, tức là mua đi kinh doanh riêng, mỗi chúng ta muốn tự bán lại … mình làm và quản lý tự kiếm thu nhập cho Start-up là mỗi chúng ta vừa là nhân mình. Mỗi chúng ta cung cấp và phát triển viên vừa là ông chủ hoặc cao hơn bạn tự (*) Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng thành lập doanh nghiệp riêng cho mình rồi 7
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG tuyển nhân viên vào cùng làm. Vì vậy khởi 2. Vai trò của Trường Đại học trong việc nghiệp cũng chính là việc mà mỗi chúng ta tạo ra môi trường sáng tạo đổi mới, khích sẽ bắt đầu làm chủ. Và khởi nghiệp cũng lệ tinh thần khởi nghiệp cho sinh viên chính là một công việc kinh doanh của mỗi Cho đến nay, vai trò này chưa phát huy chúng ta vì nó liên quan đến việc tạo ra sản tốt. Các trường đại học đang theo đuổi phẩm và bán ra thị trường để chúng ta có những hoạt động khoa học công nghệ chủ thu nhập. Chính vì vậy người ta thường gọi yếu nhằm vào công bố trên các tập san khoa là khởi nghiệp kinh doanh. học, và chạy theo những thành tích xếp Mục tiêu của Start-up hạng. Có rất ít nghiên cứu gắn với hoạt động Mục tiêu của “Start-up”, đó là… không chuyển giao công nghệ và khởi nghiệp bên còn là Start-up nữa. Nghĩa là Start-up đó ngoài nhà trường. Kết cục là nhà trường phải đạt đến một trạng thái khác, đó là trở Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục tồn tại theo thành Company. lối tháp ngà chẳng khác nào cách đây vài “Mục tiêu tối thượng” và “sứ mệnh tối thập kỷ. cao” trong giai đoạn Start-up chưa phải là Cộng đồng kinh tế ASEAN đã tạo ra tối đa hóa lợi nhuận, có thật nhiều khách một nhu cầu lớn về môi trường khởi nghiệp hàng, nâng giá trị thương hiệu (những điều ở các nước thành viên, vì nó tạo điều kiện này vẫn phải thực hiện nhưng nó không phải cho việc luân chuyển nguồn vốn, con người là mục tiêu cốt lõi nhất trong giai đoạn và ý tưởng giữa các nước trong khu vực này)… Mục tiêu trong giai đoạn này chính nhằm tạo ra dịch vụ mới, công ăn việc làm là Start-up đó phải thực hiện rất nhiều “thử mới, và thêm nhiều của cải. nghiệm” và phải “điều chỉnh” mô hình kinh Mạng lưới Xây dựng tinh thần khởi doanh liên tục để có thể xác lập một mô nghiệp và đổi mới sáng tạo đã kết nối nhiều hình khả thi, vững vàng, có lợi nhuận, có thể bên liên quan khác nhau (giới doanh nghiệp, chuẩn hóa, có thể nhân rộng quy mô, và bền các quỹ đầu tư mạo hiểm, giới đại học, giới vững. quản lý, giới làm chính sách) của các nước Đặc điểm của các công ty Start-up Singapore, Malaysia, Thái Lan, Myanmar, - Niềm mơ ước và sự quyết tâm tạo ra Cambodia, Lào, Việt Nam, và các chuyên các sản phẩm thực sự có ý nghĩa (theo cách gia Phần Lan, Hoa Kỳ, nhằm thảo luận về gọi của Paul Graham là sản phẩm có khả những sáng kiến có thể thúc đẩy hình thành năng make wealth và theo cách gọi của Guy một hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới Kawasaki là sản phẩm có khả năng change sáng tạo cho cả khu vực. Mục tiêu quan the world). Điều này giúp người sáng trọng là nhằm đề xuất một lộ trình hành lập không ngừng sáng tạo, đổi mới phát động của các nước thành viên phù hợp với triển và hoàn thiện sản phẩm; khuôn khổ pháp lý và chính sách của từng - Sự đam mê và hết lòng với công việc; nước. Hai lĩnh vực được tập trung là (1) - Môi trường làm việc gần gũi và thân mạng lưới giáo dục và chia sẻ tri thức; (2) thiện như một gia đình. tận dụng nguồn lực và mạng lưới người hướng dẫn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. 8
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 Mạng lưới giáo dục và chia sẻ tri thức ra xã hội tri thức. Khi ba thành tố quan trọng thực hiện những chương trình huấn luyện này gắn kết tương liên với nhau, nó sẽ tạo xuyên quốc gia, chia sẻ kinh nghiệm thành điều kiện cho việc tạo ra tri thức, công nghệ công/ thất bại khi khởi nghiệp, và ý nghĩa và giá trị gia tăng cho xã hội. Vì vậy, hơn văn hóa của những kinh nghiệm ấy. Nếu bao giờ hết, các trường không thể cứ mãi là những thành công có thể truyền cảm hứng “tháp ngà” như xưa. Thêm vào hai vai trò mạnh mẽ cho người khởi nghiệp, thì những truyền thống là giảng dạy và nghiên cứu, bài học thất bại còn quan trọng hơn gấp bội. ngày nay các trường phải nhận thức rõ tầm Dự kiến sẽ kết nối với các nhà báo, quan trọng của sứ mạng thứ ba, là gắn với bloggers, các nhà xuất bản và các báo của các doanh nghiệp và đáp ứng với những nhu mỗi nước để viết về những câu chuyện này, cầu của họ nhằm phục vụ cho cộng đồng và lập một kho dữ liệu về những câu chuyện đời sống xã hội. thành công thất bại khi khởi nghiệp và một Các trường đại học có thể làm được gì? trang web để chia sẻ nó. Từ năm 2015, Việt Nam đã tăng 12 bậc Người khởi nghiệp là những người mới trong bảng xếp hạng chỉ số cạnh tranh toàn bắt tay vào thực hiện một ý tưởng mới, dựa cầu và 19 bậc trong xếp hạng chỉ số đổi mới trên một mô hình kinh doanh mới hay sản sáng tạo toàn cầu là nhờ một phần những cải phẩm mới. Vì vậy sự hướng dẫn của