Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, tập 17. 2012. ISSB 978-604-913-106-6<br />
<br />
MÔ HÌNH TOÁN PHỤC VỤ ĐÁNH GIÁ SỨC TẢI MÔI TRƯỜNG KHU<br />
VỰC VỊNH HẠ LONG- BÁI TỬ LONG<br />
VŨ DUY VĨNH, TRẦN ĐỨC THẠNH, CAO THỊ THU TRANG<br />
<br />
Viện Tài nguyên và Môi trường biển, 246 Đà Nẵng Ngô Quyền, Hải Phòng<br />
Email: vinhvd@imer.ac.vn<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Khái niệm sức tải môi trường lần đầu tiên được các nhà khoa học Mỹ sử dụng khi xác<br />
định mật độ chăn thả gia súc phù hợp tại cao nguyên Kaibad vào đầu thế kỷ 20 [6]. Đến nay,<br />
việc đánh giá sức tải đã được áp dụng vào nhiều lĩnh vực trong đó có tài nguyên và môi<br />
trường biển. Đối tượng đánh giá sức tải môi trường không chỉ là một vài yếu tố liên quan trực<br />
tiếp mà tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau có tác động qua lại chịu ảnh hưởng lẫn nhau [3].<br />
Vì vậy cần có những đánh giá tổng hợp, có tính hệ thống và mang tính định lượng.<br />
Trong các thủy vực cũng như các hệ sinh thái luôn diễn ra sự tương tác của rất nhiều yếu<br />
tố khác nhau [10] cần tính đến trong việc đánh giá sức tải môi trường mà để tổng hợp chúng<br />
thì chỉ có thể sử dụng các mô hình toán (MHT) học [3, 7]. Những ứng dụng mô hình đầu tiên<br />
có thể kể đến là các kết quả của mô hình thủy động lực (TĐL) để đánh giá các điều kiện TĐL,<br />
giới hạn hoạt động và di chuyển của các khối nước, trao đổi nước [1, 9, 18].<br />
Ngoài mô hình TĐL, các mô hình chất lượng nước (CLN)- sinh thái học được sử dụng để<br />
để nghiên cứu biến đổi, chuyển hóa của các nhóm chất dinh dưỡng, hữu cơ hòa tan trong môi<br />
trường nước [6, 7, 8, 13]. Những kết quả của mô hình theo hướng này không chỉ cung cấp sự<br />
hiểu biết về diễn biến của các quá trình chuyển hóa vật chất trong thủy vực mà còn có thể đưa<br />
ra những đánh giá định lượng về khả năng tiếp nhận thêm các chất gây ô nhiễm vào khu vực<br />
nghiên cứu [2, 9, 13]. Đóng góp khác của MHT cho đánh giá sức tải môi trường cũng đã được<br />
thực hiện là tính toán vận chuyển bùn cát và biến đổi địa hình của thủy vực [11, 14].<br />
Khu vực nghiên cứu nằm ở vùng biển ven bờ phía Đông Bắc của Việt Nam, giới hạn<br />
trong khoảng 106°58'-107°22' kinh Đông và 20°45'-21015 vĩ Bắc, thuộc tỉnh Quảng Ninh<br />
cách thủ đô Hà Nội khoảng 150km về phía Đông – Đông Bắc. Đây là vùng biển giàu tài<br />
nguyên thiên nhiên và tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội nhưng cũng đã và đang phải đối<br />
mặt với những thách thức về môi trường biển. Chính vì vậy, vấn đề đánh giá giới hạn tiếp<br />
nhận chất gây ô nhiễm hay sức tải môi trường ở khu vực này rất có ý nghĩa thực tiễn, đặc biệt<br />
là các kết quả mang tính định lượng. Trên cơ sở ứng dụng mô hình tổng hợp 3 chiều<br />
(Delft3D) với kịch bản được thiết lập khác nhau của mô hình TĐL, CLN, vận chuyển trầm<br />
tích và mô hình sinh thái ở khu vực vịnh Hạ Long (VHL)-Bái Tử Long (BTL), những kết quả<br />
nhận được đã có đóng góp quan trọng cho việc đánh giá sức tải môi trường ở khu vực này.<br />
2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
<br />
2.1. Tài liệu<br />
Các tài liệu cần thiết đã được sử dụng bao gồm các tài liệu thu thập và khảo sát về địa<br />
hình, khí tượng, thủy văn hải, CLN, sinh thái trong khuôn khổ đề tài: Nghiên cứu đánh giá<br />
sức tải môi trường và đề xuất các giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường VHL-BTL.<br />
Ngoài ra, các tài liệu về phương pháp ứng dụng mô hình và tài liệu liên quan khác cũng<br />
đã được sử dụng. Trên cơ sở những tài liệu này, các MHT học được thiết lập theo những kịch<br />
bản khác nhau cho khu vực này đã được tiến hành. MHT được sử dụng ở đây là các nhóm mô<br />
hình TĐL, chất lượng nước, vận chuyển trầm tích và mô hình sinh thái trên cơ sở mô hình<br />
213<br />
<br />
Delft3D do Viện thủy lực Delft (Hà Lan) nghiên cứu phát triển.<br />
<br />
2.2. Phương pháp<br />
Để có số liệu cho các biên mở biển của mô hình TĐL khu vực VHL-BTL, phương pháp<br />
NESTHD [4] đã được sử dung. Theo phương pháp này, các kết quả của mô hình với phạm vi<br />
lớn hơn (lưới thô) đã được sử dụng làm đầu vào cho các điều kiện biên mở của lưới tính khu<br />
vực nghiên cứu (lưới chi tiết).<br />
Lưới tính thô của mô hình cũng là hệ lưới cong trực giao với phạm vi vùng tính mở rộng<br />
ra tới gần đảo Bạch Long Vĩ (BLV). Miền tính này có kích thước khoảng 129km theo phương<br />
đông tây và 122km theo phương bắc nam, diện tích mặt nước khoảng 7905.94km2 được chia<br />
thành 130 x 128 điểm tính với các ô lưới có kích thước biến đổi từ 262.75-1357.75m. Theo<br />
phương thẳng đứng, lưới tính thô cũng sử dụng hệ tọa độ với 3 lớp nước với tỷ lệ từ mặt<br />
xuống đáy lần lượt là 33%, 34% và 33% độ sâu cột nước. Điều kiên biên của mô hình này là<br />
các hằng số điều hòa của các sóng triều chính O1, K1, P1, Q1, M2, S2 trong cơ sở dữ liệu thủy<br />
triều Fes2004 [12]. Điều kiện biên nhiệt-muối của mô hình này lấy từ số liệu trung bình tháng<br />
trong cơ sở dữ liệu WOA09 [19]. Số liệu gió dùng cho mô hình là số liệu quan trắc với tần<br />
suất 6h/lần tại BLV.<br />
Lưới tính chi tiết là hệ lưới cong trực giao, có phạm vi vùng tính bao gồm các vùng nước<br />
của VHL, vịnh BTL, vịnh Cửa Lục. Miền tính có kích thước khoảng 78 km theo chiều đông<br />
tây và 56 km theo chiều bắc nam, với diện tích mặt nước khoảng 1987.4km2 được chia thành<br />
327 x 286 điểm tính, kích thước các ô lưới biến đổi từ 65.25 đến 296.5m (hình 1). Các ô lưới<br />
tính theo chiều thẳng đứng sử dụng hệ toạ độ với 3 lớp nước với tỷ lệ từ mặt xuống đáy lần<br />
lượt là 33%, 34% và 33%.<br />
Đối với các điều kiện biên sông của mô hình chi tiết, sử dụng số liệu lưu lượng nước,<br />
nhiệt độ, độ mặn trung bình của các sông Chanh, sông Kinh Trai, sông Bình Hương, sông<br />
Trới, sông Diên Vọng và sông Mông Dương.<br />
<br />
Ghi chú:<br />
<br />
vị trí các biên mở<br />
<br />
Hình 1. Luới tính và vị trí biên mở mô hình thuỷ động lực vịnh Hạ Long- Bái Tử Long<br />
Mô hình vận chuyển trầm tích lơ lửng (TTLL) được xây dựng trên cơ sở các kết quả tính<br />
toán dự báo của mô hình TĐL, trong đó có phạm vi miền tính. Phạm vi vùng tính của mô hình<br />
lan truyền TTLL bao gồm các vùng nước của VHL-BTL, vịnh Cửa Lục, phía tây nam đảo<br />
Tuần Châu. Các biên mở sông là những nguồn cung TTLL chủ yếu cho khu vực tính bao<br />
gồm: sông Chanh, sông Hốt, khu vực Hùng Thắng, Sông Trới, sông Man, sông Diên Vọng và<br />
sông Mông Dương (Cửa Ông). Để đánh giá biến động địa hình ở một số khu vực trong VHLBTL, một số điểm tính của mô hình theo các mặt cắt (từ bờ ra) đã được đưa ra tại các khu vực<br />
phía ngoài Tuần Châu, Bãi Cháy, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông và Mông Dương.<br />
214<br />
<br />
Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, tập 17. 2012. ISSB 978-604-913-106-6<br />
<br />
Mô hình CLN và sinh thái học được thiết lập trên cơ sở các kết quả của mô hình TĐL.<br />
Các kết quả đó gồm: phạm vi miền tính, các vị trí biên cứng và biên mở, trường dòng chảy,<br />
độ sâu, trường nhiệt muối...v.v. Các thông số tính toán của mô hình CLN bao gồm: NO3,<br />
NH4, PO4, Si2O3, BOD, COD, năng suất sơ cấp do thực vật nổi (TVN).<br />
Các nhóm mô hình này được thiết lập và chạy với những kịch bản khác nhau, bao gồm:<br />
Hiện trạng (đặc trưng mùa): mùa mưa (tháng 9 năm 2008); mùa khô tháng 12 năm 2008). Các<br />
kịch bản này sử dụng các số liệu đo đạc tính toán thực tế ở khu vực nghiên cứu trong thời<br />
gian tính toán. Các kịch bản dự báo theo sự gia tăng tải lượng thải của các nhóm chất dinh<br />
dưỡng, hữu cơ và TTLL. Nhằm đánh giá ảnh hưởng của hoạt động khai thác khoáng sản đến<br />
biến đổi địa hình đáy khu vực nghiên cứu chúng tối đã thiết lập thêm các trường hợp tính: có<br />
khai thác khoáng sản và không có khai thác khoáng sản và so sánh hai trường hợp này.<br />
Điều kiện ban đầu cho lần chạy đầu tiên sử dụng các giá trị trung bình mùa của nhiệt độ,<br />
và các giá trị 0 cho độ mặn, mực nước và các nhóm dinh dưỡng, hữu cơ, TTLL. Sau lần chạy<br />
đầy tiên, điều kiên ban đầu của mô hiình sử dụng kết quả của trường nhiệt độ, độ muối và<br />
mực nước sau 30 ngày tính.<br />
Hiệu chỉnh và kiểm chứng độ tin cậy của mô hình<br />
Để đánh giá và hiệu chỉnh cho mô hình TĐL khu vực nghiên cứu, đã tiến hành phân tích<br />
và so sánh kết quả tính của mô hình với một số quan trắc về mực nước, dòng chảy, chất lượng<br />
nước trong thời gian tính toán. Đối với mực nước, sau lần hiệu chỉnh cuối, các kết quả tính<br />
toán cho thấy sai số bình phương trung bình giữa mực nước quan trắc và tính toán đều có giá<br />
trị nhỏ hơn 0.2m. Sai số này có thể chấp nhận được trong điều kiện địa hình khu vực tính<br />
phức tạp và biên độ dao động mực nước lớn như ở khu vực VHL-BTL. Dao động mực nước<br />
tính toán của mô hình với mực nước trong bảng thủy triều và quan trắc cũng cho thấy có sự<br />
phù hợp về pha triều và độ lớn. So sánh kết quả tính của mô hình và quan trắc dòng chảy, hàm<br />
lượng một số chất dinh dưỡng, hữu cơ trong khu vực nghiên cứu cũng cho thấy sự phù hợp.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Điều kiện thủy động lực và khả năng trao đổi nước<br />
Điều kiện TĐL có vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển, phát tán, hòa tan các chất<br />
gây ô nhiễm. Nó cũng là cơ sở để tính toán, đánh giá phân bố và biến động theo không gian và<br />
thời gian của các nhóm chất gây ô nhiễm. Đối với khu vực VHL-BTL, kết quả mô phỏng điều<br />
kiện TĐL ở đây cho thấy chế độ dòng chảy của khu vực này liên quan chặt chẽ đến dao động<br />
của thuỷ triều và dòng chảy tổng hợp thể hiện tính chất của dòng triều. Trường dòng chảy<br />
trong khu vực có vận tốc nhỏ khi mực nước đạt các cực trị và vận tốc lớn hơn trong các pha<br />
triều lên hoặc xuống. Trong pha triều xuống, vận tốc dòng chảy cực đại thường lớn hơn trong<br />
pha triều lên do sự kết hợp của dòng triều và dòng chảy từ sông đưa ra. Trường dòng chảy khu<br />
vực VHL-BTL có các hướng chủ đạo liên quan đến pha triều là hướng Bắc - Đông Bắc và Tây<br />
Bắc (triều lên) và hướng Nam - Tây Nam và Đông Nam (triều xuống). Tính chất dòng chảy<br />
tổng hợp giữa mùa mưa và mùa khô không có sự khác biệt nhiều do dòng triều quyết định tính<br />
chất của dòng chảy tổng hợp.<br />
Chính do tính chất dòng chảy tổng hợp biến động theo pha triều lên trong pha triều<br />
xuống, các chất gây ô nhiễm được dòng nước đưa mạng từ bờ ra phía ngoài (hình 2-a). Ngược<br />
lại trong pha triều lên, một phần nó lại bị đẩy trở lại vùng ven bờ (hình 2-b). Điều này khá<br />
quan trọng khí muốn giảm ảnh hưởng của chất ô nhiễm đến môi trường nước thì có thể chọn<br />
thời điểm xả thải hợp lý.<br />
<br />
215<br />
<br />
(a)<br />
<br />
(b)<br />
<br />
Hình 2. Trường dòng chảy khu vực vịnh Hạ Long - Bái Tử Long (a-triều lên; - triều xuống)<br />
<br />
Khả năng trao đổi nước là một trong những đặc điểm TĐL quan trọng ảnh hưởng lớn đến<br />
các quá trình biến đổi chất gây ô nhiễm trong thuỷ vực cũng như khả năng tiếp nhận chất ô<br />
nhiễm. Việc tính toán khả năng trao đổi nước được thực hiện qua đánh giá lưu lượng nước vào<br />
(ra) và thể tích nước của thủy vực. Những yếu tố này rất khó xác định hay đánh giá từ số liệu<br />
khảo sát vì thể tích, diện tích mặt cắt không chế khu vực trao đổi nước và vận tốc dòng chảy<br />
luôn biến động theo thời gian theo dao động của thủy triều. Tuy nhiên khi ứng dụng MHT thì<br />
<br />
216<br />
<br />
Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, tập 17. 2012. ISSB 978-604-913-106-6<br />
<br />
vấn đề này lại được giải quyết một cách khá dễ dàng do trong MHT việc tính toán này được<br />
thực hiện bằng phương pháp tích phân.<br />
Bảng 1. Lượng nước và tỷ lệ nước trao đổi trung bình ngày tại Vịnh Hạ Long –Bái Tử Long<br />
Lượng nước trao đổi<br />
(triệu m3)<br />
Khu vực<br />
<br />
Tỷ lệ nước trao đổi<br />
<br />
Diện tích Thể tích**<br />
(tr. m2)<br />
<br />
(tr. m3)<br />
<br />
Mùa mưa<br />
<br />
Mùa khô<br />
<br />
vào<br />
<br />
ra<br />
<br />
vào<br />
<br />
ra<br />
<br />
90,0<br />
<br />
90,3<br />
<br />
114,2<br />
<br />
109,2<br />
<br />
Mùa mưa<br />
<br />
Mùa khô<br />
<br />
vào<br />
<br />
vào<br />
<br />
ra<br />
<br />
ra<br />
<br />
Bãi Cháy<br />
<br />
22,4<br />
<br />
128,9<br />
<br />
Cẩm Phả<br />
<br />
117,0<br />
<br />
1003,3<br />
<br />
1304,0 1360,5 1591,8 1643,1<br />
<br />
1,3<br />
<br />
1,356 1,586 1,638<br />
<br />
Giữa Vịnh BTL<br />
<br />
183,1<br />
<br />
2207,1<br />
<br />
2670,9 2688,3 3256,9 3263,1<br />
<br />
1,21<br />
<br />
1,28 1,476 1,479<br />
<br />
Giữa Vịnh HL<br />
<br />
275,8<br />
<br />
2652,0<br />
<br />
1850,4 1877,3 2286,0 2300,7 0,698 0,708 0,862 0,868<br />
<br />
Vịnh Hạ Long<br />
<br />
361,6<br />
<br />
2927,2<br />
<br />
1760,6 1882,2 2219,8 2289,2 0,601 0,643 0,758 0,782<br />
<br />
Vịnh BTL<br />
<br />
359,6<br />
<br />
3755,1<br />
<br />
2442,7 2434,2 2963,3 2933,7<br />
<br />
Vịnh Cửa Lục<br />
<br />
22,9<br />
<br />
125,1<br />
<br />
Vịnh HL-BTL *<br />
<br />
721,1<br />
<br />
6682,3<br />
<br />
27,7<br />
<br />
70,4<br />
<br />
45,0<br />
<br />
70,0<br />
<br />
4203,3 4316,4 5183,1 5222,8<br />
<br />
0,698 0,701 0,886 0,848<br />
<br />
0,65<br />
<br />
0,648 0,789 0,781<br />
<br />
0,222 0,563 0,36 0,559<br />
0,63<br />
<br />
0,65<br />
<br />
0,78 0,78<br />
<br />
Ghi chú: * giới hạn bởi bờ và các mặt cắt HL1, HL5, HL6, BTL1, BTL1, BTL2, BTL3, 4SL4; ** tính<br />
trung bình khi dao động mực nước biến đổi từ 0-4m<br />
<br />
Đối với khu vực VHL, để tính toán trao đổi nước, đã chia khu vực này thành các miền<br />
nhỏ ứng với mỗi khu vực nhỏ khác nhau. Các miền nhỏ này bao gồm Bãi Cháy, Cẩm Phả, khu<br />
vực giữa VHL, giữa Vịnh BTL, cả VHL, cả Vịnh BTL và toàn bộ khu vực VHL-BTL. Tỷ lệ<br />
nước trao đổi được tính bằng tỷ số giữa lượng nước trao đổi (vào hoặc ra trên thể tích vực<br />
nước). Các kết quả tính toán (bảng 1) cho thấy tỷ lệ nước vào (hoặc ra) so với thể tích thủy<br />
vực ở VHL trong một ngày đêm dao động trong khoảng từ 60 - 78%, khu vực Vịnh BTL tỷ lệ<br />
này khoảng 65-79%. Tỷ lệ nước vào (ra) so với thể tích toàn bộ VHL-BTL dao động trong<br />
khoảng 63-78% trong một ngày đêm. Khu vực ven bờ Cẩm Phả và giữa VHL có tỷ lệ trao đổi<br />
nước với xung quanh lớn hơn các khu vực khác. Trong khi đó, tỷ lệ nước vào (ra) so với thể<br />
tích khối nước ở vịnh Cửa Lục với giá trị biến đổi từ 22 đến 56% trong một ngày đêm, khá<br />
thấp so với các khu vực khác.<br />
Nhìn trên tổng thể toàn khu vực VHL-BTL, trao đổi nước mùa khô tốt hơn và cân bằng<br />
vào ra với tỷ lệ đều 78%, trao đổi nước mùa mưa kém hơn hẳn với tỷ lệ vào 63% và ra 65%<br />
với sự đóng góp của khối nước sông. Tuy nhiên, nhìn vào từng tiểu khu vực thì thấy bức tranh<br />
trao đổi nước không đồng nhất và thay đổi phức tạp giữa các tiểu khu vực và theo mùa. Nói<br />
chung, ở tất cả các tiểu khu vực trao đổi nước mùa mưa đều kém hơn mùa khô và cân bằng ra<br />
lớn hơn cân bằng vào, trừ vịnh BTL ít chịu ảnh hưởng của sông, cân bằng này là tương đương.<br />
Vào mùa khô có hiện tượng dồn nước cục bộ ở VHL, đặc biệt là tại Bãi Cháy do hiện tượng<br />
217<br />
<br />