Một số quan niệm về cái thiêng của tôn giáo
lượt xem 4
download
Ý tưởng về sự thiêng liêng đã xuất hiện khá sớm trong bước chuyển từ con người động vật thành con người xã hội. Ý tưởng ấy là sản phẩm của đời sống xã hội, khi nhu cầu gắn kết các thành viên của cộng đồng đòi hỏi một đức tin về nguồn gốc thánh thần và ý nghĩa cao quý của cuộc sống con người.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số quan niệm về cái thiêng của tôn giáo
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CÁI THIÊNG CỦA TÔN GIÁO Nguyễn Thị Hoa Kiều Khoa Lý luận chính trị, Trường ĐH Xây dựng Miền Trung Tóm tắt tiên của Rome, thiết lập nên thành Rôme vào Ý tưởng về sự thiêng liêng đã xuất hiện khá năm 753 trước Công nguyên. sớm trong bước chuyển từ con người động vật “Sacré" có gốc là từ “Sakros” từ này về thành con người xã hội. Ý tưởng ấy là sản phẩm sau chi phối toàn bộ hệ thống thuật ngữ về cái của đời sống xã hội, khi nhu cầu gắn kết các thành thiêng trong ngôn ngữ gốc Latin."Sakros" có viên của cộng đồng đòi hỏi một đức tín về nguồn gốc thánh thần và ý nghĩa cao quý của cuộc sống quan hệ với từ "Sakan" tiếng Đức, "Saklai" con người. (tiếng của tộc người Hittite ở thế kỷ 13-14 Từ khóa trước Công nguyên) và từ “Hagios" tiếng Hy Quan niệm về cái thiêng của tôn giáo. Lạp. Sự phát triển nghĩa cửa nhóm từ gốc "Sak" và gốc "Hag" phản ánh quá trình hình Trước hết là đặc tính của thế giới tự thành quan niệm về sư thiêng liêng của các nhiên bao quanh con người. Thế giới tự dân tộc thuộc ngữ hệ Ấn, Âu. Không đi sâu nhiên đó chính là nguồn ánh sáng mặt trời, vào những vấn đề ngôn ngữ học lịch sử nhưng nguồn nước, chiếc rìu hay cây lúa,… nghĩa là ở đây chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét những gì cụ thể và thiết thực, bảo lãnh cho cần thiết. sự sống. Những năng lượng thiêng của một Trước hết, quan niệm về sự thiêng liêng con sông, dù là sông Nin hay sông Hằng của liên quan đến những hiện tượng cơ bản của một ngọn núi, dù là núi Olympe hay núi Tản thế giới tự nhiên, cấu trúc cơ bản của sự vật, Viên cũng chỉ đủ phát sáng cho từng nhóm không gian và thời gian. Mặt khác là lòng tôn cư dân ở những vùng lãnh thổ riêng biệt. Khi kính trộn lẫn với cảm giác sợ hãi trạng thái nhu cầu liên kết cộng đồng càng mở rộng, tình cảm mà con người chìm đắm ngay từ khi con người ta cần đến một nguồn thiêng toàn ban đầu giao cảm với thế giới tự nhiên, với tư năng và bao quát hơn. Giống như những vệ cách là một chủ thể tâm lí hữu thức, từ sự tinh viễn thông thời hiện đại, biên độ phủ thiêng liêng của vạn vật hữu linh đến sự sóng tỷ lệ thuận với khoảng cách bay xa, lên thiêng liêng như một bản thể siêu nhiên toàn cao khỏi mặt đất, ý tưởng về sự thiêng liêng năng và vĩnh hằng. Trong tiếng Hittite, ngôn cũng phát triển từ đặc tính của thế giới tự ngữ cổ thời Đế chế, tương ứng với khái niệm nhiên hữu hình đến ý niệm về một bản thể “Chúa" là khái niệm về sự khôn ngoan, về trí siêu nhiên vô hình là biểu tượng cao nhất là thông minh, sự toàn thiện tri thức và tâm hồn Đức Chúa Trời hiện hữu khắp thế gian và chi liên quan đến khái niệm ánh sáng. Cụm phối mọi giống loài. Sự vận động của từ “Saklai" là một thể từ vừa có một nghĩa thông “Sacré" trong ngôn ngữ Phương Tây cũng tục là "thói quen" vừa có một nghĩa thiêng thề hiện quá trình hình thành khái niệm liêng là "nghi lễ", sự dâng hiến của con người “thiêng” một khái niệm cốt lõi của tư duy về dành cho đấng tối thượng, sự trong sạch tuyệt tôn giáo. đối, sức mạnh tràn trề, đầy ắp quyền lực và Từ "Saere" tìm thấy trên tảng đá xanh hiệu quả. Từ đây dẫn đến hai thái độ sóng đôi “Lapis Niger” tại Rome gần Comitium, trước của con người đối với cái thiêng: Khải Hoàn Môn của hoàng đế La Mã Septime Thứ nhất, là sự tôn kính và biết ơn. Với Sévere. Đó là vùng mộ Romulus, vị vua đầu đối tượng được tôn kính và biết ơn là cụ thể 90
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 thì hành vi đền ơn đáp nghĩa cũng cụ thể và phải nhận xét rằng trong thái độ của người thiết thực. Đây là chuyện của đời thường. bình dân đối với cái thiện tôn giáo thì sự sợ Chúng ta xây dựng nhà tình nghĩa, phụng hãi chiếm ưu thế, nó quy định tính chất thụ dưỡng tuổi già, tặng quà cho những người mẹ động của hành vi ứng xử. Gia dĩ sự ám ảnh anh hùng, nhừng người có công với cách của quỷ dữ, mặc cảm tội lỗi và sự trừng phạt mạng. Chúng ta cũng lại có những hành vi ứng nặng nề hơn rất nhiều so với một chút hy vọng xử cụ thể, thích hợp để bày tỏ lòng tôn kính chập chờn về điềm lành và cõi cực lạc. Vì vậy và biết ơn đối với các nhà giáo, các thầy thuốc con người cầu khẩn sự ban ơn, làm phúc "lương y như từ mẫu”. Nhưng đối với những gì nhưng chủ yếu là cầu khẩn sự che chở, sự tha trở nên xa cách, trừu tượng hư ảo, người ta thứ. Ở đây cái thiêng càng siêu nhiên, trừu cần đến những nghi lễ có tính chất tượng tượng quyền năng của nó lại càng vô biên. Từ trưng “lễ bạc lòng thành". Chẳng hạn, đó là đó dẫn đến ranh giới tuyệt đối giữa cái thiêng thờ cúng tổ tiên, các vị gia thần, rồi đến các và cái tục. vị cao hơn, xa hơn,... Đối tượng được tôn thờ, Các nhà sử học, dân tộc học và xã hội chịu ơn càng cụ thể, gần gũi thì tình cảm càng học nghiên cứu về tôn giáo hàng thế kỷ nay sâu sắc, hành vi ứng xử càng thiết thực. Về đã quan tâm đến “cái thiêng". Đề cập đến hiện phương diện này con người có xu hướng hiện tượng trung tâm này của các học thuyết tôn thực hóa cái thiêng. Phân tích xu hướng nhân giáo trên nhiều khía cạnh. Trường phái xã hội thần hóa, lịch sử hóa các vị thần tự nhiên học của Durkheim và Mauss đã đặt cái thiêng trong tín ngưỡng của người Việt sẽ làm sáng vào nguồn gốc xã hội, xem đó là một phạm tỏ nhận xét này. Từ đó dẫn đến một hệ quả trù tập hợp có nguồn gốc từ xã hội. Nó đối lập quan trọng là khi đối với cái thiêng, thái độ với cái phàm tục. Nó là một dạng sức mạnh tôn kính, biết ơn chiếm ưu thế thì hành vi ứng tập thể có từ xã hội, được thêm vào hiện thực xử mang đậm chất nhân văn hình thành để trở thành một nhân tố chủ chốt trong cơ những phong tục giầu sắc thái văn hóa tộc cấu xã hội. Durkheim viết: “Tất cả các tín người. Kho tàng folklore của nhân loại là cứ ngưỡng tôn giáo đã được biết tới, dù đơn giản liệu đầy sức thuyết phục. hay phức tạp đều có cùng một tính chất Thứ hai, là thái độ sợ hãi trước sức chung: Chúng giả định một sự phân loại về mạnh đầy bí ẩn. Sự sợ hãi nào cũng đòi hỏi các sự vật hiện thực hay tâm tưởng mà con con người phải tìm giải đáp chế ngự, triệt người hình dung được thành hai loại đối lập tiêu hay né tránh, nghĩa là một thái độ chủ nhau, nói chung được gọi bằng những từ ngữ động chống trả trực tiếp. Nhưng sợ rắn độc, khác nhau, thể hiện khá chính xác ở hai từ “cái sợ chó dại khác hẳn với sợ ma quỷ. Trái với thế tục” (Frofane) và "cái thiêng liêng" lòng tôn kính và biết ơn, sự sợ hãi càng gia (Sacré). Sự phân chia thế giới thành hai lĩnh tăng khi đối tượng càng mù mờ bí ẩn. Cái vực: lĩnh vực này bao gồm tất cả những thế thiêng càng trừu tượng siêu hình bao nhiêu, tục, là nét khu biệt của tư duy tôn giáo tín quyền năng chế ngự con người của nó càng ngưỡng, huyền thoại, chuyện ma quỷ, truyền lớn bấy nhiêu. Hệ quả tất yếu của giải đáp thuyết,… là những biểu tượng hay hệ thống chế ngự là hành vi phù phép, dẫn đến những biểu tượng thể hiện bản chất của các sự vật hủ tục mê tín dị đoan. thiêng liêng, các tính năng và quyền năng Khi cái thiêng đặt con người vào một được gán cho chúng, lịch sử của chúng, các hình thế nước đôi, vừa tôn kính hàm ơn, lại quan hệ của chúng với nhau hoặc với các sự vừa sợ hãi thì con người không tránh khỏi vật thế tục…”[1] hành vi ứng xử mang tính chất thụ động. Giữa cái thế tục và cái thiêng là mối qua Người ta cầu khấn và chỉ còn biết khấn nguyện hệ không đồng cấp. Cái thiêng và những gì mà thôi bởi không thể triệt tiêu hoặc né tránh. đặc biệt, đầy quyển năng và phẩm chất cao Đây là nét đặc trưng của hành vi tôn giáo. Cần cả trong khi thế giới phàm tục và bản thân con 91
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 người tự coi mình chiếm một vi trí thấp hơn trạng huống nháp thần của người lên đồng. và phụ thuộc vào các sự vật thiêng. Hơn nữa, Ông bình vôi, ông Phật có những phẩm chất, giữa hai thế giới là một. ranh giới tuyệt đối bởi những quyền năng mà tất cả những cái bình tính không đồn chất giữa chúng. Trong lịch sử vôi, những pho tượng trước đó không thể có. tư duy của loài người chúng ta biết đến nhưng Cũng như ông đồng, bà cốt không phải là sự cặp phạm trù phản ánh hai mặt đối lập trong biến hóa bất kỳ một người phàm tục nào cũng tính thống nhất biện chứng của các sự vật, có thể trở thành, những phẩm chất thiêng hiện tượng mà trong quá trình vận động của liêng không phải đã nẩy sinh, đã phát triển chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Đó là sự từ những mầm mống có sẵn ở cái thế tục. đối lập giữa cái thiện và cái ác của hiện tượng Đây là sự hóa kiếp của cái này và sự sinh đạo đức sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu của thành của cái kia. Chính vì vậy mà những đấu hiện tượng thẩm mỹ. Nhưng sự đối lập giữa ấn của cái thế tục càng mờ nhạt, càng hóa cái thiêng và cái tục hoàn toàn khác. Đó là hai trang biến đói, lạ hóa bao nhiêu cũng gần với thế giới khác nhau về chất, không cố sự cái thiêng liêng bấy nhiêu. Trong tình huống chuyển hóa qua lại trong quá trình vận động, thần nhập, ông đồng là một sinh linh khác, tinh lực của cái này không phải là tinh lực của tuyệt đối khác biệt với bản thân người lên cái kia. Dukheim. E viết: "Tùy theo mỗi tôn đồng. Anh ta phải ra khỏi thế giới trần tục để giáo, sự đối lập ấy được nhận thức một cách thuộc về thế giới thiêng liêng. Giao tiếp với khác nhau. Ở tôn giáo này, để tách riêng hai đồng hoàn toàn khác giao tiếp với người lên loại sự vật ấy chỉ cần khu trú chúng vào những đồng. Đó là ranh giới tuyệt đối giữa một bên khu vực khác nhau trong vũ trụ vật chất, ở là cái thiêng liêng, những sự vật có những tôn giáo kia, những sự vật này được đưa vào cấm đoán bảo vệ và cô lập, một bên là những một môi trường ý tưởng và siêu việt. Còn thế sự vật thế tục bị áp dụng những cấm đoán ấy giới vật chất thì để cho những sự vật khác và phải cách xa những sự vật thiêng liêng, chiếm làm sở hữu. Nhưng nếu như hình thức không thể có sự chung chạ hay gần gũi thân tương phản có khác nhau, thì sự tương phản mật trái với trạng thái tách rời nhau của là phổ biến”. những khái niệm này trong ý thức. Chính ý Trong tư duy con người khái niệm về cái thức về sự tách biệt hoàn toàn giữa hai thế thiêng ở một nơi và mọi lúc đều tách khỏi khái giới ấy mà con người được khuyến khích rút niệm về cái thế tục. Giữa chúng có một ra khỏi thế giới trần tục để sống một cuộc khoảng chân không lôgíc, bác bỏ mọi sự lẫn sống dành cho tôn giáo. Từ đó mà cả lối sống lộn hay là sự tiếp xúc giữa các sự vật tương tu sĩ, một lối sống phải tạo ra môi trường bất ứng với hai khái niệm đó. Một sự vật thiêng bình thường, khác hẳn với cuộc sống thế liêng trước hết là cái mà trong quan hệ với nó, gian, dẫn đến lối sống khổ hạnh thần bí nhằm con người phàm tục phải chấp nhận một ranh mục đích tước bỏ khỏi con người tất cả những giới tuyệt đối, được quy định bằng những cấm gì gắn bó với thế giới trần tục. Lối sống ấy kỵ nghiêm ngặt. Những kiêng kỵ ấy đặt quan đòi hỏi từ cách ăn uống, trang phục, đi lại, hệ giữa chúng thông qua những thao tác đặc sinh hoạt, môi trường sống phải được kiểm biệt có tính ước lệ cao, đồng thời toàn thân cái soát bằng hàng loạt kiêng kỵ nhằm chối bỏ thế tục cũng mất đi những tính chất riêng của những nhu cầu tự nhiên trần tục. Có như vậy, nó, để tự trở thành thiêng liêng ớ một mức độ hình ảnh những tu sĩ sống biệt lập chay tịnh nhất định. Nếu không như thế sẽ không thực trong các thánh đường hay tu viện, những hiện được sự giao tiếp giữa cái thế tục và cái nhà sư khổ hạnh tọa thiền trong các ngôi thiêng liêng. Đó là cách thức mà một cái bình chùa vắng lặng, biệt lập với thế giới bên vôi trở thành "ông bình vôi", một pho tượng ngoài mới tạo ra được ấn tượng đáng tin cậy gỗ trở thành ông Phật. Đó là tâm thế mà về sứ mạng trung giới, thông dịch giữa cái những người hành sự tế lễ phải nhập cuộc, là trần tục và cái thiêng liêng. 92