người cách trong tài trợ nghiên cứu, tự chủ đại học đi trước là rất quan trọng và quý báu. và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Những hoạt động nhằm thực hiện các trong đó có các trung tâm chuyển giao công mục tiêu này có thể là những sự kiện (hội nghệ (TTOs, TLOs). Tuy nhiên, cho đến chợ, triển lãm, hội thảo, cuộc thi, v.v.) được nay hệ thống nghiên cứu khoa học và đổi tổ chức luân phiên ở các quốc gia thành mới sáng tạo của Việt Nam nhìn chung mới viên, nhằm tạo ra tác động xã hội tới tất cả chỉ chú trọng đến việc tạo ra tri thức mới, các bên liên quan, đặc biệt là để kết nối các thông qua các dự án nghiên cứu ở các doanh nghiệp khởi nghiệp với các nhà kinh trường và viện, mà còn có rất ít nỗ lực trong doanh, đầu tư, nhằm thúc đẩy sự hợp tác. việc đưa những tri thức ấy vào đời sống xã Rõ ràng để làm những việc đó chúng ta hội, vào sản xuất và kinh doanh. cần có những người điều hành chương trình Để tạo ra sự thay đổi này, các trường giàu kinh nghiệm, và một nguồn tài trợ ban đại học cần phải nhấn mạnh trọng tâm đào đầu để khởi xướng và tạo ra các cơ hội. tạo của mình, không chỉ là kiến thức hàn Những điều này không khó khi chúng ta có lâm, mà là kỹ năng giao tiếp, thương lượng; một số lượng đủ lớn những người được đào kỹ năng làm việc nhóm, sử dụng con người; tạo với tinh thần khởi nghiệp và sẵn sàng kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng xử lý cho sự khám phá, đổi mới và sáng tạo. khủng hoảng; kỹ năng lãnh đạo và tư duy Câu hỏi đặt ra là, nhà trường có vai chiến lược; kể cả những kỹ năng cụ thể như trò gì trong việc tạo ra một thế hệ như thế? lập kế hoạch tài chính và quản lý dòng tiền, Trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc sáng tạo giá trị mới và quản lý quan hệ gia ở bất cứ nước nào, trường đại học, chính khách hàng. Thay cho cách dạy lý thuyết, phủ, và giới doanh nghiệp là ba trụ cột tạo các trường cần chuyển sang dạy học thông 9
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG qua trải nghiệm, mục đích là để giúp người hội nhằm tái định hình trường đại học và học hiểu cách tư duy của những người khởi khẳng định tầm quan trọng của nó. nghiệp và có khả năng lựa chọn những Khi bình luận về vai trò của nhà quyết định tốt nhất trong một bối cảnh cụ trường trong hệ sinh thái khởi nghiệp, một thể. số cá nhân có ý kiến như sau: Vì thế, các trường đại học cần xác định Thảo Nguyên là một sinh viên tại lại hồ sơ năng lực của mình bằng cách tham trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia gia mạnh mẽ hơn vào quá trình hỗ trợ khởi TPHCM. Bên cạnh việc học, Nguyên còn nghiệp, thông qua gắn kết với các nhà hoạch phụ trách mảng marketing tại Sharecar.vn, định chính sách, giới doanh nhân. Sự gắn một startup trong lĩnh vực kết nối đi chung kết đó mang lại lợi ích trước hết là cho nhà trên xe ô tô. trường, vì nó biện minh cho ý nghĩa thiết Nguyên được giao việc rõ ràng, có chỉ yếu của trường đại học, nâng cao uy tín của tiêu đánh giá, trả lương và khen thưởng như nhà trường trong xã hội, biến nhà trường một nhân viên bình thường ở nhiều doanh thành một yếu tố không thể thiếu trong hệ nhiệp khác. Không chỉ có Nguyên, thống đổi mới sáng tạo quốc gia. hiện Sharecar.vn có 18 nhân viên sinh viên Tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng khác đang làm việc bên cạnh đội ngũ 4 tạo là yếu tố cốt lõi tạo ra thành công của thành viên nòng cốt. Họ phụ trách các lĩnh các doanh nghiệp ngày nay. Nó không chỉ vực khác nhau như chăm sóc và phát triển cần khi người ta bắt đầu mở ra một doanh khách hàng, trực tổng đài, marketing, phát nghiệp mới, mà còn cần thiết trong suốt quá triển phần mềm, theo dõi hệ thống… trình hoạt động của doanh nghiệp, vì nó Theo ông Lê Mai Tùng, CEO giúp họ đổi mới không ngừng để thích ứng Sharecar.vn, không phải tất cả nhưng phần với bối cảnh và tạo ra thế mạnh cạnh tranh. lớn các nhân viên này đều hoàn thành nhiệm Vì vậy, nó cần được gieo trồng, vun vụ được giao. Không riêng gì Sharecar.vn, đắp trong quá trình đào tạo ở đại học. với nhiều startups Việt Nam hiện nay, sinh Truyền cảm hứng cho các thế hệ sinh viên viên là một nguồn lực không thể không nhắc và trang bị cho họ những kiến thức kỹ năng đến trong yếu tố nhân sự. cần cho hoạt động khởi nghiệp, chính là nhà Câu chuyện ngắn kể trên là một ví dụ trường đang tạo ra những người chủ doanh tiêu biểu cho thấy nguồn nhân lực từ các nghiệp thành công trong tương lai. trường đại học đóng vai trò quan trọng trong Hơn thế nữa, trường đại học còn có thể hệ sinh thái khởi nghiệp hiện nay. đóng vai trò tích cực trong việc tạo ra môi Bên cạnh vai trò như cái nôi nhân lực, trường khích lệ khởi nghiệp trong xã hội, theo ông Nguyễn Anh Thi, Giám đốc Khu thông qua kết nối với doanh nghiệp và giới Công nghệ Phần mềm – Đại học Quốc gia làm chính sách và tham gia vào những dự án TPHCM (ITP), trường đại học còn cung cấp nhằm cải thiện môi trường khởi nghiệp. Đó hai yếu tố khác là cơ sở hạ tầng và các chính là cách tăng cường sứ mạng thứ ba nghiên cứu/giải pháp công nghệ cho các của nhà trường, gắn kết nhà trường với xã startups. 10
