Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc
lượt xem 5
download
Báo cáo "Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc" trình bày một số đặc điểm và kết quả bước đầu của mô hình ĐQL nghề cá tại 3 hồ trong tỉnh Đắc Lắc. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỒNG QUẢN LÝ NGHỀ CÁ HỒ CHỨA TẠI TỈNH ĐẮC LẮC Lý Ngọc Tuyên Dương Tuấn Phương Tóm tắt Dự án quản lý nghề cá lưu vực Mê Kông triển khai tại Đắc Lắc‐Việt Nam bắt đầu từ tháng 8 năm 1995 với mục tiêu trước mắt là nâng cao năng lực cho các cơ quan thủy sản liên quan về hoạch định và quản lý nghề cá hồ chứa trên cơ sở bền vững. Đồng quản lý (ĐQL) đã được dự đoán như là kết quả cuối cùng cho mọi sự nỗ lực, điều này thể hiện trong mục tiêu lâu dài của Dự án là đạt được sản lượng thủy sản cao và bền vững thông qua việc quản lý hồ chứa có sự thống nhất giữa cộng đồng và chính quyền địa phương. Trong giai đoạn 1, trọng tâm của Dự án là tập trung vào đào tạo cho nhân viên Dự án và các cơ quan hữu quan, đồng thời tiến hành các nghiên cứu về sinh học và kinh tế xã hội tại 6 hồ được chọn có diện tích mặt nước từ 6 ha đến 658 ha, ở tỉnh Đắc Lắc. Giai đoạn 2 của Dự án bắt đầu từ tháng 3 năm 2000. Mục tiêu trước mắt của giai đoạn này là thiết lập, triển khai và nhân rộng mô hình ĐQL bền vững nhằm đạt được sản lượng thủy sản tối ưu trong các hồ chứa. Do đặc điểm, tính chất khác nhau của các hồ nghiên cứu và có sự đồng thuận của các bên liên quan nên Dự án đã chọn được 3 hồ thích hợp để tiến hành mô hình ĐQL là hồ Lắc, hồ Easoup và hồ Buôn Tría. Dự án đã tổ chức nhiều cuộc họp, tập huấn và hội thảo cho các ngư dân, chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan để đi đến thống nhất thành lập các mô hình ĐQL nghề cá hồ chứa tại các hồ đã chọn ở tỉnh Đắc Lắc. Từ khi các Hội Nghề cá được thành lập và đi vào hoạt động, tình hình các hồ được cải thiện đáng kể, nguồn lợi thủy sản được sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả, đời sống ngư dân sống quanh các hồ cũng được nâng lên rõ rệt. Báo cáo này trình bày một số đặc điểm và kết quả bước đầu của mô hình ĐQL nghề cá tại 3 hồ trong tỉnh Đắc Lắc. 1. Giới thiệu Đắc Lắc là một trong 5 tỉnh ở Tây Nguyên hiện có khoảng 500 hồ chứa với diện tích ước tính 10.500 ha (Quy hoạch phát triển thủy sản tỉnh Đắc Lắc 2005‐2010). Sản lượng trung bình hàng năm giữa các hồ chứa có thay đổi từ 300 đến 350 kg/ha/năm. Tuy nhiên, việc quan tâm phát triển nghề cá hồ chứa trong tỉnh chỉ được chú trọng trong những năm gần đây. Việc đầu tư của người sử dụng nguồn lợi và chính quyền địa phương còn ít được quan tâm. Việc đầu tư xây dựng các hồ chứa trong tỉnh chủ yếu phục vụ cho tưới tiêu, phát triển nông nghiệp và các công trình thủy điện trong vùng. Dân số tỉnh Đắc Lắc gia tăng tương đối nhanh, từ 1,7 triệu người năm 1999 lên 2,2 triệu người năm 2005 (Niên giám thống kê Đắc Lắc 2005). Cá nước ngọt là nguồn protein động vật chính và rẻ nhất cung cấp chủ yếu cho dân số ngày càng tăng. Theo ước tính, khoảng 70% nguồn cá cung cấp trong tỉnh là cá biển. Do đó nhu cầu cá nước ngọt của người dân ngày 172 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc càng nhiều và các cấp chính quyền địa phương đã bắt đầu chú ý đến việc phát triển nghề cá hồ chứa trong vùng. Nghề cá tại 3 hồ Lắc (658 ha), hồ Easoup (240 ha), và hồ Buôn Tría (141 ha) trong tỉnh nơi Dự án đang triển khai có tiềm năng tương đối lớn về thuỷ sản, được khai thác tự do từ khá lâu, ít được quản lý do đó sản lượng cá tại các hồ này đã bị giảm sút nghiêm trọng do số người đánh cá tăng nhanh, sử dụng các phương tiện hủy diệt để đánh cá như: chất độc, thuốc nổ, xung điện và các loại lưới có kích cỡ mắt lưới nhỏ... Để giải quyết tình trạng này, Dự án đã phối hợp với chính quyền địa phương, các ban ngành liên quan và ngư dân tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo để xác định, lựa chọn và cuối cùng đã chấp nhận mô hình ĐQL nghề cá hồ chứa để áp dụng tại 3 hồ này. Từ năm 1999 đến năm 2002, các Hội Nghề cá được thành lập tại các hồ Lắc, Easoup và Buôn Tría. Kể từ đây một mô hình quản lý nghề cá mới đã được thiết lập, cuộc sống của ngư dân sống quanh hồ được cải thiện rõ rệt, nguồn lợi trong các hồ được sử dụng một cách hiệu quả. Chính quyền điạ phương, các ban ngành và người dân cùng chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm trong việc sử dụng và quản lý nguồn lợi thủy sản một cách bền vững. 13.600 ( Hồ Easoup Huyện Easoup 13.200 12.800 Thành phố Buôn Mê Thuột 12.400 Hồ Buôn Tría Huyện Lắc 0 20 40 kilometers Hồ Lắc 12.000 107.444 107.844 108.244 108.644 109.044 Bản đồ tỉnh Đắc Lắc và các hồ Dự án triển khai mô hình ĐQL Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 173
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc 2. Quá trình thực hiện mô hình ĐQL Tại mỗi hồ chứa, trước tiên Dự án thảo luận về mục tiêu với chính quyền địa phương cấp huyện. Nếu được đồng ý, sẽ tổ chức một cuộc hội thảo tương tự ở cấp xã nơi có hồ chứa để Dự án triển khai thực hiện. Sau đó thảo luận nhóm về đánh giá nhanh nông thôn có dự tham gia cộng đồng (PRA) được tiến hành nhằm tìm ra các bên liên quan, các vấn đề và phương hướng giải quyết. Sau cùng, Dự án tiến hành xác định các hoạt động chi tiết cụ thể tiếp theo và cùng thảo luận với các bên liên quan, tổ chức các lớp tập huấn và hội thảo. Sau cuộc hội thảo ban đầu, người dân được tập huấn về môi trường. Số lượng lớp tập huấn tại mỗi hồ phụ thuộc vào số dân sinh sống tại đó. Tại lớp tập huấn này, các thành viên tham gia cũng được thảo luận về nhu cầu của việc quản lý nguồn lợi. Mong muốn chung từ các lớp tập huấn là sau này con em họ vẫn có cá để đánh bắt. Nhằm đạt được mục tiêu này, cần quản lý tốt nguồn lợi thủy sản và để thành công, cộng đồng ngư dân cần được tham gia vào quá trình quản lý này. Các ngư dân cũng nhận thức rằng một số loại ngư cụ họ đang sử dụng là không có lợi cho sự bền vững của nguồn lợi, nhưng họ vẫn phải dùng vì nhu cầu sinh sống của bản thân và gia đình họ. Các lớp tập huấn này cũng cho phép các thành viên tham gia vào Dự án xác định kế hoạch tiếp theo. Tại mỗi hồ, các tổ chức Hội Nghề cá được thành lập, và tùy thuộc vào điều kiện của từng hồ mà mục tiêu của hội có khác nhau. Ngoài ra, còn tổ chức nhiều lớp tập huấn tại các hồ chứa được chọn về tín dụng‐tiết kiệm và các nghề nghiệp thay thế cho nghề cá không bền vững như nuôi cá ao, lồng, làm lưới … Nhìn chung, mục tiêu của các Hội Nghề cá là bảo đảm tính bền vững của sản lượng thủy sản, nhằm duy trì ổn định mức sống cho cộng đồng ngư dân và cùng kết hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan trong việc quản lý nghề cá tại các hồ. Các lớp tập huấn trên đã hỗ trợ việc thực hiện các mục tiêu của hội, giúp khuyến khích việc quản lý tốt nghề cá và giúp ngư dân có sự lựa chọn để vẫn duy trì cuộc sống hiện tại trong khi vẫn ngăn chặn các hoạt động khai thác không bền vững. Tùy vào điều kiện của từng hồ mà các hội có những quy định riêng về đánh bắt và quản lý nguồn lợi. Sự cương quyết thi hành các quy định là một yếu tố rất quan trọng cho sự thành công của mô hình ĐQL. Hàng tháng, các nhân viên của Dự án theo dõi hoạt động của hội, tham gia vào các cuộc họp hàng tháng của hội để cùng tư vấn cho các hoạt động của hội như: tuần tra bảo vệ, thu phí đánh bắt, tín dụng tiết kiệm, góp vốn thả cá,... Dự án cũng tư vấn và liên hệ với chính quyền địa phương cũng như các cơ quan liên quan khi cần thiết. Các Hội Nghề cá hồ Lắc, hồ Easoup và hồ Buôn Tría đã nhận được sự hỗ trợ từ Hội Nghề cá Việt Nam và được tỉnh ra quyết định thành lập. 174 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc Tóm tắt quá trình thành lập và thực hiện mô hình ĐQL của Dự án Các thảo luận thăm dò với các bên liên quan Không ủng hộ=> Rút lui Ủng hộ Gặp gỡ các bên liên quan: Các bên liên quan=> Các vấn đề=> Hướng giải quyết=> Tiếp tục thăm dò các bên liên quan Xác định/tìm ra các vần đề: Mâu thuẫn? Các vấn đề chung? Các hoạt động? Cơ cấu đại diện cho ngư dân? Xác định các mối liên quan cần thiết Các hoạt động ban đầu (tập huấn/điều tra, ...) Sắp xếp các mối liên kết Xác định nhóm lãnh đạo tiềm năng Tổ chức nhóm lãnh đạo của cộng đồng/thiết lập mối liên quan với các cơ quan hữu quan Tổ chức bầu cử/thành lập Hội Nghề cá Tập huấn/phối hợp nghiên cứu/quản lý hành chính, kỹ thuật, hỗ trợ tài chính/liên hệ các cơ quan hữu quan Phối hợp với các bên liên quan xác định mô hình ĐQL Quyết định thành lập mô hình ĐQL Lập kế hoạch hoạt động, thực hiện, giám sát và đánh giá Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 175
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc 3. Mô hình ĐQL tại các hồ 3.1 . Mô hình ĐQL ở hồ Lắc UBND tỉnh Đắc Lắc Các cơ quan chức năng (Sở Nông UBND huyện Lắc (UBND thị trấn nghiệp và Phát triển nông thôn,Trung Liên Sơn, xã Yang Tao) tâm Khuyến nông, Sở Công an Hội Nghề cá hồ Lắc Chi hội thị trấn Liên Sơn Chi hội xã Yang Tao (114 hội viên) (102 hội viên) Tổ Tổ Tổ Tổ Tổ 1 2 3 4 5 3.2. Mô hình ĐQL hồ Easoup UBND thị trấn Easoup Ban Thủy nông Hội Nông dân Công an thị trấn Trung tâm Khuyến Hội Nghề cá hồ Easoup Easoup nông Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Tổ 4 176 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc 3.3. Mô hình ĐQL hồ Buôn Tría UBND xã Buôn Tría Công an xã Trạm Thủy nông Buôn Tría Hội Nghề cá Buôn Tría Trong các mô hình nói trên, chính quyền địa phương đã giao quyền và trách nhiệm quản lý cho các Hội Nghề cá. Dự án phối hợp với các hội phác thảo quy chế đánh bắt trình chính quyền địa phương cùng chỉnh sửa, bổ sung và các hội hoạt động dựa theo các quy chế này. Chính quyền địa phương hỗ trợ trong việc tuần tra bảo vệ trên hồ cùng với lực lượng công an, ban quản lý hồ, đồng thời cho phép các hội thu phí đánh bắt nhằm tạo kinh phí cho hội hoạt động như thả cá, tuần tra bảo vệ, chi phí hành chính hội họp... Chính quyền địa phương cũng tư vấn giám sát và giúp liên lạc với các ban ngành liên quan trong việc quản lý nguồn lợi. Dự án chính là cầu nối, xúc tiến giám sát hỗ trợ các hội hoạt động, liên lạc với các ban ngành và chính quyền địa phương. Hội Nghề cá báo cáo định kỳ tình hình hoạt động của hội cho các cấp chính quyền địa phương Chính quyền địa phương: Có trách nhiệm giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động hành chính của hội như: ban hành các quy chế đánh bắt, xử lý người vi phạm, hỗ trợ vốn thả cá nhằm tái tạo nguồn lợi trong hồ. Các ban ngành: Ban Thủy nông, Phòng Kinh tế, Ban Quản lý rừng, Trạm Khuyến nông... có trách nhiệm hỗ trợ kỹ thuật, quản lý và phối hợp với các Hội Nghề cá để quản lý nguồn lợi trong hồ, tuần tra bảo vệ, thu phí của ngư dân. Ngoài ra còn phối hợp với Dự án giúp đỡ hội tổ chức tập huấn về các ngành nghề thay thế, tạo công ăn việc làm mới cho ngư dân, giảm áp lực đánh cá trên các hồ. Họ cũng chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm quản lý nguồn lợi của các hồ. Các Hội Nghề cá: Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan để triển khai các hoạt động của mình như: thảo quy chế đánh bắt của hội, tìm phương hướng phát triển nghề cá, tuần tra bảo vệ nguồn lợi, thả cá tái tạo nguồn lợi và duy trì sản lượng, thành lập các tổ tín dụng tiết kiệm tạo nguồn vốn giúp đỡ nhau trong việc mua sắm ngư cụ đánh bắt, vận động, tuyên truyền không sử dụng các phương tiện đánh bắt hủy diệt trên hồ , định kỳ báo cáo hoạt động cho các ban ngành và chính quyền địa phương. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 177
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc 4. Một số kết quả bước đầu của mô hình Sau gần 5 năm hình thành và triển khai mô hình ĐQL, các Hội Nghề cá tỉnh Đắc Lắc đã đi vào hoạt động tương đối ổn định. Họ có thể tự lập kế hoạch và quyết định các hoạt động của mình như thu phí đánh bắt của bà con hội viên trong các hội, chi phí cho hoạt động của tổ bảo vệ, duy trì sinh hoạt của Ban Chấp hành, các tổ nghề cá, phối hợp với chính quyền địa phương giải quyết và xử lý các vi phạm quy chế của hội, lập kế hoạch thả cá và huy động bà con đóng góp tiền thả cá. Vận động ngư dân trong các hội góp tiền thả cá xuống hồ có ý nghĩa rất lớn đối với cộng đồng xung quanh hồ vì qua hoạt động này, mọi người nhận thức được rằng khai thác phải đi đôi với bảo vệ và duy trì nguồn lợi. Nâng cao thu nhập của ngư dân từ nghề cá , ổn định nguồn lợi trong hồ do biết cách khai thác và bảo vệ hợp lý. Năng lực quản lý của các hội viên cũng được phát huy và nâng cao. Qua sinh hoạt trong các tổ tín dụng tiết kiệm của hội, hầu hết người dân có ý thức hơn trong việc chi tiêu tiết kiệm, hạn chế lãng phí và giúp đỡ nhau trong việc mua sắm ngư cụ, đoàn kết phấn đấu xây dựng cuộc sống giàu đẹp hơn. Với tình trạng chung của các hồ chứa hiện nay là nguồn lợi bị cạn kiệt nghiêm trọng do số lượng người đánh bắt cá tăng nhanh hàng năm trong khi nguồn lợi có hạn, cộng với sự thay đổi bất thường của thời tiết thì việc áp dụng mô hình ĐQL cho nghề cá hồ chứa ở đây là rất cần thiết và phù hợp. Tình trạng sử dụng ngư cụ đánh bắt huỷ diệt trên hồ giảm rõ rệt. Khi nghề cá chưa được quản lý, tỷ lệ ngư cụ mang tính huỷ diệt so với các ngư cụ khác là 50% nhưng sau khi Hội Nghề cá các hồ thành lập và hoạt động, tình trạng sử dụng các ngư cụ này đã giảm hơn 80%, mọi người có ý thức hơn trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn lợi. Nâng cao ý thức cộng đồng của người dân qua việc thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân đối với hội. Quan hệ cộng đồng trong vùng cũng tốt hơn vì họ biết giúp đỡ nhau trong cuộc sống qua các hoạt động của Hội Nghề cá. 5. Những thuận lợi, khó khăn Thuận lợi: • Sự quan tâm của chính quyền tỉnh Đắc Lắc và các huyện, xã nơi triển khai mô hình đã tạo điều kiện tốt để các Hội Nghề cá hoạt động có hiệu quả. • Có sự tham gia tích cực và nhiệt tình của các thành viên trong Ban Chấp hành các Hội Nghề cá. Mặc dù đời sống của họ còn nghèo và khó khăn nhưng rất nhiệt tình trong sinh hoạt cộng đồng của các hội. • Sự giúp đỡ không hoàn lại của Dự án Quản lý nghề cá lưu vực sông Mê Kông cả về kỹ thuật lẫn tài chính và sự đồng lòng của đa số người dân trong hội. • Các hồ đang áp dụng mô hình này có rất nhiều thức ăn tự nhiên nên khi thả cá chúng phát triển rất nhanh và duy trì được sản lượng trong hồ cho người dân đánh bắt. Hầu như các ngư dân đều ủng hộ mô hình này. 178 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc Khó khăn: • Người dân di cư đến sống quanh hồ ngày càng đông gây khó khăn cho việc quản lý đánh bắt của các hội. • Vẫn còn một số đối tượng đang lén lút sử dụng các phương tiện đánh bắt mang tính huỷ diệt trên hồ để khai thác thuỷ sản. • Chưa thu triệt để được các khoản thu như phí đánh bắt, hội phí và phí tuần tra bảo vệ để chi cho các hoạt động của hội như tuần tra bảo vệ, thả cá, chi phí hành chính … • Kinh phí hỗ trợ cho tổ tuần tra bảo vệ của các hội rất hạn chế, khó khăn trong việc mời lực lượng công an địa phương cùng tham gia hoạt động này. • Các Hội Nghề cá chưa có đủ thẩm quyền về mặt pháp lý để xử lý nghiêm khắc những đối tượng khai thác nguồn lợi mang tính huỷ diệt. 6. Những bài học kinh nghiệm và đề xuất • ĐQL là mô hình rất mới mẻ, phức tạp và khó có thể thực hiện thành công nếu không có sự giúp đỡ và cộng tác của chính quyền địa phương. Các Hội Nghề cá không có đủ thẩm quyền thực hiện mọi chức năng mà có thể áp dụng vào mô hình này như xử phạt hành chính, bắt và phạt những người vi phạm quy chế đánh bắt, sử dụng ngư cụ huỷ diệt,… • Các nhóm ngư dân cần sự hỗ trợ về tài chính để hoạt động và cộng đồng ngư dân sẽ đóng góp nhiều hơn nếu quản lý tốt các hoạt động này và được cộng đồng địa phương nhất trí cao. Tuy nhiên, đa số ngư dân còn nghèo và bận rộn, họ không thể quan tâm đầu tư đúng mức để đạt được mục tiêu đề ra. Các thành viên tự nguyện trong cộng đồng đôi khi cũng gặp nhiều khó khăn và mâu thuẫn giữa các thành viên và gia đình. Tham gia tình nguyện giúp đỡ cộng đồng là rất quan trọng nhưng họ cũng cần phải nuôi sống bản thân và gia đình. Vì thế, nên có khoản phụ cấp cho các thành viên trong Ban Chấp hành. • Các quyết định của chính quyền địa phương là điều kiện cần thiết để thực hiện các điều lệ, quy chế … vì các nhóm ngư dân không đủ quyền cũng như các công cụ để thực hiện một số khâu quản lý. Chính quyền địa phương cần có nhận thức về nhu cầu quản lý nguồn lợi dựa trên cộng đồng, và cũng cần thông cảm với ngư dân. Họ là những người thường có trình độ thấp, vì thế việc trình bày báo cáo đôi khi gặp khó khăn. Họ cũng là những người nghèo vì thế đôi khi không tránh khỏi vi phạm các quy chế quản lý. • Cần tôn trọng ý kiến và kiến thức, kinh nghiệm của ngư dân vì họ hiểu rõ nguồn lợi mà họ phụ thuộc vào, do đó cần xem xét các ý kiến của họ khi đưa ra giải pháp. • Đặt trọng tâm cải thiện đời sống cho ngư dân là rất quan trọng khi họ quản lý nguồn lợi bền vững. Người nghèo hiểu rất rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn lợi cho thế hệ mai sau nhưng họ vẫn ưu tiên cho cuộc sống hiện tại. • Các thành viên trong Ban Chấp hành hầu như còn rất nghèo khó, đôi khi họ không đủ cố gắng để nỗ lực thực hiện các mục tiêu mà hội đề ra vì thỉnh thoảng họ cũng gặp mâu thuẫn với hàng xóm và ngay cả trong gia đình họ. • Cần tập huấn thêm cho các bên liên quan như ngư dân, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan tác động đến mô hình về những lĩnh vực khác liên quan đến nghề cá như: chọn ngành nghề để thay đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng … Điều này có thể giúp họ có những sáng kiến trong quản lý nghề cá bền vững hơn. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận" 179
- Lý Ngọc Tuyên, Dương Tuấn Phương, Một số kinh nghiệm đồng quản lý nghề cá hồ chứa tại tỉnh Đắc Lắc Đề xuất: • Bộ Thủy sản, Hội Nghề cá Việt Nam cần nghiên cứu xem xét có biện pháp giúp chi hội nghề cá có đủ chức năng xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động. • Hội Nghề cá có những hỗ trợ về kỹ thuật như tổ chức các lớp tập huấn, giúp đỡ vốn cho bà con ngư dân có những mô hình làm ăn mới như khoanh nuôi thêm những eo ngách, nhằm giảm áp lực khai thác cá tự nhiên, nâng cao thu nhập cho hội viên. • Các cơ quan chức năng như công an cần quan tâm hơn trong việc gúp các chi hội xử lý các đối tượng vi phạm hành chính trong khai thác thủy sản ở hồ chứa. FISHERIES CO-MANAGEMENT: LESSONS LEARN FROM IN DAC LAC PROVINCE, VIET NAM Abstract Management of river and reservoir fisheries in the Mekong Basin (MRRF) was implemented in Dac Lac province, Viet Nam from August, 1995 with immediate objecttive: “Enhanced capacity of government fisheries agencies to plan and manage reservoir fisheries on a sustainable basis”. Community‐based co‐management was foreseen as the ultimate result of these efforts, as indicated in the development objective of the Project: “Sustained, high yields of fish achieved from reservoirs managed under local community agreement with government.” In Phase I, therefore, the focus was on training staff of the Project and related government agencies, and on conducting biological and socioeconomic surveys around six selected water bodies, ranging in area from 5.37 ha to 658 ha in Dac Lac province, Viet Nam. Phase II of the Project start from March, 2000 with objective: “Sustainable co‐management models for optimal production in reservoirs developed, implemented and disseminated”. Due to characteristics of studied water bodies and the agreement of stakeholders at local authorities, therefore Project selected 3 water bodies to apply the model of fisheries co‐ management at Lac lake, Easoup and Buon Tria reservoirs. Project held many meetings, workshops, trainings for fishers, local authorities and stakeholders in order to agree to establish a model of fisheries co‐management at target water bodies in Dac Lac province. Since the Fishers’ Unions established, the situation in all three selected water bodies improved. Fishers became more aware of suitable exploitation of fisheries resources. The resources in the reservoirs are being maintained and the livelihood of fishers around the reservoirs is improving. 180 Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nuôi bò thịt - Kỹ thuật - Kinh nghiệm - chương 8
12 p | 156 | 48
-
Kỹ thuật bảo quản một số loại rau cao cấp part 1
11 p | 125 | 39
-
Kinh nghiệm nuôi hươu sao ở Hương Sơn - Hà Tĩnh
9 p | 165 | 31
-
Kỹ thuật bảo quản một số loại rau cao cấp part 2
11 p | 122 | 31
-
Kỹ thuật bảo quản một số loại rau cao cấp part 3
11 p | 134 | 28
-
Kỹ thuật bảo quản một số loại rau cao cấp part 4
9 p | 108 | 25
-
Một số vấn đề về quản lý sinh sản ở bò sữa part 1
6 p | 116 | 15
-
BẢO QUẢN KHOAI TÂY GIỐNG TRONG ĐIỀU KIỆN NÔNG HỘ
2 p | 135 | 14
-
Một số vấn đề về quản lý sinh sản ở bò sữa part 8
6 p | 104 | 12
-
Một số vấn đề về quản lý sinh sản ở bò sữa part 2
6 p | 132 | 11
-
Thực trạng và định hướng quản lý rừng cộng đồng ở Tây Nguyên
128 p | 52 | 11
-
Một số vấn đề về quản lý sinh sản ở bò sữa part 4
6 p | 118 | 10
-
Một số vấn đề về quản lý sinh sản ở bò sữa part 6
6 p | 92 | 8
-
Kinh nghiệm chọn cá Tra giống sạch bệnh
6 p | 96 | 7
-
Kinh nghiệm huy động nguồn lực xã hội để thực hiện các hoạt động trồng và phục hồi rừng
3 p | 10 | 4
-
Đòng quản lý nghề cá hồ chứa
10 p | 48 | 3
-
Một số kinh nghiệm hướng dẫn sinh viên thực tập trong lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ mầm non lứa tuổi nhà trẻ
3 p | 27 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn