Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong
“Luận ngữ” của Khổng Tử
Bốn tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Nho giáo mà bất kỳ người nào nghiên
cứu học thuyết này cũng đều biết đến là Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ,
Mạnh Tử, được nhà triết học nổi tiếng đời Tống là Chu Hy (1130 - 1200)
sắp xếp, kế thừa cách chú giải của các nhà tư tưởng Tống Nho đi trước, cũng
như chú giải của chính ông thành bộ sách có tên chung là Tứ thư tập chú,
trong đó Luận ngữ được xem là một trong những tác phẩm khởi đầu quan
trọng cho một nền Nho học Trung Hoa do Khổng Tử sáng lập. Đây là cuốn
sách đề cập đến các vấn đề của triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức... Có
thể nói, những tinh tuý được rút ra từ những vấn đề đó nhằm mục đích xây
dựng con người toàn thiện, toàn mỹ cho một xã hội phong kiến lý tưởng theo
học thuyết của Không Tử.
Trong bài viết này, từ bình diện triết học, chúng tôi muốn làm rõ mẫu người
quân tử - con người toàn thiện trong Luận ngữ của Khổng Tử.
Để làm rõ mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong học thuyết Khổng
Tử, chúng ta cần phải lý giải tại sao ông lại chọn đối tượng quan tâm trong
học thuyết của mình là con người và các quan hệ của con người. Song, trong
khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi không thể thực hiện được điều đó mà
chỉ muốn nói rằng, bất kỳ ai khi nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử cũng
đều thống nhất ở điểm cho rằng, đứng trước một xã hội đang phải hứng chịu
sự suy thoái về đạo đức của con người (cái mà Trời phú cho con người khi
con người xuất hiện và được đặt nó vào vị trí trung tâm của Vũ trụ), xác định
đối tượng quan tâm của mình ở trần thế, Khổng Tử muốn làm cho con người
thấy được chính bản thân mình, thấy được sự băng hoại về bản tính đạo đức
(tính bản thiện) vốn giống nhau khi nó mới được sinh ra nhưng cũng ngay
lập tức bị phân hoá, đồng thời dạy cho con người biết cái căn bản nhất của
nó là Nhân tính. Chính vì vậy mà ông không đề cập, hay nói đúng hơn là cố
ý tránh đề cập đến những vẫn đề sống - chết, mà chỉ chú ý đến bậc trí giả, đó
là người biết "chuyên vào việc nghĩa để giúp dân, kính trọng quỷ thần nhưng
tránh xa" (Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi - Luận ngữ, VI, 20).
Khổng Tử cũng không thích nói về những điều kỳ diệu, về sự hiện diện của
thần thánh. Điều này chúng ta có thể biết được qua cuộc đối thoại giữa Quý
Lộ và Khổng Tử. Quý Lộ hỏi về việc thờ quỷ thần, Khổng Tử nói rằng:
"Thờ người còn chưa nổi, làm sao thờ được ma?". Thưa: Dám hỏi về sự
chết. Khổng Tử nói: "Sống còn chưa biết rõ, làm sao biết được sự chết?"
(Quý Lộ vấn sự quỷ thần. Tử viết: "Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ”?
Viết: "Cảm vẫn tử”.Viết: " Vị tri sinh, yên tri tử”? Luận ngữ, XI, 11). Tuy
nhiên, để giữ gìn trật tự xã hội nói riêng, Vũ trụ nói chung, Khổng Tử không
phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần. ông kêu gọi phải kính tổ tiên và biết trọng
quỷ thần: "Tế tổ tiên coi như tổ tiên đang có mặt, tế thần coi như thần đang
có mặt" (Tế như tại, tế thần như thần tại - Luận ngữ, III, 12).
Qua đó, chúng ta thấy, Khổng Tử hạn chế nhiệm vụ của mình ở việc phục vụ
mọi người, quan tâm đến công việc quốc gia, nhưng ông vẫn cho rằng, cuộc
sống của mọi người, của dân tộc lại phụ thuộc vào đường lối lãnh đạo đúng
đắn hay sai lầm của thiên tử và hệ thống quan lại. Đường lối đó là Đạo Khác
với quan niệm của Lão Tử - "Đạo khả đạo, phi thường đạo", đạo mà Khổng
Tử đưa ra là đạo của thế giới hiện tượng, là cái cần được nắm bắt để áp dụng
vào việc trị nước. Đạo đó có nhiệm vụ uốn nắn những người có nhận thức
sai lầm, "cong vậy" thành ngay thẳng. Khi con người trở nên chân thành,
ngay thẳng thì mọi quan hệ đều trở nên tất đẹp, bởi vì bản thân con người là
linh hồn, là trung tâm của vạn vật trong trời đất.
Vậy ai là người có thể thực hiện sứ mệnh nói trên trong lịch sử tư tưởng
Trung Hoa ? Trước hết, chúng ta đọc được trong Đạo đức kinh của Lão Tử:
"Đạo lớn... nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là
"không", vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi (vô hình), muôn vật quy về nó
mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó
không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó" .
Người nắm được đạo cao và có đức cả là Thánh nhân (Đạo nhân). Đó là
người "biết hoà thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là sáng".
Còn Khổng Tử thì lại thấy mẫu người (Đức cả) đó là người nắm được đạo
Trung, họ thật hiếm trong dân chúng thời bấy giờ: "Trung dung quả là một
đức tính, rất mực tất đẹp? Đã lâu dân chúng không theo nổi" (Trung dung
chi đức dã, kỳ chí dĩ hồ! Dân tiễn cữu hĩ - Luận ngữ, VI, 27).
Trong Kinh Dịch đã có khái niệm con người toàn thiện hay thiện nhân. Đó là
người biết theo đạo trung chính, biết giá trị của hạng cao sĩ. Thế nhưng,
Dịch không bỏ qua mẫu người đối lập với con người hoàn thiện như hai thế
lực tự nhiên âm và dương. Đó là sự đối lập giữa quân tử và tiểu nhân.
Nguyễn Hiến Lê đã nhận định một cách đúng đắn rằng, "Dịch muốn đào tạo
hạng người quân tử, khuyến khích tiểu nhân cải tà quy chính (quẻ Bác):
"Dịch vị quân tử mưu” là nghĩa vậy, cho nên tôi cho đạo Dịch là ‘đạo của
người quân tử". Nếu ngay từ đầu, tiểu nhân và quân tử là hai hạng người đối
lập nhau và sự đối lập đó là hoàn toàn mang tính tự nhiên thì làm thế nào để
tiểu nhân cải tà quy chính được? Khổng Tử là người đã khắc phục vấn đề đó
bằng cách vượt khỏi lập luận của Dịch về sự hình thành hai thế lực đối lập.
Nhìn thẳng vào cuộc sống xã hội hiện thực, ông đã khẳng định rằng, "Bản
tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau (Tính tương cận dã,
tập tương viễn dã - Luận ngữ, XII, 2). Nghĩa là, nếu "giáo đục" con người,
có thể uốn nắn đạo đức của họ, tẩy đi những tham dục nảy sinh trong cuộc
sống của họ, đưa họ về với bản tính (thiện) ban đầu và nâng cao phẩm hạnh
của họ bằng "ngũ thường”. Tuy nhiên, với kẻ tiểu nhân thì sự "giáo dục" đó
chỉ có hiệu quả khi phát hiện kịp thời sự suy thoái đạo đức "bởi thói quen"
của nó và khi sự suy thoái đó chưa đến mức tột cùng của sự hèn hạ. Khổng
Tử nói rằng: "Chỉ có hạng thượng trí và hạng trí ngu là không thay đổi (tính
tình)" (Duy thượng trí dữ hạ trí ngu bất di Luận ngữ, XVII, 3). Hạng thượng
trí ở đây chi thánh nhân, đó là những người nắm được quy luật của trời đất
(Cửu trù) để làm ra các phép tắc dạy người. Bậc thấp hơn là quân tử, tức là
người giữ đúng phép tắc trong hành xử của mình. Bậc cuối cùng trong sự
phân hạng người là tiểu nhân, tức là những kẻ mà trong cuộc sống, bất chấp
mọi giá trị đạo đức, sẵn sàng làm bất cử điều gì, miễn là có lợi cho họ.
Mọi điều hay lẽ phải trong phép ứng xử đạo đức đã được các thánh nhân đời
xưa vạch ra. Khổng Tử chỉ là người thuật lại và mong muốn học thuyết của
mình có người thực hiện. Người đó chính là bậc quân tử, hay còn gọi là con
người toàn thiện. Chữ "quân" trong cụm từ “quân tử” thường dùng để chỉ
người đàn ông đạo đức, người toàn thiện hoặc "siêu nhân". Ngoài ra, chữ
"quân" đó còn đùng để chỉ các bậc quân vương. Ngạn ngữ Trung Hoa có
câu: “Quân tử động khẩu, tiểu nhân động thủ”, tức là: "Quân tử dùng lời,
tiểu nhân dùng tay".
Mâu thuẫn giữa hai mặt trái ngược nhau của con người đã có từ lâu. Song,
đối với Khổng Tử, nó trở nên cực kỳ quan trọng và cấp bách. Lúc nào ông
cũng dành sự quan tâm của mình xung quanh vấn đề con người, xem sự xa
rời bản tính (Trời sinh) ban đầu như là nguyên nhân dẫn đến sự đảo lộn trật
tự thế giới và đó chính là sự xa rời Đạo. Giữ mình theo Đạo, người quân tử
bao giờ cũng tỏ ra thư thái như đạt được sự giải thoát khỏi những ràng buộc,
cám dỗ của đời thường - cái vốn làm mọi người xa nhau. Khổng Tử nói:
"Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà
không thư thái " (Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái - Luận
ngữ, XIII, 26). Tuy nhiên, sự thư thái đó chỉ là tương đối, bởi người quân tử
bao giờ cũng thấy rõ trách nhiệm của mình trước xã hội, giống như Bồ Tát
trong đạo Phật. Khi “làm sạch" mình, làm trong sạch từ bên trong, người
quân tử đồng thời làm sạch cái không gian quanh mình, làm cho môi trường
sống khỏi bị ô nhiễm bởi những thói đời hèn hạ, giải thoát cho mình đồng
thời với giải thoát cho những người khác. Chính vì vậy, Khổng Tử khẳng
định, kẻ tiểu nhân không tự giải phóng cho mình (hạ trí ngu bất di). Ông nói:
“Đức của người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ
rạp xuống" (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi
phong tất yển - Luận ngữ, XII, 18).
Người quân tử có sức mạnh biến cải nhân dân đến chỗ tất hơn. Sức mạnh đó
không chỉ là lời nói, mà còn là sức mạnh bên trong, là đạo đức. Người quân
tử lấy đạo đức làm động cơ thúc đẩy nhân dân hành thiện. Khổng Tử nói:
“Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giải trật tự, dân tránh
khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật
tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tất lành" (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình,
dân miễn nhi vô sỉ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách - Luận ngữ,
II, 3).
Ngôn ngữ là biểu hiện của tư duy khi sự biểu hiện đó không phù hợp thì tư
duy của người phát ngôn có thể không lành mạnh cũng có khi việc phát
ngôn quá chất phác, không đủ sức thuyết phục người nghe cũng bất lợi. Vì
vậy, khi nêu ra đặc trưng của người quân tử, Khổng Tử đã xem xét mối
tương quan giữa tính chất phác (Trời cho) với học vấn: "Chất phác thắng văn
vẻ thì quê mùa, văn vẻ thắng chất phác thì cứng nhắc. Văn vẻ và chất phác
đều nhau, mới nên quân tử" (Chất thắng văn tắc đã, văn thắng chất tắc sử,
văn chất bân bân nhiên hậu quân tử - Luận ngữ, VI, 16).
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người toàn thiện là mối quan hệ
của nó với cộng đồng xã hội. Khổng Tử nói: "Quân tử thân với khắp mọi
người mà không tư vị, kẻ tiểu nhân tư vị mà không thân với khắp mọi
người"(Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu - Luận ngữ, II, 14).
Câu này được địch theo nhiều cách khác nhau. Nếu xét trên bình diện triết
học thì câu này mang ý nghĩa sâu sắc về cấu trúc. Chữ chu ở đây chỉ sự chu
tất, chu toàn, có thể hiểu là tính cách của con người toàn thiện và chỉ có con
người toàn thiện mới có khả năng thể hiện được chủ ý của Vũ trụ. Vì vậy,
theo chúng tôi, dịch chữ chu là thân khắp với mọi người không thể hiện đủ
nghĩa của từ.
Con người chu toàn có thể được xem như là tấm gương, là chủ thể của mọi
thiện chân, cho nên ai cũng kính nể. Khi được tất cả kính nể thì trong quan
hệ không thể thiên lệch với bất kỳ người nào, nhóm nào, bè đảng nào. Tiểu
nhân thì hoàn toàn ngược lại. Vì không có tính chu toàn, nên kẻ tiểu nhân
chỉ có thể cấu kết với những người đồng tâm, đồng ý với mình, chính vì thế
mà xã hội để bị phân chia thành phe nhóm khác nhau, đấu tranh cho quyền
lợi của phe nhóm mình và chèn ép các nhóm khác, thậm chí đấy tới mức thù
hằn nhau. Như vậy, xét về mặt cấu trúc hệ thống, tiểu nhân có thể được coi
là những bộ phận trong một chỉnh thể, luôn nằm trong sự thống nhất biện
chứng và bản thân nó không thể đại diện cho một chỉnh thể xác định, tức là
luôn bị ràng buộc bởi các mối quan hệ bắt buộc, không tự do, nó được xem
như Ià công cụ để phục vụ cho những mục đích nào đó. Ngược lại, "quân tử
không thể là công cự (quân tử bất khí - Luận ngữ, II, 12).
Bảo tồn được tính thiện cao cả ban đầu là điều kiện để người quân tử trở nên
phổ biến. Đã là phổ biến thì người quân tử có thể chi phối cuộc sống một
cách toàn vẹn. Mặt khác, chính vì giữ được tính thiện cao cả đó mà người
quân tử thể hiện mình như là người hoàn thiện với đầy đủ phẩm cách tất đẹp
trong việc thi hành đạo nhân: "Nết hiếu và nết để có phải là gốc của việc thi
hành đạo nhân đó chăng"? (Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư - Luận
ngữ, 1,2).
Từ việc đề cao đức hiếu, đễ, Khổng Tử đi đến thuyết chính danh. Đối với
câu hỏi cái gì cần cho đường lối trị quốc đúng đắn, Khổng Tử trả lời: "Vua
ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
tử - Luận ngữ, XII, 11). Câu trả lời thật là đơn giản, song lại hàm chứa một
nội đung khá đầy đủ về chính danh. Khổng Tử nhận thấy, trong một xã hội
thịnh trị, có những đẳng cấp xã hội, thì bổn phận của mỗi con người phải
được phân định một cách rạch ròi, trình độ tri thức của họ cũng phải tương
ứng với công việc mà họ đảm nhận: "Hiểu biết là hiểu biết, không hiểu nhận
là không hiểu. Thế cũng là đã hiểu rồi vậy" ( Tri chi vi tri chi,bất tri vi bất
tri. Thị tri dã - Luận ngữ, II,17). Đặc biệt, đối với bậc quân tử lại càng phải
thận trọng trong cuộc sống. Điều gì chưa nắm chắc, chưa rõ thì không nên cả
quyết một cách vội vàng: "Người quân tử đã nêu được tên gọi (danh chính)
ắt nói được ra lời, đã nói được ra lời ắt làm được. Đối với lời nói ra, người
quân tử không bao giờ cẩu thả vậy" (Quân tử danh chi tất khả ngôn dã, ngôn
chi tất khả hành dã. Quân tử ư kỳ ngôn vô sở cầu nhi dĩ hĩ - Luận ngữ, XIII,
3).
Theo Không Tử, con người toàn thiện là người có phẩm chất đạo đức phù
hợp với ngũ thường, trong đó nhân tính được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy,
người quân tử "Có khi còn quyên sinh để giữ trọng đạo nhân" (Hữu sát thân
dĩ thành nhân - Luận ngữ, XV, 8), hoặc "Người quân tử lấy đạo nghĩa thành
làm căn bản, dùng lễ để thi hành, biểu lộ bằng đức khiên tốn, hoàn thành
nhờ chữ tín" (Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ
thành chi - Luận ngữ, XV, 17).
Vậy Lễ là gì mà có thể làm cho thế giới này trở nên trật tự hài hoà? Lễ trước
hết là cái làm cho vạn vật trong thế giới này có được vị thế phù hợp. Do vậy,
con người là một trong vạn vật đó cũng phải tuân theo lễ, phải biết " Khắc
kỷ phục lễ", bởi "Người mà không có lòng nhân, dùng lễ sao được? Người
mà không có lòng nhân dùng nhạc sao được?" (Nhân nhi bất nhân, như lễ
hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà? Luận ngữ, III, 3), hoặc "Cung kính mà
thiếu lễ thì khó nhọc, cẩn thận mà thiếu lễ thì nhút nhát, cương dũng mà
thiếu lễ thì loạn, thẳng thắn mà thiếu lễ thì nóng gắt" (Cung nhi vô lễ tắc lao,
thận nhi vô lễ tắc tỉ. Dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giáo - Luận
ngữ, VIII, 2). Như vậy, lễ là cái đóng vai trò điều chỉnh hành vi con người,
làm cho con người ứng xử với nhau tất hơn trên cơ sở lấy "Thứ" làm trọng.
Nhờ có "thứ" mà con người biết "Điều gì mình không muốn [người khác
làm cho mình], chớ áp dụng cho người" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân -
Luận ngữ, XV, 23).
Như vậy, quân tử chưa phải là người lý tưởng (mặc dù các nhà tư tưởng
Tống Nho đã đặt nó ngang hàng với thánh nhân). Bản thân người quân tử
cũng tự nhận thấy mình chưa phải là người hoàn thiện, nên họ luôn tự xác
định phải thường xuyên hoàn thiện hoá bản thân để trở nên tất hơn. Trong
cuộc sống hàng ngày không ai có thể tránh được sai lầm, song người quân tử
là người biết sai để sửa và đó cũng là một trong những phẩm chất tốt đẹp của
con người toàn thiện. Không Tử nói: " Có lỗi mà không sửa mới thật là lỗi",
"Quá nhi bất cải, thị ví quá dã - Luận ngữ, XV, 29). Khác với quân tử, tiểu
nhân không nhận thấy lỗi của mình và nếu nhận ra cũng không chịu sửa,
thậm chí còn dấu diếm. Người quân tử luôn nghiêm khắc với mình, luôn tự
truy tìm nguyên nhân ở mình, ngược lại, tiểu nhân thường đổ lỗi cho người
khác: "Người quân tử trông ở mình, kẻ tiểu nhân trông ở người" (Quân tử
cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân - Luận ngữ, XV, 20). Đó là quan hệ giữa
nghĩa và lợi. Quân tử trọng nghĩa mà luôn sửa mình, còn tiểu nhân vì lợi mà
trốn tránh trách nhiệm: "Quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về
điều lợi" (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi - Luận ngữ, IV,16).
Quân tử là mắt khâu liên kết giữa thánh nhân và người thường, là sợi chỉ nối
quá khứ với hiện tại. Quân tử "Sợ ba điều: Sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, [mà
còn] khinh nhờn bậc đại nhân, diễu cợt lời của thánh nhân" (Quân tử hữu
tam uý: Uý thiên mệnh, uý đại nhân, uý thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất
tri thiên mệnh nhi bất uý dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn - Luận
ngữ, XVI, 8). Quả thật, nếu không biết sợ, không cảm nhận được sự hiện
diện của trời, sỉ vả quá khứ và coi thường những điều thánh thiện thì tất thảy
những cái đó sẽ dẫn tới tai hoạ nghiêm trọng. "Chẳng biết được mệnh trời,
không lấy gì để làm người quân tử. Chẳng biết lễ, không lấy gì để lập thân.
Chẳng biết phân biệt nổi lời phải trái, không lấy gì để biết người" (Bất tri
mệnh vô dĩ vi quân tử đã, bất tri lễ vô dĩ lập dã. Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân
dã - Luận ngữ, XX, 3). Quân tử khác với tiểu nhân là ở chỗ biết lễ do đi theo
đường chính, nắm được đạo Trung dung, biết được mệnh trời mà "vươn lên"
để đạt đến cao thượng, đến trạng thái hoàn thiện và làm cho người khác cùng
hoàn thiện thêm. Khổng Tử nói: "Người quân tử đạt tới chỗ cao thượng, kẻ
tiểu nhân đạt tới chỗ thấp hèn" (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt - Luận
ngữ, XIV, 24).
Sự "vươn lên" đến trạng hoàn thiện là một quá trình tự cải tạo của người
quân tử Con đường khó khăn của sự nghiệp cải tạo đó xuất phát từ nghiên
cứu vạn vật, không ngừng nâng cao hiểu biết về mọi mặt và làm cho ý mình
thành thật, tiến tới chính tâm để tu thân, tề gia, trị quốc và cuối cùng là bình
thiên hạ. Từ bậc thiên tử cho tới thường dân ai cũng phải lấy sự tu thân làm
gốc. Vì vậy, khi Tử Lộ hỏi Quân tử phải làm gì, Khổng Tử đáp: "Sửa mình
để nên người kính cẩn". Lại hỏi: Có vậy thôi ư? Đáp: "Sửa mình kính cẩn để
yên mọi người". Lại hỏi: "Có vậy thôi ư? Đáp: Sửa mình kính cẩn để yên
trăm họ. Sửa mình để yên trăm họ, việc đó dẫu vua Nghiêu, vua Thuấn cũng
chưa làm cho trọn" (Tử Lộ vấn quân tử, Tử viết: "Tu kỷ dĩ kính". Vấn: "Như
tư nhi dĩ hồ?" Viết: "Tu kỷ dĩ an bách tính.Tu kỷ an bách tính, Nghiêu
Thuấn kỳ do bệnh chu”- Luận ngữ, XIV, 45). Qua đoạn đối thoại trên đây,
chúng ta thấy, quan điểm của Khổng Tử về con đường hoàn thiện hoá là vô
tận, đến các bậc thánh nhân, như vua Nghiêu, vua Thuấn, vẫn chưa thực hiện
được trọn vẹn. Sự vận động để đến với bản thân với tư cách con người toàn
thiện đều thông qua sự hoàn thiện hoá bản thân.
Con đường hoàn thiện hoá là con đường giải thoát. Ở các tôn giáo khác
nhau, quan niệm về giải thoát cũng khác nhau song mục đích chỉ là một - đó
là khắc phục quan niệm coi tự kỷ là trung tâm. Trong tư tưởng của Khổng
Tử, đó là sự chiến thắng của con người đối với chính bản thân mình, vượt
lên trên mình, là sự phục hồi lễ, khôi phục thiện nhân khởi thuỷ. Con đường
giải thoát đó phải do chính người quân tử thực hiện thông qua sự tự hoàn
thiện mà phương pháp và mục tiêu của sự tự hoàn thiện đó đã được thánh
nhân vạch ra. Khi Nhan Uyên hỏi về Nhân, Khổng Tử giải thích: "Dẹp bỏ tư
dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân. Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với
lễ, cả thiên hạ [chịu cảm hoá] quay về về với điều nhân vậy" (Khắc kỷ phục
lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. Nhân do kỷ nhi
do nhân hồ tai? - Luận ngữ, XII, 1).
Giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của những dục vọng, từng bước nâng
cao tri thức của mình về vạn vật (cách vật), về thế giới con người (biết
người, yêu thương con người) là con đường hoàn thiện chân chính của Quân
tử. Chiến thắng bản thân có nghĩa là chiến thắng những gì trong con người
đang cản trở nó quay về với toàn bộ phẩm chất tất đẹp ban đầu mà Trời ban
cho. Việc làm đó là phù hợp với Quân tử - con người toàn thiện, vốn chỉ cầu
ở mình chứ không bao giờ cầu ở người.
Nguyễn Thị Kim Chung
Tạp chí Triết học