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 ITP là một ví dụ tiêu biểu cho nhận thể nói rằng, không có hoạt động khởi định này. Nơi đây hiện là ngôi nhà của nghiệp hiện nay, chuyện sinh viên đi làm, đi nhiều startups như MimosaTEK, Gcall, Bút thực tập cũng đã có từ rất lâu. Chuyện này Chì Màu, MagicLabs… Bên cạnh cơ sở hạ không sai, nhưng ở đây có một sự khác biệt tầng, ITP còn tổ chức nhiều sự kiện kết nối rất rõ giữa chuyện một sinh viên đi làm cho các startups với doanh nghiệp và quỹ đầu tư. một startup và một doanh nghiệp. Ngoài ITP, gần đây, nhiều vườm ươm khởi Tại các công ty khởi nghiệp, theo ông nghiệp từ trường đại học cũng được nhắc Nguyễn Khắc Minh Trí, CEO Mimosa đến như vườn ươm từ trường Đại học Bách TEK – một startup trong lĩnh vực nông khoa TPHCM (HCMUT) hay Đại học nghiệp, các nhân viên là sinh viên được chia Nguyễn Tất Thành. sẻ nhiều hơn nhiều hơn về lý do ra đời của Về yếu tố công nghệ/công trình nghiên một sản phẩm, được chia sẻ về tầm nhìn, lý cứu, xin kể câu chuyện nhỏ tại khoa Hóa – tưởng của công ty. Việc này quan trọng cho trường Đại học Bách khoa TPHCM. Như các bạn để định hướng chính mình hay con ông Huỳnh Bảo Tuân - Giám đốc Trung tâm đường nghề nghiệp của mình hơn là chỉ học nghiên cứu & Đào tạo về Quản trị doanh về quy trình hay cách thức tổ chức công nghiệp – HCMUT chia sẻ, khoa Hóa tại việc ở các công ty lớn. HCMUT như một tàng kinh các cất giữ rất Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói các nhiều công trình nghiên cứu có giá trị áp startups như một trường đại học thứ hai, dụng thực tiễn cao. Trong đó, ngắn gọn cùng một hệ thống trường đại học hiện nay nhất, có thể kể đến những ứng dụng chiết chung tay đào tạo sinh viên trước khi họ ra xuất hoạt chất chống oxy hóa từ hạt xương trường. Khác chăng, ngôi trường thứ hai này rồng. Dựa trên nền tảng nghiên cứu tuyển chọn khắt khe, yêu cầu cao hơn nhưng này, Công ty TNHH Sản phẩm thiên nhiên cũng mang lại nhiều giá trị hơn cho “người Bách Khoa (BK Nature) đã sản xuất ra sản học”. Nơi người học - những nhân viên sinh phẩm kem dưỡng trắng da mặt xương rồng viên – được trả lương để hoàn thành một bài đưa ra thị trường. Dĩ nhiên, đây không phải tập được giao. Nơi họ được học qua chính là sản phẩm duy nhất của BK Nature. công việc theo kiểu “learning by doing”. 3. Hoạt động startups mang lại giá trị gì Thêm một khía cạnh khác, như ông Trí cho nhà trường? chia sẻ, startups là một cánh cửa dễ liên lạc Đóng góp của trường đại học trong hệ để trường đại học gần hơn với thị trường, sinh thái khởi nghiệp là điều rõ ràng, không bởi tiếp cận với startup là tiếp cận đến việc có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, ở mặt ngược tạo ra cái mới hoặc giải quyết một cái gì đó lại, các startups và hoạt động khởi nghiệp đang tồn tại trên thị trường. Nếu trường đại hiện nay cũng tác động và đem lại nhiều giá học gần những nơi ươm mầm cho startup, trị cho các trường đại học. họ hay sinh viên của họ sẽ gần hơn với Quay lại câu chuyện của Thảo Nguyên những thách thức đang cần được giải quyết nêu trên, nếu không có những startup như trên thị trường, từ đó có thể thấy được mình Sharecar.vn, Thảo Nguyên sẽ khó có cơ hội cần làm gì để đào tạo sinh viên thực tế hơn. làm việc ngay từ năm thứ 3 ở đại học. Có 11
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG Rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường nhưng nếu ăn mà không dễ chịu thì làm sao và thị trường. Không chỉ dừng ở mức tác họ tiếp tục dùng. động đến chương trình đào tạo, làn sóng Những câu chuyện trong quá khứ để lại khởi nghiệp hiện nay còn giúp rút ngắn nhiều bài học cho giới viện, trường. Và khoảng cách giữa nhà trường và thị trường. nghiên cứu của họ gần với thị trường hơn Từ trải nghiệm cá nhân, ông Huỳnh nhưng gần với thị trường hơn không có Bảo Tuân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nghĩa là đến được thị trường, vì nhiều lý do & Đào tạo về quản trị doanh nghiệp, thuộc khác nhau. trường Đại học Bách khoa TPHCM, chia sẻ Lúc này đây, doanh nghiệp khoa học khi cả quốc gia nói về khởi nghiệp, trường công nghệ được ươm tạo tại trường đại học đại học cũng không ngoại lệ. Và qua những (university spin – off company) có thể là câu chuyện khởi nghiệp, góc nhìn của một cánh cửa để trường đại học tiếp cận với những người làm khoa học ở nhà trường thị trường nhanh hơn, hiệu quả hơn. cũng gần với thị trường hơn, thực tế hơn và Câu chuyện thứ hai cũng chính là câu mức độ chấp nhận mạo hiểm cũng cao hơn. chuyện của BK Nature được kể trên. Đây là Để dễ hiểu, ông Tuân đưa hai ví dụ doanh nghiệp khoa học công nghệ xuất phát minh họa. từ trường Đại học Bách khoa TPHCM, với Thứ nhất là câu chuyện máy sấy trái sứ mệnh mang đến vẻ đẹp thuần khiết cho cây. Trước đây, khi doanh nghiệp tìm đến mọi phụ nữ dựa trên những hoạt chất quý các nhà khoa học ở viện trường đề nghị mua báu được chiết xuất hoàn toàn từ thiên nhiên công nghệ sấy. Yêu cầu đặt ra là cần khô Một số nghiên cứu ở khoa Hóa mới nhưng đảm bảo trái cây sấy xong, ăn không dừng lại ở dạng chiết xuất hoạt chất từ thiên bị dính răng. Bởi nếu dính răng, người mua nhiên và không đủ nguồn lực để thương mại sẽ không thích và không dùng sản phẩm lần hóa sản phẩm. BK Nature sẽ làm khâu tiếp thứ hai. Nhà khoa học nói, tôi có công nghệ theo, đưa hoạt chất nghiên cứu vào các sấy này, bảo đảm sấy được trái cây, còn thành phẩm như sữa rửa mặt, sữa tắm, kem dính răng hay không, tùy loại sản phẩm. dưỡng da… và đưa ra thị trường. Khi sản Trong câu chuyện này, có sự lệch pha phẩm được thị trường chấp nhận, không khó giữa nhà kinh doanh và nhà nghiên cứu. Hệ để BK Nature được các doanh nghiệp khác quả là nhà kinh doanh chạy sang các quốc quan tâm mua lại cổ phần. gia khác mua công nghệ. Vậy mấu chốt của Nương theo làn gió mới khởi nghiệp, vấn đề nằm ở đâu? Khi nghiên cứu ra công mô hình spin-off có thêm cơ hội để phát nghệ sấy của mình, nhà khoa học dựa vào triển. Nhờ spin-off, các kết quả nghiên cứu nền tảng gì? Theo ông Tuân, nhà nghiên từ trường đại học được chuyển giao ra thị cứu, vốn là dân khoa học, và họ quan tâm trường nhanh hơn, hiệu quả hơn. đến các yếu tố khoa học, ví như khả năng Qua những câu chuyện trên, chúng ta giữ lại hàm lượng vitamin và dinh dưỡng có thêm hy vọng về sự gắn kết giữa thị cao. Đúng là người tiêu dùng thích sản trường và nhà trường. Thế nhưng bản thân phẩm được giữ lại lượng vitamin cao thật, hy vọng không làm cho sự gắn kết xuất hiện. Sự gắn kết chỉ xảy ra khi cả hai ý thức 12
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 được vai trò và cơ hội của chính mình trong nghiệp, ươm tơ, chuyên gia đến từ các mối quan hệ này. doanh nghiệp và cả cựu sinh viên. Ngoài ra 4. Thay lời kết luận Nhà trường cần mở hộp thư về Khởi nghiệp Qua nghiên cứu kinh nghiệm, có thể để cung cấp tài liệu, thông tin online. rút ra một số bài học mà Trường Đại học Ba là, Tạo ra hệ sinh thái khởi nghiệp Kiến trúc Đà Nẵng của chúng ta có thể vận trong Nhà trường. Hệ sinh thái khởi nghiệp dụng như sau: gồm 5 thành phần cơ bản bao gồm: (1) Các Một là, Để thúc đẩy khởi nghiệp trong chính sách khuyến khích sáng tạo và khởi trường cần sự kết hợp chặt giữa Nhà trường nghiệp đi cùng với văn hóa khuyến khích và Doanh nghiệp; Cũng cần xác định 3 sáng tạo đổi mới kinh doanh; sản phẩm của nhiệm vụ chính của trường đại học khởi chính sách hỗ trợ thể hiện từ việc thành lập nghiệp là Đào tạo – Nghiên cứu – Cung cấp Trung tâm hỗ trợ sáng tạo đổi mới và khởi công nghệ, mô hình kinh doanh mới. nghiệp, từng bước hính thành Trung tâm Hai là, Cung cấp kiến thức, thông tin chuyển giao công nghệ cũng như việc đầu tư về hoạt động sáng tạo đổi mới và khởi nhân lực, tài lực cho hoạt động sáng tạo đổi nghiệp. Hoạt động này được thực hiện ở các mới khởi nghiệp trong Nhà trường. (2) Điều dạng: (1) Bố trí trong chương trình chính chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo theo khóa. Khởi nghiệp, sáng tạo đổi mới được hướng ứng dụng; tăng cường các hoạt động bố trí là các học phần bắt buộc của chương hội thảo, cố vấn, ngoại khóa về sáng tạo đổi trình đào tạo hoặc theo hướng phát triển mới và khởi nghiệp. (3) Đẩy mạnh các hoạt chuyên ngành khởi nghiệp (đối với ngành động kết nối với nhà đầu tư, nhà tài trợ cho Quản trị kinh doanh), hoặc theo hướng bố trí các mô hình khởi nghiệp được ươm tạo. (4) thành khối kiến thức bổ trợ (đối với các Các hoạt động kết nối với Doanh nghiệp, ngành khác). Nhóm môn học này có thể bố với thị trường, với các hoạt động thương trí từ năm đầu với 3 giai đoạn: (i) Trang bị mại hóa. (5) Cơ sở hạ tầng để tổ chức các tư duy khởi nghiệp, tư duy sáng tạo đổi mới; hoạt động hỗ trợ sáng tạo đổi mới và khởi (ii) Giải quyết vấn đề kinh doanh hiệu quả; nghiệp./. và (iii) Tăng trưởng. (2) Đào tạo kỹ năng TÀI LIỆU THAM KHẢO khởi nghiệp mang tính chuyên môn như: sở [1]. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ hữu trí tuệ, các vấn đề pháp lý, tiêu chuẩn Quốc gia (2015). “Xây dựng và phát triển chất lượng, thương hiệu và cạnh tranh. (3) hệ sinh thái khởi nghiệp: Vai trò của Hoạt động đào tạo có thể được thực hiện chính sách chính phủ”; qua việc tổ chức các sự kiện, hội thảo chia [2]. VCCI (2017), Báo cáo nghiên cứu cơ sẻ kiến thức, thông tin, kinh nghiệm khởi chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo, nghiệp. “Kinh nghiệm quốc tế - Đề xuất giải Hoạt động cung cấp thông tin được pháp cho Việt Nam”; thực hiện thông qua: (i) Nguồn giảng viên [3]. Topica Founder Institute (2018), 2017 của Trường đã được đào tạo huấn luyện và Startup Deal Vietnam. có thể mời cán bộ phụ trách hoạt động khởi 13
