Một số đặc điểm của múa dân gian (Tạp chí Văn hoá dân gian Số 3 - 2006)
lượt xem 0
download
Múa dân gian là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của nhiều dân tộc Việt Nam, thể hiện qua các nghi lễ, lễ hội và sinh hoạt cộng đồng. Các điệu múa dân gian thường phản ánh những hoạt động lao động, chiến đấu, và tín ngưỡng của người dân. Đặc điểm nổi bật của múa dân gian là sự kết hợp giữa âm nhạc, tiết tấu và động tác, tạo nên những màn biểu diễn sống động và đầy cảm xúc. Nghiên cứu và bảo tồn múa dân gian không chỉ giúp duy trì bản sắc văn hóa mà còn góp phần giáo dục các thế hệ về giá trị truyền thống và lịch sử của dân tộc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số đặc điểm của múa dân gian (Tạp chí Văn hoá dân gian Số 3 - 2006)
- TCVHDG s ó 3/2006 - NGHIÊN c ú u TRAO Đ ổ l 41 động tác biểu hiện th ế giói tâm linh của con người (cầu mong sự che chỏ, phù hộ của các MỘT SỐ ĐẶC Đlến/I đấng thần linh, trời, Phật... ). Ngoài ra, từ thuở xa xưa, qua các điệu múa, người dân CỦA Mún DÂN GIAN còn muôn truyền lại các kinh nghiệm lao động sản xuất, săn bắt... Múa dân gian còn ỨNG DUY THỊNH thê hiện những hành vi ứng xử của con người, tạo môi trường không gian để con 'VI lệt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều người đến vối nhau. Đặc điểm này thể hiện S' có những điệu múa dân gian của dân rấ t rõ trong sinh hoạt văn hoá dân gian ở tộc mình. Các dân tộc Việt Nam đã để lại làng, bản như xoè vòng của dân tộc Thái, cho th ế hệ sau một kho tàng nghệ thuật xoè chiêng của dân tộc Tày. Hoặc có thể lấy múa quý giá. Nhìn từ góc độ nghệ thuật ví dụ rõ hơn như múa lăm vông của người múa, có thể nói di sản múa dân gian là cơ Lào. Có những điệu múa dân gian cũng sở tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi mang ý nghĩa đạo đức nhưng được thể hiện tộc người. Trong một xã hội hiện đại, khoa ở góc độ khác nhau. Ví dụ một sô điệu múa học kĩ thuật phát triển, di sản múa dân dân gian như múa dô (gắn với tục thờ Tản gian đôi với sự phát triển của ngành múa Viên), múa dậm (gắn với tục thờ Lý chuyện nghiệp Việt Nam trỏ nên rấ t quan Thường Kiệt), múa cờ lau tập trận (trong trọng. Muôn đổi mới, cách tân thì cần phải hội Hoa Lư), múa chèo tàu (gắn vối tục thờ nghiên cứu, xác định và hiểu đâu là giá trị các tưóng của Hai Bà Trưng), hay là múa đích thực cần phải kế thừa. Nói cách khác, dân gian trong hội đền Hùng, hội Gióng cần phải tìm ra hằng số giá trị của múa (gắn với tục thờ Phù Đổng Thiên Vương). dân gian. Những điệu múa đó tuy đơn giản, phức tạp Quan sát, nghiên cứu các điệu múa khác nhau, mức độ, quy mô khác nhau tuỳ dân gian, chúng ta có thể nhận biết được theo điểu kiện của từng địa phương, từng thái độ, ý thức, thẩm mĩ trong lao động của cộng đồng người... những đều thể hiện tình người xưa. Những hình ảnh trong chiến cảm của con người, đồng thời qua đó phản đấu, trong lao động sản xuất, trong các môi ánh những giá trị đạo đức cổ truyền của quan hệ xã hội, trong phong tục tập quán, nhân dân. Đó là lòng tôn kính và biết ơn trong đời sông tâm linh... được thể hiện với các anh hùng dân tộc. Những giá trị đó trong múa dân gian có vị trí và ý nghĩa được lưu giữ và tồn tại có tính bền vững quan trọng trong đời sông văn hoá của các trong dân chúng. Bài học đạo đức được thể tộc người. Múa dân gian biểu hiện tri thức hiện qua múa dân gian có ý nghĩa giáo dục văn hoá của quần chúng nhân dân, biểu đối vởi các th ế hệ; đó là lòng yêu nước, cuộc hiện bản chất múa của văn hoá dân tộc. sống tình nghĩa, tình yêu quê hương, thiên Múa dân gian phản ánh sức sáng tạo, tài nhiên... năng của nhân dân. Nếu như so sánh múa dân gian người Ngoài ra, múa dân gian còn có tác dụng Việt nói chung với múa dân gian của các thiết thực đôi với tình cảm và đời sông của nước khác, như múa dân gian Nga chẳng con người. Múa dân gian được thể hiện hạn, chỉ nghiên cứu riêng về “cường độ” (độ trong các lễ thức (múa tín ngưỡng). Những mạnh, nhẹ), tiết tấu (nhanh, chậm) đã có
- 42 ỨNG DUY THịNH - MỘT s ố ĐẶC DIÊM... sự khác nhau cơ bản. Đa số các bước chân tạo bổ sung của các thế hệ nô'i tiếp. Cấu của múa dân gian dân tộc Việt đều bước đi trúc mở của múa dân gian là luôn sẵn sàng rất nhẹ nhàng. Có nhà nghiên cứu cho đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc rằng, do người Việt chủ yếu là cư dân nông một sự điều chỉnh mổi cho hoàn chỉnh hơn. nghiệp sông ở đồng bằng, địa hình bằng Do những sáng tạo của múa dân gian mang phẳng, có thói quen đi chân đất, thích một tính tự nguyện, thâu nhận vào mình một cuộc sống hiền lành, êm đềm... Vì thế, cách tự nhiên, tự nguyện, tự giác nên khác phong cách sông của họ đã ảnh hưởng đến với múa chuyên nghiệp, múa dân gian bước đi trong múa. Ngược lại, dân tộc Nga ở không cần phải xác định “quyền tác giả”. xứ lạnh, đương nhiên không ai đi chân Tác giả của múa dân gian chính là số đông không trên tuyết. Đôi giày đối với họ hết dân chúng, là nhiều vùng, nhiêu thời đại. sức quan trọng. Vào mùa đông, đi từ nơi Múa dân gian là một hình thái múa khác về đến trước cửa nhà, mọi người đều phổ biến trong nhân dân. Thông qua các có thói quen dẫm th ậ t mạnh nhiều lần trên diệu múa, chúng ta thấy nó mang dấu ấn bậc cửa cho tuyết rơi xuống đất. Thói quen một cách sinh động cuộc sông lao động, đó đã được đưa vào múa dân gian. Nhiều chiến đấu, tình cảm, cách nghĩ và những điệu múa dân gian Nga, từ đầu cho đến quan điểm thẩm mĩ của các cộng đồng, các cuô'i tác phẩm, môtip chính chỉ là động tác tộc người, xuất phát từ những điều kiện địa dậm chân. Những động tác đó được thể lí, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng hiện ở những cường độ, tiết tấu khác nhau, của các dân tộc khác nhau. Sự khác nhau tạo nên sức hâ'p dẫn khác nhau. Nếu so đó xét về một khía cạnh nào đó cũng chính sánh về tiết tấu, nhịp độ thì múa Nga là sự thể hiện bản sắc riêng của từng dân nhanh và mạnh hơn hẳn múa Việt. Nhanh tộc. và chậm đó cũng là biểu hiện sắc thái, tình Múa dân gian được cách điệu từ cuộc cảm, thẩm mĩ rấ t quan trọng trong nghệ sông lao động, sinh hoạt... của nhân dần. thuật múa, bản sắc dân tộc của múa. Trong kho tàng múa dân gian Việt Nam Qua ví dụ vừa nêu, có thê thấy rằng, mà cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được, một trong những đặc điểm của múa dân chiếm sô" lượng lớn là các điệu múa thể hiện gian của người Việt là tính chất nhẹ nhàng, trong lao động nông nghiệp. Do đó, có thể uyển chuyển, chậm rãi. nói, múa người Việt thể hiện cuộc sông của Do luôn luôn tồn tại và phát triển qua các cư dân nông nghiệp. Ví dụ như múa gặt nhiều thê hệ, múa dân gian thường không lúa, múa chạy cày, múa xúc tép, múa soi có một cấu trúc ổn định, hay nói cách khác, đèn b ắ t cá,... đó là cấu trúc mở. Do có cấu trúc mở, múa Múa dân gian do mô phỏng hiện thực, dân gian không ngừng được bồi đắp và bổ nên mặc dù đã được cách điệu hoá vẫn sung những sáng tạo mới của các th ế hệ mang tới cho người xem những thông điệp tiếp theo với mục đích nhằm thoả mãn nhu sát thực. Điều này được thể hiện cả hai cầu văn hoá của cộng đồng, khu vực, quốc chiều. Chiều thứ nhất là tự thân điệu múa gia. Những bồi đắp mối, bổ sung mới được được “tác giả dân gian” ghi nhận trong thực dân chúng chấp nhận, lưu giữ và sử dụng tế, từ đó sáng tạo nên. Chiều thứ hai là sẽ trở thành di sản của văn hoá dân tộc, người thể hiện (người trình bày điệu múa) đồng thời là cơ sở, nền tảng cho những sáng cũng hết sức cô' gắng bắt chước hiện thực
- TCVHDG SỐ 3/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 43 cộng vói yêu tô sáng tạo cá nhân trong quá Thông qua hình ảnh các điệu múa dân trình thể hiện cũng mang lại những tín gian có thể cho chúng ta những thông tin hiệu chân thực và có sức hấp dẫn. về lịch sử, vê địa lí, về môi trường sinh Ví dụ, khi quan sát điệu múa dệt vải. thái. Đây là điệu múa dành cho nữ, vì thế, tính Việt Nam có nhiều sông nổi tiếng như chất của điệu múa là rấ t mềm mại, nhịp sông Hồng (ở miền Bắc), sông Hương (ở nhàng, nữ tính. Hai bước chân đốì nhau, miền Trung), sông Cửu Long (ở miên tiến lên đều đặn. Nhìn động tác này, nếu ai Nam)... Ngoài ra còn có rấ t nhiêu con sông biết chút ít về nghề dệt vải sẽ hình dung khác được phân bố khắp nơi như: sông Đáy, thấy hai chân cô gái như đang “đạp cửi” (bộ sông Mã, sông cả, sông Gianh, sông Đà phận chuyển sợi dọc của tấm vải). Hai tay Rằng,... Có lẽ, bắt nguồn từ đặc điểm địa lí mở ra, thu về trước bụng, đổi nhau trên Việt Nam có nhiều sông ngòi mà động tác dưởi đều đặn, m ắt nhìn gần theo dõi hai múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến bàn tay chuyển động. Người xem có thể trong múa dân gian của các dân tộc từ Bắc nhận ra ngay hình ảnh cô gái đang ngồi vào Nam. Những công việc lao động trên bên khung cửi dệt vải với hai bàn tay nhịp sông nước được bộc lộ ở những thao tác và nhàng đưa thoi. Có thể xem xét một ví dụ kĩ năng khác nhau. Vì thố, trong múa cũng khác, đó là múa chèo đò. Mặc dù múa tay biểu hiện ở những cường độ và tiết tấu không, nhưng người xem có thể cảm nhận khác nhau. được ngay không gian của vùng sông nước. Vởi dáng người khi đô vê phía trưởc, khi O một số nước châu Âu, mùa đông ngả vê phía sau, người xem có thể tưởng thường có băng, tuyết. Người dân đi lại tượng được hình ảnh của dòng sông, mái trên đường đều tỏ ra vội vã, khẩn trương. chèo và con thuyền. Các tộc người ở khu Có lẽ, họ di chuyển nhanh để tránh giá vực Tây Nguyên có động tác đánh chiêng lạnh ngoài trời, nếu phải đứng ở đâu chò cũng thể hiện rấ t rõ đặc điểm này. Cũng đợi ai, thường thì mọi người không chịu như động tác “chèo đò”, không có đạo cụ, đứng im. Và, đê cho cơ thê ấm nóng lên, họ động tác “đánh chiêng” chỉ dùng tay không đã liên tục dậm chân xuống mặt đất. Họ nhưng khi múa, người xem có thể hình dậm chân để cho tuyết rơi khỏi áo khoác, dung được ngay hình ảnh trong thực tế. đồng thời đê tránh rét. Đây là hình ảnh Một sô điệu múa phản ánh cuộc sống quen thuộc đôi vởi các nước xứ lạnh. Có lẽ, lao động, mặc dù đã được cách điệu hoá chỉ ỏ các nước băng giá người dân mởi có nhưng đều rấ t gần với đời thực. Từ đó có những động tác như vậy. Theo chúng tôi, thê nói rằng, tính hiện thực là một trong đây là lí do khởi nguồn cho một số điệu những đặc điểm của múa dân gian. múa dân gian châu Au. Như chúng tôi đã nêu ở trên, ở Đan Trong đời sông văn hoá tâm linh của Mạch, người ta đã sử dụng động tác giặt áo n h â n d â n có m ột loại m ú a đó là m úa tín của phụ nữ để sáng tạo nên một điệu múa ngưỡng. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là dân gian. Nội dung, hình ảnh nhận biết múa tín ngưỡng dân gian. Loại múa này trong các điệu múa dân gian đều rấ t gần tương đối phổ biến ở nhiều tộc người. Múa gũi với con người, nó thể hiện một cách tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi lễ. Ví sinh động tình yêu cuộc sông của họ đối với dụ, người Việt có múa tín ngưỡng hầu cuộc sông lao động, với thiên nhiên... bóng, còn gọi là múa lên đồng. Đây cũng là
- 44 ỨNG DUY THỊNH - MỘT s ó ĐẶC ĐlỂM... một hình thái múa dân gian rấ t độc đáo. người hầu đồng) thì ông đồng, bà đồng đã Loại múa này tồn tại, phát triển trong quá ngẫu hứng, sáng tạo mạnh hay nhẹ tuỳ trình hình thành tục thờ Mẫu và đạo Mẫu theo cường độ, sắc thái, tiết tấu trong thời ở Việt Nam. Múa hầu bóng là một bộ phận điểm đó. Tất nhiên, yếu tố chính vẫn là của chương trình lễ hội và nghi lễ đạo Mẫu. năng lực cảm nhận và biểu hiện của ông Nhìn từ góc độ tín ngưỡng thì động tác, đồng, bà đồng. Như vậy, trong hoàn cảnh điệu bộ của người múa thể hiện tiếng nói, ý này, múa dân gian đã được đẩy lên ở một nguyện của thánh thần. Nét độc đáo của mức độ cao hơn. múa hầu bóng đó là (theo quan niệm dân Cấu trúc của múa hầu bóng thuộc loại gian) phần xác (ông đồng, bà đồng) là của múa đơn (solo). Đây là múa một người con người, còn phần hồn là của thánh thần. nhưng phải thể hiện những nhân vật, Điều này nói lên sức tưởng tượng của con những giá đồng khác nhau. Vì thế, nó đòi người rấ t lớn. Con người và thánh thần có hỏi ở người thể hiện phải có kĩ thuật, kĩ xảo thể gần gũi, hoà quyện với nhau. Đây là lí nhất định. Khác với múa dân gian trong do làm cho các động tác múa trong hầu lao động, trong sinh hoạt... loại múa hầu bóng trở nên phóng khoáng và tự do hơn. bóng không phải ai cũng có thể múa được Nếu nhìn từ góc độ nghệ th u ậ t thì đây là mà nó đòi hỏi cần có một “năng khiếu”, một yếu tố rất đặc biệt của múa hầu bóng. Ông đồng, bà đồng, ngoài những động tác múa sự luyện tập tương đôi công phu, thậm chí mang tính quy ước cần phải thê hiện, còn phải có “căn đồng” mới có thể múa được. có những động tác ngẫu nhiên xuất hiện ở Ngoài lí do tín ngưỡng, múa hầu bóng phải thời điểm mà người ta gọi là nhập đồng tạo ra sức hấp dẫn, thu hú t mọi người. Sức (nhập hồn). Ông đồng, bà đồng thoạt đầu hấp dẫn là một trong những chức năng của ngồi trong tư thế tĩnh, tập trung cao, người nghệ thuật. Do đó, có thể nói, múa hầu ngoài có cảm giác họ quên hết mọi sự vật bóng còn mang yếu tô' biểu diễn. Múa hầu xung quanh, chỉ còn tiếng đàn phách của bóng có môi trường hoạt động đặc biệt như cung văn và lời khấn tụng của con nhang, chúng tôi đã phân tích ở trên. Nhìn từ góc đệ tử. Dần dần, ông đồng, bà đồng bắt đầu độ chuyên môn thì đây là điều kiện khách đảo vòng, xoay tròn từ th ắ t lưng trở lên. Từ quan để kích thích sự “thăng hoa” của vòng nhỏ đến vòng to, từ tiết tấu chậm đến người trình diễn. nhanh. Âm nhạc, tiết tấu, lời ca càng dồn Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đạo dập, thôi thúc, ông đồng, bà đồng càng Mẫu, thò Mẫu là một tục lệ đẹp của cộng xoay, đảo mạnh, càng ngây ngất, say sưa. đồng người Việt. Không chỉ ở miền Bắc mà Họ hâ't khăn đội đầu ra và thời điểm đó ở miền Trung và miền Nam cũng đều có được gọi là nhập đồng (nhập hồn). Động tác thờ Mẫu. múa lúc này không còn giữ được quy cách, khuôn định như ban đầu nữa. Tính ngẫu Hiện nay, những hoạt động lễ hội hứng được biểu hiện ở mức độ rấ t cao, có tương đối phát triển, thu hút khá đông nghĩa là cùng một thời điểm, con người vừa quần chúng nhân dân ở khắp mọi nơi. Múa trình diễn, vừa sáng tạo. Như vậy, trong hầu bóng là một trong những sinh hoạt văn môi trường nghi lễ, trong “thời điểm mạnh” hoá, tín ngưỡng không chỉ diễn ra vào cùng với sự tác động của khách quan (âm những dịp lễ hội mà còn phát triển bên thanh, đàn, nhạc, khói hương và những ngoài của lễ hội, do một số cá nhân tự tổ
- TCVHDG SỐ 3/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 45 chức. Đây là một hiện tượng múa dân gian SÔNG NƯỚC TRONG... rấ t độc đáo. (Tiếp theo tra n g 54) Ngoài múa hầu bóng của cộng đồng trình vĩ đại nhưng cũng phải bảo vệ những người Việt, còn có một sô' điệu múa trong cái gần gũi, thiết yếu là nguồn nưốc tự nghi lễ của một số tộc người như: người nhiên. Lũy tre và ao làng không thể trói Mường có múa mỡi, múa mo, múa sắc bùa; buộc con người hay ngăn cản sự đổi mới, người Tày có múa tung còn trong hội lồng nhưng sông nưốc, làng quê vẫn vô cùng tồng (xuống đồng), múa then, múa đi săn thiêng liêng trong tâm thức của người Việt thú, múa chèo thuyền; người Thái có múa Nam. Quá trình đô thị hóa và cuộc sông tín ngưỡng kinpangthen; người Dao có múa công nghiệp hiện nay đã khiến cho diện tích trong lễ cấp sắc, h át múa đám cưới, đám mặt nước tự nhiên hầu như đều bị thu hẹp tang, múa Tết nhảy (nhìang chằm đao); lại. Nguy cơ mất cân bằng trong môi trường người Chăm có múa trong lễ hội Chà Và, sinh thái cũng như sự mai một, khô cạn của múa trong lễ bóng, múa nhảy lửa, múa gậy, một nền văn hóa sông nước đã có tự nghìn múa roi; người Khơ Me có múa thày cúng, năm không phải chỉ là lời cảnh báo. múa trông lễ (trông xayăm) cúng trăng, Nhắm m ắt lại, ta không chỉ nghe tiếng múa dây bông (slatho) V.V.. gọi đò của Tú Xương từ con sông Lấp đã Như phân tích ở phần trên, múa dân mất, mà còn nghe âm vang, đồng vọng biết gian có một cấu trúc mở, nó không bất biến bao nhiêu tiếng gọi đò khác... u hoài và da diết! □ và luôn thu nhận những yếu tô" mới vào mình. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều N.T.T.T thê hệ, nó được bồi đắp, bổ sung cho phù TÀI LIỆU THAM KHẢO hợp và ngày càng hoàn chỉnh hơn.o Ư.D.T 1. Toan Ánh, “Ta về ta tắm ao ta” trong cuốn Lá rụng về cội, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.45. TÀI LIỆU THAM KHẢO 2. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 1. Lê Ngọc Canh, Múa tín ngưdng dân 2002, tr.256-257. gian Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. 3. Hồ Dzếnh, Một hồn thơ đẹp, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.248. 2. Lê Ngọc Canh, Khái luận nghệ thuật múa, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1997. 4. Nhiều tác giả, Đặc điểm khí hậu thủy văn Phú Yên, Nxb. Nông nghiệp phối hợp với sỏ 3. Vũ Tự Lân, “Âm nhạc và múa”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Phú Yên xuất bản, 1995, Nhịp điệu, số 3 năm 1995, Hà Nội. xem từ tr.90. 4. Lâm Tô Lộc, Múa dân gian trong các 5. Nguyễn Tuân, “Những chiếc ấm đất” dân tộc Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà (trích Vang bóng một thời), đã đăng trên tạp chí Nội, 1994. Tao đàn sô' 8 (16/6/1939). 5. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn 6. Nguyễn Tuân, “Người lái đò sông Đà”, hoá Việt Nam, Nxb. Thành phô' Hồ Chí Minh, Văn học 12, tập I, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.161. 1997 7. Trần Quốc Vượng chủ biên, Văn hóa học 6. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), Đạo Mau ở đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995, học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.366.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số đặc điểm của múa dân gian
4 p | 456 | 38
-
Thử tìm nguồn gốc hát sắc bùa Bến Tre
3 p | 82 | 6
-
Mùa thu trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
6 p | 86 | 4
-
ĐỀ KIỂM TRA 15 PHÚT MÔN LỊCH SỬ KHỐI 10 (Lần 02) TRƯỜNG THPT KRÔNG NÔ
2 p | 76 | 3
-
Một vài đặc điểm về ngôn ngữ trong nôm đường luật phan bội châu thời kỳ ở Huế
6 p | 90 | 2
-
Phương ngữ Huế trong một số tình huống giao tiếp mua bán hiện nay
20 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn