Mang thời gian đi khắp nơi

Năm 1583, Galileo Galilei 1564 - 1642, khi đó là một thanh niên 19

tuổi, đang cầu nguyện ở giếng rửa tội trong Vương Cung Thánh Đường

Pisa thì bị phân tâm bởi cây đèn dầu phía trên bàn thờ lắc qua lắc lại.

Bất kể cây đèn lắc dài hay ngắn thì hình như thời gian nó lắc từ bên này

sang bên kia đều bằng nhau.

Đương nhiên Galileo không có đồng hồ, nhưng ông đã kiểm tra các

khoảng lắc bằng mạch tim của mình. Theo lời ông kể lại, cái thắc mắc kỳ lạ

của đời sống thường nhật này đã kích thích ông bỏ ngành y như cha ông đã

quyết định, để theo ngành toán học và vật lý. Tại giếng rửa tội của nhà thờ,

ông đã khám phá ra cái mà các nhà vật lý sẽ gọi là tính đẳng thời, hay thời

gian đều nhau của quả lắc - đó là thời gian quả lắc đong đưa sẽ thay đổi

không theo chiều ngang đường đi của quả lắc mà theo độ dài của quả lắc.

Khám phá đơn giản này đã trở thành biểu tượng của thời đại mới. Tại

đại học Pisa, nơi Galileo theo học, các môn thiên văn và vật lý đều được

giảng dạy theo sách giáo khoa của Aristốt. Nhưng lối học độc đáo của

Galileo dựa vào quan sát và đo lường những điều ông thấy, đã mở ra một

thời đại mới trong việc đo thời gian. Ba thập niên sau khi Galileo mất, sai số

trung bình của những đồng hồ tốt nhất đã giảm từ 15 phút xuống chỉ còn 10

giây mỗi ngày.

Một đồng hồ chỉ đúng thời gian với vô số những đồng hồ khác ở

khắp nơi đã biến thời gian thành một đơn vị đo lường vượt không gian.

Các cư dân ở Pisa có thể biết giờ ở Florence hay ở Rôma vào bất cứ lúc nào.

Các đồng hồ đó một khi đã chạy đồng bộ, sẽ tiếp tục chạy đồng bộ. Nó

không còn chỉ thuận tiện cho một địa phương để tính giờ làm việc của công

nhân hay định giờ cầu nguyện hay một cuộc họp hội đồng thành phố; từ nay

đồng hồ đã trở thành một thước đo thời gian toàn cầu. Cũng giống như trước

đây, giờ đồng đều đã chuẩn hóa các đơn vị thời gian của ngày và đêm, đông

và hạ, ở bất kỳ thành phố nào, thì bây giờ đồng hồ chính xác đã chuẩn hóa

các đơn vị thời gian trên khắp hành tinh.

Hành tinh của chúng ta có một số đặc tính làm cho điều kỳ diệu này

thực hiện được. Vì trái đất xoay quanh trục của nó, mọi nơi trên mặt đất đều

đi qua một ngày 24 giờ với một vòng quay đủ 360 độ. Các đường kinh tuyến

đánh dấu những độ này. Khi trái đất quay, nó đưa buổi giữa trưa lần lượt đi

qua các nơi khác nhau. Khi ở Istanbul đang là trưa, thì ở Luân Đôn mới chỉ

là 10 giờ sáng. Trong một giờ, trái đất quay 15 độ. Vì thế chúng ta có thể nói

rằng Luân Đôn ở 30 độ kinh tây Istanbul, hay hai giờ tây Istanbul và như thế

những độ kinh này trở thành đơn vị đo cả không gian và thời gian. Nếu bạn

có một đồng hồ chính xác đặt giờ ở Luân Đôn và mang theo sang Istabul, chỉ

cần đối chiếu với giờ địa phương ở Istanbul là bạn có thể biết mình đã đi xa

về hướng đông bao nhiêu, hay đông Istabul cách xa Luân Đôn bao nhiêu.

Nếu bạn là người du lịch đường dài và muốn biết chính xác vị trí bạn

đang ở, bạn sẽ thấy khó biết vị trí trên biển hơn trên đất liền. Trên đất liền

bạn có thể biết vị trí của mình nhờ những điểm mốc chết như núi đồi, sông

ngồi, nhà cửa, đường xá và thành phố. Nhưng các mốc trên biển rất hiếm và

nếu có thì cũng chỉ những người quan sát lành nghề mới nhận ra được. Biển

rộng mênh mông, chỗ nào trông cũng giống chỗ nào, nên tự nhiên đã thúc

đẩy những người đi biển tìm vị trí của mình bằng cách quan sát bầu trời, mặt

trời, mặt trăng và các chòm sao. Họ tìm những mốc trên trời để biết những

mốc trên biển. Không lạ gì thiên văn học đã trở thành người hầu của thủy

thủ và Thời Đại Colômbô đã dẫn tới Thời Đại Copernic. Nhờ kính viễn vọng

mới được phát minh hướng lên bầu trời và nhờ quan niệm mới của Galileo

về mặt trăng, sao Mộc và sao Kim, con người đã khám phá ra biển cả, vẽ

bản đồ những đại dương và xác định được những lục địa mới.

Khi người ta bắt đầu công cuộc thăm dò biển cả, họ cảm thấy nhu

cầu hiểu biết bầu trời lớn hơn bao giờ hết. Họ phải xác định vị trí của

chính họ, dựa trên vĩ bắc hay nam của xích đạo và trên kinh đông hay

tây của một điểm nào đó đã được thỏa thuận trước.

Nhưng xác định độ kinh tương quan đông - tây bao giờ cũng khó hơn

là độ vĩ tương quan bắc - nam và điều này giải thích tại sao phải rất lâu con

người mới tìm ra Tân Thế Giới, tại sao Colômbô đã có can đảm làm cuộc

vượt biển để khám phá và tại sao "Đông" và "Tây" đã bị ngăn cách lâu như

thế. Chẳng hạn, để xác định vị trí đông - tây của mình trên hành tinh, người

đi biển phải đo sự khác biệt về thời gian lúc mặt trời giữa trưa tại những

điểm khác nhau.

Xác định độ vĩ đơn giản hơn nhiều, vì độ cao của mặt trời trên đường

chân trời là một yếu tố quyết định. Ở xích đạo vào mọi mùa, mặt trời giữa

trưa ở thẳng phía trên hay ở độ cao 90, trong khi ở Bắc Cực mùa đông hoàn

toàn không có mặt trời còn mùa hè luôn luôn có mặt trời. Ở những nơi nằm

giữa hai vùng trên, người ta ghi nhận độ cao của mặt trời giữa trưa trên

đường chân trời, rồi đối chiếu với những bảng thiên văn trong sách niên

giám quốc gia để biết mình đang ở cách xa xích đạo về phía bắc hay nam

bao nhiêu. Để làm việc này, dụng cụ duy nhất cần có là một cây thước nhắm

để đo độ cao của mặt trời trên đường chân trời. Người Hi Lạp xưa chỉ cần

nhìn độ cao của các ngôi sao trên đường chân trời để xác định vĩ độ mà

không cần dùng đến dụng cụ nào cả. Các bảng thiên văn trong các sách giáo

khoa hàng hải thời trung cổ chính xác đến nỗi một người đã xác định được

vĩ độ của mình mà chỉ xê xích một nửa độ hay ít hơn thế.

Những người đi biển càng ra xa ngoài đại dương bao la càng nhận ra

mình biết quá ít về hành tinh của mình. Họ phải giải quyết vấn đề kinh độ.

Từ vị Toàn Quyền của Liên hiệp các Tỉnh Hà Lan, Galileo được nghe nói về

nhu cầu cấp bách giải quyết vấn đề này của các nhà hàng hải. Ngay từ năm

1610, ông đã gợi ý cho vị Toàn Quyền rằng kinh độ có thể xác định được

trên biển nhờ quan sát bốn vệ tinh của sao Mộc mà ông đã khám phá ra hồi

đầu năm ấy. Nhưng việc này đòi hỏi phải quan sát một thời gian dài qua một

kính viễn vọng dài đặt cao trên boong một chiếc tàu đang di chuyển trên

biển và vì thế việc này không thực hiện được. Sau đó ông chế ra một chiếc

nón có gắn một kính viễn vọng để người quan sát đội trên đầu và ngồi trên

một chiếc bệ có những khớp cardan, giống như những chiếc bệ dùng để giữ

cho la bàn của một con tàu luôn ở vị trí nằm ngang. Tuy phương pháp này

cho thấy rất thực tiễn khi quan sát trên đất, nó lại không bao giờ có tác dụng

trên biển. Cuối cùng ông đã khuyên làm một dụng cụ đo thời gian chính xác

cho người đi biển. Sau khi ông khám phá ra quả lắc là một dụng cụ đo thời

gian đơn giản, ông suy ra rằng nếu nó có thể đo mạch của con người, có lẽ

nó cũng có thể là một chiếc đồng hồ chính xác để đi biển. Mãi tới mười năm

cuối đời mình, khi ông ở trong tình trạng ẩn dật bắt buộc, Galileo mới tự

mình khai thác khả năng này, nhưng lúc đó mắt ông đã mù khiến ông không

thể lắp ráp chiếc đồng hồ ông đã thiết kế.

Người Hà Lan hồi đó có những trạm trú quân ở vùng viễn đông trên

các bờ biển châu Á, cảm thấy hơn bao giờ hết nhu cầu xác định tốt hơn kinh

độ, nhu cầu có đồng hồ đi biển. Chàng thanh niên Christiaan Huygens tài

giỏi 1629 - 1695 bắt tay giải quyết vấn đề. Từ 27 tuổi, anh đã chế ra đồng hồ

quả lắc đầu tiên của mình và anh đã thử đi thử lại. Nhưng anh không bao giờ

thành công hoàn toàn, vì quả lắc không thể giữ thời giờ chính xác trên một

chiếc tàu tròng trành, bập bềnh.

Trước khi có một đồng hồ đi biển chính xác, người đi biển muốn biết

vị trí của mình phải là một nhà toán học giỏi. Phương pháp được nhìn nhận

để tìm kinh độ trên biển là bằng quan sát chính xác mặt trăng và điều này đòi

phải có những dụng cụ tinh xảo và những tính toán chi li. Chỉ cần sai 5 inch

khi quan sát mặt trăng sẽ có nghĩa là sai 2,5 độ kinh, tương đương với 150

dặm trên biển - đủ để một con tàu đụng phải những tảng đá ngầm nguy

hiểm. Những sự tính toán sai lầm gây tai họa có thể xuất phát từ những dụng

cụ thô sơ, từ một sai lầm trên bảng đo lường hàng hải, hay từ chuyển động

lắc lư của con tàu. Điều này khiến cho vấn đề tìm kinh độ trở thành một vấn

đề thuộc khoa học cũng như kỹ thuật. Các cường quốc hàng hải đã phấn

khởi tổ chức những lớp toán học cho những thủy thủ thường. Khi Charles II

mở một lớp toán học cho 40 học sinh ở Christ s Hospital, một trường từ

thiện "áo Xanh" ở Luân Đôn, các giáo viên cảm thấy khó thỏa mãn cùng một

lúc các thủy thủ và các học sinh toán học. Các người quản trị nhà trường

nhận thấy rằng Drake, Hawkins và những nhà hàng hải lớn đã thành công

mà không cần toán học, nên đặt vấn đề những thủy thủ tương lai có thực sự

cần đến toán học hay không. Đứng về phía toán học, Sir Isaac đã lập luận

rằng những quy luật cũ không còn thích hợp nữa. "Các học sinh toán học là

những bông hoa của nhà trường, các em có khả năng hưởng nhận tri thức tốt

hơn và nếu được dạy dỗ tốt và theo học những vị thầy giỏi, các em trong

tương lai có thể cung cấp cho đất nước những thủy thủ, những nhà đóng tàu,

kiến trúc sư, kỹ sư, chuyên viên toán học về đủ lãnh vực, trên biển và trên

đất, tài ba hơn những người mà nước Pháp hiện đang tự hào".

Tuy nhiên, những tính toán để tìm kinh độ nhờ quan sát mặt

trăng rất phức tạp. Cần tìm ra một phương pháp nào đó, tốt nhất là

một bộ máy, để giúp cho những thủy thủ ít học dễ tìm ra vị trí trên biển

của mình.

Năm 1604, Vua Philip III của Tây Ban Nha treo giải 10.000 ducat cho

ai có giải pháp và sau đó vua Louis XIV của Pháp cũng treo giải 100.000

florin. Và Toàn Quyền Hà Lan cũng treo giải mà Galileo đã giải đáp.

Ở Anh, động lực thúc bách giải quyết vấn đề kinh độ không phải là

nhu cầu của những thủy thủ trên những đại dương xa xôi mà là do một thảm

họa xảy ra ngay ở thềm lục địa phía bờ biển phía nam. Năm 1707, một tàu

chiến Anh va vào đá ngầm của quần đảo Scilly, gồm 140 hòn đảo nhỏ cách

xa bờ biển không đầy 40 dặm. Toàn bộ thủy thủ bị chìm cùng với thuyền

trưởng của họ, Đô đốc Clowdisley Shovell, mẫu thuyền trưởng anh hùng.

Vào thời hải quân Anh ở đỉnh cao vinh quang, cái chết của nhiều thủy thủ

như thế ở rất gần đất liền và không phải do kẻ thù tấn công, quả là chuyện

đau đớn. Lương tâm quần chúng bị đánh động. Hai nhà toán học lỗi lạc

tuyên bố công khai rằng tai nạn đã có thể tránh được nếu các thủy thủ có

hiểu biết về kinh độ. Chỉ cần họ biết cách tìm kinh độ, mà điều này "các

thủy thủ bình thường có thể hiểu và áp dụng cách dễ dàng mà không cần đến

những tính toán rắc rối của thiên văn học".

Do biến cố thúc đẩy, Quốc hội vào năm 1714 đã thông qua một đạo

luật "Treo một Giải Thưởng Công Cộng cho người nào hay những người nào

tìm ra được Kinh độ trên Biển".

Rõ ràng một đồng hồ quả lắc không thể đoạt giải. Để tính được thời

gian trên một con tàu tròng trành, lắc lư, phải có một phương pháp khác.

Đồng hồ phải không có con lắc hay quả lắc.

Có người nảy ra ý tưởng nếu cuộn tròn một thanh kim loại mỏng

thành một lò xo, khi nó bung ra nó có thể tạo lực đẩy cái máy. Kiến trúc sư

người ý Brunelleschi có lẽ đã chế ra chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót

khoảng năm 1410. Một thế kỷ sau, một thợ khóa người Đức đã chế những

đồng hồ nhỏ chạy bằng dây cót. Nhưng dây cót cũng có vấn đề của nó. Với

con lắc rơi, lực tạo ra lúc đầu và lúc cuối luôn đều nhau, nhưng với dây cót,

khi dây cót càng bung ra thì lực càng yếu dần. Một giải pháp tài tình cho vấn

đề này là chiếc "bánh côn", một cái lõi cônic được thiết kế sao để khi lò xo

bung ra, thì chính hình thù của cái lõi tạo một lực tăng dần trên máy.

Ban đầu, những chiếc đồng hồ bỏ túi mới này có đủ thứ hình dạng. Có

đồng hồ hình sọ người, quả trứng, quyển sách, thánh giá, chó, sư tử, hay

chim bồ câu, Và có một số được thiết kế để cung cấp những lịch thiên văn,

chỉ những chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao.

Nhưng những đồng hồ đầu tiên chạy bằng dây cót này cũng không

chính xác hơn những đồng hồ quả lắc mà chúng thay thế. Lúc đầu mặt đồng

hồ đặt này ngang phía trên và chỉ có một kim chỉ giờ. Cho tới đầu thế kỷ 17,

bộ máy không có bao chịu bụi và nước. Sau đó đồng hồ được đặt đứng và

mặt đồng hồ trông ra ngoài, được đặt trong một khung bằng đồng. Nhưng vì

nó vẫn còn dựa trên cái thanh hồi của thời kỳ đầu, nên sự thiếu chính xác là

chuyện thường. Khi Hồng y Richelieu giới thiệu sưu tập đồng hồ của mình,

một vị khách vô ý đánh rớt hai chiếc cùng một lúc trên nền nhà. Vị Hồng y

điềm nhiên nhận xét, "Đây là lần đầu tiên hai cái chạy giống nhau!".

Một đồng hồ bỏ túi chính xác hơn cần phải có một bộ phận điều khiển

chính xác hơn. Cả cái hồi bằng thanh lẫn cái hồi quả lắc đều không đáp ứng

được điều này.

Thời gian đầu, đồng hồ đi biển còn mắc tiền nên các thuyền

trưởng vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp mặt trăng. Nhưng dần dà,

việc sản xuất những đồng hồ rẻ tiền còn dễ hơn là việc đào tạo thủy thủ

giỏi toán học.

Đồng hồ đi biển phải độc lập với trọng lực của động lực của nó, cũng

như của bộ phận điều khiển của nó. Robert Hooke có một ý tưởng đơn sơ:

nếu lực của một lò xo có thể dùng để chạy đồng hồ, thì tại sao tính đàn hồi

của nó lại không thể dùng thay cho quả lắc để điều khiển bộ máy?

Trước khi Robert Hooke 1635-1703 lên 10 tuổi, ông đã trông thấy

một chiếc đồng hồ được tháo rời ra và thế là ông tự mình ráp lấy một chiếc

bằng gỗ. Ở đại học Christ Church, Oxford, ông lớn tuổi hơn các sinh viên

khác và được tham gia một nhóm nghiên cứu khoa học gồm nhà kinh tế học

tiên phong William Petty, kiến trúc sư Christopher Wren và nhà vật lý học

Robert Boyle. Hooke làm ra những chiếc máy để trắc nghiệm những lý

thuyết mà những người kia đang khai triển. Khi Royal Society được thiết lập

năm 1662, họ đã khôn ngoan chọn Hooke, lúc bấy giờ mới 27 tuổi vào chức

vụ Phụ trách thí nghiệm, có nhiệm vụ thử những thí nghiệm do các thành

viên đưa ra. Trong cuốn Micrographia 1665 của mình, Hooke đã cho thấy

ông nắm bắt được cái mấu chốt của thời đại mới. Ông viết, "Sự thật là khoa

học về Thiên Nhiên đã quá lâu chỉ là công việc của khối óc và trí tưởng

tượng. Đã đến lúc nó phải quay trở về với tính chất rõ ràng và vững chắc của

việc quan sát vật chất và những sự vật hiển nhiên".

Năm 1658, khi mới 23 tuổi, Hooke đã nghĩ rằng có thể làm bộ phận

điều khiển của đồng hồ đi biển bằng việc "dùng những dây cót thay vì trọng

lực để làm cho một vật thể rung động trong bất kỳ tư thế nào". Một dây cót

gắn vào một con lắc có thể làm cho con lắc lắc qua lắc lại quanh tâm trọng

lực của chính nó và như thế tạo một chuyển động tuần hoàn cần để bộ máy

đồng hồ dừng hay chạy và nhờ đó chỉ các đơn vị thời gian. Trực giác này có

tính quyết định cho việc làm ra đồng hồ đi biển.

Nếu mẫu đồng hồ của ông được chứng nhận bằng sáng chế, ông đã có

một tài sản rất lớn. Các nhà khoa học đồng nghiệp của ông, trong đó có

Robert Boyle và William Brouncker, cả hai đều giàu có, đã muốn tài trợ dự

án của ông. Nhưng Hooke đã từ chối khi họ không đáp ứng đầy đủ mọi yêu

cầu của ông. Năm 1674, khi Huygens, đối thủ người Hà Lan của ông thực sự

làm ra chiếc đồng hồ đeo tay chạy bằng lò xo con lắc, Hooke tức giận và tố

cao Huygens đã ăn cắp phát minh của ông. Để khẳng định ưu thế của mình,

năm sau ông chế tạo chiếc đồng hồ đeo tay để gửi tặng vua, trên đồng hồ có

ghi dòng chữ khẳng định Hooke đã sáng chế ra bộ máy quyết định này từ

năm 1658. Hooke đã trở thành tác giả không thể tranh cãi của định luật

Hooke: Ut tensio vis - sức căng bao nhiêu thì lực bấy nhiêu: một lò xo khi bị

kéo căng sẽ tạo một phản lực bằng với lực căng của nó. Nhưng quyền ưu

tiên cho hầu hết các sáng chế chuyên biệt của ông, kể cả con lắc lò xo, thì

còn nhiều tranh cãi. Dù ai là "nhà phát minh đầu tiên" của những thứ đó, thì

rốt cuộc việc kết hợp một dây cót chính làm động lực và một lò xo con lắc

làm bộ phận điều khiển đã tạo ra chiếc đồng hồ đi biển.

Thời gian đầu, những đồng hồ biển còn mắc tiền, nên các thuyền

trưởng vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp mặt trăng. Nhưng dần dà việc sản

xuất những đòng hồ rẻ tiền vẫn dễ hơn là việc đào tạo những thủy thủ giỏi

toán học. Không chỉ có các thủy thủ mới là những người đón nhận được sự

tiện lợi của chiếc đồng hồ. Đồng hồ chạy bằng dây cót đã trở thành một vật

dụng tiện mang theo cả trên đất lẫn trên biển. Với chiếc đồng hồ dễ mang

theo - càng ngày càng nhỏ, không bị trọng lực, bỏ trong túi hay đeo ở cổ tay

- mọi lãnh vực của đời sống con người sẽ mang một ý nghĩa mới về thời

gian.