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG AN INVESTIGATION INTO ENGLISH MAJORED STUDENTS’ PERCEPTION OF CONVERTING BRITISH/ AMERICAN LITERATURE COURSE INTO AN INTEGRATED LANGUAGE SKILL, CONTENT BASED SUBJECT NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGỮ TIẾNG ANH VỀ VIỆC CHUYỂN ĐỔI GIỜ VĂN HỌC ANH MỸ TRỞ THÀNH GIỜ DẠY TÍCH HỢP LIÊN MÔN, DẠY QUA NỘI DUNG TS. Hoàng Tịnh Bảo(*) Abstract This study investigates students’ perception of a CBI approach to teaching British/ American literature. Converting a British/ American literature course into an integrated language skill, content based subject has proved to be a positive change because it not only helps students improve their English communicative skills but also helps enhance their analysis and literature perception ability. The findings show that the classes with the changed method have highly motivated students who now take an active role in discussion in group work and pair work, and seem more confident in expressing their ideas. The effectiveness of learning/ teaching the subject in this manner is hence clearly seen. As well, the research has collected some valuable opinions from students for changing materials in the course book, from which any syllabus/ program adjustment can be made. 1. Introduction perception ability. In other words, this Teaching British/ American literature teaching method can simultaneously in light of traditional methods in the last few facilitate learners to use English to express years seems less efficient due to students’ their thoughts in different situations, and lower English proficiency at intake, and the further employ it as a device to perceive the current trend of communicative approach in subject matter. Because the course in foreign language learning. In addition, literature emphasizes the exploration of students of English are under pressure to themes more than other courses, it perfectly pass an international standard English matches with content based instruction proficiency test as a requirement for (CBI) where students can learn more about graduation. Those who lack English how to express their thoughts through language ability often encounter a lot of language. CBI, therefore, could be frustration. Hence, converting British/ considered an approach to integrate American literature courses into an language and content as it is supposed to integrated language skill, content based meet the principles and needs suggested by subject is supposed to be a positive solution the Communicative Language Teaching because it not only helps students improve approach. their English communicative skills but also Literature review helps enhance their analysis and literature According to Brinton et al (1989, p. 2), (*) Trưởng phòng Đảm bảo chất lượng, Trường ĐH Kiến trúc ĐN CBI is “the integration of a particular 14
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 content [e.g., math, science, social studies] cultural aspects; boosts students’ reading with second language aims …. It refers to skills, enhances accuracy in speech and the concurrent teaching of academic subject writing. Literature also nourishes students’ matter and second language skills”. These mind when reading for enjoyment because authors suggested one of two models in the as Lin (2004) proves, through reading CBI, namely, a theme-based model in which stories, students get involved and link their selected topics or themes provide the personal experiences to the content for students to learn. From these contents.Withauthentic tasks and authentic topics, EFL teachers will extract materials, CBI can help motivate language thelanguage activities underlain in the minority students, and provide them more content material. However, choosing those opportunities to explore prior knowledge. literary works with suitable difficulty level According to Brinton et al (1989), CBI and the interest of the topic must ensure employs English at a comprehensible level, they can hold students’ attention to increase thus bringing about several benefits, their motivation for learning. namely, knowledge of vocabulary, The other model of the CBI is the grammar, paragraph structure, interactive adjunct model which emphasizes the communication skills, and types and styles importance of concurrently teaching the of writing. Erkaya (2005) supports the idea academic subject matter and foreign that by teaching literature in CBI, students language skills (Brinton et al, 1989). EFL can learn the skills more effectively because teachers have to design appropriate teaching the combination of CBI with literature activities using four skills (i.e., speaking, teaching can improve English language listening, reading, and writing) to enhance skills, and critical thinking abilities which students' proficiency as well as literacy, are the basis for the development of eloquence and critical thinking and so on. academic content, cultures, literacy, and Krashen (1982) argues that in CBI, students learning ability. perceive contents while improving their 2. Research Methodology language skill simultaneously. He also Participants stresses the importance of using authentic One hundred and four third year and meaningful input with grammatical students who major in English language form as inferior so as to achieve the goal of study and have already finished the courses language skills improvement. of British and American literature took part Literature study has been encouraged in the investigation. They did the to coincide with CBI to effectively build questionnaire; and 7 of them were invited to language skills and increase students' sit for the interviews. understanding of the subject These participants enrolled in British mattersimultaneously. Specifically, literature 1 and American literature 1 in literature teaches figurative language and Semester 1. Those classes were conducted 15
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG in the CBI approach with a lot of exercises The data collected from the to develop students’ communicative questionnaire were processed by SPSS; competences. Then in Semester 2, they took some main tests were run to validate the British literature 2 and American literature questionnaire items and their reliability. 2. The classes were conducted in the Findings and discussion traditional way, that is, all the lessons were The data show that 64.4% of the taught in the literature stream with more student participants could not cope well literary perception and analysis. By the time with either of those courses of literature. the survey was carried out, they had a They think that the contents of the courses panoramic view and could make some are too much and the difficulty level of the comparison. courses exceeds their capacity of perception Research questions and analysis. The remaining 35.6% do not 1. To what extent do students perceive think that way. It is understandable that this the effectiveness of using CBI in latter group fall into the population of good teaching/ learning British and students who do not see a literature subject American literature? as a chore. 2. What improvements should be made In the CBI literature classes, the to British and American literature teacher treated literature as a loan, i.e. to classes? borrow the contents of the course to develop Research Methodology the language skills. A test based approach Both quantitative and qualitative was employed too. For difficult texts (long approaches were employed to find the most reading passages, poems), the teacher satisfactory answers to the research designed a number of multiple choice questions. questions and gap fill exercises about the The questionnaire was designed with plot, the theme, the literary devices, the new 20 items relating the role of CBI in teaching words, the reference, the deduction and so and learning literature. Some open spaces on. The right choices of the questions serve were added for some justification. as clues for the analysis later. All of the Based on the results collected from the participants (100%) agree that it is questionnaire, the questions for the reasonable and effective to use such interviews were built up to gain insight into exercises in a literature class because it the issues raised in the study. We discussed leads learners to get through hard matters the motivation brought about when CBI was more easily. applied in the course; and whether it In addition, in the CBI classes, the resulted in improvement in the effectiveness teacher also used lots of audio and visual of the lesson. materials to facilitate students’ perception and stimulate their analytic ability. 16
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 The effectiveness of using The improvement of skills audio and visual materials in 10.6 literature class Listening 1 6.7 Speaking 11.5 Yes 53.8 Reading No Writing 92.3 No idea Translating Chart 1. The effectiveness of using audio Chart 2. The improvement of skills and visual materials in literature class As seen in Chart 1, 92.3% of the Furthermore, the comparison and student participants supported the way contrast among literary characters and teachers used audio and video files to phenomena in different world literatures display or further facilitate the brings about some familiar recollection understanding of the lesson contents during which helps increase the effectiveness of the class. Listening comprehension exercises lesson. 76.9% of the participants approved were designed and practiced as a warm up the application of this type of learning. activity for the lesson. Most of the famous In addition, students are required to do poems have been set to music, for example, web searches for mini projects. They need My love is like a red, red rose (Robert to read a lot for relevant information and Burn), The loveliest of trees (Houseman), synthesize the related points for the main My heart leaps up (William Wordsworth), ideas. This kind of assignment requires Come live with me and be my love and so integrated skills to analyze a literary work. on. Likewise, a lot of stories and novels Almost 99% approve the exercise of this have been used as film scripts, for instance, web search activity. Frankenstein (Mary Shelley), Macbeth In general, teaching literature with the (William Shakespeare), The scarlet letter CBI approach, making use of (Hawthorns), Gone with the wind (M. communicative practice motivates students Mitchell), Of mice and men (Steinbeck), a lot. Up to 74% agree that they felt more The Chrysanthemums (Steinbeck), A rose relaxed and interested in all the activities of for Emily (Faulkner), A clean well-lighted the lesson than taking part in traditional place (Hemingway) and so on. These are classes which focus on the content itself. very good resources for teaching listening This results in a very good outcome, that is, so long as teachers can design good up to 94.2% of the students admit that they listening tasks. Through visual materials, took an active role in class, enthusiastically students can attain the cultural aspects and contributing to the ideas in group work and the authentic social life of the land in a pair work. The other 5.8% disagreed but specific time in history as well. refused to give reasons. 17
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG Referring to the improvement in students admitted that the courses inspired literary perception and analysis skills, and helped develop their love for poetry, 44.2% agreed that with the help of the CBI especially romantic poems. They now know method applied in the literature class, how to read a poem, explore the underlying students have improved a lot; an additional meaning and translate it into Vietnamese in 51.9% said Yes but not much. To some the form of a poem. They appreciated the extent, the CBI approach has brought about way the teacher handled a lesson skillfully some increase in effectiveness, especially applying CBI. They now feel willing and the lively atmosphere of the class and the eager to learn more literature – a big change motivation for students in dealing with this in their attitude from the prejudice they had hard subject. previously about literature. Student A stated Chart 2 shows which skills have been “I definitely support the CBI approach in improved after attending the literature teaching literature. It has changed the nature classes conducted with the CBI approach. of a literature class. Students feel more The highest percentage 53.8 goes for inspired and interested in getting involved in translation, followed by 11.5 and 10.6% in the lessons”. Students C and D shared with reading and listening respectively. This is A that CBI had created an active atmosphere because texts in literature lessons are not for literature classes. easy at all to translate, especially poems. Some comparisons were made during With the help of tips suggested to students the interviews. Student B wondered why his by the teacher, students feel much more able American literature 2 class had been to translate smoothly and concisely. conducted in the traditional way. “I just This result matches with Item 12 in the couldn’t see the benefits of sound analysis questionnaire that the translating skill is into the works when students’ capacity was most needed for learning poetry. 64.4% of limited”. Student G agreed with B “Why the participants chose the translating option; traditional way when we can see the benefits 17.3% for reading; and 7.7% for writing. of CBI in literature classes? We need All in all, the following figure is very communicative competence for C1 encouraging for the success of teaching and certificate” learning literature at Hue University of Turning to the possible adjustment or Foreign Languages. There are 44.2% of the improvement the University should make participants who admitted that they would for the literature courses, 100% of the still enroll in literature courses even if they participants agreed that CBI was expected to were optional! be in use for all literature courses for the For the things they liked best in sake of students and for its effectiveness. literature classes, most of the student What is more, because those student participants identified their accumulation of participants major in English language knowledge of the great authors and their studies, they agree to take 60 periods of famous works, and of American/ British literature, compared with 30 periods for cultures as well. Apart from this, these students of English teacher training stream. 18
- KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 Appropriate time to Which skill needs more enroll literature classes practice? 1.4 10.6 Listening 19.2 25 2nd year 22.1 Speaking 3rd year 27.9 Reading 70.2 4th year Writing 14.4 Translating Chart 3. Appropriate time to enroll literature Chart 4. Skills that need to foster classes It is clearly seen that the choice of third 3. Conclusion year for the literature classes is most Transforming literature classes into approved. At this stage, students are likely CBI classes has benefitted students who do to have fairly good competence of English not have high competence in English and they are also more mature in terms of language. This tendency fits well into the perception and aspiration. current situation at the university when the For the contents, the students suggested intake quality is not as good as that in reducing the amount of medieval literature previous times. and adding more poetry, especially romantic The research has found satisfactory poems. What they most dislike is the hard- answers to the research questions. to-read passages with lots of old fashioned Firstly, the student participants have English vocabulary, Shakespeare’s plays are been aware of the effectiveness of CBI an example. approach in teaching literature. Specifically, In terms of balancing the skill students are provided with skills practices in development in the literature class, the ideas the lessons, which in turn, facilitates the are variable. The figures shown in Chart 4 exploration of the meaning of the literary suggest that there is a balance of skill work and the analysis of the figurative practice in the literature class with CBI, to connotation. Developing communicative some extent that, the students were confused competence in literature classes is aligned with determining what they needed more for with the common trend in teaching/ learning the improvement. a foreign language. The research is indeed a In addition, they are also pleased with needs analysis so that teachers can be more the testing/ assessment scheme for the confident in constructing better CBI course. Up to 99% of the participants admit literature syllabi. that the assignments, the test format and Secondly, from the student rubric scheme are all relevant. participants’ suggestion through this study, teachers of literature can make some 19
- 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG adjustment to the syllabi and the teaching (2005) declared as mentioned in the methods so as to bring the greatest literature review. effectiveness to student learning. Because I would like to use Student E’s remarks literature is always a hard subject to teach as a conclusion for this article. “CBI and learn in a foreign language, it needs approach works so well in literature classes both efforts from teachers and students. and students are the ones who have been However, when teachers know how to listen most benefited. I just wonder why some to students’ need, it will work much better. teachers still cling to the traditional teaching CBI once again has proved what Erkaya method, for whose sake it is”. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
So sánh tham chiếu với hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới - Báo cáo nghiên cứu Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam: Phần 1
145 p | 130 | 26
-
So sánh tham chiếu với hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới - Báo cáo nghiên cứu Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam: Phần 2
109 p | 109 | 24
-
Đề cương giới thiệu: Luật Hôn nhân và gia đình
32 p | 190 | 22
-
Tương đồng và khác biệt giữa thơ Nôm thế sự Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm
8 p | 190 | 13
-
MIỀN ĐẤT HUYỀN ẢO - Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương - Phần 12&13
34 p | 89 | 9
-
Tiền công của người lao động làm thuê phi chính thức - so sánh với tiền lương tối thiểu vùng và lương đủ sống
10 p | 40 | 8
-
Sự khác biệt trong quy định về các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo hai lĩnh vực pháp luật: sở hữu trí tuệ và khoa học & công nghệ
5 p | 79 | 5
-
Hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam: Tiếp cận từ nghiên cứu pháp nhân tôn giáo
12 p | 57 | 5
-
Tổng mục lục Tạp chí Nghiên cứu Văn học năm 2022
8 p | 16 | 4
-
Nghiên cứu nhóm ngôn ngữ Việt-Mường: Phần 2
204 p | 7 | 4
-
Nghiên cứu các bộ tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo trên thế giới: Phân tích tổng quan và đề xuất một số khuyến nghị cho các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam
7 p | 10 | 4
-
Bình đẳng hôn nhân theo tinh thần Phật giáo
10 p | 30 | 3
-
Bảo vệ quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam – và thực tiễn tại trường Đại học Công nghiệp TP HCM
7 p | 48 | 3
-
Tự chủ đại học: Nghiên cứu đối sánh giữa Trung Quốc và Việt Nam
16 p | 33 | 3
-
Đánh giá tác động của khái niệm pháp lý và chính sách liên quan lên khu vực doanh nghiệp xã hội
10 p | 26 | 2
-
Một số điểm mới về bình đẳng giới trong Bộ luật lao động sửa đổi năm 2019
3 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn