intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luồng - Luồng thanh hoá, mạy mèn, mạy sang mú (Thái- Tây Bắc); mét (Thái)

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

132
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công dụng: Thân luồng chứa cellulose (54%) cao nhất trong các loài tre đã được phân tích. Lignin (22,4%), pentozan (18,8%). Sợi luồng thường có nhiều dài 2,944mm, chiều rộng 17,84 µm (vách tế bào day 8,5µm). Với thành phần hoá học và kích thước sợi của luồng, nếu dùng làm nguyên liệu sản xuất giấy sẽ cho hiệu quả cao và chất lượng giấy tốt. Luồng ở độ ẩm thí nghiệm có tỷ trọng 838 kg/m3. Độ co rút thể tích 0,68. Mẫu đốt có độ bền nén dọc thớ 696 kg/cm2; lóng có độ bền nén dọc thớ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luồng - Luồng thanh hoá, mạy mèn, mạy sang mú (Thái- Tây Bắc); mét (Thái)

  1. Luồng Luồng thanh hoá, mạy mèn, mạy sang mú (Thái- Tây Bắc); mét (Thái) Công dụng: Thân luồng chứa cellulose (54%) cao nhất trong các loài tre đã được phân tích. Lignin (22,4%), pentozan (18,8%). Sợi luồng thường có nhiều dài 2,944mm, chiều rộng 17,84 µm (vách tế bào day 8,5µm). Với thành phần hoá học và kích thước sợi của luồng, nếu dùng làm nguyên liệu sản xuất giấy sẽ cho hiệu quả cao và chất lượng giấy tốt. Luồng ở độ ẩm thí nghiệm có tỷ trọng 838 kg/m3. Độ co rút thể tích 0,68. Mẫu đốt có độ bền nén dọc thớ 696 kg/cm2; lóng có độ bền nén dọc thớ 764 kg/cm2. Độ bền kéo dọc thớ của đốt 867 kgf/cm2, mẫu lóng 2846 kgf/cm2. Đốt có độ bền khi uốn tĩnh tiếp tuyến 1531 kgf/cm2, ngoài vào 1431 kgf/cm2 và trong ra 1328 kgf/cm2; Lóng có độ bền khi uốn tĩnh tiếp tuyến 1603 kgf/cm2, ngoài vào 1578 kgf/cm2, và trong ra 1418 kgf/cm2. Độ bền khi trượt dọc thớ của đốt 70 kgf/cm2 và lóng 57 kgf/cm2.
  2. Vì vậy dùng luồng làm cột chống, xà đỡ trong xây dựng, giao thông vận tải, chèn hầm lò rất tốt. Luồng dùng làm nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh cho sản phẩm vừa đẹp vừa chắc bền, được nhiều người ưa chuộng và là mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị. Măng luồng ăn ngon, kích thước lớn nên ngoài ăn tươi còn được phơi khô. Trọng lượng bình quân của măng luồng là 1,15kg/1măng; tỷ lệ sử dụng khá cao (65-72%). Phân tích măng luồng đã thu được các kết quả như sau: hàm lượng nước 92,01%; protein 2,26%; đường tổng 2,47%; glucid 2,33%; cellulose 0,58%; và lipid 0,12% (Nguyễn Danh Minh, 2005). Trong thập kỷ 70, tỉnh Thanh Hoá đã có xí nghiệp đóng hộp măng luồng để xuất khẩu. Hình thái: Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm, chiều cao thân 15-18m, đường kính 10-15cm, ngọn cong hay hơi rủ, một số đốt gốc có vòng rễ khí sinh; lóng màu lục xẫm, chiều dài 26- 32cm, phần phẳng dẹt một phía không lông, phần trên có ít phấn trắng, bề dày vách thân 2 2,5cm; vòng thân không nổi lên, chiều dài đốt 1,5cm, ở đốt và phía dưới vòng mo đều có một vòng lông nhung màu trắng. Chiều cao dưới cành 0,5-1 m. Mỗi đốt thân có nhiều cành, cành chính 3, trong đó một chiếc to khoẻ hơn rõ rệt, hay có lúc cành chính không phát triển mà có một chồi ngủ lớn và các cành bên khá nhỏ, rủ
  3. xuống. Bẹ mo rụng sớm, chất da, lúc đầu màu nâu vàng, lông phủ phấn trắng và có lông gai nhỏ màu nâu; tai mo liền với phấn kéo dài ra ngoài của gốc phiến mo, dạng sóng, dài 5-15mm, rộng 2-3mm, phủ dày lông mi dạng lông bờm lợn dài 1cm; lưỡi mo cao 5-8mm, đầu xẻ răng không đều; phiến mo lật ra ngoài, gốc mặt bụng cũng phủ dày lông thẳng cứng dạng lông bờm lợn, phần còn lại phủ lông gai nhỏ. Cành nhỏ 8- 15 lá; bẹ lá phủ lông; tai lá nhỏ, dễ rụng, có mấy chiếc lông tua: lưỡi lá cao 1mm; chiều dài phiến lá 10- 15cm, rộng 1-2cm, gân cấp hai 5 hay 6 đôi. Cụm hoa không mang lá, mỗi đốt đính 10-25 bông nhỏ, đường kính trục cụm 1-2,2cm; bông nhỏ hình trứng ngược, dài 6-8,5mm, rộng 2-4mm, màu lục vàng, gần không lông, hai hoa nhỏ; chiều dài mày ngoài 6-7mm, rộng 4-5mm, đầu có mũi nhọn nhỏ dạng gai dài 0,8-1mm; chiều dài mày trong 5-6mm, khoảng cách giữa hai gờ 1mm, có 3 gân; chiều dài chỉ nhị 6mm, bao phấn màu vàng hay sau khi khô màu tím, dài 6mm, đầu có mũi nhọn; chiều dài nhuỵ 6- 7,5mm, phần trên của bầu cùng với vòi và đầu nhuỵ đều phủ lông. Phân bố: Luồng có thể mọc tự nhiên hoặc trồng thành từng cụm phân tán ở các huyện ven sông Mã thuộc tỉnh Sơn La. Các huyện phía Tây tỉnh Thanh
