TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN <br />
NĂNG SUẤT TÔM NUÔI CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA <br />
Ở HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ<br />
<br />
Phan Văn Hòa<br />
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br />
<br />
Trong những năm gần đây, cùng với việc đầu tư phát triển kinh tế trên nhiều <br />
lĩnh vực thì nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm đã và đang phát triển mạnh mẽ, <br />
thu hút không những sự chú ý của người sản xuất, của các nhà đầu tư mà còn lôi <br />
cuốn các nhà nghiên cứu. Huyện Phú Vang là huyện trọng điểm của vùng đầm phá <br />
ven biển Thừa Thiên Huế, có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản với <br />
chiều dài 40 km bờ biển, diện tích mặt nước đầm phá đến 7.400 ha, chiếm 33,64% <br />
diện tích đầm phá Tam Giang Cầu Hai. Trong những năm gần đây, phong trào nuôi <br />
tôm của huyện phát triển mạnh mẽ từ 1.367,7 ha năm 2002 lên 1.838,1 ha năm 2004, <br />
nâng sản lượng tôm nuôi từ 727 tấn năm 2002 lên 1.830,5 tấn năm 2004, góp phần <br />
quan trọng trong việc xóa thế độc canh cây lúa, khai thác và sử dụng có hiệu quả đất <br />
đai, vốn, lao động... ở địa phương, tăng khối lượng sản phẩm cho tiêu dùng và xuất <br />
khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập, từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn.<br />
Tuy nhiên, do nuôi tôm ở đây phần lớn mang tính tự phát, có chú trọng đầu tư <br />
thâm canh nhưng không đồng bộ, các hộ nuôi tôm còn lúng túng trong việc tổ chức <br />
sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng sản xuất kinh doanh… <br />
nên năng suất tôm nuôi thấp. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng <br />
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi tôm Ở huyện Phú Vang, tỉnh <br />
Thừa Thiên Huế”. Mục đích thực hiện đề tài nhằm: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và <br />
thực tiễn về thực trạng nuôi tôm nói chung và thực trạng nuôi tôm ở địa phương nói <br />
riêng; đánh giá thực trạng sản xuất, kết quả và hiệu quả nuôi tôm, xác định các nhân <br />
tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả nuôi tôm; đưa ra định hướng và giải pháp <br />
chủ yếu để nâng cao hiệu quả và phát triển nuôi tôm ở huyện Phú Vang. <br />
Để đạt mục tiêu đặt ra, nghiên cứu tập trung ở 2 xã là xã Phú Xuân, Xã Phú <br />
Đa và thị trấn Thuận An. Ngoài thông tin, số liệu thứ cấp thu thập từ các sở, ban <br />
ngành và cơ quan ở địa phương, nghiên cứu còn tập trung điều tra 90 hộ nuôi trồng <br />
thủy sản ở 3 xã, thị trấn được chọn. Mỗi xã, thị trấn chọn 30 hộ để điều tra. Sử <br />
dụng hàm sản xuất CobbDouglas phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm <br />
5<br />
nuôi theo các hình thức nuôi của các hộ điều tra. Trên cơ sở đó, phân tích ảnh hưởng <br />
cận biên của các yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi và xác định hiệu <br />
quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư theo từng hình thức nuôi cụ thể. <br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Qua ba năm, từ năm 2002 đến năm 2004, diện tích nuôi tôm của huyện Phú <br />
