intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi của các hộ điều tra ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

56
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích thực hiện đề tài nhằm: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực trạng nuôi tôm nói chung và thực trạng nuôi tôm ở địa phương nói riêng; đánh giá thực trạng sản xuất, kết quả và hiệu quả nuôi tôm, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả nuôi tôm; đưa ra định hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả và phát triển nuôi tôm ở huyện Phú Vang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi của các hộ điều tra ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005<br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN <br /> NĂNG SUẤT TÔM NUÔI CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA <br /> Ở HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ<br /> <br />  Phan Văn Hòa<br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br /> <br /> Trong những năm gần đây, cùng với việc đầu tư  phát triển kinh tế  trên nhiều  <br /> lĩnh vực thì nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm đã và đang phát triển mạnh mẽ,  <br /> thu hút không những sự  chú ý của người sản xuất, của các nhà đầu tư  mà còn lôi  <br /> cuốn các nhà nghiên cứu. Huyện Phú Vang là huyện trọng điểm của vùng đầm phá  <br /> ven biển Thừa Thiên Huế, có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản với  <br /> chiều dài 40 km bờ biển, diện tích mặt nước đầm phá đến 7.400 ha, chiếm 33,64% <br /> diện tích đầm phá Tam Giang ­ Cầu Hai. Trong những năm gần đây, phong trào nuôi <br /> tôm của huyện phát triển mạnh mẽ từ 1.367,7 ha năm 2002 lên 1.838,1 ha năm 2004,  <br /> nâng sản lượng tôm nuôi từ  727 tấn năm 2002 lên 1.830,5 tấn năm 2004, góp phần <br /> quan trọng trong việc xóa thế độc canh cây lúa, khai thác và sử dụng có hiệu quả đất  <br /> đai, vốn, lao động... ở  địa phương, tăng khối lượng sản phẩm cho tiêu dùng và xuất <br /> khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập, từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn.<br /> Tuy nhiên, do nuôi tôm ở đây phần lớn mang tính tự phát, có chú trọng đầu tư <br /> thâm canh nhưng không đồng bộ, các hộ  nuôi tôm còn lúng túng trong việc tổ  chức  <br /> sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng sản xuất kinh doanh… <br /> nên năng suất tôm nuôi thấp. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng  <br /> và một số  giải pháp nâng cao hiệu quả  kinh tế  nuôi tôm  Ở  huyện Phú Vang, tỉnh  <br /> Thừa Thiên Huế”. Mục đích thực hiện đề  tài nhằm: Hệ  thống hóa cơ  sở  lý luận và <br /> thực tiễn về thực trạng nuôi tôm nói chung và thực trạng nuôi tôm ở địa phương nói  <br /> riêng; đánh giá thực trạng sản xuất, kết quả và hiệu quả nuôi tôm, xác định các nhân <br /> tố   ảnh hưởng đến kết quả  và hiệu quả  nuôi tôm; đưa ra định hướng và giải pháp  <br /> chủ yếu để nâng cao hiệu quả và phát triển nuôi tôm ở huyện Phú Vang. <br /> Để  đạt mục tiêu đặt ra, nghiên cứu tập trung  ở  2 xã là xã Phú Xuân, Xã Phú <br /> Đa và thị  trấn Thuận An. Ngoài thông tin, số  liệu thứ  cấp thu thập từ  các sở, ban  <br /> ngành và cơ quan  ở địa phương, nghiên cứu còn tập trung điều tra 90 hộ  nuôi trồng  <br /> thủy sản  ở  3 xã, thị  trấn được chọn. Mỗi xã, thị  trấn chọn 30 hộ  để  điều tra. Sử <br /> dụng hàm sản xuất Cobb­Douglas phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm <br /> 5<br /> nuôi theo các hình thức nuôi của các hộ điều tra. Trên cơ sở đó, phân tích ảnh hưởng <br /> cận biên của các yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi và xác định hiệu  <br /> quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư theo từng hình thức nuôi cụ thể. <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> Qua ba năm, từ  năm 2002 đến năm 2004, diện tích nuôi tôm của huyện Phú  <br /> Vang đã tăng lên đáng kể. Nếu năm 2002, diện tích nuôi tôm của huyện chỉ   đạt  <br /> 1.367,7 ha, thì đến năm 2004, diện tích nuôi tôm đã là 1.838,1 ha (tăng 470,4 ha), trong <br /> đó hình thức nuôi bán thâm canh tăng 546,9 ha, tức tăng 77,86%; hình thức nuôi thâm <br /> canh tăng 41,1 ha, tức tăng 104,58%, trong khi đó hình thức nuôi quảng canh cải tiến <br /> giảm 117,6 ha, tức giảm 18,79%. Điều đó cho thấy, nếu hình thức nuôi quảng canh  <br /> cải tiến là chủ yếu của huyện trong những năm 1997­2001, thì giai đoạn 2002­2004, <br /> chủ  yếu là hình thức nuôi bán thâm canh, năm 2004 hình thức nuôi bán thâm canh <br /> chiếm 67,97% trong tổng diện tích nuôi tôm của huyện. <br /> Chủng loại nuôi trồng thủy sản của 90 hộ điều tra chủ yếu là tôm và là tôm  <br /> sú, cụ thể là tôm sú nước lợ với các hình thức quảng canh cải tiến, bán thâm canh và  <br /> thâm canh và chủ yếu là nuôi hạ triều, vì tôm là loài dễ nuôi, phù hợp với nhiều vùng  <br /> cả vùng nước ngọt và vùng nước lợ, có thể nuôi chắn sáo ven sông, đầm, có thể thả <br /> nuôi  ở ruộng lúa, trong các hồ  đào và nuôi tôm công nghiệp hay nuôi tôm thâm canh  <br /> trên cát, nuôi cao triều... Nhờ mạnh dạn đầu tư  trang thiết bị, nâng cao đê đập, tăng  <br /> mật độ giống thả... năng suất, sản lượng tôm nuôi năm 2004 của các hộ điều tra đạt  <br /> cao, bình quân chung đạt 0,96 tấn/ha. Tuy nhiên, năng suất tôm nuôi theo hình thức <br /> thâm canh là 2,23 tấn/ha, bán thâm canh là 1,16 tấn/ha và hình thức quảng canh cải  <br /> tiến chỉ  đạt 0,22 tấn/ha. Năng suất tôm nuôi theo hình thức thâm canh cao hơn các  <br /> hình thức khác do đầu tư vốn và chi phí cho hình thức này rất cao. Bình quân/ha nuôi  <br /> tôm, vốn bỏ ra là 45,41 triệu đồng, trong đó thâm canh là 102,1 triệu đồng, tỷ lệ vốn  <br /> vay là 45,31%; bán thâm canh là 65,59 triệu đồng, tỷ  lệ  vốn vay là 43,2% và nuôi <br /> quảng canh cải tiến là 22,91 triệu đồng với tỷ  lệ  vay là 42%. Số  liệu điều tra cũng <br /> cho thấy, chi phí trung gian bình quân/ha là 44,68 triệu đồng, trong đó thâm canh là  <br /> 97,59 triệu đồng, bán thâm canh 54,03triệu đồng và quảng canh cải tiến là 11,63  <br /> triệu đồng. Trong chi phí trung gian, tỷ  trọng chi phí thức ăn là cao nhất, bình quân <br /> chung chiếm 48,28% tổng chi phí trung gian. Chi phí thức ăn quảng canh cải tiến chỉ <br /> chiếm 36,01% thì  ở  bán thâm canh và thâm canh tương  ứng là 47,05% và 56,35%  <br /> trong tổng chi phí.<br /> Bình quân một ha nuôi tôm, giá trị gia tăng từ nuôi tôm tạo ra được 20,17 triệu  <br /> đồng, tuy nhiên của hình thức thâm canh đạt 43,59 triệu đồng/ha, bán thâm canh đạt <br /> <br /> 6<br /> 23,67 triệu đồng/ha và quảng canh cải tiến chỉ đạt 6,06 triệu đồng/ha. Bình quân 01 <br /> đồng chi phí trung gian bỏ  ra nuôi tôm sẽ  tạo ra được 0,45 đồng giá trị  gia tăng và  <br /> 1,45 đồng giá trị  sản xuất. Nhưng xét về  sức sinh lợi thì 01 đồng chi phí bỏ  ra với  <br /> hình thức nuôi thâm canh sẽ thu được 0,23 đồng lợi nhuận; hình thức nuôi bán thâm  <br /> canh và quảng canh cải tiến tương  ứng thu được 0,18 đồng và 0,16 đồng lợi nhuận.  <br /> Hàm sản xuất Cobb­Douglas của các hộ nuôi tôm được điều tra có dạng:<br /> <br /> Y (0,2146).X10,103394 .X 0,141117<br /> 2 .X 30,178681.X 0,278144<br /> 4  e 0,168519 D1 0,844275 D2 0, 413272 D3<br /> <br /> Trong đó, Y: Năng suất tôm nuôi (tấn/ha); X1: Giống (1000con/ha); X2: Lao  <br /> động (công /ha); X3: Thức ăn tự  sản xuất (kg/ha); X4: Thức ăn công nghiệp(kg/ha);  <br /> D1: Vụ  sản xuất (D1=1: vụ  1; D1=0: vụ khác); D2: Hình thức nuôi (D2 =1: quảng <br /> canh cải tiến; D2=0: hình thức khác); D3: Hình thức nuôi (D3 =1: bán thâm canh; <br /> D3=0: nuôi thâm canh). <br /> Qua phân tích hàm sản xuất cho ta   mô hình trên là phù hợp với thực tế  với  <br /> mức ý nghĩa 99%. Hệ số tương quan điều chỉnh (R 2 điều chỉnh) là 89%, có nghĩa là <br /> 89% sự biến động năng suất tôm nuôi của các hộ  điều tra là do các yếu tố  trong mô  <br /> hình tạo ra. Còn 11% sự biến động của năng suất tôm nuôi của các hộ điều tra là do  <br /> các yếu tố ngoài mô hình tạo ra như yếu tố thủy hóa sinh trong ao nuôi, khí hậu, thời  <br /> tiết, nguồn nước... Hệ số hồi quy của biến thức ăn công nghiệp là  0,278144 với mức <br /> ý nghĩa 99%, tức khi cố định các yếu tố đầu vào trong mô hình ở mức trung bình, nếu  <br /> tăng thức ăn công nghiệp lên 1% so mức trung bình của mẫu thì năng suất tôm tăng  <br /> lên 0,278144 %. Tương tự, hệ số hồi quy của biến thức ăn tươi là 0,178681 với mức <br /> ý nghĩa 99%. Thức ăn công nghiệp có  ảnh hưởng lớn hơn thức ăn tươi, tuy nhiên, <br /> trong thực tế, do giá thức ăn tươi rẻ hơn nên nhiều hộ nuôi tôm vẫn sử dụng thức ăn  <br /> tươi nhiều hơn. Tuy nhiên, thức ăn tươi dễ  làm tôm bị  dịch bệnh, ô nhiễm ao nuôi. <br /> Tỷ  lệ  giữa thức ăn tươi và thức ăn công nghiệp mà các hộ  nuôi thường sử  dụng là  <br /> 40%­50%: 60%­50%, trong khi đó, tỷ lệ cho phép của Sở thủy sản là 20%: 80%. <br /> Kết quả  phân tích trên cũng cho ta thấy hệ  số  hồi quy của biến giả  D1 (vụ <br /> nuôi) là 0,168519 với mức ý nghĩa 95%, điều này chứng tỏ  rằng nuôi tôm vụ  1 đạt <br /> năng suất bình quân trên một ha/vụ cao hơn nuôi tôm vụ hai. Hệ số hồi quy của biến  <br /> giả D2, D3 (hình thức nuôi) (hình thức nuôi quảng canh cải tiến D2=1, hình thức nuôi <br /> bán thâm canh D3=1) tương  ứng (­0,844275) và (­0,413272) với mức ý nghĩa 99% và <br /> 99%, mang dấu âm, chứng tỏ  khi tăng các hình thức nuôi quảng canh cải tiến hoặc <br /> bán thâm canh lên 1% làm giảm năng suất tôm 0,844275% và 0,413272% tương  ứng <br /> cho mỗi phần trăm tăng lên trên mỗi hình thức. Điều đó có nghĩa là hình thức nuôi  <br /> <br /> <br /> 7<br /> thâm canh tác động làm tăng năng suất tôm nuôi, đây cũng là x u hướng phát triển <br /> chung của nghề nuôi tôm ở huyện Phú Vang.<br /> Phân tích hàm sản xuất Cobb­Douglas cho thấy năng suất cận biên của giống,  <br /> thức ăn tươi  ở  hình thức thâm canh là cao nhất cho tất cả  các vụ. Nếu nuôi thâm  <br /> canh, tăng 1000 con giống, năng suất cận biên ở vụ 1 là 1,52 kg tôm sản phẩm, ở vụ <br /> 2 là 1,28 kg tôm sản phẩm, trong khi đó hình thức nuôi bán thâm canh chỉ đạt 1,01 kg  <br /> ở  vụ  1 và 0,85 kg  ở vụ 2. Tuy nhiên hiệu quả  kinh tế  trong việc đầu tư  các yếu tố <br /> đầu vào có sự khác nhau đáng kể, thức ăn tươi là yếu tố đầu vào tạo ra hiệu quả cao <br /> nhất. Đối với hình thức nuôi tôm thâm canh, khi tăng 1 kg thức ăn tươi trong điều <br /> kiện cố định các yếu tố đầu vào khác ở mức trung bình của mẫu, giá trị tăng thêm mà  <br /> hộ nông dân thu được là 39.580 đồng ở vụ 1 và 31.440 đồng ở vụ 2; ở hình thức nuôi  <br /> tôm bán thâm canh, giá trị tăng thêm mà hộ nông dân thu được là 22.560 đồng ở vụ 1 <br /> và 17.380 đồng  ở  vụ  2; còn  ở  hình thức nuôi tôm quảng canh cải tiến, giá trị  tăng  <br /> thêm mà hộ  nông dân thu được là 11.460 đồng  ở  vụ  1 và 7.760 đồng  ở  vụ  2. Tiếp  <br /> đến là thức ăn công nghiệp, nếu tăng 1 kg thức ăn công nghiệp trong điều kiện cố <br /> định các yếu tố  đầu vào khác  ở  mức trung bình của mẫu, giá trị  tăng thêm mà hộ <br /> nông dân thu được ở hình thức nuôi thâm canh là 28.940 đồng ở vụ 1 và 22.280 đồng  <br /> ở vụ 2; ở hình thức nuôi tôm bán thâm canh, con số này tương ứng là 14.140 đồng ở <br /> vụ 1 và 9.700 đồng ở vụ 2; còn ở hình thức nuôi tôm quảng canh cải tiến, con số này  <br /> tương ứng là 3.780 đồng ở vụ 1 và 820 đồng ở vụ 2. Trong khi đó, giống và công lao <br /> động đầu tư ở hình thức nuôi thâm canh còn có hiệu quả nhưng ở hình thức bán thâm  <br /> canh và quảng canh cải tiến thì không có hiệu quả, ngược lại, người nuôi tôm càng <br /> đầu tư  càng bị lỗ. Cụ thể,  ở vụ 1, nếu tăng 1000 con giống, đối với hình thức thâm  <br /> canh giá trị  còn tăng thêm được 28.440 đồng nhưng  ở  hình thức bán thâm canh lại  <br /> phải chịu lỗ 9.300 đồng và quảng canh cải tiến chịu lỗ đến 35.940 đồng. Còn ở vụ 2,  <br /> con số này tương ứng đối với hình thức thâm canh giá trị còn tăng thêm được 10.680  <br /> đồng và  ở  hình thức bán thâm canh lại phải chịu lỗ  21.140 đồng và quảng canh cải  <br /> tiến chịu lỗ  đến 43.340 đồng. Tương tự, đối với công lao động,  ở  vụ  1, nếu tăng  <br /> thêm 1 công lao động, đối với hình thức thâm canh giá trị còn tăng thêm được 11.990 <br /> đồng nhưng ở hình thức bán thâm canh lại phải chịu lỗ 4.290 đồng và quảng canh cải  <br /> tiến chịu lỗ  đến 15.390 đồng. Còn  ở  vụ  2, con số  này tương ứng đối với hình thức  <br /> thâm canh giá trị  còn tăng thêm được 4.590 đồng và  ở  hình thức bán thâm canh lại <br /> phải chịu lỗ  8.730 đồng và quảng canh cải tiến chịu lỗ đến 18.350 đồng. Như  vậy, <br /> trong điều kiện hiện nay đối với các hộ  điều tra ở  Phú Vang, đối với các hình thức <br /> nuôi, đầu tư thêm thức ăn tươi hộ nuôi tôm còn có thể tạo thêm giá trị lớn. Tuy nhiên, <br /> đầu tư  thức ăn tươi dễ  gây nên dịch bệnh và có thể  dẫn đến ô nhiễm môi trường <br /> nước nặng. Cần thiết phải có biện pháp thích đáng cải tạo môi trường khi sử  dụng  <br /> nhiều thức ăn tươi. <br /> 8<br /> Với hình thức nuôi tôm thâm canh, hộ  nuôi tôm nên đầu tư  thêm các yếu tố <br /> đầu vào như thức ăn, giống, lao động còn có hiệu quả kinh tế cao. Đối với hình thức <br /> nuôi bán thâm canh và quảng canh cải tiến, hộ nuôi tôm nên đầu tư  thêm thức ăn vì <br /> còn tạo ra hiệu quả  kinh tế, riêng đối với yếu tố  giống và lao động, cần thiết hộ <br /> phải giảm đầu tư, vì hiện tại nếu đầu tư thêm không những không đạt hiệu quả kinh <br /> tế mà còn tạo ra thua lỗ trong đầu tư ở các vụ.<br />  KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> Nuôi tôm hiện nay đã phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện Phú  <br /> Vang, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn theo hướng sản  <br /> xuất hàng hóa, khai thác có hiệu quả  tài nguyên, giải quyết việc làm tăng thu nhập.  <br /> Xu hướng nuôi tôm của huyện theo hướng giảm dần diện tích nuôi tôm quảng canh  <br /> cải tiến và tăng diện tích nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh. <br /> Năng suất nuôi tôm của các hộ điều tra ở huyện Phú Vang chịu tác động của  <br /> nhiều nhân tố, trong đó chủ  yếu là thức ăn tươi, thức ăn công nghiệp, vụ  nuôi, con <br /> giống và công lao động. Thức ăn công nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất <br /> tôm của các hộ  nuôi; thứ  đến là biến thức ăn tươi, vụ  nuôi, hình thức nuôi và  ảnh <br /> hưởng thấp nhất là công lao động. <br /> Tuy nhiên, qua phân tích hiệu quả kinh tế khi đầu tư các yếu tố  đầu vào của  <br /> các hộ nuôi tôm ở Phú Vang hiện nay chúng tôi nhận thấy: đối với các hộ nuôi tôm ở <br /> huyện Phú Vang hiện nay việc đầu tư thức ăn tươi sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất  <br /> đối với mọi hình thức và cả hai vụ nuôi. Đầu tư  thêm 1 kg thức ăn tươi trên một ha  <br /> nuôi tôm  ở  vụ  1, nuôi thâm canh, giá trị  tăng thêm sẽ  là 39.580 đồng; nuôi bán thâm <br /> canh sẽ được 22.560 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ được 11.460 đồng. Đầu tư <br /> tăng thêm 1 kg thức ăn tươi trên một ha nuôi tôm ở vụ 2, nuôi thâm canh, giá trị tăng  <br /> thêm sẽ là 31.440 đồng, nuôi bán thâm canh sẽ được 17.380 đồng và nuôi quảng canh <br /> cải tiến sẽ được 7.760 đồng. Đối với thức ăn công nghiệp, các hộ tăng thêm đầu tư <br /> vẫn còn tạo ra giá trị gia tăng cao. <br /> Ngược lại, các hộ  đầu tư  thêm giống và công lao động sẽ  không mang lại <br /> hiệu quả kinh tế. Nếu hộ nuôi tôm đầu tư thêm 1.000 con giống trên một ha nuôi tôm  <br /> ở  vụ  1, nuôi bán thâm phải chịu lỗ  9.300 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ  là <br /> 35.940 đồng; ở vụ 2 mức độ lỗ còn nặng hơn. Tương tự, đối với công lao động, nếu  <br /> hộ  nuôi tôm thuê thêm 1 công lao động trên một ha nuôi tôm  ở  vụ  1, nuôi bán thâm  <br /> phải chịu lỗ  4.290 đồng và nuôi quảng canh cải tiến sẽ là 15.350 đồng; tương tự  ở <br /> vụ 2 mức độ lỗ cao hơn. <br /> Như  vậy, trong điều kiện hiện nay đối với các hộ  nuôi tôm được điều tra  ở <br /> Phú Vang, để có năng suất tôm nuôi và hiệu quả kinh tế cao, các hộ nuôi tôm nên đầu <br /> tư  nuôi tôm theo hình thức thâm canh, nuôi  ở  vụ  1 và sử  dụng nhiều thức ăn tươi.  <br /> Tuy nhiên một vấn đề  đặt ra cho các hộ   ở  đây là hình thức nuôi thâm canh đòi hỏi <br /> 9<br /> vốn đầu tư  quá cao, sử  dụng thức ăn tươi lại gây ô nhiễm môi trường lớn. Vì vậy,  <br /> để giải đáp những vấn đề này, công tác quy hoạch vùng nuôi tôm, công tác xử lý môi  <br /> trường, hoàn thiện cơ sở hạ tầng như điện, nguồn nước cung cấp, kênh nước thoát, <br /> đê ngăn mặn; phòng trừ dịch bệnh, cho vay vốn với mức vay lớn là những vấn đề nổi <br /> cộm, chính quyền địa phương cần tập trung giải quyết, để  nghề  nuôi tôm  ở  huyện <br /> Phú Vang phát triển mạnh và vững chắc, xứng đáng là ngành mũi nhọn tạo ra nhiều <br /> giá trị kinh tế cho địa phương.<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Chi cục Bảo vệ  nguồn lợi thủy sản, Sở  Thủy Sản Thừa Thiên Huế. <br /> Khái quát về hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá Tam  <br /> Giang (1999)<br /> 2. Dự  án tăng cường công tác quản lý hệ  thống bảo tồn thiên nhiên tại  <br /> Việt Nam. Chiến lược hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên tỉnh Thừa Thiên Huế đến  <br /> năm 2010 (2003) <br /> 3. Phòng Thống kê huyện Phú Vang (2002, 2003, 2004, 2005), Niêm giám  <br /> thống kê huyện Phú Vang các năm 2001, 2002, 2003, 2004.<br /> 4. Phạm Quyền.  Xây dựng phương án sử  dụng hợp lý đất, ruộng nhiễm  <br /> mặn bãi biển và mặt nước để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản  ở một số  <br /> vùng trọng điểm (2002)<br /> <br /> SOME FACTOS WHICH INFLUENCED THE PRODUCTIVITY <br /> OF SHRIMP RAISING FROM HOUSEHOLD SURVEYED IN <br /> PHU VANG DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE<br /> Phan Van Hoa<br /> College of Economics, Hue University<br /> SUMMARY<br /> Nowadays,   shrimp   raising   has   been   developed   into   the   key   economics   of   Phu   Vang  <br /> district,   Thua   Thien   Hue   province,   it   has   contributed   in   transferring   the   structure   of  <br /> agricultural and rural production turning toward goods production, exploitation with efficient  <br /> of natural  resources  in order  to solve daily  job and increase income. The  trend of shrimp  <br /> raising   from   the   district   gradually   reduces   area   of   shrimp   raising   in   extensive   farming  <br /> improvement   and   increases   area   of   shrimp   raising   in   half­intensive   farming   and   intensive  <br /> farming.<br /> The result of analysing function of Cobb­Douglas production has been seen that the  <br /> productivity of shrimp raising from the households surveyed in Phu Vang district has been  <br /> <br /> 10<br /> acted upon by a lot of factors among these factors, fresh food, industrial food, raising crops,  <br /> breed   and   daily   labour   have   player   an   important   role.   Industrial   food   has   influenced   the  <br /> productivity of shrimp the most. However, investing more fresh food has brought the highest  <br /> economic efficient for households raising shrimps. These, to get high productivity and efficient,  <br /> shrimp raising households of Phu Vang district need to invest the intensive farming; raising  <br /> shrimps in the first crop and increasing fresh food. Therefore, all levels of local government  <br /> early   need   to   solve   the   scheme   of   raising   region,   environment   management,   infrastructure  <br /> perfectibility   such   as   electricity,   water   provision,   canals,   dykes   for   preventing   salt   water,  <br /> epidemic disease­prevention, loan borrowed with the high level are main problems which the  <br /> local government has to concentrate to solve. So that the shrimp raising of Phu Vang district  <br /> can develop strongly and unshakably, to be worthy of being the key trade which will create a lot  <br /> of economic value for locality.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2