Lê Thị Thu Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
118(04): 67 - 77<br />
<br />
MÔ HÌNH HÓA HỆ TRUYỀN ĐỘNG BÁNH RĂNG<br />
Lê Thị Thu Hà*<br />
Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài toán nghiên cứu động lực học hệ truyền động bánh răng trong các máy tổ hợp là một bài toán<br />
phức tạp, nhưng không thể bỏ qua, vì nó sẽ quyết định chất lượng điều khiển hệ truyền động sau<br />
này. Để có được một chất lượng điều khiển cao, cần có một mô hình toán mô tả động học hệ<br />
truyền động bánh răng đủ chính xác. Mục đích của bài báo này là xây một mô hình toán đủ chính<br />
xác về cấu trúc cho hệ truyền động bánh răng cho bài toán điều khiển. Mô hình toán của bài báo sẽ<br />
chứa đựng trong nó đầy đủ các thành phần quyết định đặc tính động học của hệ, bao gồm tính đàn<br />
hồi của vật liệu, khe hở và ma sát. Kết quả mô phỏng đã khẳng định khả năng ứng dụng tốt của mô<br />
hình vào điều khiển chất lượng cao cho hệ truyền động qua bánh răng.<br />
Từ khóa: Hệ truyền động bánh răng, mô hình toán, khe hở, moment ma sát.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
*<br />
<br />
Trong các máy chuyên dụng, máy tổ hợp và<br />
các máy tự động điều khiển theo chương trình<br />
không thể không có sự tham gia của các hệ<br />
truyền động và hệ truyền động qua bánh răng<br />
là một trong số các hệ truyền động được sử<br />
dụng rộng rãi nhất. Hình 1 mô tả cấu trúc vật<br />
lý cơ bản của hệ truyền động qua bánh răng.<br />
<br />
Hình 1. Cấu trúc vật lý hệ truyền động qua<br />
bánh răng<br />
<br />
Chất lượng điều khiển hệ truyền động nói<br />
chung và hệ truyền động qua bánh răng nói<br />
riêng giữ một vai trò quyết định tới năng suất,<br />
chất lượng của sản phẩm, tuổi bền của máy và<br />
đảm bảo môi trường làm việc cho người lao<br />
động. Vì vậy trong quá trình tính toán và thiết<br />
kế máy, người ta luôn phải tập trung nghiên<br />
cứu và áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật, để<br />
sao cho hệ truyền động nói riêng và các cơ<br />
cấu chấp hành nói chung làm việc được ổn<br />
định với dao động cho phép nằm trong giới<br />
hạn cho trước, tiếng ồn nhỏ, độ chính xác của<br />
biến đổi vận tốc, moment... cao [1].<br />
*<br />
<br />
Tel: 0977008928; Email: hahien1977@gmail.com<br />
<br />
Thêm nữa, đối với các máy tổ hợp sau một<br />
thời gian làm việc các yếu tố tác động nhiễu<br />
không mong muốn vào hệ truyền động qua<br />
bánh răng như ma sát, khe hở giữa các bánh<br />
răng, độ không cứng vững của vật liệu, sự<br />
mài mòn của vật liệu theo thời gian..., đã dẫn<br />
tới sự mất ổn định động lực học trong hệ<br />
truyền động. Mất ổn định động lực học là<br />
trạng thái nguy hiểm nhất xẩy ra khi tần số<br />
lực kích động có giá trị bằng hoặc xấp xỉ với<br />
tần số dao động riêng của hệ. Khi một quá<br />
trình gia công bị rơi vào trạng thái mất ổn<br />
định thì biên độ dao động của hệ rất lớn, làm<br />
cho hệ thống rung động mạnh, gây ồn và<br />
giảm độ chính xác cũng như chất lượng của<br />
sản phẩm.<br />
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình<br />
nghiên cứu về lý thuyết cũng như thực<br />
nghiệm nhằm giải thích nguyên nhân, bản<br />
chất của hiện tượng mất ổn định động lực<br />
học. Người ta đã đưa ra các giải pháp kỹ thuật<br />
chế tạo, bảo dưỡng cơ khí để tìm cách khống<br />
chế và loại trừ nó. Chẳng hạn như lắp thêm<br />
bánh đà, nâng cao độ chính xác khi chế tạo<br />
các chi tiết, điều chỉnh và lắp ráp theo các quy<br />
trình nghiêm ngặt, chấp hành các chế độ bảo<br />
quản bảo dưỡng và bôi trơn... [1],[4]. Mặc dù<br />
vậy các biện pháp này cũng chỉ giải quyết<br />
được một phần và có tính chất định kỳ.<br />
Trường hợp, do các yếu tố ngẫu nhiên xẫy ra<br />
bất thường tác động thì các biện pháp cơ khí<br />
không thể khắc phục ngay được.<br />
67<br />
<br />
Lê Thị Thu Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Do đó, để đáp ứng được yêu cầu đặt ra về ổn<br />
định động lực học cho hệ truyền động trong<br />
suốt thời gian làm việc, nâng cao tuổi thọ<br />
thiết bị thì bên cạnh các giải pháp cơ khí,<br />
người ta thường phải kết hợp sử dụng thêm<br />
các giải pháp điều khiển cho hệ truyền động<br />
[6] mà ở đây được hiểu là hệ thống điều khiển<br />
động cơ tạo moment dẫn động cho hệ truyền<br />
động như mô tả ở hình 2.<br />
<br />
Hình 2. Điều khiển hệ truyền động qua bánh răng<br />
<br />
Đến đây, ta lại gặp vấn đề cơ bản khác liên<br />
quan tới điều khiển là bên cạnh phương pháp<br />
điều khiển hợp lý, thì để có chất lượng điều<br />
khiển càng cao, mô hình toán mô tả hệ thống<br />
càng phải chính xác [2]. Đây cũng là nhiệm<br />
vụ nghiên cứu của bài báo này.<br />
Trong bài báo này, tác giả sẽ trình bày kết quả<br />
nghiên cứu về việc xây dựng mô hình toán<br />
mô tả hệ truyền động qua bánh răng. Mô hình<br />
toán này thu được hoàn toàn dựa trên phân<br />
tích lý thuyết về động lực học hệ bánh răng và<br />
các định luật cân bằng vật lý giữa các thành<br />
phần cơ trong nó. Nói cách khác ở đây chưa<br />
áp dụng thêm các phương pháp thực nghiệm<br />
để xác định những tham số hay các thành<br />
phần bất định của mô hình. Bởi vậy tính<br />
chính xác của mô hình đề xuất trong bài báo<br />
mới chỉ khẳng định được ở phần cấu trúc của<br />
mô hình.<br />
Như vậy, tính chính xác của mô hình toán thu<br />
được cho hệ truyền động qua bánh răng ở đây<br />
mới chỉ được đảm bảo về mặt cấu trúc. Tuy<br />
nhiên mô hình toán này đã mô tả được chính<br />
xác tối đa quan hệ qua lại giữa các thành phần<br />
bất định tác động ngẫu nhiên trong hệ, như<br />
dao động, ma sát, khe hở giữa các bánh răng,<br />
độ không cứng vững của vật liệu, sự mài mòn<br />
của vật liệu....<br />
<br />
68<br />
<br />
118(04): 67 - 77<br />
<br />
PHÂN TÍCH ĐỘ NG LỰ C HỌ C HỆ<br />
BÁNH RĂNG<br />
Động lực học có tính tới yếu tố đàn hồi<br />
Ảnh hưởng các yếu tố đàn hồi trong hệ thống<br />
truyền động có liên quan mật thiết tới chuyển<br />
động của cơ cấu chấp hành 0. Ví dụ như ảnh<br />
hưởng do biến dạng đàn hồi của các bộ truyền<br />
dây đai, các trục công tác đặc biệt trục chính của<br />
các máy công cụ, các cặp bánh răng bị biến<br />
dạng đàn hồi trong quá trình ăn khớp, các khâu<br />
thanh truyền trong các cơ cấu truyền động ví dụ<br />
như đối với cơ cấu bốn khâu bản lề...<br />
Để thấy rõ yếu tố đàn hồi có ảnh hưởng tới<br />
chuyển động của máy hãy xét các trường hợp<br />
hai bánh răng được gắn trên một trục, nếu<br />
xem chúng là một khâu rắn tuyệt đối thì rõ<br />
ràng vận tốc góc của bánh răng i sẽ có cùng<br />
giá trị và chiều quay với bánh răng i + 1 ở<br />
hình minh họa 3, nhưng khi trục của nó có độ<br />
cứng ci thì trong quá trình chuyển động, vận<br />
tốc của chúng sẽ không bằng nhau. Điều đó<br />
cũng sẽ xẫy ra tương tự đối với các trường<br />
hợp bộ truyền đai, bộ truyền bánh răng cũng<br />
như đối với cơ cấu 4 khâu bản lề.<br />
Động lực học kể tới các yếu tố khe hở<br />
(backlash)<br />
Trong hệ thống truyền động cơ khí luôn luôn<br />
tồn tại khe hở giữa các thành phần của khớp<br />
động ví dụ như: Khe hở trong các ổ đỡ, bộ<br />
truyền dây đai, bộ truyền xích truyền động<br />
vít- đai ốc, truyền động trục vít-bánh vít và<br />
khe hở của các cặp bánh răng ăn khớp. Các<br />
khe hở nói trên tồn tại là do có sai số trong<br />
quá trình chế tạo, lắp ráp và mòn, ngoài ra các<br />
khe hở có thể được xuất hiện do trong quá<br />
trình làm việc các tiết máy bị biến dạng đàn<br />
hồi. Các khe hở trong máy có ảnh hưởng trực<br />
tiếp tới chuyển động của cơ cấu chấp hành,<br />
gây ồn và giảm nhanh tuổi bền của máy.<br />
Mặt khác khi tồn tại các khe hở trong máy thì<br />
bài toán động lực học trở nên rất phức tạp, do<br />
khe hở mà số bậc tự do của hệ thống truyền<br />
động tăng lên và bài toán trở nên không xác<br />
định. Ví dụ:<br />
Ảnh hưởng của khe hở trong các khớp quay.<br />
Hình 4 biểu diễn một khớp loại thấp, đó là<br />
<br />
Lê Thị Thu Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
sử có hai khâu động i và i + 1 được nối với<br />
nhau bằng một khớp động tịnh tiến trên hình<br />
5. Do giả thiết có khe hở δy và δx vì thế vị<br />
trí tâm O của con trượt thuộc khâu i + 1 chỉ<br />
được xác định khi biết được hai tọa độ x + 1<br />
và y + 1 . Điều đó chứng tỏ rằng khi một khớp<br />
tịnh tiến có khe hở cũng sẽ làm tăng bậc tự do<br />
của hệ thống truyền động lên 2.<br />
Như vậy nếu có i khớp loại thấp, bao gồm<br />
khớp quay và khớp tịnh tiến hay còn gọi là<br />
khớp loại p5 , có chứa khe hở thì số bậc tự do<br />
của hệ tăng lên w p 5 = 2i .<br />
<br />
khớp quay quay hình trụ, do có khe hở<br />
δ max = D − d , nên để xác định được vị trí tọa<br />
độ trọng tâm của trục, khi đã biết tọa độ<br />
trọng tâm của ổ thì cần phải xác định được<br />
thêm hai thông số x và y . Như vậy trong hệ<br />
thống truyền động, khi mỗi khớp quay, hay<br />
còn gọi là khớp loại thấp p5 , có xuất hiện<br />
khe hở thì nó sẽ làm tăng số bậc tự do của hệ<br />
thêm 2 [1],[2].<br />
Ảnh hưởng của khe hở trong các khớp tịnh<br />
tiến. Đối với khớp tịnh tiến cũng là khớp loại<br />
thấp do thành phần khớp động là bề mặt, giả<br />
<br />
ci<br />
<br />
mi , Jsi<br />
<br />
118(04): 67 - 77<br />
<br />
ci<br />
mi +1 , Jsi +1<br />
<br />
mi , Jsi<br />
<br />
mi +1 , Jsi +1<br />
<br />
Oi +1 mi +1 , Jsi +1<br />
ci<br />
<br />
t<br />
n<br />
Oi<br />
mi , Jsi<br />
<br />
Hình 3. Biến dạng đàn hồi của các khâu trong máy<br />
<br />
y<br />
<br />
D<br />
d<br />
<br />
i<br />
<br />
i<br />
yi +1<br />
yi<br />
<br />
i +1<br />
<br />
δ<br />
<br />
Oi +1<br />
<br />
i +1<br />
<br />
Oi<br />
<br />
x<br />
<br />
O<br />
xi x i +1<br />
<br />
Oi +1<br />
<br />
δ max = D − d<br />
<br />
Hình 4. Khe hở trong các khớp quay<br />
<br />
69<br />
<br />
Lê Thị Thu Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
y<br />
<br />
118(04): 67 - 77<br />
<br />
bi<br />
<br />
i<br />
δy<br />
<br />
yi +1<br />
<br />
i +1<br />
<br />
ai<br />
<br />
ai+1<br />
<br />
yi<br />
<br />
O<br />
<br />
δx<br />
<br />
bi +1<br />
<br />
δbmax = bi − bi +1<br />
<br />
x<br />
<br />
xi xi +1<br />
<br />
δa max = ai − ai +1<br />
<br />
Hình 5. Khe hở trong các khớp tịnh tiến<br />
<br />
Ảnh hưởng của khe hở trong các khớp loại<br />
cao. Khớp động loại cao là những khớp động<br />
mà các thành phần của khớp khi tiếp xúc với<br />
nhau là đường hoặc điểm [1]. Ví dụ các khe<br />
hở trong các khớp loại cao được sử dụng<br />
trong máy thường xuất hiện ở chỗ tiếp xúc<br />
giữa con lăn với rãnh định hướng của nó<br />
trong cơ cấu cam, hay chỗ tiếp xúc giữa các<br />
đôi răng ăn khớp của các cặp bánh răng và<br />
khe hở trong bộ truyền bánh vít trục vít.<br />
Các khe hở trong các cơ cấu nói trên thường<br />
xuất hiện do mòn bởi có hiện tượng trượt giữa<br />
hai thành phần khớp động [1], hoặc trong quá<br />
trình làm việc hoặc do sai số trong quá trình<br />
lắp ráp, chế tạo. Đặc biệt trong các hệ thống<br />
truyền động phần lớn sử dụng các cơ cấu<br />
bánh răng để biến đổi chuyển động hay<br />
truyền năng lượng, khe hở của các cặp bánh<br />
răng có thể xẩy ra do sai số kích thước trong<br />
quá trình chế tạo và lắp ráp hoặc điều chỉnh<br />
không chính xác, hoặc sau một thời gian làm<br />
việc các biên dạng răng bị mòn do các thành<br />
phần ma sát trên các bề mặt tiếp xúc, các<br />
trường hợp nói trên đều dẫn tới việc tạo ra các<br />
khe hở cạnh răng, khe hở cạnh răng luôn luôn<br />
được đo trên đường pháp tuyến chung n − n<br />
của các cặp biên dạng đối tiếp. Do đó khe hở<br />
cạnh răng xẩy ra trong trường hợp:<br />
tNi ≠ tNi +1 (1)<br />
<br />
Nếu gọi δ là khe hở cạnh răng ta có:<br />
70<br />
<br />
δ = tNi − tN (i +1) (2)<br />
<br />
Vì δ luôn có gia trị dương, nên có thể viết độ<br />
lớn của khe hở trong bộ truyền bánh răng<br />
dưới dạng:<br />
δi (i +1) = tNi − tN (i +1) (3)<br />
<br />
Khi tNi > tN (i +1) và ngược lại:<br />
δ (i +1)i = tN (i +1) − tNi (4)<br />
<br />
trong đó tNi và tN (i +1) là bước răng đo trên<br />
vòng tròn cơ sở của hai cặp biên dạng răng<br />
đối tiếp vì thế:<br />
tNi =<br />
<br />
2π r0(i +1)<br />
2π r0i<br />
(5)<br />
, tNi +1 =<br />
zi<br />
z (i +1)<br />
<br />
Nhưng do còn có:<br />
r0i = rLi cos α L , r0(i +1) = rL (i +1) cos α L (6)<br />
<br />
nên:<br />
tNi =<br />
<br />
2π rL (i +1) cos α L<br />
2π rLi cos αL<br />
(7)<br />
, tNi +1 =<br />
zi<br />
z (i +1)<br />
<br />
Thay (7) vào (3) và (4), ta có:<br />
δi (i +1) = tLi − tL (i +1)<br />
<br />
trong đó: tLi , tL (i +1) là bước răng của hai bánh<br />
răng ăn khớp i và i + 1 được đo trên vòng<br />
tròn lăn [1].<br />
<br />
Lê Thị Thu Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
n<br />
<br />
118(04): 67 - 77<br />
<br />
δ<br />
<br />
αL<br />
<br />
P<br />
<br />
t<br />
<br />
P<br />
<br />
t<br />
n<br />
<br />
αL<br />
<br />
δ<br />
<br />
rLi<br />
<br />
ω1<br />
O<br />
<br />
O<br />
<br />
Hình 6. Khe hở trong các khớp động loại cao<br />
<br />
Do có tồn tại khe hở giữa hai trục bánh răng<br />
với các ổ bi đỡ trục nên trong quá trình<br />
chuyển động tọa độ tâm quay của các trục<br />
thay đổi, nên khe hở ăn khớp của cặp bánh<br />
răng cũng thay đổi theo thời gian t , khe hở<br />
đó có thể được xác định theo công thức được<br />
viết dưới dạng tổng quát:<br />
δi (t ) = (xi − xi +1)sin αLi + (yi − yi +1)cos αLi +<br />
(8)<br />
+ riθi − ri +1θi +1<br />
δ(i +1) (t ) = (xi +1 − xi +2 )sin αL(i +1) + (yi +1 − yi +2 )cosαL(i +2) +<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
+ ri +3θi +3 − ri +4θi +4<br />
<br />
(9)<br />
trong đó xi và yi là tọa độ tâm quay của các<br />
bánh răng thứ i , αLi là góc ăn khớp, ri là bán<br />
kính vòng tròn lăn, θi là góc quay của bánh<br />
răng thứ i .<br />
Ảnh hưởng khe hở tới số bậc tự do của hệ<br />
thống truyền động. Thông thường trong một<br />
hệ thống truyền động cơ khí người ta sử dụng<br />
các khớp loại thấp p5 và khớp loại cao p4<br />
như đã nêu trên.Vậy giả sử trong hệ thống<br />
truyền động phẳng nếu có i khớp p5 và j<br />
khớp p4 tồn tại khe hở, thì số bậc tự do của<br />
hệ sẽ tăng lên WB bậc tự do. Nếu gọi W0 là<br />
số bậc tự do của hệ khi không có khe hở, thì<br />
khi xuất hiện các khe hở thì bậc tự do của hệ<br />
sẽ tăng lên là:<br />
W = W0 +WB (10)<br />
<br />
Hay W = W0 + 2i + j (11)<br />
trong đó i là khớp loại thấp có khe hở, j là<br />
số số khớp loại cao có khe hở, W0 là số bậc<br />
tự do ban đầu của hệ thống truyền động khi<br />
hệ thống không có khe hở và W là số bậc tự<br />
do của hệ thống truyền động.<br />
Rõ ràng một hệ truyền động cơ khí khi tồn tại<br />
khe hở trong các khớp động thì số bậc tự do W<br />
của hệ sẽ tăng lên, do tồn tại khe hở mặc dù có<br />
thể rất bé bé nhưng sẽ làm cho hệ thống<br />
chuyển động không hoàn toàn xác định, dẫn<br />
tới chuyển động của cơ cấu chấp hành cũng<br />
không xác định, nó sẽ phát sinh các nhiễu động<br />
phi tuyến trong quá trình máy làm việc và tạo<br />
ra các xung va đập trong máy. Làm cho độ tin<br />
cậy của của cơ cấu chấp hành không cao.<br />
Để hạn chế ảnh hưởng gây ra do các khe hở<br />
trong các khớp động người ta cũng đã tiến<br />
hành thực hiện các quy định nghiêm ngặt<br />
trong quá trình thiết kế chế tạo các tiết máy,<br />
cũng như lắp ráp vận hành sữa chữa và bảo trì<br />
bảo dưỡng máy, tuy nhiên để đảm bảo bảo hệ<br />
thống hoàn toàn không có khe hở là một điều<br />
khó tránh khỏi.<br />
Ảnh hưởng khe hở tới chuyển động của máy.<br />
Như phân tích trên cho thấy một hệ thống<br />
truyền động khi tồn tại các khe hở sẽ dẫn tới<br />
làm tăng số bậc tự do W của hệ thống, do đó<br />
hệ thống chuyển động không xác định, gây ra<br />
<br />
71<br />
<br />