Vang đã tăng lên đáng kể. Nếu năm 2002, diện tích nuôi tôm của huyện chỉ đạt <br />
1.367,7 ha, thì đến năm 2004, diện tích nuôi tôm đã là 1.838,1 ha (tăng 470,4 ha), trong <br />
đó hình thức nuôi bán thâm canh tăng 546,9 ha, tức tăng 77,86%; hình thức nuôi thâm <br />
canh tăng 41,1 ha, tức tăng 104,58%, trong khi đó hình thức nuôi quảng canh cải tiến <br />
giảm 117,6 ha, tức giảm 18,79%. Điều đó cho thấy, nếu hình thức nuôi quảng canh <br />
cải tiến là chủ yếu của huyện trong những năm 19972001, thì giai đoạn 20022004, <br />
chủ yếu là hình thức nuôi bán thâm canh, năm 2004 hình thức nuôi bán thâm canh <br />
chiếm 67,97% trong tổng diện tích nuôi tôm của huyện. <br />
Chủng loại nuôi trồng thủy sản của 90 hộ điều tra chủ yếu là tôm và là tôm <br />
sú, cụ thể là tôm sú nước lợ với các hình thức quảng canh cải tiến, bán thâm canh và <br />
thâm canh và chủ yếu là nuôi hạ triều, vì tôm là loài dễ nuôi, phù hợp với nhiều vùng <br />
cả vùng nước ngọt và vùng nước lợ, có thể nuôi chắn sáo ven sông, đầm, có thể thả <br />
nuôi ở ruộng lúa, trong các hồ đào và nuôi tôm công nghiệp hay nuôi tôm thâm canh <br />
trên cát, nuôi cao triều... Nhờ mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, nâng cao đê đập, tăng <br />
mật độ giống thả... năng suất, sản lượng tôm nuôi năm 2004 của các hộ điều tra đạt <br />
cao, bình quân chung đạt 0,96 tấn/ha. Tuy nhiên, năng suất tôm nuôi theo hình thức <br />
thâm canh là 2,23 tấn/ha, bán thâm canh là 1,16 tấn/ha và hình thức quảng canh cải <br />
tiến chỉ đạt 0,22 tấn/ha. Năng suất tôm nuôi theo hình thức thâm canh cao hơn các <br />
hình thức khác do đầu tư vốn và chi phí cho hình thức này rất cao. Bình quân/ha nuôi <br />
tôm, vốn bỏ ra là 45,41 triệu đồng, trong đó thâm canh là 102,1 triệu đồng, tỷ lệ vốn <br />
vay là 45,31%; bán thâm canh là 65,59 triệu đồng, tỷ lệ vốn vay là 43,2% và nuôi <br />
quảng canh cải tiến là 22,91 triệu đồng với tỷ lệ vay là 42%. Số liệu điều tra cũng <br />
cho thấy, chi phí trung gian bình quân/ha là 44,68 triệu đồng, trong đó thâm canh là <br />
97,59 triệu đồng, bán thâm canh 54,03triệu đồng và quảng canh cải tiến là 11,63 <br />
triệu đồng. Trong chi phí trung gian, tỷ trọng chi phí thức ăn là cao nhất, bình quân <br />
chung chiếm 48,28% tổng chi phí trung gian. Chi phí thức ăn quảng canh cải tiến chỉ <br />
chiếm 36,01% thì ở bán thâm canh và thâm canh tương ứng là 47,05% và 56,35% <br />
trong tổng chi phí.<br />
Bình quân một ha nuôi tôm, giá trị gia tăng từ nuôi tôm tạo ra được 20,17 triệu <br />
đồng, tuy nhiên của hình thức thâm canh đạt 43,59 triệu đồng/ha, bán thâm canh đạt <br />
<br />
6<br />
23,67 triệu đồng/ha và quảng canh cải tiến chỉ đạt 6,06 triệu đồng/ha. Bình quân 01 <br />
đồng chi phí trung gian bỏ ra nuôi tôm sẽ tạo ra được 0,45 đồng giá trị gia tăng và <br />
1,45 đồng giá trị sản xuất. Nhưng xét về sức sinh lợi thì 01 đồng chi phí bỏ ra với <br />
hình thức nuôi thâm canh sẽ thu được 0,23 đồng lợi nhuận; hình thức nuôi bán thâm <br />
canh và quảng canh cải tiến tương ứng thu được 0,18 đồng và 0,16 đồng lợi nhuận. <br />
Hàm sản xuất CobbDouglas của các hộ nuôi tôm được điều tra có dạng:<br />
<br />
Y (0,2146).X10,103394 .X 0,141117<br />
2 .X 30,178681.X 0,278144<br />
4 e 0,168519 D1 0,844275 D2 0, 413272 D3<br />
<br />
Trong đó, Y: Năng suất tôm nuôi (tấn/ha); X1: Giống (1000con/ha); X2: Lao <br />
động (công /ha); X3: Thức ăn tự sản xuất (kg/ha); X4: Thức ăn công nghiệp(kg/ha); <br />
D1: Vụ sản xuất (D1=1: vụ 1; D1=0: vụ khác); D2: Hình thức nuôi (D2 =1: quảng <br />
canh cải tiến; D2=0: hình thức khác); D3: Hình thức nuôi (D3 =1: bán thâm canh; <br />
D3=0: nuôi thâm canh). <br />
Qua phân tích hàm sản xuất cho ta mô hình trên là phù hợp với thực tế với <br />
mức ý nghĩa 99%. Hệ số tương quan điều chỉnh (R 2 điều chỉnh) là 89%, có nghĩa là <br />
89% sự biến động năng suất tôm nuôi của các hộ điều tra là do các yếu tố trong mô <br />
hình tạo ra. Còn 11% sự biến động của năng suất tôm nuôi của các hộ điều tra là do <br />
các yếu tố ngoài mô hình tạo ra như yếu tố thủy hóa sinh trong ao nuôi, khí hậu, thời <br />
tiết, nguồn nước... Hệ số hồi quy của biến thức ăn công nghiệp là 0,278144 với mức <br />
ý nghĩa 99%, tức khi cố định các yếu tố đầu vào trong mô hình ở mức trung bình, nếu <br />
tăng thức ăn công nghiệp lên 1% so mức trung bình của mẫu thì năng suất tôm tăng <br />
lên 0,278144 %. Tương tự, hệ số hồi quy của biến thức ăn tươi là 0,178681 với mức <br />
ý nghĩa 99%. Thức ăn công nghiệp có ảnh hưởng lớn hơn thức ăn tươi, tuy nhiên, <br />
trong thực tế, do giá thức ăn tươi rẻ hơn nên nhiều hộ nuôi tôm vẫn sử dụng thức ăn <br />
tươi nhiều hơn. Tuy nhiên, thức ăn tươi dễ làm tôm bị dịch bệnh, ô nhiễm ao nuôi. <br />
Tỷ lệ giữa thức ăn tươi và thức ăn công nghiệp mà các hộ nuôi thường sử dụng là <br />
40%50%: 60%50%, trong khi đó, tỷ lệ cho phép của Sở thủy sản là 20%: 80%. <br />
Kết quả phân tích trên cũng cho ta thấy hệ số hồi quy của biến giả D1 (vụ <br />
nuôi) là 0,168519 với mức ý nghĩa 95%, điều này chứng tỏ rằng nuôi tôm vụ 1 đạt <br />
năng suất bình quân trên một ha/vụ cao hơn nuôi tôm vụ hai. Hệ số hồi quy của biến <br />
giả D2, D3 (hình thức nuôi) (hình thức nuôi quảng canh cải tiến D2=1, hình thức nuôi <br />
bán thâm canh D3=1) tương ứng (0,844275) và (0,413272) với mức ý nghĩa 99% và <br />
99%, mang dấu âm, chứng tỏ khi tăng các hình thức nuôi quảng canh cải tiến hoặc <br />
bán thâm canh lên 1% làm giảm năng suất tôm 0,844275% và 0,413272% tương ứng <br />
cho mỗi phần trăm tăng lên trên mỗi hình thức. Điều đó có nghĩa là hình thức nuôi <br />
<br />
<br />
7<br />
thâm canh tác động làm tăng năng suất tôm nuôi, đây cũng là x u hướng phát triển <br />
chung của nghề nuôi tôm ở huyện Phú Vang.<br />
Phân tích hàm sản xuất CobbDouglas cho thấy năng suất cận biên của giống, <br />
thức ăn tươi ở hình thức thâm canh là cao nhất cho tất cả các vụ. Nếu nuôi thâm <br />
canh, tăng 1000 con giống, năng suất cận biên ở vụ 1 là 1,52 kg tôm sản phẩm, ở vụ <br />
2 là 1,28 kg tôm sản phẩm, trong khi đó hình thức nuôi bán thâm canh chỉ đạt 1,01 kg <br />
ở vụ 1 và 0,85 kg ở vụ 2. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế trong việc đầu tư các yếu tố <br />
đầu vào có sự khác nhau đáng kể, thức ăn tươi là yếu tố đầu vào tạo ra hiệu quả cao <br />
nhất. Đối với hình thức nuôi tôm thâm canh, khi tăng 1 kg thức ăn tươi trong điều <br />
kiện cố định các yếu tố đầu vào khác ở mức trung bình của mẫu, giá trị tăng thêm mà <br />
hộ nông dân thu được là 39.580 đồng ở vụ 1 và 31.440 đồng ở vụ 2; ở hình thức nuôi <br />
tôm bán thâm canh, giá trị tăng thêm mà hộ nông dân thu được là 22.560 đồng ở vụ 1 <br />
và 17.380 đồng ở vụ 2; còn ở hình thức nuôi tôm quảng canh cải tiến, giá trị tăng <br />
thêm mà hộ nông dân thu được là 11.460 đồng ở vụ 1 và 7.760 đồng ở vụ 2. Tiếp <br />
đến là thức ăn công nghiệp, nếu tăng 1 kg thức ăn công nghiệp trong điều kiện cố <br />
định các yếu tố đầu vào khác ở mức trung bình của mẫu, giá trị tăng thêm mà hộ <br />
nông dân thu được ở hình thức nuôi thâm canh là 28.940 đồng ở vụ 1 và 22.280 đồng <br />
ở vụ 2; ở hình thức nuôi tôm bán thâm canh, con số này tương ứng là 14.140 đồng ở <br />
vụ 1 và 9.700 đồng ở vụ 2; còn ở hình thức nuôi tôm quảng canh cải tiến, con số này <br />
tương ứng là 3.780 đồng ở vụ 1 và 820 đồng ở vụ 2. Trong khi đó, giống và công lao <br />
động đầu tư ở hình thức nuôi thâm canh còn có hiệu quả nhưng ở hình thức bán thâm <br />
canh và quảng canh cải tiến thì không có hiệu quả, ngược lại, người nuôi tôm càng <br />
đầu tư càng bị lỗ. Cụ thể, ở vụ 1, nếu tăng 1000 con giống, đối với hình thức thâm <br />
canh giá trị còn tăng thêm được 28.440 đồng nhưng ở hình thức bán thâm canh lại <br />
phải chịu lỗ 9.300 đồng và quảng canh cải tiến chịu lỗ đến 35.940 đồng. Còn ở vụ 2, <br />
con số này tương ứng đối với hình thức thâm canh giá trị còn tăng thêm được 10.680 <br />
đồng và ở hình thức bán thâm canh lại phải chịu lỗ 21.140 đồng và quảng canh cải <br />
tiến chịu lỗ đến 43.340 đồng. Tương tự, đối với công lao động, ở vụ 1, nếu tăng <br />
thêm 1 công lao động, đối với hình thức thâm canh giá trị còn tăng thêm được 11.990 <br />
đồng nhưng ở hình thức bán thâm canh lại phải chịu lỗ 4.290 đồng và quảng canh cải <br />
tiến chịu lỗ đến 15.390 đồng. Còn ở vụ 2, con số này tương ứng đối với hình thức <br />
thâm canh giá trị còn tăng thêm được 4.590 đồng và ở hình thức bán thâm canh lại <br />
phải chịu lỗ 8.730 đồng và quảng canh cải tiến chịu lỗ đến 18.350 đồng. Như vậy, <br />
trong điều kiện hiện nay đối với các hộ điều tra ở Phú Vang, đối với các hình thức <br />
nuôi, đầu tư thêm thức ăn tươi hộ nuôi tôm còn có thể tạo thêm giá trị lớn. Tuy nhiên, <br />
đầu tư thức ăn tươi dễ gây nên dịch bệnh và có thể dẫn đến ô nhiễm môi trường <br />
nước nặng. Cần thiết phải có biện pháp thích đáng cải tạo môi trường khi sử dụng <br />
nhiều thức ăn tươi. <br />
8<br />
Với hình thức nuôi tôm thâm canh, hộ nuôi tôm nên đầu tư thêm các yếu tố <br />
đầu vào như thức ăn, giống, lao động còn có hiệu quả kinh tế cao. Đối với hình thức <br />
nuôi bán thâm canh và quảng canh cải tiến, hộ nuôi tôm nên đầu tư thêm thức ăn vì <br />
còn tạo ra hiệu quả kinh tế, riêng đối với yếu tố giống và lao động, cần thiết hộ <br />
phải giảm đầu tư, vì hiện tại nếu đầu tư thêm không những không đạt hiệu quả kinh <br />
tế mà còn tạo ra thua lỗ trong đầu tư ở các vụ.<br />
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Nuôi tôm hiện nay đã phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện Phú <br />
Vang, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn theo hướng sản <br />
xuất hàng hóa, khai thác có hiệu quả tài nguyên, giải quyết việc làm tăng thu nhập. <br />
Xu hướng nuôi tôm của huyện theo hướng giảm dần diện tích nuôi tôm quảng canh <br />
cải tiến và tăng diện tích nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh. <br />
Năng suất nuôi tôm của các hộ điều tra ở huyện Phú Vang chịu tác động của <br />
nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là thức ăn tươi, thức ăn công nghiệp, vụ nuôi, con <br />
giống và công lao động. Thức ăn công nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất <br />
tôm của các hộ nuôi; thứ đến là biến thức ăn tươi, vụ nuôi, hình thức nuôi và ảnh <br />
hưởng thấp nhất là công lao động. <br />
Tuy nhiên, qua phân tích hiệu quả kinh tế khi đầu tư các yếu tố đầu vào của <br />
các hộ nuôi tôm ở Phú Vang hiện nay chúng tôi nhận thấy: đối với các hộ nuôi tôm ở <br />
huyện Phú Vang hiện nay việc đầu tư thức ăn tươi sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất <br />
đối với mọi hình thức và cả hai vụ nuôi. Đầu tư thêm 1 kg thức ăn tươi trên một ha <br />
nuôi tôm ở vụ 1, nuôi thâm canh, giá trị tăng thêm sẽ là 39.580 đồng; nuôi bán thâm <br />
canh sẽ được 22.560 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ được 11.460 đồng. Đầu tư <br />
tăng thêm 1 kg thức ăn tươi trên một ha nuôi tôm ở vụ 2, nuôi thâm canh, giá trị tăng <br />
thêm sẽ là 31.440 đồng, nuôi bán thâm canh sẽ được 17.380 đồng và nuôi quảng canh <br />
cải tiến sẽ được 7.760 đồng. Đối với thức ăn công nghiệp, các hộ tăng thêm đầu tư <br />
vẫn còn tạo ra giá trị gia tăng cao. <br />
Ngược lại, các hộ đầu tư thêm giống và công lao động sẽ không mang lại <br />
hiệu quả kinh tế. Nếu hộ nuôi tôm đầu tư thêm 1.000 con giống trên một ha nuôi tôm <br />
ở vụ 1, nuôi bán thâm phải chịu lỗ 9.300 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ là <br />
35.940 đồng; ở vụ 2 mức độ lỗ còn nặng hơn. Tương tự, đối với công lao động, nếu <br />
hộ nuôi tôm thuê thêm 1 công lao động trên một ha nuôi tôm ở vụ 1, nuôi bán thâm <br />
phải chịu lỗ 4.290 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ là 15.350 đồng; tương tự ở <br />
vụ 2 mức độ lỗ cao hơn. <br />
Như vậy, trong điều kiện hiện nay đối với các hộ nuôi tôm được điều tra ở <br />
Phú Vang, để có năng suất tôm nuôi và hiệu quả kinh tế cao, các hộ nuôi tôm nên đầu <br />
tư nuôi tôm theo hình thức thâm canh, nuôi ở vụ 1 và sử dụng nhiều thức ăn tươi. <br />
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra cho các hộ ở đây là hình thức nuôi thâm canh đòi hỏi <br />
9<br />
vốn đầu tư quá cao, sử dụng thức ăn tươi lại gây ô nhiễm môi trường lớn. Vì vậy, <br />
để giải đáp những vấn đề này, công tác quy hoạch vùng nuôi tôm, công tác xử lý môi <br />
trường, hoàn thiện cơ sở hạ tầng như điện, nguồn nước cung cấp, kênh nước thoát, <br />
đê ngăn mặn; phòng trừ dịch bệnh, cho vay vốn với mức vay lớn là những vấn đề nổi <br />
