Một số vấn đề lí luận về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số dựa vào cộng đồng
lượt xem 2
download
Thông qua quá trình học tập dưới sự hỗ trợ của cộng đồng, học sinh tìm hiểu các nhu cầu của cộng đồng và ngày càng có tiếng nói trong việc giải quyết các vấn đề của cộng đồng. Với ý nghĩa đó, bài viết trình bày một số vấn đề lí luận về giáo dục KNS cho học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) dựa vào cộng đồng. Kết quả nghiên cứu sẽ định hướng cho việc thiết kế nội dung khảo sát thực trạng vấn đề.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số vấn đề lí luận về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số dựa vào cộng đồng
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 483 (Kì 1 tháng 8/2020), tr 18-21 ISSN: 2354-0753 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Bộ Giáo dục và Đào tạo Lý Thanh Loan Email: ltloan1985@gmail.com Article History ABSTRACT Received: 23/6/2020 Life skills education for ethnic minority students in boarding and semi- Accepted: 20/7/2020 boarding schools for ethnic minorities is one of the specific, focused and Published: 05/8/2020 specialized educational contents. In addition to educating life skills to live in an environment that requires autonomy, cooperation and integration, ethnic Keywords minority students need to continue to practice and share their experiences and life skills education, ethnic skills gained from the journey to study away from home, as well as minority students, accumulate from community life or local production activities. The paper community-based education, presents some theoretical issues on life skills education for community-based theoretical framework. ethnic minority students. The proposed theoretical framework will be an important basis for designing the content of the survey of the current situation. 1. Mở đầu Giáo dục dựa vào cộng đồng là một tập hợp các chiến lược giáo dục rộng lớn (bao gồm các giáo dục phục vụ cộng đồng, giáo dục dựa trên kinh nghiệm, giáo dục gắn với thị trường lao động, học nghề cho thanh thiếu niên, học tập suốt đời và một vài loại hình khác), cho phép học sinh tìm hiểu những gì họ muốn học từ các yếu tố cấu thành nên cộng đồng. Đây cũng là một chiến lược dạy học nhằm khai thác hệ thống tài nguyên không giới hạn của cộng đồng bên ngoài nhà trường. Bên cạnh đó, giáo dục dựa vào cộng đồng còn là một chiến lược giáo dục nhằm thúc đẩy việc sử dụng các kĩ năng sống (KNS) của học sinh một cách tự nhiên nhất. Các kĩ năng giáo dục cho học sinh được thực hành, rèn luyện liên tục trong cuộc sống với gia đình, cộng đồng trong sinh hoạt, vui chơi, lao động sản xuất… chứ không chỉ dừng lại ở môi trường lớp học (Barbara, 2003). Cộng đồng tham gia giáo dục KNS cho học sinh; thông qua quá trình học tập dưới sự hỗ trợ của cộng đồng, học sinh tìm hiểu các nhu cầu của cộng đồng và ngày càng có tiếng nói trong việc giải quyết các vấn đề của cộng đồng. Với ý nghĩa đó, bài viết trình bày một số vấn đề lí luận về giáo dục KNS cho học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) dựa vào cộng đồng. Kết quả nghiên cứu sẽ định hướng cho việc thiết kế nội dung khảo sát thực trạng vấn đề. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Đặc trưng tâm sinh lí học sinh dân tộc thiểu số Bên cạnh những nét chung của trẻ em, thanh thiếu niên cùng lứa tuổi, học sinh DTTS có một số nét riêng biệt, đặc trưng ở cả các mặt sinh lí và tâm lí. - Về thể chất: Nghiên cứu một số chỉ báo chính trong báo cáo Tổng quan thực trạng kinh tế xã hội của 53 DTTS năm 2017 của Ủy ban dân tộc, như tỉ lệ suy dinh dưỡng, tỉ suất trẻ em chết, tình trạng bệnh tật và tuổi thọ bình quân, có thể thấy rằng tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em, học sinh vùng DTTS có giảm đi so với những năm trước đây nhưng vẫn ở mức cao so với trung bình chung của cả nước và kém xa mức trung bình về thể chất của người dân trên thế giới. Đặc biệt, một số dân tộc có tỉ lệ cao trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi (Lý Thanh Loan, 2017). - Về tri giác: Do đặc điểm về môi trường sống tự nhiên phong phú, gần gũi với cỏ cây, hoa lá, núi rừng nên học sinh DTTS có khả năng tri giác tốt bằng cả 5 giác quan, trong đó thính giác, thị giác và xúc giác rất nhạy. Cụ thể là, phần lớn học sinh DTTS có thể phản xạ bằng mắt tốt các vật ở xa và có kĩ năng nhận diện, phát hiện âm thanh xa, gần với quãng âm rộng. Đặc biệt, học sinh DTTS ít bị các tật học đường như ù tai, cận thị, gù lưng… - Về khả năng ngôn ngữ: Từ khi sinh ra, trẻ em DTTS chỉ quen với việc nghe - nói các âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Khi đến trường, bước ra khỏi cộng đồng bản, làng, buôn, sóc, trẻ phải làm quen với một ngôn ngữ mới hoàn toàn, tiếng Việt trở thành “ngôn ngữ thứ 2” và là rào cản lớn nhất của học sinh DTTS cấp Tiểu học. Ở giai đoạn đầu, hầu hết học sinh DTTS đều khó khăn trong giao tiếp và học tập bằng tiếng Việt, trẻ thường nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và thường xuyên nhầm lẫn từ cũng như hiểu không chính xác nội dung giao tiếp. Lên các cấp học cao hơn, hầu hết học sinh DTTS đã làm chủ được tiếng Việt trong giao tiếp nhưng nhiều em vẫn diễn đạt theo thói quen của tiếng mẹ đẻ và gặp khó khăn với những từ, cụm từ mang tính học thuật. 18
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 483 (Kì 1 tháng 8/2020), tr 18-21 ISSN: 2354-0753 - Về tư duy: Học sinh DTTS thường có tư duy trực quan tốt nhưng tư duy trừu tượng, logic lại không cao. Các em có xu hướng nhận diện đối tượng tri giác gắn với những sự vật, hiện tượng cụ thể, gắn nó với những trải nghiệm từ thực tế đời sống (Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa, 2012). - Về tình cảm, thái độ, lối sống: Từ đặc điểm hoàn cảnh sống, thói quen sinh hoạt của học sinh DTTS, các em luôn bị bó hẹp trong các bản làng, phum, sóc, hầu như chỉ giao tiếp với các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng nhỏ và ít có cơ hội va chạm với cuộc sống bên ngoài xã hội nên có đời sống nội tâm rất phong phú nhưng thiếu tự tin trong giao tiếp; các em có tâm lí tự ti, mặc cảm và rất dễ tự ái nhưng lại rất chân thật, yêu mến mọi người xung quanh... (Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa, 2012). Do đặc điểm địa hình xa xôi, cách trở, điều kiện sống ít giao thiệp với xã hội hiện đại và rào cản ngôn ngữ nên đa phần trẻ em, học sinh DTTS miền núi chỉ được tích lũy kĩ năng, kinh nghiệm từ đời sống và các hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp. Các kinh nghiệm này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong một cộng đồng và đối với từng dân tộc cụ thể. Vì vậy, phần lớn học sinh DTTS chưa có nhiều KNS để hòa nhập với cuộc sống hiện đại cần sự chủ động, sáng tạo, hợp tác, trao đổi và hội nhập. 2.2. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống dựa vào cộng đồng - Kĩ năng sống: Theo WHO (1993): KNS là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này (Cecilia Moya, 2002). - Giáo dục dựa vào cộng đồng: Đại diện cho sự hội tụ của nhiều khung lí thuyết và nghiên cứu hỗ trợ, bao gồm các chiến lược giáo dục rộng lớn, đó là: Dịch vụ cộng đồng dựa trên học thuật (academically based community service), giáo dục dựa trên vai trò của công dân trong cộng đồng (civic education), giáo dục dựa trên môi trường (environment-based education), giáo dục dựa vào địa điểm (place-based learning), giáo dục phục vụ cộng đồng (service learning) và giáo dục dựa trên công việc (work-based learning). Mỗi chiến lược trong số này đều mang một góc nhìn độc đáo và các nguồn lực quý giá cho việc dạy và học. Tất cả đều cho thấy rằng, trẻ em sẽ tham gia nhiều hơn vào việc học tập khi nội dung giáo dục thật sự có ý nghĩa và cần thiết với mỗi cá nhân cũng như xây dựng dựa trên nền tảng kiến thức, kinh nghiệm sẵn có của học sinh. Trong chiến lược Giáo dục dựa vào cộng đồng, tất cả học sinh đều có thể được hưởng lợi từ việc giảng dạy trong môi trường tự nhiên, một số trường hợp có thể diễn ra trong môi trường làm việc hoặc hoạt động giải trí thuộc thiết chế văn hóa của cộng đồng. Bên cạnh đó, giáo dục dựa vào cộng đồng còn có nhiệm vụ giúp cho học sinh có khả năng tìm hiểu và hỗ trợ các nhu cầu của cộng đồng. Với các kiến thức, kĩ năng có được trong học tập và các trải nghiệm từ cuộc sống, học sinh thể hiện trách nhiệm của mình trong việc phát triển và giải quyết các vấn đề của cộng đồng mà học sinh quan tâm. Các nguyên tắc của việc giáo dục dựa vào cộng đồng liên quan đến bản chất thay đổi của: xã hội, người học, quy trình học tập và nguồn lực dành cho giáo dục. Giáo dục dựa vào cộng đồng tập trung vào khả năng của học sinh trong phát hiện và hỗ trợ giải quyết các vấn đề của cộng đồng, cũng như xây dựng mối quan hệ ngày càng bền chặt của nhà trường với cộng đồng xã hội (Christine J. Villani và Douglas Atkin, 2000). - Giáo dục KNS dựa vào cộng đồng: Điều quan trọng đối với giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường là hướng dẫn được cho các em các kĩ năng thích nghi với các thách thức không ngừng của cuộc sống, vì vậy các em cần được tham gia vào giải quyết các vấn đề của cộng đồng càng sớm càng tốt. Thông qua các trải nghiệm làm việc với cộng đồng, học sinh được gia tăng các kĩ năng liên quan đến công việc và định hình công việc trong tương lai. Việc tiếp cận với các dịch vụ và phương tiện vận chuyển dành cho người lớn cho phép các cá nhân tham gia vào các hoạt động giải trí trong cộng đồng. Mỗi kinh nghiệm này giúp cải thiện tính độc lập và chất lượng cuộc sống cho thanh niên với nhu cầu được cống hiến ngày càng tăng lên (Morse & Schuster, 1996; McDonnell và cộng sự, 1993). Trong quá trình tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, học sinh được thực hành các kĩ năng vào giải quyết các vấn đề thực tế và đánh giá hiệu quả theo những cách phù hợp với phong cách học tập cá nhân. Vì vậy, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, giáo dục dựa vào cộng đồng tỏ ra có hiệu quả nhất trong các hoạt động giáo dục KNS, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề (Barbara, 2003). Hơn nữa, KNS cần được học sinh rèn luyện, lặp đi lặp lại thường xuyên, liên tục, mọi lúc mọi nơi, với sự tham gia một cách có ý thức của những người xung quanh. Đây cũng có thể là một lợi thế của học sinh dân tộc các trường THCS bán trú, nếu các cấp quản lí quan tâm tới vấn đề này. Trong các trường bán trú, KNS có thể được các giáo viên tích hợp vào các bài học; các giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách kết hợp 19
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 483 (Kì 1 tháng 8/2020), tr 18-21 ISSN: 2354-0753 với các hoạt động ngoài giờ lên lớp; cán bộ kí túc xá, nhà ăn kết hợp trong các giờ ăn, giờ chơi… Trong những ngày cuối tuần, KNS được tiếp tục rèn luyện trong sinh hoạt cộng đồng dân cư và trong gia đình. - Những KNS cần thiết đối với học sinh DTTS: Trên cơ sở nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS, những đặc trưng văn hóa, xã hội, tự nhiên các vùng DTTS, đặc điểm tâm - sinh lí, có thể dự kiến những nhóm KNS thiết yếu cần giáo dục cho nhóm học sinh này là: 1) Nhóm KNS hướng tới bản thân; 2) Nhóm KNS với xã hội, cộng đồng; 3) Nhóm KNS với môi trường tự nhiên; 4) Nhóm KNS hướng tới công việc. Mỗi nhóm kĩ năng sẽ bao gồm những kĩ năng thành phần và được chia thành các cấp độ biểu hiện từ thấp đến cao làm cơ sở để lựa chọn và sắp xếp các nội dung và tổ chức thành các chuyên đề cho các hình thức tổ chức khác nhau, với sự tham gia của các nhóm cộng đồng khác nhau. Trong đó, những KNS được chúng tôi quan tâm nhất là nhóm kĩ năng hướng tới bản thân, nhằm giúp các em có các kĩ năng tự bảo vệ mình và bạn bè trước những sự xâm hại tiềm ẩn, đặc trưng cho học sinh dân tộc như: tảo hôn, hôn nhân cận huyết, buôn bán trẻ em qua biên giới, ngộ độc là ngón, đuối nước, điện giật… 2.3. Các nhóm cộng đồng tham gia giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số Có nhiều cách định nghĩa khái niệm và phân loại cộng đồng khác nhau. Tuy nhiên, đối với các trường học đóng tại vùng DTTS và miền núi, một cách khái quát có thể phân loại thành 2 nhóm cộng đồng: - Cộng đồng địa lí: Là nhóm người sống trong cùng một phạm vi địa lí, có những điểm giống nhau, có chung các mối quan hệ nhất định và cùng chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố tác động. - Cộng đồng chức năng: Là nhóm người có thể sống cùng hoặc không cùng một khu vực nhưng có chung đặc điểm, sở thích, nghề nghiệp hoặc mối quan tâm. Theo cách phân loại như trên, khái niệm “cộng đồng” trong nghiên cứu này bao gồm: 1) Cộng đồng trong trường: cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh; 2) Cộng đồng ngoài trường: các cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội quan tâm tới giáo dục, toàn bộ các tài nguyên về con người (cha mẹ học sinh, cộng đồng dân cư, già làng trưởng bản...), môi trường tự nhiên và xã hội bao quanh trường học. 2.3.1. Nhóm cộng đồng chức năng trong nhà trường vùng dân tộc thiểu số - Giáo viên các môn học: Tích hợp dạy kiến thức, kĩ năng môn học với rèn luyện các KNS là xu thế chung của phương thức “học đi đôi với hành”, gắn kiến thức môn học với thực tiễn cuộc sống và cũng phù hợp với đổi mới giáo dục hiện nay, khi “giáo dục chuyển từ chủ yếu truyền thụ kiến thức sang chủ yếu rèn luyện phẩm chất, năng lực người học”. Với cách dạy học này, học sinh sẽ hứng thú hơn khi thấy kiến thức môn học cần thiết, gần gũi với cuộc sống của mình. Ví dụ: Khi học bài về gen và biến đổi gen, giáo viên môn Sinh học có thể giải thích tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết; hay giáo viên môn Vật lí có thể giải thích tác dụng của điện năng đồng thời rèn luyện kĩ năng phòng chống điện giật, kĩ năng phòng chống sét đánh... Ngoài ra, bằng các hình thức, phương pháp dạy học như làm việc nhóm, dạy học theo dự án..., giáo viên có thể giúp học sinh rèn luyện kĩ năng hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. - Giáo viên chủ nhiệm, phụ trách công tác Đoàn, Đội: Hàng năm, các trường đều có các chủ đề hoạt động ngoại giờ lên lớp, các chủ đề hoạt động trải nghiệm. Đây là cơ hội tốt để các giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách kết hợp giáo dục KNS cho học sinh. Các hoạt động như: sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp là những dịp tốt để làm việc này. Đồng thời, các giờ hoạt động ngoài trời khác như: sinh hoạt theo chủ đề hàng tháng, các hoạt động trải nghiệm với thời lượng hơn 100 tiết/năm là cơ hội để giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách giúp các em có các kĩ năng tự bảo vệ mình trước những hiểm họa cho các học sinh dân tộc như: buôn bán trẻ em qua biên giới, tảo hôn, hôn nhân cận huyết... - Cán bộ phụ trách công tác nội trú ở khu kí túc xá, nhà ăn: Đây là một đặc thù rất riêng của các trường vùng DTTS, miền núi và có vai trò quan trọng của hệ thống các trường chuyên biệt (phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú) - nơi học sinh được nuôi ăn, ở tại trường và chỉ trở về nhà vào cuối tuần (đối với trường phổ thông dân tộc bán trú) hoặc các dịp đặc biệt như nghỉ hè, nghỉ tết (đối với trường phổ thông dân tộc nội trú). Ngoài ra, còn có một bộ phận không nhỏ học sinh bán trú trong các trường phổ thông. Vì vậy, học sinh DTTS gần như gắn bó, ăn ở sinh hoạt tại trường dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên trách hoặc giáo viên được cử phụ trách hoạt động nội trú. Cán bộ khu kí túc xá, nhà ăn có thể giúp các em rèn luyện các kĩ năng hợp tác, giúp đỡ nhau trong cuộc sống xa nhà, biết cách hỗ trợ nhau khi không có người lớn ở bên. 2.3.2. Nhóm cộng đồng địa lí xung quanh trường học vùng dân tộc thiểu số - Cha mẹ học sinh: Cha mẹ học sinh vừa là thành viên của cộng đồng địa phương xung quanh trường học, vừa là người có quyền lợi và trách nhiệm trực tiếp nuôi dạy, giáo dục học sinh; hơn nữa, học sinh cần được học những KNS 20
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số 483 (Kì 1 tháng 8/2020), tr 18-21 ISSN: 2354-0753 để phù hợp với đặc điểm sinh hoạt, sản xuất, văn hóa bản địa. Vì vậy, cha mẹ học sinh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc truyền dạy, giáo dục KNS cho con em của mình. Để hoạt động giáo dục KNS cho học sinh được liên tục và toàn diện, nhà trường cần huy động được các phụ huynh tham gia trong thời gian các em ở nhà. Do đặc điểm trong suy nghĩ và nếp sống của đại bộ phận người DTTS, tính chủ động của phụ huynh còn thấp, đa số phụ huynh còn có tư tưởng “phó mặc” con cho nhà trường, chỉ thực hiện khi có yêu cầu và hướng dẫn cụ thể, nên ngoài những lưu ý khi thiết kế nội dung phối hợp nhiệm vụ trong giáo dục KNS thì việc tuyên truyền, vận động, giải thích, hướng dẫn cha mẹ học sinh cũng là nhiệm vụ quan trọng. - Các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương, những người có uy tín trong cộng đồng: Các cấp chính quyền, đoàn thể của địa phương vùng DTTS rất quan tâm đến các hoạt động diễn ra trong trường học. Một số nơi, địa phương thường tổ chức các hoạt động trại hè cho thanh, thiếu niên, có liên hệ mật thiết tới hoạt động giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường. Họ là những lực lượng có thể tham gia sâu và có nhiều đóng góp hữu ích cho cải tiến chương trình giáo dục KNS hàng năm. Họ có thể tham gia vào tất cả các khâu của hoạt động giáo dục KNS khi có hướng dẫn và yêu cầu cụ thể, phù hợp với điều kiện hiện có như: cung cấp thông tin về những vấn đề nổi cộm trong cộng đồng, nhu cầu giáo dục những KNS cần thiết đối với học sinh; cung cấp các thiết chế văn hóa của cộng đồng, những danh lam, thắng cảnh của địa phương để tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho học sinh; tham gia hướng dẫn, giáo dục một số kĩ năng, kinh nghiệm bản địa cho học sinh; theo dõi, đôn đốc và đánh giá việc rèn luyện KNS của học sinh... Chính quyền địa phương và các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp đóng trên địa bàn đều sẵn sàng ủng hộ nhà trường phát triển chương trình giáo dục KNS. Các tổ chức: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Y tế thôn bản, An ninh khu vực; các tổ chức từ thiện, những doanh nghiệp đóng trên địa bàn... hoàn toàn có khả năng phối hợp với nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục và sẵn sàng sử dụng các thế mạnh của mình để cùng với nhà trường xây dựng các nội dung giáo dục KNS cho học sinh cũng như ủng hộ nhân lực, vật lực, tài lực cho phát triển giáo dục của địa phương và cải thiện các vấn đề của cộng đồng. 3. Kết luận Rèn luyện KNS để tự bảo vệ mình và bảo vệ bạn bè là nhiệm vụ cấp bách đối với các nhà trường, đặc biệt là các trường THCS bán trú cho học sinh dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức của các cấp quản lí giáo dục. Nếu nhận thức đúng, hiệu trưởng có thể huy động toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường, phối hợp với cộng đồng dân cư và cha mẹ học sinh cùng tham gia. Cần lưu ý rằng, KNS cần được rèn luyện thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi mới có thể thành công. Tài liệu tham khảo Barbara A. Beakley (2003). Community-Based Instruction: A Guidebook for Teachers. Council for Exceptional Children. Cecilia Moya (2002). Life Skills Approaches to Improving Youth’s Sexual and Reproductive Health. www.Advocates for Youth.org. Christine J. Villani and Douglas Atkin (2000). Community-Based Education. Originally published in the School Community Journal, 10(1), Spring/Summer. Lý Thanh Loan (2017). Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số, miền núi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Tạp chí Giáo dục, số 406, tr 7-10. McDonnell, J., Hardman, M.L. Hightower, J., Keifer-O'Donnell, R., & Drew, C. (1993). Impact of community-based instruction on the development of adaptive behavior of secondary-level students with mental retardation. American Journal on Mental Retardation, 97(5), 573-586. Morse, T.E., & Schuster, J.W. (1996). Grocery shopping skills for persons with moderate to profound intellectual disabilities: A review of the literature. Education and Treatment of Children. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa (2012). Hoạt động giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh trung học. Tài liệu tập huấn giáo viên THCS, THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án Phát triển giáo dục trung học giai đoạn 2. Westling, D.L., & Fleck, L. (1991). Teachers' views of community instruction. Teacher Education and Special Education. 21
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo dục chuyên nghiệp và đổi mới phương pháp dạy, học - Một số vấn đề lí luận: Phần 2
126 p | 91 | 12
-
Một số vấn đề lí luận về thần thoại
8 p | 471 | 11
-
Giáo dục chuyên nghiệp và đổi mới phương pháp dạy, học - Một số vấn đề lí luận: Phần 1
187 p | 116 | 11
-
Một số vấn đề lí luận và phương pháp phân tích diễn ngôn (in lần thứ 2): Phần 2
150 p | 19 | 11
-
Một số vấn đề về việc rèn luyện kĩ năng kết hợp các thao tác nghị luận trong văn nghị luận cho học sinh THPT
9 p | 109 | 7
-
Chính sách tạo động lực làm việc cho giáo viên phổ thông - Một số vấn đề lí luận
7 p | 13 | 6
-
Một số vấn đề lí luận về phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng đổi mới giáo dục đại học
6 p | 12 | 6
-
Một số vấn đề lí luận về quản lí hoạt động đào tạo trình độ Thạc sĩ chuyên ngành Quản lí giáo dục tại trường đại học
9 p | 125 | 6
-
Một số vấn đề lí luận về quản lí hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh THPT đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông 2018
9 p | 20 | 5
-
Một số vấn đề lí luận về phát triển văn hóa nhà trường
5 p | 40 | 5
-
Một số vấn đề lí luận về quản lí chất lượng các chương trình đào tạo bậc Đại học theo bộ tiêu chuẩn AUN-QA
9 p | 12 | 4
-
Một số vấn đề lí luận về hoạt động lễ hội ở trường mầm non
4 p | 132 | 4
-
Vận dụng mô hình PDCA trong quản lí bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đội ngũ giáo viên mầm non một số vấn đề lí luận
6 p | 17 | 3
-
Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
11 p | 38 | 2
-
Một số vấn đề lý luận dạy học trong xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa phổ thông
7 p | 41 | 2
-
Một số vấn đề lí luận cơ bản về quản lí hoạt động học tập của học viên cao học ở trường Đại học Sư phạm
10 p | 72 | 1
-
Văn hóa dòng họ Việt Nam: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
12 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn