intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Màn hình CRT

Chia sẻ: Lamnguyen Lamnguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:37

316
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Màn hình CRT nêu lên tổng quan về màn hình và cảm nhận của mắt người; các tiêu chuẩn để đánh giá màn hình ti vi; những nền tảng về ống tia Catốt; cấu tạo và nguyên lý hoạt động CRT; các màn hình phát triển dựa trên cơ sở CRT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Màn hình CRT

  1. 1.Tổng quan về màn hình và cảm nhận của mắt người Nhiệm vụ  của  màn hình  là tái tạo lại hình  ảnh. Để  tái tạo lại hình  ảnh,  phương pháp phổ  biến nhất hiện nay là hiển thị  hình  ảnh dựa vào bản đồ  ma   trận điểm ảnh. Theo phương pháp này, một khung hình sẽ  được chia ra làm vô   số các điểm ảnh nhỏ. Các điểm ảnh có dạng hình vuông, có kích thước rất nhỏ.  Kích thước “thực” của một điểm  ảnh là: 0.01x0.01 (cm). Tuy nhiên kích thước  thực này phần lớn chỉ  có ý nghĩa lý thuyết, vì hầu như  chúng ta ít khi quan sát   được các điểm  ảnh tại kích thước thực của chúng, một phần do chúng quá bé,  một phần do kích thước quan sát của điểm ảnh phụ thuộc vào độ phân giải: với  cùng một diện tích hiển thị, độ phân giải (số lượng điểm ảnh) càng lớn thì kích  thước quan sát được của chúng càng bé. Kích thước của một khung hình được  cho bởi số lượng điểm ảnh theo chiều ngang và số lượng điểm ảnh theo chiều   dọc. Ví dụ  kích thước khung hình 1600x1200 (pixel) có nghĩa khung hình đó sẽ  được hiển bị bởi 1600 điểm ảnh theo chiều ngang và 1200 điểm ảnh theo chiều   dọc. Nhiều người lầm tưởng giá trị  1600x1200 trên chính là độ  phân giải của   hình  ảnh. Thực chất, giá trị  về  số  lượng pixel chỉ  mang  ý nghĩa kích thước   (image dimension), còn độ  phân giải (resolution) được cho bởi số  lượng điểm  ảnh hiển thị  trên diện tích một inch vuông. Độ  phân giải càng cao, hình  ảnh  được hiển thị sẽ càng nét. Độ phân giải đạt đến giá trị độ phân giải thực khi mà  một pixel được hiển thị  với đúng kích thước thực của nó (kích thước thực của  pixel đựơc lấy sao cho  ở  một khoảng cách nhất định, pixel đó đựơc nhìn dưới  một góc xấp xỉ  bằng năng suất phân li của mắt người). Nếu độ  phân giải bé  hơn giá trị độ phân giải thực, mắt người sẽ có cảm giác hình ảnh bị sạn, không  nét. Nếu độ phân giải cao hơn độ phân giải thực, trên lý thuyết, độ nét và độ chi  tiết của hình  ảnh sẽ  tăng lên, tuy nhiên thực sự  mắt người không cảm nhận  được hoàn toàn sự khác biệt này. Mắt người cảm nhận hình  ảnh dựa vào hai yếu tố, màu sắc và độ  sáng  (chói) của hình ảnh. Màn hình muốn hiển thị được hình ảnh thì cũng phải tái tạo  lại được hai yếu tố  thị  giác này của hình ảnh. Về  màu sắc, mắt người có khả  năng cảm nhận hơn 4 tỉ sắc độ màu khác nhau, trong đó có một phổ màu khoảng  hơn 30 triệu màu được cảm nhận rõ rệt nhất. Muốn tái tạo lại hình  ảnh chân  
  2. thực, màn hình hiển thị cần phải có khả năng hiển thị ít nhất là khoảng 16 triệu  màu. Bình thường, khi muốn tạo ra một màu sắc, người ta sử dụng kĩ thuật lọc  màu từ ánh sáng trắng, mỗi bộ lọc màu sẽ  cho ra một màu. Tuy nhiên, với kích   thước vô cùng bé của điểm ảnh, việc đặt 16 triệu bộ  lọc màu trước một điểm  ảnh là gần như vô vọng. Chính vì thế, để  hiển thị  màu sắc một cách đơn giản   nhưng vẫn cung cấp khá đầy đủ  dải màu, người ta sử  dụng phương pháp phối   hợp màu từ  các màu cơ  bản. Hệ  các màu cơ  bản phải thoả  mãn điều kiện tái  tạo được một phổ màu rộng từ các màu thành phần, và các màu thành phần, khi   được tổng hợp với cùng tỉ  lệ  phải tạo ra một trong hai màu sơ  cấp là màu đen  (loại trừ của tất cả màu sắc) hoặc màu trắng (tổng hoà của tất cả màu sắc). Về các màu cơ bản, trong các tài liệu mỹ thuật cổ điển thường đề cập đến  ba màu cơ bản vàng, đỏ, xanh lam. Màu đỏ hợp với màu vàng sẽ  tạo ra màu da   cam, màu xanh với đỏ  tạo ra màu tím, màu vàng với xanh tạo ra xanh lá. Tiếp  tục từ  các màu trên, phối hợp với nhau sẽ  ra được tất cả  các màu khác. Tuy   nhiên, hệ 3 màu cơ bản của mỹ thuật cổ điển ngày nay đã tỏ ra có nhiều nhược   điểm trong các ứng dụng kĩ thuật. Thứ nhất, với mỗi lần phối hợp màu, màu thu   được thường bị xỉn đi, gây khó khăn trong việc tái tạo lại những màu sắc “tươi”  như  xanh lá mạ, vàng chanh..., và nhược điểm quan trọng nhất, khi chồng ba   màu cơ bản vàng, đỏ, xanh lam với cường độ giống nhau lên nhau thì không thu  được màu đen hoàn toàn. Yếu điểm này đã khiến cho hệ màu đỏ, vàng, xanh lam   bây giờ  chỉ  còn tồn tại trong sách vở, và hầu như  không có một  ứng dụng kĩ  thuật thực tế  nào. Thay vào đó, ngày nay có hai hệ  màu được sử  dụng rất phổ  biến là hệ màu RGB và hệ màu CMYK. Cơ sở để xây dựng nên hai hệ  màu cơ  bản này dựa trên nguyên lý phối màu phát xạ và phối màu hấp thụ của ánh sáng. Về hai nguyên lý phối màu trên, cần nói qua về cơ chế mắt cảm nhận màu.   Màu sắc mà mắt cảm nhận đựơc phụ thuộc vào bước sóng của ánh sáng chiếu   tới mắt. Bước sóng của ánh sáng chiếu tới mắt lại phụ  thuộc vào bản chất   nguồn sáng. Có hai loại nguồn sáng, đó là nguồn sáng sơ cấp và nguồn sáng thứ  cấp. Nguồn sáng sơ cấp là các nguồn sáng có khả năng tự phát ra sóng ánh sáng,  còn nguồn sáng thứ  cấp là nguồn sáng phát ra ánh sáng bằng cách phản xạ  lại  
  3. ánh sáng từ  nguồn sáng sơ  cấp. Khi quan sát một nguồn sáng sơ  cấp, màu sắc   mà mắt người quan sát được chính là màu của ánh sáng mà nguồn sáng phát ra,   còn khi quan sát nguồn sáng thứ  cấp, màu sắc quan sát được là màu mà nguồn   sáng thứ cấp không có khả năng hấp thụ từ nguồn sáng sơ cấp. Ví dụ: khi quan  sát ánh sáng đỏ phát ra từ đèn led, chúng ta có cảm nhận màu đỏ thì ánh sáng từ  đèn led phát ra có bước sóng nằm trong vùng ánh sáng đó. Còn khi quan sát một  tấm bảng màu đỏ, ta có cảm nhận màu đỏ bởi tấm bảng đã hấp thụ hầu hết các  bước sóng khác (xanh, tím, vàng...) từ  nguồn sáng sơ  cấp, chỉ  có màu đỏ  là  không hấp thụ  được và truyền đến mắt chúng ta. Màu sắc của nguồn sáng sơ  cấp luôn không đổi, còn màu sắc của nguồn sáng thứ cấp lại thay đổi phụ thuộc   vào màu sắc của nguồn sáng sơ  cấp. Chiếu sáng nguồn sáng thứ  cấp bằng các  nguồn sáng sơ cấp có màu khác nhau sẽ thu được ánh sáng thứ cấp khác nhau.  Phối màu phát xạ  là hình thức phối màu sử  dụng cho các nguồn sáng sơ  cấp, còn phối màu hấp thụ  là hình thức phối màu sử  dụng cho các nguồn sáng   thứ  cấp. Chúng khác nhau cơ  bản: cơ  chế  của phối màu phát xạ  là cộng màu,  còn cơ chế của phối màu hấp thụ là trừ màu. Có thể kiểm chứng điều này một   cách đơn giản: theo định nghĩa, ánh sáng trắng là tổng hoà của vô số  ánh sáng  đơn sắc có màu sắc khác nhau, có bước sóng từ 0.4 đến 0.7um. Tuy nhiên, chúng  ta chỉ có thể  thu được ánh sáng trắng nếu chiếu các chùm sáng chồng lên nhau  (các chùm sáng được phát ra từ các nguồn sáng sơ cấp), còn nếu chồng các màu  sắc lên nhau bằng cách tô chúng lên một tờ  giấy, tất nhiên sẽ  chẳng bao giờ  nhận được màu trắng, mà ngược lại, còn ra màu đen. Lý do là quá trình tô màu  sắc lên tờ giấy không phải quá trình “tổng hợp” các màu, mà ngược lại, là quá   trình “loại trừ” các màu. Khi oại trừ hết tất cả các màu thì rõ ràng chỉ  còn màu   đen.
  4. Minh hoạ nguyên tắc phối màu phát xạ Phối màu phát xạ được sử dụng trong các thiết bị phát ra ánh sáng như các  loại đèn, các loại màn hình. Các ánh sáng có màu khác nhau, khi chiếu chồng lên  nhau sẽ  tạo ra ánh sáng có màu sắc khác. Ba màu cơ  bản của cơ  chế  phối màu  phát xạ  trong các  màn hình  là màu đỏ, xanh lam và xanh lá (RGB). Theo hình  trên, sự kết hợp màu sắc có vẻ hơi lạ: màu đỏ cộng màu xanh lá lại ra màu vàng  ? Cần chú ý, nguyên lý phối màu phát xạ chỉ đúng khi được quan sát trực tiếp từ  các nguồn sáng sơ  cấp như  màn hình, đèn, còn khi quan sát quá trình phối màu   trên giấy hoặc trên màn chiếu, thực chất chúng ta đang quan sát một nguồn sáng  thứ  cấp nên hiển nhiên nguyên lý phối màu phát xạ  trông khá vô lý. Tổng hoà  của ba màu cơ bản trong phối màu phát xạ là màu trắng. 
  5. Minh   hoạ   nguyên   tắc   phối   màu   hấp   thụ Phối màu hấp thụ  được sử  dụng trong các  ứng dụng mà con người phải   quan sát các nguồn sáng thứ cấp, như in báo, vẽ tranh... Nguyên lý của phối màu   hấp thụ  là trừ  màu. Lớp vật liệu đỏ  sẽ  hấp thụ  tất cả  các màu sắc, ngoại trừ  màu đỏ, nên chúng ta nhìn được màu đỏ. Phối màu hấp thụ  dựa trên 4 màu cơ  bản: CMYK: vàng, xanh lơ, hồng, đen. Về lý thuyết, chỉ cần ba màu vàng, xanh   lơ, hồng là có thể  tạo ra dải màu khá trung thực. Sau này, trong kĩ thuật in  ấn,  màu đen được thêm vào để có thể điều chỉnh một cách chi tiết hơn độ  sáng tối  của màu. Có thể  thấy  ứng dụng của hệ  màu CMYK trong các máy in màu:   chúng chỉ có 4 hộp mực, tương ứng với 4 màu này để có thể in ra tất cả các màu   sắc của bức tranh.
  6. Như vậy, cơ chế phối màu trong các màn hình là cơ chế phối màu phát xạ,  dựa trên ba màu cơ bản là màu đỏ, xanh lam, xanh lá. Dựa trên ba màu này,  màn  hình có thể  tái tạo lại gần như  toàn bộ  dải màu sắc mà mắt người cảm nhận   được. Đó là về  màu sắc, còn yếu tố  thứ  hai của hình  ảnh là độ  sáng, sẽ  đựơc   điều chỉnh bởi một đèn nền.   2. Các tiêu chuẩn để đánh giá màn hình ti vi Kích thước hiển thị: Thông số này phụ thuộc vào độ dài đường chéo của  màn hình hiển thị. Độ  phân giải hiển thị: Thông số  này liên quan đến số  điểm  ảnh trên các  kích thước của màn hình. Thông thường độ phân giải cao hơn sẽ cho hiệu suất   tốt hơn, hình ảnh sắc nét hơn. Khoảng cách điểm: Đây là kích thước của một điểm ảnh riêng lẻ, gồm cả  chiều dài của các điểm  ảnh phụ  và các khoảng cách giữa chúng. Nó có thể  đo  bằng độ  dài đường nằm ngang hay đường chéo của một điểm  ảnh. Khoảng  cách điểm nhỏ hơn thông thường sẽ cho kết quả là một hình ảnh sắc nét hơn vì   ở đó có nhiều các điểm ảnh hơn trong cùng một diện tích đã cho. Trong trường   hợp màn hình hiển thị  CRT, các điểm  ảnh không tương đương với các chấm   photpho, chúng như  là bộ  ba điểm  ảnh trong màn hình LC. Màn hình chiếu sử  dụng 3 CRT đơn sắc không có cấu trúc điểm nên tiêu chuẩn này không được áp  dụng. Thời gian đáp ứng: Đây là thời gian cần thiết để  màn hình hiển thị  được  các nguồn tín hiệu đưa vào.Với màn hình LC nó được hiểu là tổng thời gian để  một điểm  ảnh chuyển từ  màu đen sang màu trắng, và sau đó là màu đen sang   màu đen. Một màn hình với thời gian đáp  ứng chậm với các hiển thị  chuyển   động sẽ  gây ra hiện tượng nhoè hình và biến dạng (gọi là hiện tượng “bóng  ma”). Một màn hình với thời gian đáp  ứng nhanh có thể  tăng khả  năng chuyển   tiếp khi hiển thị  các vật thể  chuyển động mà không có các hình  ảnh giả  tạo  không mong muốn.
  7. Độ sáng: Đây là lượng ánh sáng được phát ra từ màn hình. Đôi khi nó đồng  nghĩa với khái niệm “độ  chói” được định nghĩa là lượng ánh sáng phát ra trong  một diện tích đã cho và đơn vị trong hệ SI được đo bằng cd/m2. Tỉ  lệ  tương phản (Độ  tương phản): Đây là tỉ  lệ  độ  chói của màu sáng  nhất với độ chói của màu tối nhất trên màn hình. Độ tương phản cao luôn được   mong muốn nhưng cách đo thì khác nhau rất lớn. Nó có thể  được đo với màn  hình được ngắt không liên hệ với môi trường của nó hoặc với ánh sáng từ trong   phòng cũng được tính đến. Độ tương phản tĩnh được đo trên một hình ảnh tĩnh   trong một vài khoảng thời gian không đổi. Độ  tương phản động được đo trên  một hình ảnh trong một khoảng thời gian. Các nhà sản suất có thể đưa ra thông  số  này trên thị  trường theo độ  tương phản tĩnh hoặc động tuỳ  theo cái nào cao  hơn. Tỉ lệ co (khuôn dạng) : Đây là tỉ số bề rộng trên bề dài của một màn hình.  Tỉ lệ co của một tivi truyền thống là 4:3, hiện nay trong các tivi công nghiệp thì  tỉ  lệ  này được chuyển thành 16:9, thông thường là cho các tivi màn hình rộng,  tivi độ nét cao. Góc nhìn: Đây là góc tối đa mà tại đó màn hình được nhìn với chất lượng   có thể  chấp nhận được. Góc này được đo từ  một hướng đối diện với hướng   của màn hình, nên góc nhìn tối đa có thể  là 1800, Khi quan sát  ở ngoài góc nhìn  này người xem sẽ  thấy hình  ảnh bị  biến dạng, méo mó. Thông số  này có thể  được được định nghĩa khác nhau bởi các nhà sản suất khác nhau. Nhiều nhà sản  suất định nghĩa đây như  là một điểm mà tại đó độ  chói bằng một nửa độ  chói  cực đại. Một vài nhà sản suất khác lại định nghĩa nó dựa trên độ tương phản và   khi nhìn ở một góc mà tại đó độ tương phản được xác định một cách chính xác. Khả năng tái tạo màu, gam màu: Đây là một dải màu mà màn hình có thể  hiển thị chính xác được nó.     3.Những nền tảng về ống tia Catốt  Giới thiệu
  8. Ống tia Ca tốt (CRT) để lại công nghệ màn hình vượt trội cho phạm vị rất rộng   của ứng dụng – cả người tiêu dùng chuyên gia. Trong khi những yêu cầu về độ  chính xác tốt hơn và độ tinh khiết của màu tăng, sự cải tiến cũng được làm trong  thiết kế và sản xuất  thiết bị CRT  và mạch điều khiển tín hiệu. Trong 10 năm  trở lại đây, sự  cải tiến CRT đơn sắc và/ hay màu đã được thúc đẩy do sự  bùng   nổ  công nghiệp máy tính cá nhân và những chi tiết trong sự  phát trong sự  phát   triển CRT. Sự quan tâm của người tiêu dùng đối với tivi màn ảnh lớn tại nhà rất  mạnh mẽ  trong thập kỉ gần đây và sự  hứa hẹn của những tivi có độ  phân giải  cao có huynh hướng gia tăng. CRT tạo ra các bức xạ nhìn thấy và tử ngoại do sự bắn phá vào lớp mỏng  vật liệu huỳnh quang của chùm điện tử mạnh. Gần như tất cả những ứng dụng   thương mại bao gồm sử dụng chùm điện tử hội tụ cao định hướng liên tục theo   thời gian về phía điểm xác định trên lớp huỳnh quang bằng các biện pháp ngoài ­   tĩnh điển kiểm soát hay trường điện từ. Ngoài ra dòng của chùm điện tử có thể  kiểm soát hoặc điều biến trong các bộ  đáp  ứng với tín hiệu điện biến đổi bên  ngoài. Một CRT phổ biến bao gồm các bộ phận sau: Hệ thống tạo chùm điện tử Hệ thống làm lệch chùm điện tử (tĩnh điện hoặc điện từ) Màn hình huỳnh quang Vỏ bọc bên ngoài
  9. Hình 6.1 cho thấy kết cấu cơ bản của một CRT đơn sắc. Chùm electron   được hình thành trong súng điện tử, là nơi mà nó được điều biến và điều tiêu.  Chùm này sau đó truyền qua vùng làm lệch, là nơi được định hướng về  một  điểm xác định trên màn hình huỳnh quang. Trên màn hình huỳnh quang chùm  electron gửi đến một ít năng lượng của các electron trong ánh sáng sinh ra hoặc  các bức xạ  khác, một số  phát sinh điện tử  thứ  cấp và phần còn lại trong nóng  lên sinh ra. Phân loại các thiết bị CRT Ống có thể  phân loại theo thông số  bóng hình và hình dạng màn hình/súng.  Những hạng mục nguyên tắc để phân loại một loại thiết bị so với những cái bao  quát khác.  Kích thước  ống:  Theo quy  ước, kích thước  ống được đo bởi kích  thườc đường chéo màn hình được làm tròn theo đơn vị  inch hoặc   centimét. Số này thông thường bao gồm trong ống ­ số chuẩn. Đường kính cổ (OD) : Súng phóng , ách, phần cổ cứng và khớp nối  ảnh hưởng bởi kích thước (tiêu biểu cho bởi milimét). Kích thước   cổ chung l à 36.5, 29, 22,5 mm.
  10. Góc lệch: Giá trị  này được tính toán từ  định mức đầy đủ  ­ đường   chéo màn hình và bản vẽ tinh thể thuỷ tinh, sử dụng những cái ách  gương chuẩn như tâm giả định của độ lệch. Góc này thông dụng là  90, 100, 110. Những góc lệch cao hơn tồn tại ở các ống ngắn nhưng   thay thế sự cân bằng khác. Những đặc trưng khác bao gồm kiểu súng (tam giác hoặc đường  bao) và cấu trúc màn hình ( những dải hay điểm ) đối với CRT màu. Vỏ CRT Vỏ   ống tia ca tốt bao gồm cac thành phần màn hình ,bóng hình, cổ, nút   bấm cơ sở, bệ, bảng an toàn màn hình, chắn và bọc kín. (Không phải tất cả các  CRT đều cho vào tất cả các thành phần). Màn hình là bộ p ận có tính quyết định  nhất bởi vì để hiện thị trên huỳnh quang thì phải nhìn qua nó.  Đa số những màn  hình được ép đặt bên trong một cái khuôn từ thuỷ tinh nóng chảy và trimmed và   tôi luyện trước khi được xử lý. Một vài loại CRT chuyên dụng cho ghi hình hay  quét điểm mau chóng sử dụng quang học­ màn hình thuỷ  tinh chất lượng được  bít kín trong bộ phận hình cầu trong một sự biến đổi như vậy để giảm độ  biến  dạng xuống tối thiểu.  Để  tối giản sự  tán xạ  trở  lại của ánh sáng xung quanh từ  huỳnh quang  trắng, nhiều loại CRT đã sử dụng màn hình màu xám trung hoà. Trong khi thông  tin màn hình được làm yếu cả  đi vào và đi ra, như  vậy ánh sáng vào sẽ  giảm   theo bình phương và làm tăng độ nét.  Những CRT chuyên dụng đã biết được làm toàn bộ hoặc từng phần từ sợi   quang, có đặc trưng đặc biệt , như  là sự  truyền tử  ngoại cao. Một vùng sợi  quang trong màn hình cho phép tiếp xúc với chiếu sáng của  ảnh hoặc những   phim nhạy khác không có nhu cầu thấu kính ngoài hay không gian cho chi  ếu  sáng quang học. Bộ  phận bóng hình của CRT là nơi truyền các phần tử  cần thiết để  bao   lấy thể tích làm lệch đầy đủ của chùm electron giữa vùng làm lệch và màn hình  huỳnh quang trên màn hình. Trong đa số CRT, đây là một ống phễu không bằng   phẳng – khuôn tạo hình – bộ phận thủy tinh, giống như minh họa  ở hình trước.  Thay vì một cái bóng thủy tinh thông thường, một vài loại CRT lớn bao gồm bộ 
  11. phận phễu kim loại được làm từ  thủy tinh – hàn kím hợp kim sắt. Những cái  phễu kim loại là những đèn thông thường nhẹ  hơn các bộ  phận trao đổi bằng  thủy tinh. Cái vùng nối bóng của CRT và bộ  phận cổ  có tính quyết định đến hình  dáng của thiết bị. Các cái ống làm với các khu vực riêng biệt này có mục đích là   để các điện tử bị lái tia, và khu vực này là nơi mà đai lái tia mở rộng hơn được   đặt tại đó. Đường kính cổ  CRT phụ  thuộc vào phạm vi lớn các kiểu làm lệch tia  được dùng và mục đích ứng dụng của CRT. Nói chung, CRT có đường kính cổ  lớn trong khi đó linh kiện lái tia – điện tử thì có đường kính nhỏ.   Bảo vệ hồ quang Bởi vì điện áp vận hành cao được ứng dụng trong CRT, nên sự phóng hồ quang  có thể xảy ra.  Hồ quang hay những sự phóng điện có thể gây thiệt hại cho ống   và/hoặc các bộ phận mạch có thể hư hỏng. Những phương pháp để  điều chỉnh  và bảo vệ bao gồm : + Độ  sạch sẽ  bên trong. Quá trình sản xuất đã được thiết kế  để  ngăn  ngừa các cạnh sắc hay những điểm trên các điện cực. + Vấn đề các ống này hoàn thành để lập trình sẵn quá trình xử lý điện áp  cao được gọi là phát hiện sự kích nổ. + Bao gồm các khe phóng điện ở các bệ ống. + Sự bao gồm các lớp phòng chống bên trong giữa các nút và súng phóng   anode. + Những điện trở riêng biệt bên trong được xếp vào các bản điện cực đặc  trưng. + Sử dụng các màn che hồ quang bên trong bộ phận súng phóng. Bảng 6.1 là danh sách các loại điện cực điện áp của CRT đơn sắc
  12. Element                                potential to catode               potential to ground         Cathode                                 0 V                                         ­15 V Control grid                          ­100V to +2 V                         ­15.1 to ­14.998 V First anode                            +400 V                                  ­14.6 V Focus electrode                     0 to +400 V                            ­14.6 to ­15 V Second anode                         +15 V                                    0 V Bảo vệ cháy nổ Áp suất khí quyển lên rất mạnh mẽ  lên các bóng CRT cần phải giải tỏa. Các  màn của ống hơn nữa phải đối trọi với khả năng một sự nổ bất ngờ. Để bảo vệ  người xem khỏi những thiệt hại có thể xảy ra, nhiều hệ thống bảo vệ cháy nổ  khác nhau được thiết kế xếp vào bên trong thiết bị CRT:  + Bản an toàn nhiều lớp. Một bản an toàn thủy tinh được tạo ra và gắn chặt  với màn hình ống bởi keo trong suốt.    + Kimcode ( ….) . Một băng vòng hai mảnh kim loại  gắn xung quanh mép màn  hình , cố định bởi dải áp lực. + Dải áp lực. Một dải chịu áp lực bằng kim loại được thiết lập  xung  quanh  mép   màn  hình  và  được  làm  chắc  bởi  những   cái  kẹp  (hay   những mối hàn). + Shelbond . Một lớp kim loại chứa đầy nhựa gắn xung quanh mép  màn hình.  + Lớp áp lực preweld. Lớp áp lực này được mở  rộng bởi sự  làm  nóng lên cho phép thiết lập xung quanh phía ngoài cùng mép bản điều  khiển. Những cái đai lắp ráp có thể bao gồm trong tất cả các hệ thống cao  cấp không kể đến bản điều khiển an toàn nhiều lớp. Với những hệ thống   nổ  này, thì sự  phá vỡ  màn hình là nguyên nhân làm  ống không có sự  nổ  mạnh mẽ nào.
  13. Mặt phía trước sự nổ này có thể ăn mòn bề  mặt bên ngoài của nó,  tạo ra các hiệu ứng thủy tinh là nguyên nhân gây ra sự phản xạ gương từ  ánh sáng xung quanh. Những bản này cũng có thể gây ra sự suy giảm màu   xám­ trung tính. Súng phóng điện tử   Súng phóng điện tử là cơ  sở của cấu trúc và hoạt động của bất kỳ  một ống  phóng tia cathode nào, đặc biệt là các thiết bị  hiển thị. Sơ  đồ  đơn giản nhất  của một súng phóng điện tử  được mô tả  như  trong hình 6.13, đây là mặt cắt   của một súng phóng điện tử  3 cực. Điện tử  phát ra từ  cathode, nơi mà được   đốt nóng đến nhiệt độ đủ  cao để giải phóng các điện tử. Bởi vậy mà điện tử  phát ra tử phía cathode thường có dạng đám mây hơn là dạng chùm tia, nó cần   thiết phải được gia tốc, hội tụ, bẻ  cong, và các điều khiển khác để  làm cho   điện tử  phát ra  có dạng chùm tia, và có thể  tới va đập vào phốtpho tại vị  trí  thiết kế, và với yêu cầu chùm tia mặt cắt ngang.
  14. Chuyển động của điện tử Chuyển động của điện tử trong một trường tĩnh điện tuân theo định luật 2  Newton. Vận tốc của điện tử phát xạ được mô tả bởi phương trình: 1/ 2 �2eV �    v = � �m � �  Trong đó:  e= 1.6×10­19C m=9.1×10­28g
  15. V= ­Ex, điện thế tác động lên điện tử Khi thay các giá trị trên vào phương trình trước ta được kết quả:        v=5.93×105V1/2 m/s Đây chính là biểu thức vận tốc của điện tử. Nếu vận tốc của điện tử  hợp   với   phương   điện   trường   của   trường   đồng   nhất   một   góc   θ,   phương   trình  chuyển động của điện tử có thể được mô tả bằng phương trình: Ex 2 x y=− + 4V0 sin θ tan θ 2 Trong đó: V0= vận tốc ban đầu của điện tử Súng bốn cực Súng điện tử  bốn cực bao gồm bốn điện cực, được mô tả  như  trong hình   6.15. Thuận lợi chính của việc thêm một điện cực là cải thiện độ  hội tụ  của   chùm điện tử phát xạ.
  16. Nguyên lý hoạt động Ngày nay gần như  toàn bộ  súng phóng điện tử  CRT đều có cathode được  đốt nóng gián tiếp trong một bộ  phận có dạng một nắp niken hình  ống hoặc  hình trụ  với nguồn nhiệt là một đèn tungsten được lắp vào từ  một bộ  phận   phụ trợ. Hầu hết các nguồn nhiệt hoạt động ở 6.3 Vac tại dòng điện 300 đến  600 mA. Những nguồn nhiệt công suất thấp có thể hoạt động tại 1.5 V (tương   ứng với dòng là 140 mA). Bộ  phận cathode được lắp trên một trục điều biến có dạng hình trụ, đó là  một ống kim loại có độ thầm thấu thấp hoặc là thép không rỉ có đường kính là   0.5 in và chiều dài 0.375 đến 0.5 in. Trên  ống được khoan một góc mở  nhỏ.  Lưới G1 có hiệu điện thế âm để tương ứng với cathode(K). Dòng điện tử phát ra từ cathode đi qua góc mở của lưới, ở đây cần phải có  các điện cực khác có điện thế  dương đủ  lớn để  tạo ra một trường tĩnh điện  làm cho chùm điện phát ra từ bề mặt cathode tử đi xuyên qua các góc mở của  
  17. lưới. Điện cực gia tốc như một hệ thấu với các điện cực có điện thế  cao đặt   liên tiếp nhau, điện cực này có thể  làm hội tụ  chùm điện tử  tới phốtpho, bởi  vậy, nó có thể tạo ra sự hội tụ trên anode. Hệ thống hoạt động cơ bản CRT tạo ra bức xạ  nhìn thấy hoặc là tia cực tím bằng cách bắn phá một lớp  mỏng vật liệu phát quang bằng một chùm điện tử  mang năng lượng. Hầu như  toàn bộ các ứng dụng thương mại đều sử dụng chùm điện tử hội tụ hướng liên  tục về  một vị  trí thích hợp trên lớp phát quang bởi cách thức điều chỉnh bên   ngoài của trường tĩnh điện hoặc trường điện từ. Thêm vào đó dòng điện trong   chùm điện tử có thể điều khiển hoặc biến điệu dẫn tới một ứng dụng bên ngoài   là biến điệu tín hiệu khác nhau. Một CRT tổng quát gồm các yếu tố sau. ­ Hệ thống chùm điện tử ­ Hệ thống chùm điện tử chệch hướng ­ Màn hình phát quang Phân loại các thiết bị trong CRT ống phóng điện tử có thể được phân loại trong điều kiện của thông số bóng đèn  và hình dạng màn che/súng bắn điện tử. Nguyên tắc phân loại là tách một lớp thiết bị. ­ Kích cỡ ống. Theo quy ước, kích cỡ ống được đo bằng kích thước đường   chéo màn hình và làm tròn theo đơn vị  inch hoặc centimet. Những số này  cũng được sử dụng trong ống kiểu số. ­ Đường kính cổ ống (OD) ­ Góc lệch hướng. Thông số này được tính toán từ toàn bộ đường chéo màn  hình. Hệ lái tia :
  18. ­ Một hệ thống lái tia thông thường gồm 1 cặp hai cánh kim loại được đặt  ở trong cổ của CRT. ­ ­ Hình 7.2 mô tả  các thành phần cấu tạo cơ  bản của một hệ  lái tia.Một   thiết kế  đơn giản của nó là hai cánh hình chữ  nhật được sắp xếp song   song với nhau,nó điều chỉnh hướng đi của chùm điện tử chạy dọc ở giữa   chúng.Những cánh lái được đặt  ở  trong vùng trường không gian tự  do  ở  trong vùng anode thứ  hai.Hai cánh này về  cơ  bản là vùng điện áp anode  thứ hai khi không có tín hiệu lệch đặt vào.Sự lệch của chùm điện tử được  thực hiện nhờ thiết lập điện trường giữa hai cánh kim loại. ­ Phần lớn các lái tia tĩnh điện CRT thì không làm lệch các chùm điện tử  khỏi tiêu điểm quá 200.Giới hạn này không cho phép các độ  lệch tia cao 
  19. thông thường thì phải dùng hệ thiết bị lệch từ tính.Các hệ lái tia từ tính ở  CRT có giới hạn làm lệch tia là 550 khỏi trục chính. ­ Phần lớn các hệ  lái tia tĩnh điện CRT thì được sử  dụng để  hiển thị  các  dạng sóng điện như  là một hàm của thời gian.Để  thực hiện thao tác này   cần phát ra một xung quét tượng trưng cho sự trôi của thời gian,và để  nó  chồng chập trực giao với tín hiệu khuếch đại.Đây là một dạng hoàn chỉnh  sử dụng hai cặp cánh lái tia.Cặp lái tia thứ hai được đặt đủ rộng để có thể  cho chùm tia đã bị  làm lệch bởi cặp thứ  nhất đi vào. Một thiết kế  cân  bằng bao gồm một cảm biến lệch chung và cặp tụ lái tia. Các cánh tạo ra  sự  phân kì của chùm tia điện tử  bằng điện áp lái tia.Độ  lớn của dộ  lệch   chùm tia thì tỷ lệ nghịch với điện áp anode. Các nguyên lí của hiện tượng. ­ Hình 7.2 miêu tả  một sắp xếp cơ  bản của một hệ lái tia tĩnh điện CRT.  Những hình ảnh này là cơ sở  để  ta thiết lập các phương trình mô ta hiện   tượng. Giả định rằng chùm điện tử được bắn vào với một góc θ khi đó: ­ tanθ= Vd dl / 2dp Vb ­ Trong đó: ­ Vd là hiệu điện thế giữa hai tấm lái tia. ­ Vb là điện áp chùm. ­ dl  độ dài tấm lái tia ­ dp là khoảng cách giữa hai tấm lái tia. ­ Bởi vì tâm lệch của chùm trùng với tâm của trường nên tan θ xấp xỉ y d/l ở  đây yd là khoảng cách lệch tia và l là độ dài của trường lái tia.Như vậy: ­ yd=l. Vd dl / 2dp Vb ­ Phương   trình   này   đúng   với   các   tấm   song   song   và   bỏ   qua   hiệu   ứng  biên.Nếu xét đầy đủ ta có đạo hàm :
  20. dν Vd ­ = dy a1 + ( a 2 − a3) X / dt ­ Ở đây  ­ a1 = tấm phân ly ở cuối đầu vào  ­ a2= tấm phân ly ở cuối đầu ra. ­ X là khoảng cách của chùm tia ở trong điện trường. ­ Phương trình lái tia trở thành: dlVp ln(a 2 / a1) ­ y= 2Vba1 ( a 2 / a1) − 1 ­ Khi a1= a2 (tấm là phẳng) thì phương trình được rút gọn: ldlVd ­ yd = 2dpVb Hiệu ứng gia tốc điện thế. ­ Trong 1 hệ  thống lái tia CRT, khoảng cách lệch tia thì tỷ  lệ  thuận với   điện   thế   lái   tia   Vd   và   tỷ   lệ   nghịch   với   sự   gia   tốc   hay   là   điện   thế  chùm(Vb). Điều này dẫn đến yêu cầu cần phải có điện thế  lái tia lớn và   điện thế  gia tốc của chùm tia nhỏ. Trong hệ lái tia điện từ  độ  lệch tỷ  lệ  với bình phương điện thế gia tốc chùm điện tử. Điều này dẫn đến  2 điều  lưu ý khi kết hợp hệ lái tia tĩnh điện và hệ lái tia điện từ.Đầu tiên đó là sự  mở  rộng của chùm tia như  là một hàm của thế  gia tốc và dòng điện, nó   cho bởi: 32.3r0V 3/4 ­ K 1/2 = I 1/2 ­ Ở đây   ­ V = điện thế chùm (kV) ­ I = dòng chùm(mA)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2