cộm, chính quyền địa phương cần tập trung giải quyết, để nghề nuôi tôm ở huyện <br />
Phú Vang phát triển mạnh và vững chắc, xứng đáng là ngành mũi nhọn tạo ra nhiều <br />
giá trị kinh tế cho địa phương.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Sở Thủy Sản Thừa Thiên Huế. <br />
Khái quát về hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá Tam <br />
Giang (1999)<br />
2. Dự án tăng cường công tác quản lý hệ thống bảo tồn thiên nhiên tại <br />
Việt Nam. Chiến lược hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên tỉnh Thừa Thiên Huế đến <br />
năm 2010 (2003) <br />
3. Phòng Thống kê huyện Phú Vang (2002, 2003, 2004, 2005), Niêm giám <br />
thống kê huyện Phú Vang các năm 2001, 2002, 2003, 2004.<br />
4. Phạm Quyền. Xây dựng phương án sử dụng hợp lý đất, ruộng nhiễm <br />
mặn bãi biển và mặt nước để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản ở một số <br />
vùng trọng điểm (2002)<br />
<br />
SOME FACTOS WHICH INFLUENCED THE PRODUCTIVITY <br />
OF SHRIMP RAISING FROM HOUSEHOLD SURVEYED IN <br />
PHU VANG DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE<br />
Phan Van Hoa<br />
College of Economics, Hue University<br />
SUMMARY<br />
Nowadays, shrimp raising has been developed into the key economics of Phu Vang <br />
district, Thua Thien Hue province, it has contributed in transferring the structure of <br />
agricultural and rural production turning toward goods production, exploitation with efficient <br />
of natural resources in order to solve daily job and increase income. The trend of shrimp <br />
raising from the district gradually reduces area of shrimp raising in extensive farming <br />
improvement and increases area of shrimp raising in halfintensive farming and intensive <br />
farming.<br />
The result of analysing function of CobbDouglas production has been seen that the <br />
productivity of shrimp raising from the households surveyed in Phu Vang district has been <br />
<br />
10<br />
acted upon by a lot of factors among these factors, fresh food, industrial food, raising crops, <br />
breed and daily labour have player an important role. Industrial food has influenced the <br />
productivity of shrimp the most. However, investing more fresh food has brought the highest <br />
economic efficient for households raising shrimps. These, to get high productivity and efficient, <br />
shrimp raising households of Phu Vang district need to invest the intensive farming; raising <br />
shrimps in the first crop and increasing fresh food. Therefore, all levels of local government <br />
early need to solve the scheme of raising region, environment management, infrastructure <br />
perfectibility such as electricity, water provision, canals, dykes for preventing salt water, <br />
epidemic diseaseprevention, loan borrowed with the high level are main problems which the <br />
local government has to concentrate to solve. So that the shrimp raising of Phu Vang district <br />
can develop strongly and unshakably, to be worthy of being the key trade which will create a lot <br />
of economic value for locality.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
11<br />