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 Các hiện tượng tôn giáo được sắp xếp nhiên không thiếu gì những hiện tượng mà sức hoàn toàn tự nhiên thành hai phạm trù căn mạnh to lớn và năng lượng đặc biệt của chúng bản: Tín ngưỡng và nghi lễ. Cái thiêng là cất đã tác động mạnh vào đầu óc con người tạo lõi của tín ngưỡng. Thiếu nó không thể có tín ra tình cảm tín ngưỡng. Ở một xã hội nguyên ngưỡng. Những từ tín ngưỡng đến tôn giáo sơ, cuộc sống con người thiếu thốn đủ thứ, từ còn một khoảng cách khá xa tùy thuộc vào vật chất tinh thần đến, bấp bênh đến khó thái độ cửa con người ứng xử với cái thiêng. hiểu, lệ thuộc rất lớn vào tự nhiên, con người Một sự vật, hiện tượng trong đời sống tín không đủ tự tin vào chính mình, không thể ngưỡng sở dĩ thiêng liêng không phải là vì không chờ đợi sự giúp đỡ của thần linh. Ở đây những thuộc tính vật chất của nó mà là ở giá sự thiêng liêng là một năng lượng đặc biệt mà trị biểu trưng của nó. Nghi lễ là cách thức thực con người hình dung ra, được gợi ý từ sức bành của con người không phải giao tiếp với mạnh vô biên và có thật của thế giới tự nhiên. cái sự vật hiện tượng cụ thể kia, mà là hành Một thế lực nào đó đã tạo ra các hiện tượng vi giao tiếp với cái thiêng liêng tiềm ẩn mà nó ấy cũng giống như con người đã tạo ra các sản là biểu tượng. phẩm của mình. Giáo sư Phan Ngọc viết: "Vì Trong đời sống thường ngày, con người anh ta tạo ra những sản phẩm nên anh ta đã sáng tạo ra hàng loạt các hành vi ứng xử cũng hình dung cái hiện tượng tự nhiên như phù hợp với từng đối tượng giao tiếp, từng địa những sản phẩm do một hay những thế lực điểm không gian, thời gian và tình huống khác siêu nhân tạo ra, ít nhiều mang dáng dấp nhau, từ cách thức giản dị mộc mạc giữa người, đó là quan niệm vạn vật hữu linh phổ những người bình dân đến cách thức thời biến ở mọi tộc người. Đầu tiên là tín ngưỡng, thượng hoa mỹ của giới quý tộc nơi cung đình, các tín ngưỡng này biểu hiện thành tục lệ cúng từ cách thức thân thiết và kính trọng trong tế, các ngày lễ và các ngày lễ thường mang quan hệ thầy trò, cha con đến cách thức quan tính chu kỳ theo cái chu kỳ vận nành của trời phương lịch lãm trong quan hệ với đồng sự và đất. Ở một xã hội nông nghiệp như đa số các khách khứa… Nhưng không có một cách thức xã hội Châu Á thì chu kỳ các ngày lễ thường ứng xử nào trong số ấy được sử dụng trong liên quan tới chu kỳ các cây trồng. Và về cơ quan hệ với cái thiêng liêng. Ở đây con người bản nghi lễ là nghi lễ nông nghiệp trong đó sự phải tạo ra một khuôn mẫu hành vi khác, một sinh sôi, nẩy nở của cây cối được xem là một hệ thống ngôn ngữ khác phù hợp với đối tượng với sự sinh đẻ của con người [3]. giao tiếp là cái thiêng liêng. Nhưng nếu như cái thiêng liêng trong tín Đó chính là nghi lễ với chức năng giao ngưỡng không hoàn toàn xa lạ vởi thế giới con tiếp đặc biệt, chức năng thông dịch giữa cái người, nó có mối liên hệ trực tiếp và khá gắn trần tục và cái thiêng liêng đồng thời cũng xác bó với môi trường tự nhiên và xã hội để rồi định ranh giới tách biệt giữa chúng. Có một hình thành nên cả một thế giới huyền thoại khoảng cách từ tín ngưỡng đến tôn giáo thì những nhiên thần và nhân thần thì cái thiêng cũng có một khoảng cách như vậy từ đơn giản liêng trong tôn giáo lại khác. Tư duy tôn giáo đến phức tạp, từ cụ thể hơn và thực tế hơn giả định sự tồn tại của cái thiêng liêng tách đến trừu tượng hơn và hư tưởng hơn của biệt với cái trần tục, giả định một bản thể tinh phong tục tín ngưỡng đến lễ nghi tôn giáo. thần tồn tại độc lập với bản thể vật chất. Bản Chỗ khác nhau đó xuất phát từ sự khác nhau thể ấy không xuất hiện trong kinh nghiệm trong quan niệm về cái thiêng liêng. cảm tính của con người mà là sản phẩm của Tín ngưỡng là hiện tượng phổ biến toàn sự lý giải mang tính logic. Nhưng phải chăng nhân loại. Khi người ta tin rằng các thực thể tôn giáo xuất phát từ một tiên để không thể thiêng liêng chỉ khác với các thực thể khác ở giải thích được, còn khoa học là dựa trên thực những sức mạnh lớn lao và những quyền năng tế khách quan của xã hội? Hệ thống tư duy được gán cho chúng, thì trong thế giới tự nào cũng chứa đựng những tiên đề mà đã là 93
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 tiên đề thì không thể giải thích được và không sự thuyết phục không phải ở tính chân lý của nhất thiết phải chứng minh. Những khoa học nó, những công trạng to lớn của thần linh xuất phát từ sự nghi ngờ và nghi ngờ là cũng chung chung cho mọi người, ít thiết nguyên tắc vận động của tư duy khoa học. thực với số phận mỗi cá nhân. Nhà triết học Trái lại tôn giáo xuất phát từ đức tin và đức Badda nổi tiếng ở thế kỷ XIX đã viết rằng tin là nguyên tắc ván động của tư duy tôn trong bộ kinh đó “Kông có trật tự, không có giáo. Ở đâu triệt thoái sự nghi ngờ và chỉ áp văn phong, không có vẻ duyên dáng và sự đặt một đức tin, ở đó có dấu hiệu tư duy tôn tinh tế của bố cục. Nó mâu thuẫn từ đầu đến giáo. Mục đích của tư duy khoa học là tìm đến cuối. Cách ngôn nọ bài trừ cách ngôn kia, cái chưa biết. Mục đích của tư duy tôn giáo là còn toàn bộ tác phẩm thì yếu ớt một cách tìm đến đức tin. Như vây, tôn giáo chứa đựng ngây thơ”. Nhưng cái điệp khúc gieo vào một mâu thuẫn nan giải. Một mặt, cái thiêng lòng người thường xuyên hàng ngày, từ bé tôn giáo không chấp nhận mọi sự nghi ngờ, đến lớn, từ trẻ đến già chủ yếu lại là sự xem người ta tuyên truyền thuyết phục chứ không thường cuộc sống trần thế, mạt sát nó chỉ là phân tích lý giải cái thiêng, mặt khác, tôn giáo tạm bợ, chỉ là một sự chạy ngược chạy xuôi nào cũng xây dựng một hệ thống giáo lý, cũng vật vờ như cái bóng mà con người vốn yếu sử dụng những thành tựu của khoa học và đuối ấy, kẻ nào ly khai thần, kẻ đó sẽ bị triết học để biện giải cho nó. trừng phạt nghiêm khắc, sẽ rơi xuống địa Vậy là cái thiêng tôn giáo trở thành một ngụ. Kẻ nào nhẫn nhục chịu đựng thì kiếp phạm trù nhận thức lý luận. Nhưng trên con sau sẽ lên thiên đàng. đường phát triển của lịch sử, với tiến bộ khoa Vậy là rõ, cái thiêng tôn giáo trước hết học và mở mang dân trí thì sự anh minh tuyệt là cái đáng sợ nhiều hơn là đáng kính. Sự đối của mọi thánh thần xem ra khó bảo trọng. giám sát chặt chẽ đến tàn nhẫn. Sự trừng Sự suy giảm đức tin vào cái thiêng liêng tôn phạt nghiêm khắc đến khủng khiếp. Mọi điều giáo là xu thế tất nhiên. đều có không không, nhưng nhu cầu bảo Để phát huy ảnh hưởng đối với con đảm cho sự an toàn của cuộc sống mỗi người người, cái thiêng tôn giáo giảm thiểu lượn lờ thì luôn luôn có thật. trước màn hình của trí tuệ, nhưng lại gia tăng Những điều răn đầu tiên trong kinh áp lực lên trái tim, đánh thức những tình cảm Cựu ước của người Do thái khẳng định: nhân văn, niềm trắc ẩn và nỗi lo sợ mất an 1. Ta là vĩnh cửu, là chúa ngươi đã toàn vốn có của mỗi con người. Đức tin là đòi cứu sống ngươi khỏi kiếp nô lệ. hỏi số một của mọi tôn giáo. Đạo hồi buộc mọi 2. Ngươi không có Chúa trời nào khác tin đồ phải tuân thủ những quy định rất khắt ta, không được thở dị thần. khe, phải có một đức tin tôn giáo kiên định Thần kinh Cựu ước về sau trở thành vào Thánh Ala và vị sứ giả Môhamét của Ngài. một trong những thánh kinh quan trọng nhất Ala là thần tuyệt đối và toàn năng có thể làm của tín đồ Cơ đốc giáo. Từ đạo nọ sang đạo cho cả những ngọn núi đồ sộ cũng chuyển kia chỉ là sự chuyển giao quyền lực từ Chúa động giống như những đám mây đang bay, có này sang Chúa khác, nhưng thái độ cứng rắn thể biến hóa mọi thứ từ hiện hữu thành hư của các ngài về đức tin thì không thay đổi. không và từ hư không thành hiện hữu. Đức tin Đã là tín đồ ngoan đạo thì phải không được ấy được thể hiện bằng lễ cầu nguyện thường phép nghi ngờ về sự cực lạc nơi Thiên đường, xuyên hàng ngày vào các thời điểm sáng, kiếp sau tương lai và sự trừng phạt khủng trưa, chiều, tối và đêm. Trước khi cầu nguyện khiếp đến rợn người nơi địa ngục. Trong kinh phải tắm rửa. Sau đó tín đồ hướng về đất thánh kể chuyện một tín đồ bị đày đọa vẫn thánh Mécca nhẩm đọc những bài thơ thần giữ vững lòng tin, nhưng lại tự hỏi vì sao một chú trong kinh Coran. Thánh kinh của đạo Hi người ngay thẳng thực thà phải chịu bao nỗi cũng như thánh kinh của mọi tôn giáo khác, đau đớn về thể xác. Cho đến phút cuối cùng 94
- Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 người ấy mới biết mình bị trừng phạt vì kiêu hẳn đã nghiêng về phía này mà nghiêng về hãnh và nghi ngờ, mới ăn năn và hối cải. nỗi lo sợ xuất phát từ nhu cầu thường trực về Từ Do Thái giáo đến Ấn Độ giáo, từ sự an toàn của cuộc sống xuất phát từ bản Thiên chúa giáo đến Hồi giáo đều răn đe con năng tư vệ vốn có ở mọi sinh vật, mà biểu người phải biết sợ, dùng cái sợ làm chốt tong hiện độc đáo ở con người là phương thức tự vệ cuộc sống đầy cám dỗ của đời thường. Vì trước cái thiêng. nguyên nhân của mọi tội lỗi và sự trừng phạt Phê phán cái thiêng tôn giáo không lại nằm ngay trong cuộc sống trần thế của con đồng nhất với sự phủ nhận sạch trơn yếu tố người, nên đi theo tiếng gọi của cái thiêng, hy thiêng liêng trong đời sống con người, sự vọng một cuộc sống an lạc trường tồn ở thế thiêng liêng của bản thân cuộc sống mà đúng giới bên kia cũng có nghĩa là phải biết hy sinh, như là triết học Socrat đã từng viết: “Cuộc biết xem thường cuộc sống ở thế giới bên này. sống là chung cho mọi cây cỏ, nhưng chỉ có Bản chất mối quan hệ của con người với cái con người mới có linh hồn. Con người sở dĩ trở thiêng tôn giáo là ở đó. Một kiểu quan hệ bất thành con người một phần căn bản là do nó bình đẳng, hy sinh cái thế tục cho cái thiêng có đời sống tâm linh nghĩa là tuân theo, tôn liêng, thụ động và phụ thuộc vào nó. Cảm thờ những giá trị không vụ lợi, những giá trị hứng chủ yếu trước cái thiêng tôn giáo đương bắt nguồn từ cái thiêng và cái bí ẩn, hai yếu nhiên là lòng tôn kính và biết ơn, nhưng không tố tạo thành đời sống tâm linh” [4]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nhiều tác giả - về tôn giáo (1994). NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.139. [2] Sách đã dẫn, tr.143. [3] Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983) . Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội, tr.16. [4] Nhiều tác giả (1994). Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, NXB Lao động Hà Nội, tr.37. 95
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hỏi đáp về văn hóa phong tục VN
91 p | 182 | 61
-
Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ: Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
6 p | 169 | 31
-
Vài nét nhận thức luận về cái chết của Phật giáo và Công giáo
7 p | 123 | 19
-
Con người trong quan niệm của Phật giáo và Triết học hiện sinh của Sartre: Cái nhìn đối sánh
7 p | 133 | 8
-
Sáp nhập, hợp nhất, liên minh các cơ sở giáo dục đại học - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
13 p | 53 | 7
-
Quan niệm về dân chủ và vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
9 p | 15 | 6
-
Quan niệm của người Việt về cái đẹp qua ca dao
7 p | 55 | 6
-
Về cái biểu đạt và cái được biểu đạt của kí hiệu ngôn ngữ
10 p | 145 | 5
-
Thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Đồng Tháp về người đồng tính
11 p | 70 | 5
-
Quan niệm của Feuerbach về tự nhiên
7 p | 71 | 4
-
Yakuza ở xứ sở phù tang
5 p | 14 | 4
-
Một số vấn đề lý luận về đảm bảo chất lượng đào tạo đại học ở cấp độ chương trình đào tạo
9 p | 20 | 3
-
Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia cho học sinh trong dạy học lịch sử dân tộc ở lớp 12, Trường trung học phổ thông Số 1 (Thành phố Lào Cai)
3 p | 12 | 2
-
Tết tháng Bảy với những quan niệm khác nhau
6 p | 53 | 2
-
Các phương pháp nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế: Khái niệm luận và phân loại
12 p | 38 | 2
-
Đề xuất chu trình PDCA cải tiến chất lượng hoạt động khảo sát lấy ý kiến cựu người học
8 p | 9 | 2
-
Vẻ đẹp thị giác trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
9 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn