intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Men gan

Chia sẻ: Nguyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

112
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bước đầu tiên để xác định xem gan có bị tổn thương hay không là xét nghiệm máu để tìm sự hiện hiện của một số loại men gan (enzyme của gan) có trong máu. Bình thường, những enzyme này nằm bên trong các tế bào gan, nhưng khi gan bị tổn thương do một nguyên nhân nào đó, chúng sẽ tràn vào máu. Enzyme có bản chất là các protein hiện diện khắp nơi trong cơ thể, mỗi loại enzyme có một chức năng riêng. Enzyme giúp tăng tốc (xúc tác) các phản ứng hóa học cần thiết...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Men gan

  1. Men gan Bước đầu tiên để xác định xem gan có bị tổn thương hay không là xét nghiệm máu để tìm sự hiện hiện của một số loại men gan (enzyme của gan) có trong máu. Bình thường, những enzyme này nằm bên trong các tế bào gan, nhưng khi gan bị tổn thương do một nguyên nhân nào đó, chúng s ẽ tràn vào máu. Enzyme có bản chất là các protein hiện diện khắp nơi trong cơ thể, mỗi loại enzyme có một chức năng riêng. Enzyme giúp tăng tốc (xúc tác) các phản ứng hóa học cần thiết và diễn ra đều đặn trong cơ thể. Aminotransferase là một trong những loại enzyme nhạy cảm và gặp rộng rãi nhất trong số các enzyme của gan. Aminotransferase bao gồm aspartate aminotransferase (AST hoặc SGOT) và alanine aminotransferase (ALT hoặc SGPT). Những enzyme này bình thường nằm trong các tế bào gan. Khi gan bị tổn thương, các tế bào gan đổ tràn các enzyme này vào máu làm tăng nồng độ enzyme trong máu và báo động cho chúng ta biết gan đang bị tổn thương.
  2. AMINOTRANSFERASE Aminotransferase là gì? Aminotransferase xúc tác các phản ứng hóa học bên trong các tế bào để chuyển nhóm amino (amino acid là thành phần cơ bản của protein) từ phân tử cho đến phân tử nhận. Aminotransferase còn có một tên khác nữa là transaminase.  Enzyme aspartate aminotransferase (AST) còn được gọi là serum glutamic  oxaloacetic transaminase (SGOT) alanine aminotransferase (ALT) còn được gọi là serum glutamic pyruvic  transaminase (SGPT). Nói một cách ngắn gọn thì AST = SGOT và ALT = SGPT.  Bình thường các aminotransferase ở đâu?
  3. Bình thường, AST (SGOT) có trong nhiều loại mô của cơ thể bao gồm mô gan, tim, cơ, thận và não. Nó được tiết bào máu khi một trong các loại mô kể trên bị tổn thương. Chẳng hạn như nồng độ của nó trong máu tăng khi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim hoặc những rối loạn về cơ. Do đó, nó không phải là chất chỉ điểm có tính đặc hiệu cao cho tổn thương gan. Ngược lại ALT (SGPT) bình thường có chủ yếu ở gan. Điều đó không có nghĩa nó chỉ duy nhất nằm ở gan mà là nơi nó tập trung nhiều nhất là gan. Nó được tiết vào máu khi gan bị tổn thương. Do đó, nó là chất chỉ điểm tương đối đặc hiệu cho tình trạng của gan. Nồng độ bình thường của AST và ALT. Giới hạn bình thường của AST (SGOT) là từ 5 đến 40 đơn vị (unit, hay còn viết tắt là U trong bảng thông báo kết quả) trong mỗi lít huyết thanh (thành phần lỏng của máu). Giới hạn bình thường của ALT (SGPT) là từ 7 đến 56 đơn vị trong mỗi lít huyết thanh. BẤT THƯỜNG TRONG NỒNG ĐỘ CỦA AST VÀ ALT
  4. Ý nghĩa: AST (SGOT) và ALT (SGPT) là những chất chỉ điểm nhạy cảm của tình trạng chấn thương gan hoặc những tổn thương gan do nhiều loại bệnh khác nhau. Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng không nên tự động cho rằng nồng độ các enzyme này cao hơn mức bình thường đồng nghĩa với bệnh gan. Nó có thể có ý nghĩa gan đang gặp vấn đề hoặc có thể không. Chẳng hạn nh ư chúng có thể tăng khi bị tổn thương cơ. Tình trạng gia tăng nồng độ AST và ALT cần phải được phân tích dựa vào đánh giá lâm sàng toàn diện trên bệnh nhân và tốt nhất là được thực hện bởi một bác sĩ có kinh nghiệm đối với những bệnh về gan. Nồng độ chính xác của các men gan không t ương đồng nhiều với mức độ tiến triển của những tổn thương gan hoặc với tiên lượng. Do đó không thể dùng nồng độ chính xác của AST (SGOT) và ALT (SGPT) để xác định mức độ của bệnh gan hoặc tiên đoán được tương lai. Ví dụ như những bệnh nhân bị viêm gan siêu vi A có nồng độ AST và ALT rất cao (đôi khi lên đến hàng nghìn đơn vị/lít) nhưng hầu hết những bệnh nhân bị viêm gan siêu vi A lại có thể hồi phục hoàn toàn mà không để lại bệnh gan nào cả. Ngược lại, những bệnh nhân bị viêm gan siêu vi C mạn tính thường chỉ tăng nhẹ AST và ALT nhưng một số trong nhóm những người này lại có thể tiến triển tương đối nhiều thành những bệnh gan mạn tính như viêm gan mạn và xơ gan (gan bị hóa sẹo).
  5. Những bệnh gây thay đổi nồng độ AST và ALT. Nồng độ AST và ALT cao nhất được tìm thấy ở những bệnh gây chết quá nhiều tế bào gan (hoại tử gan lan rộng) như: Viêm gan siêu vi A hoặc B cấp tính  Tổn thương gan vì độc tính do quá liều acetaminophen (panadol) và  Sự suy sụp kéo dài của hệ tuần hoàn (do shock) nên gan bị mất nguồn máu  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng. Nồng độ AST và ALT trong những trường hợp trên có thể nằm trong khoảng từ gấp 10 lần giới hạn trên của khoảng giá trị bình thường đến hàng nghìn đơn vị trong mỗi lít huyết thanh. AST và ALT tăng từ nhẹ đến trung bình là hiện tượng thường gặp và thường bất ngờ phát hiện ra khi xét nghiệm máu định kỳ ở những người khỏe mạnh. Nồng độ AST và ALT ở những trường hợp này thường nằm trong khoảng gấp 2 lần giới hạn trên của khoảng giá trị bình thường đến vài trăm đơn vị/lít.
  6. Một trong những nguyên nhân thường gặp nhất gây tăng men gan ở mức độ từ nhẹ đến trung bình là gan nhiễm mỡ. Tại Hoa Kỳ, nguyên nhân thường gặp nhất của gan nhiễm mỡ là nghiện rượu. Những nguyên nhân khác bao gồm đái tháo đường và béo phì. Viêm gan siêu vi C mạn tính cũng trở thành nguyên nhân quan trọng nhất gây tăng men gan từ nhẹ đến trung bình. Những thuốc gây thay đổi nồng độ aminotransferase. Những loại thuốc giảm đau như aspirin, acetaminophen (panadol),  ibuprofen (Advil, Motril), naproxen (Naprosyn, Naprelan, Ana prox, Aleve), diclofenac (Voltaren, Cataflam, Voltaren-XR) và phenylbutazone (Butazolidine). Những loại thuốc chống động kinh như phenytoin (Dilantin), valproic acid  (Depakote, Depakote ER, Depakene, Depacon), carbamazepine (Tegretol, Tegretol XR, Equertro) và phenobarbital. Những thuốc kháng sinh như tetracycline, sulfonamide, isoniazid (INH)  (Nydrazid, Laniazid), sulfamethoxazole (Gantanol), trimethoprim (Trimpex, Proloprim, Primsol), nitrofurantoin (Macrodantin, Furadantin, Macrobid), fluconazole (Diflucan) và một số thuốc kháng nấm khác v.v...
  7. Những thuốc hạ cholesterol máu như các statin (lovastatin, pravastatin,  atorvastatin, fluvastatin, rosuvastatin và simvastatin) và niacin. Những thuốc tim mạch như aminodarone (Cordarone), hydralazine  (Apresoline), quinidine (Quinaglute, Quinidex) v.v... Những loại thuốc khác: thuốc chống trầm cảm 3 vòng.  Đối với những loại thuốc gây thay đổi men gan, men gan thường trở về bình thường sau vài tuần đến vài tháng ngưng thuốc. Những nguyên nhân gây thay đổi men gan ít gặp hơn Những nguyên nhân gây thay đổi men gan ít gặp hơn tại Hoa Kỳ bao gồm viêm gan siêu vi B mạn tính, đái tháo đồng đen (quá tải sắt), bệnh Wilson, thiếu alpha - 1-antitrypsin, tiêu chảy phân mỡ, bệnh Crohn, viêm loét kết tràng, và viêm gan tự miễn. Mặc dù không nhiều bằng viêm gan siêu vi C, viêm gan siêu vi B cũng có thể gây bệnh gan mạn tính cùng với thay đổi nồng độ men gan bất thường kéo dài. Đái tháo đồng đen là một bệnh di truyền do hấp thu quá mức sắt có t rong  bữa ăn dẫn đến tích tụ sắt trong gan làm cho gan bị viêm và hóa sẹo. Bệnh Wilson là một bệnh di truyền do tích tụ chất đồng quá mức trong  nhiều loại mô trong đó có gan và não. Đồng hiện diện trong gan có thể dẫn
  8. đến viêm gan mạn tính, đồng có trong não có thể dẫn đến rối loạn vận động và tâm thần. Thiếu men alpha-1 antitrypsin là một rối loạn di truyền do thiếu một loại  glycoprotein (phức hợp carbohydrate-protein) có tên là alpha-1-antitrypsin dẫn đến bệnh phổi mạn tính (khí phế thũng) và bệnh gan. Viêm gan tự miễn là tình trạng tổn thương gan do các kháng thể của chính  cơ thể sản xuất ra và hệ miễn dịch tấn công gan. Bệnh tiêu chảy phân mỡ là bệnh của ruột non do bệnh nhân bị dị ứng với  gluten và tạo ra khí, chướng bụng, tiêu chảy và suy kiệt ở những trường hợp nặng. Những bệnh nhân tiêu chảy phân mỡ có thể nồng độ ALT và AST hơi bất thường. Bệnh Crohn và viêm loét kết tràng là những bệnh viêm ruột mạn tính.  Những bệnh nhân này cũng có thể bị viêm gan hoặc viêm ống mật (viêm đường mật xơ hóa tiên phát) dẫn đến bất thường trong các kết quả xét nghiệm gan. Hiếm gặp hơn, nồng độ enzyme gan bất thường có thể là dấu hiệu của ung thư gan. Ung thư xuất phát từ các tế bào gan được gọi là carcinoma tế bào gan hoặc hepatoma. Những ung thư lan đến gan từ những cơ quan khác (như ruột, tụy, dạ dày v.v...) được gọi là những khối u di căn ác tính.
  9. CÁCH ĐÁNH GIÁ MỘT NGƯỜI KHỎE MẠNH CÓ MEN GAN BẤT THƯỜNG: Cách đánh giá một người khỏe mạn có men gan bất thường còn tùy thuộc vào từng người. Bác sĩ có thể sẽ hỏi những kết quả xét nghiệm máu cũ để so sánh. Nếu không có, bác sĩ có thể sẽ cho làm lại xét nghiệm máu trong vài tuần hoặc vài tháng sau để xem những bất thường trên có còn tồn tại hay không. Bác sĩ sẽ tìm những yếu tố nguy cơ của viêm gan B và C, bao gồm tiếp xúc do quan hệ tình dục, những lần truyền máu, dùng thuốc qua đường tiêm, tiếp xúc nghề nghiệp với những sản phẩm của máu. Bác sĩ cũng có thể sẽ hỏi tiền sử gia đình về bệnh gan để kiểm tra khả năng bệnh nhân bị những bệnh di truyền nh ư đái tháo đồng đen, bệnh Wilson, hoặc thiếu men alpha-1-antitrypsin. Cũng cần phải xem lại danh sách tất cả các loại thuốc mà bệnh nhân đang dùng thường xuyên bao gồm cả những thuốc thông thường không cần kê toa. Quá trình khám thực thể toàn diện cũng rất quan trọng trong việc đánh giá bệnh nhân. Mức độ tăng của các men gan cũng cung cấp những đầu mối quan trọng để t ìm ra nguyên nhân của bệnh gan. Chẳng hạn nh ư phần lớn các bệnh nhân bị bệnh gan do rượu có nồng độ men gan không cao bằng những bệnh nhân bị vi êm gan siêu vi
  10. cấp tính và nồng độ AST có khuynh hướng cao hơn ALT. Do đó, ở những bệnh gan do rượu, AST thường dưới 300 đơn vị/lít trong khi ALT thường dưới 100 đơn vị/lít. Nếu rượu hoặc thuốc là thủ phạm gây bất thường men gan, ngừng rượu và thuốc (dưới sự giám sát của bác sĩ) có thể làm men gan trở lại bình thường hoặc gần bình thường trong vài tuần đến vài tháng. Nếu béo phì được xem là nguyên nhân làm gan nhiễm mỡ, giảm cân xuống 5% đến 10% trọng lượng cơ thể có thể đưa men gan về mức bình thường hoặc gần bình thường. Nếu men gan tiếp tục bất thường bất kể bệnh nhân đã kiêng rượu, giảm cân và ngừng một số loại thuốc nghi ngờ, có thể cần thực hiện xét nghiệm máu để giúp chẩn đoán một số bệnh gan có thể chữa được. Máu có thể được khảo sát để tìm sự hiện diện của virus gây viêm gan B và C và những kháng thể liên quan của chúng. Nồng độ sắt, sắt bão hòa và ferritin trong máu thường tăng ở những bệnh nhân bị bệnh đái tháo đồng đen. Nồng độ trong máu của một chất có t ên là ceruloplasmin thường giảm ở những bệnh nhân bị bệnh Wilson. Nồng độ của một số kháng thể trong máu (kháng thể kháng nhân hoặc ÂN, kháng thể kháng cơ trơn, và kháng thể kháng tiêu thể thận và gan) tăng ở những bệnh nhân bị viêm gan tự miễn. Siêu âm và CT scan bụng đôi khi cũng được sử dụng để loại trừ u gan và một số bệnh khác như sỏi mật hoặc tắc ống mật do u.
  11. Sinh thiết gan là một thủ thuật đâm kim xuyên qua da ở vùng bụng trên bên phải để lấy ra một dải mô gan mỏng rồi khảo sát d ưới kính hiển vi. Thủ thuật này đôi khi được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm để xác định vị trí của gan. Không phải bất cứ ai có men gan bất thường cũng đều cần phải sinh thiết gan. Bác sĩ thường sẽ xem xét thực hiện thủ thuật này nếu: 1. Thông tin thu thập được từ sinh thiết gan có thể giúp ích cho kế hoạch điều trị. 2. Bác sĩ cần biết mức độ lan rộng và mức độ nặng của viêm/tổn thương gan. 3. Đánh giá hiệu quả điều trị 4. Không tìm thấy nguyên nhân gây tăng men gan sau khi đã kiểm tra toàn diện Sinh thiết gan có ích nhất khi cần xác định chẩn đoán những bệnh có khả năng điều trị được. Những bệnh gan có khả năng điều trị được bao gồm viêm gan siêu vi B và C mạn tính, đái tháo đồng đen, bệnh Wilson, viêm gan tự miễn và thiếu men alpha-1-antitrypsin. NHỮNG LOẠI MEN GAN KHÁC:
  12. Ngoài AST và ALT, còn có những loại men gan khác bao gồm alkaline phosphatase, 5'-nucleotidase ("5 prime" nucleotidase), lactate dehydrogenase (LDH), và gamma-glutamyl transpeptidase (GGT) thường được khảo sát trong những bệnh gan. Alkaline phosphatase là một loại men gan khác thường được khảo sát. Nó thường được tìm thất ở thành của những ống mật trong gan và ngoài gan (những cấu trúc dạng ống ở gan để nối các tế bào gan với nhau). Tăng alkaline phosphatase có thể là chỉ điểm của tình trạng tổn thương các tế bào mật. Nguyên nhân thường gặp là sỏi mật và một số loại thuốc, tuy nhiên một số nguyên nhân được liệt kê phía trên cũng có thể làm tăng nồng độ của loại enzyme này.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2