  4. Hoá như Quan Hoá, Lang Chánh, Bá Thước, Ngọc Lạc là vùng trồng rừng luồng tập trung nhất (vì thế quen gọi là "Luồng thanh hoá"), nhưng luồng ở đây đều ở dạng cây trồng. Đặc điểm sinh học: Điều kiện tự nhiên ở vùng phân bố chính của luồng có khí hậu nóng, ẩm. Mỗi năm có hai mùa: mùa nắng nóng, mưa nhiều, thường từ tháng 4-5 đến tháng 10-11 lượng mưa chiếm tới 70-80% lượng mưa cả năm; mùa lạnh, mưa ít, thường từ tháng 11-12 đến tháng 3-4 năm sau lượng mưa chỉ có khoảng 20-30% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 23- 240C nhiệt độ tối đa có khi lên đến 420C. Độ ẩm không khí 87%. Lượng mưa 1.600-2.000mm/năm. Lượng bốc hơi hàng năm khoảng 677mm. Luồng sinh trưởng tốt ở các địa hình vùng đồi trên độ cao dưới 800m so với mặt biển; nơi đất bằng, chân đồi hoặc sườn thoải có độ dốc vừa phải (dưới 300). luồng thường được trồng trên đất feralit phát triển trên đá poocphia, đá vôi, phiến thạch, phyllit hoặc phù sa cổ, có độ sâu 50-150cm hoặc hơn; thành phần cơ giới thường là sét pha nặng đến sét trung bình; độ ẩm 80-90%; mầu đất vàng hoặc vàng đỏ; pH (H2O) = 4,6-7; hàm lượng P2O5 Và K2O dễ tiêu thường nghèo; hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp. Chưa gặp rừng luồng mọc tự nhiên. Luồng được trồng thuần loại, hỗn giao với cây gỗ hoặc trồng
  5. xen từng đám trong rừng thứ sinh với diện tích lớn và cũng được trồng phân tán một số khóm xung quanh nhà. Những năm mới trồng, khi rừng chưa khép tán có thể trong xen cây nông nghiệp như lạc, đỗ, ngô, sắn... Dưới tán rừng luồng, cây gỗ tái sinh tự nhiên tương đối nhiều như: lim xanh (Erythrophloum fordil), sòi tía (Sapium discolor), mán đỉa (Archidendron clypearia), hu đay lá hẹp (Trema angustifolia); nhưng tồn tại lâu dài với luồng chỉ có lim xanh. Mới gặp luồng ra hoa từng khóm rồi chết và cũng khó tìm được hạt luồng; vì vậy khả năng phát triển rừng luồng từ hạt chưa thực hiện được. Thân ngầm, thân khí sinh, chét và cành là phương thức sinh sản vô tính của luồng. Cây măng sau khi định hình, ra cành lá đầy đủ thì những mầm ở gốc bắt đầu phát triển để cho thế hệ măng tiếp theo. Sinh trưởng của măng có thể chia thành 3 thời kỳ chính: - Thời kỳ 1: Măng phát triển ngầm trong đất, khoảng từ tháng 9-10 năm trước đến tháng 4-5 năm sau. - Thời kỳ 2: Măng lên nhú khỏi mặt đất và phát triển nhanh về chiều cao, khoảng từ tháng 4-5 đến tháng 7-8 gọi là mùa ra măng.
  6. - Thời kỳ 3: Cây măng phát triển hoàn chỉnh cành lá và rễ, khoảng từ tháng 7-8 đến tháng 10-11 ; Sau giai đoạn này cây măng có thể sống độc lập. Vì vậy giống trồng lấy từ cây tuổi 1 là tốt nhất. Luồng 1-2 năm tuổi - thân non mầu xanh nhạt, bóng, có ít phấn trắng, các đốt có vòng lông trắng mịn, thịt trắng. Luồng 3-4 năm tuổi là cây vừa, mầu xanh sẫm; luồng 5 tuổi trở lên là cây già và là đối tượng khai thác, cây càng già máu mặt lóng càng xám lại và xuất hiện nhiều vết địa y, thịt hồng đỏ, bó mạch rõ. tuổi thọ của luồng khoảng 8-10 năm. Quan hệ giữa cây trong khóm vừa cung cấp chất dinh dưỡng vừa làm chỗ dựa cho nhau. Sau khi trồng 5-6 năm rừng luồng đã có thể đưa vào khai thác. Một khóm luồng chuẩn có khoảng 20-40 cây (15-20 cây trong một khóm sau khai thác, 30-40 cây trong một khóm khi đến chu kỳ khai thác), tỷ lệ các cấp tuổi gần bằng nhau và có 5-8 măng mới được sinh ra hàng năm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2