YOMEDIA
ADSENSE
Một số ý kiến về phong hướng công tác phát triển kiểm toán ở nước ta hiện nay
90
lượt xem 17
download
lượt xem 17
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN I. HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN MỘT NHU CẦU TẤT YẾU CỦA NỀN KINH TẾ. Kiểm toán nhà nớc là cơ quan thuộc chính phủ. Ở nớc ta nó mới đợc thành lập và phát triển trong mấy năm nay nhng nó đã hệ thống thể hiện một cách rõ rệt về vị trí vai trò của mình.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số ý kiến về phong hướng công tác phát triển kiểm toán ở nước ta hiện nay
- Một số ý kiến về phong hướng công tác phát triển kiểm toán ở nước ta hiện nay
- Một số ý kiến về phong hướng công tác phát triển kiểm toán ở nước ta hiện nay PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN I. HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN MỘT NHU CẦU TẤT YẾU CỦA NỀN KINH TẾ. Kiểm toán nhà nớc là cơ quan thuộc chính phủ. Ở nớc ta nó mới đợc thành lập và phát triển trong mấy năm nay nhng nó đã hệ thống thể hiện một cách rõ rệt về vị trí vai trò của mình. Trong nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. đặc biệt là quá trình quản ký kinh tế góp phần thúc đẩy nhiệm vụ kinh tế xã hôịo của đất nớc truớc tình hình mới, thực hiện công cuộc phát triển kinh tế năng động, toàn diện đủ sức hội nhập theo xu hớng khu vục hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế. Hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán nhà nứơc nói riêng đã trở thành một nhu cầu tất yếu của nền kinh tế chuyển đổi. Nhà nớc cần phải giải quyết nhiều vấn đè trong mối quan hệ giữa các cấp, các nghành, các đị phơng và các tổ chức kinh tế, đặc biệt là quá trình xây đựng và hình thành pháp luật kiểm toán nhà nuớc hay luật kiểm toán nhà nớc trong tơng lai. Để thực hiện các mục tiêu đề ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh phấn đấu đạt hiệu quả cao nhất với chi phí tháp nhất ngời quản lý quá trình diễn biểu của hoạt động sản xuất từ đầu vào đến đầu ra và quá trình hạch toán kinh tế có đảm bảo đúng mục đích hay không? Có đúng phát luật hiện hành của nhà nớc không? đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển năng động đảm bảo “sân chơi” chung phù hợp với luật pháp trong nớc và thông lệ quốc tế. Hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán nhà nớc nói riêng đợc tiến hành một cách thờng xuyên và đi vào nề nếp thì chắc chắn sẽ giúp cho cơ quan lãnh đạo và các nhà quản lý thâý rõ tác dụng của nó. Hoạt động kiểm toán nhà nớc có vị trí hết sức quan trọng đối với quảnlý kinh tế không chỉ ở tầm vĩ mô mà còn cả ở tầm vi mô. II. VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NỚC TRONG NỀN KINH TẾ. Bất cứ một chế độ xã hội nào , ngân sách nhà nớc cũng là nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo tài chính cho mọi lĩnh vực.
- Hoạt động của bộ máy nhà nớc, một trong những công cụ để góp phần quản lý và sử dụng có hiệu lực nguồn lực ấy là cơ quan kiểm toán nhà nớc nhất là trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi nh nớc ta hiện nay. Kiểm toán nhà nớc đã khẳng định sự cần thiết và vai trò ngày càng lớn của mình trong việc góp phần quản lý kinh tế vĩ mô nói chung vã trong lĩnh vực quản lý ngân sách nhà nớc công quỹ quốc gia nói riêng. Với chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn chung thực, chính xác ,hợp pháp, hợp lệ của số liệu kiểm toán , báo cáo kiểm toán của các đơn vị nhà nớc, đơn vị kinh tế, đơn vị sự nghiệp , các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Kiểm toán nhà nớc bớc đầu khẳng định đợc vai trò không thể thiếu đợc của mình trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát của nhà nớc ta. Những kết quả kiểm toán trung thực, chính xác , khách quan của cơ quan kiểm toán nhà nớc không chỉ giúp chính phủ, quốc hội đánh giá đúng tình hình thực trạng tài chính ngân sách nhà nớc mà còn cung cấp các thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế , ra các quyết định có hiệu lực cao , đề ra các biện pháp tăng cờng quản lý thu chi ngân sách đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong việc sử dụng ngân sách. Kiểm toán nhà nớc không chỉ thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ nh kiểm toán t nhân mà còn có chức năng đợc đảm bảo bằng chính địa vị pháp lý của nó là thúc đẩy việc thực thi các kiến nghị và điều chỉnh đã nêu trong các báo cáo kiểm toán , trong việc kiểm soát và quản lý nền kinh tế đã thấy rõ kiểm toán nhà nớc có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chức năng kiểm tra, giám sát , kiểm soát và quản lý nền kinh tế. Kiểm toán nhà nớc là cơ quan chức năng của nhà nớc hoạt động không vì mục đích lợi nhuận cho bản thân cơ quan kiểm toán mà vì toàn bộ nền kinh tế, nên hoạt động của kiểm toán nhà nớc mang tính khach quan, không trục lợi. Kiểm toán nhà nớc là cơ quan có địa vị pháp lý đủ mạnh để thực hiện các chức năng kiểm tra , kiểm soát , cảnh báo và trên giác độ vi mô , có thể góp phần ngăn chặn các nguy cơ dẫn đến phá sản cho doanh nghiệp đợc kiểm toán, và mở rộng hơn trên giác độ vĩ mô có thể cảnh báo cá nguy cơ dẫn đến các khó khăn tài chính , khủng hoảng cho các nghành cũng nh cho toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, kiểm toán nhà nớc có thể liên kết với các cơ quan hữu quan đẻ thuc đẩy quá trình thực thi các kiến nghị kiểm toán, và trên phơng diện nhất định có thẩm quyền pháp lý để buộc các đối tợng kiểm toán và các bên liên quan thực hiện điều chỉnh quản lý , khắc phục các vi phạm sửa sai và chấn chỉnh trong công tác tài chính . Trong quá trình hoạt động vai trò của kiểm toán nhà không ngừng đợc củng cố và tăng cờng đáp ứng một phần yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn trong việc quản lý điều hành đất nớc, nó đợc thể hiện một số mặt chủ yếu sau. - Thứ nhất góp phần kiểm tra việc chấp hành những quy định hiện hành về nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nớc ,thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. - Thứ hai kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng ngân sách nhà nớc chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nớc. - Thứ ba cung cấp cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quyết định và quản lý ngân sách nhà nớc sát thực và có hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu
- lực và hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nhà nớc và công quỹ quốc gia trong việc quản lý điều tiết nền kinh tế là dự toán ngân sách nhà nớc. Thông qua việc kiêm tra tài chính. Kiểm toán nhà nớc đã chỉ ra những bất họp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, chi ngân sách nhà nớc, góp phần tạo lập cơ sở, căn cứ để xây dựng dự toán ngân sách nhà nớc cho những năm sau, nhằm thu đúng thu đủ, chống thất thu cho ngân sách nhà nớc. Đồng thời kiến nghị việc phân bổ ngân sách nhà nớc cho các ngành, các địa phơng một cách hợp lý. Ngoài ra ngành kiểm toán nhà nớc đã góp phần đánh giá một cách sát thực tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nớc làm căn cứ cải tiến quản lý doanh nghiệp, điều chỉnh các chính sách kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghi ệp nhà nớc cùng với việc huy động vốn đầu t phát triển. -Thứ t thông qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán nhà nớc đã đề xuất, kiến nghi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế tài chính và ngân sách nhà nớc ở các cơ quan, đơn vị trung ơng và địa phơng. III. NHỮNG THÀNH QUẢ KIỂM TOÁN NHÀ NỚC TRONG NHỮNG NĂM XÂY DỰNG VÀ TRỞNG THÀNH. Đối với mọi quốc gia trên thế giới có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trờng đều có một đặc điểm chung nhất là hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế đợc coi là một thiết chế để duy trì sự công bằng và tạo niềm tin cậy trong các quan hệ kinh tế xã hội trong điều kiện cạnh tranh. Một nền kinh tế thi trờng phát triển lành mạnh có sức cạnh tranh và hiệu quả cao. Cách đây hơn 6 năm mg ày 11/7/1994. Kiểm toán nhà nớc chính thức đợc thành lập trên cơ sở nghị định 70/CP của chính phủ. Theo đó: Kiểm toán nhà nớc là cơ quan thuộc chính phủ và là cơ quan kiểm tra tài chính công của nớc công hoà XHCN việt nam thực hiện việc kiểm toán đối với các cơ quan nhà nớc các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi ngân sách nhà nớc và các tổ chức , đơn vị có quản lý, sử dụng công quỹ và tài sản nhà nớc. Kiểm toán nhà nớc ra đời là một yêu cầu thị trờng tất yếu của xu thế đổi mới , là sự đòi hỏi khách quan của cơ chế thi trờng trong công cuộc xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ quan mới, trớc đó cha có một tổ chức tiền thân , cha có một tiền lệ trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nớc nên trong buổi đầu kiểm toán nhà nơc không gặp ít khó khăn từ cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức con ngời đến công tác chuyên môn, cơ sở pháp lý cho hoạt động . Trên cơ sở điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nớc, đến nay bộ máy tổ chức của ngành đã đi vào thế ổn định và tiếp tục phát triển, từ chỗ ban đầu (1994) chỉ có hơn 30 ngời đến nay kiểm toán nhà nớc có hơn 500 cán bộ công nhân viên, trongg đó hơn 400 ngời là kiểm toán viên. Tuy còn thiếu nhiều so với nhiệm vụ lâu dài của ngành nhng số cán bộ hiện có đã đáp ứng đợc nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thành lập. Nhìn chung đội ngũ cán bộ đều đợc đào tạo có hệ thống, số tốt nghiệp trở nên 88%, riêng kiểm toán viên 100% đều đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành tài chính kiểm toán và một số chuyên ngành kĩ thuật khác. Nhìn lại những năm qua kiểm toán nhà nớc đã có bớc
- phát triển đáng kể trong việc triển khai kế hoạch kiểm toán hàng năm với quy mô và chất lợng năm sau cao hơn năm trớc. Kiểm toán là một nghề mới ở nớc ta, do đó kiểm toán viên nhà nớc nhìn chung cha đợc đào tạo một cách có hệ thống và bài bảng. Vì vậy công tác đào tạo, bồi dỡng kiến thức nghiệp vụ kiểm toán đã đợc đặc biệt coi trọng. Sáu năm qua kiểm toán đã thu đợc một số kết quả nhất định trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Tháng 4 năm 1996,kiểm toán nhà nớc đã ra nhập tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) vào tháng 11 năm 1997 trở thành thành viên của tổ chứccác cơ quan kiểm toán tối cao Châu á (ASOSAI) ngoài ra kiểm toán nhà nớc còn mở rộng quan hệ hợp tác song phơng và đa phơng với các cơ quan kiểm toán tối cao của nhiều nớc trên thế giới. Bớc đầu đã thực hiện có kết quả những dự án do ngân sách phát triển Châu á(ADB). Ngày nay ngành kiểm toán đã trở thành một ngành có thế mạnh, có tổ chức chặt chẽ giữa các khâu, các bộ phận với nhau, một ngành mạnh trong cơ quan kiểm tra của nhà nớc. PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM TOÁN. I . THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KIỂM TOÁN NỚC TA HIỆN NAY. Đối tợng kiểm toán của cơ quan kiểm toán Nhà nớc là nền tài chính công, các đơn vị có liên quan đến quá trình quản lý sử dụng ngân sách Nhà nớc và các tài sản cùng công quỹ quốc gia. Để thực thi quyền chức năng và trách nhiệm của mình, kiểm toán Nhà nớc phải tiên hành 3 loại hình kiểm toán: - Kiểm toán báo cáo tài chính. - Kiểm toán tuân thủ. - Kiểm toán hoạt động. Để cho kiểm toán hoạt động đúng với bản chất và hoạt động có hiệu quả, phải chú trọng tới chất lợng kiểm toán. Chất lợng kiểm toán là thớc đo về tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Chất lợng kiểm toán đợc thể hiện bằng việc đa ra lời nhận xét đúng đắn và trung thực hợp lý, hợp pháp các thông tin đợc kiểm toán nhằm phục vụ cho công tác quản lý và điều hành ngân sách Nhà nớc của các cấp chính quyền, các doanh nghiệp quản trị doanh nghiệp đối với các nhà quản lý, các hoạt động đầu t tài chính và các quan hệ giao dịch kinh tế khác. Hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của Nhà nớc giữ đúng định hớng phát triển của nền kinh tế theo mục tiêu quan điểm và đờng lối của đảng, phát huy nhiều mặt tích cực, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực vốn có của cơ chế thị trờng. Trong những năm qua, nền kinh tế nớc ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể.
- Tuy nhiên, những mặt trái của cơ chế thị trờng cũng ngày càng bộc lộ rõ nét và gây ảnh hởng không nhỏ, thâm chí có một số biểu hiện đáng lo ngại về kinh tế - xã hội. Mặc dù, chúng ta có nhiều cố gắng ngăn chặn và xử lý song tình trạng buôn lậu, tham nhũng, hoạt động kinh doanh trái pháp luật, trốn thuế, gây thất thoát ngân sách và tài sản Nhà nớc ngày càng lớn và phổ biến ở nhiều nơi. Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều nguyên nhân: - Đó là, khi đi vào kinh tế thị trờng chúng ta quá chậm và cha tập trung đúng mức cần thiết cho việc hình thành và tăng năng lực hệ thống kiểm toán. bao gồm, kiểm toán Nhà nớc , kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ ở các đơn vị kinh tế cơ sở, trớc hết là doanh nghiệp Nhà nớc. Qua kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy, ở các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển đều cần có hệ thống kiểm toán mạnh. Có thể nói đây là một công cụ đắc lực không thể thiếu đợc để quản lý kinh tế của mỗi quốc gia. Hơn nữa, ở nớc ta cho đến nay hệ thống đó mới hoạt động theo những văn bản pháp quy dới luật cho nên cơ sở và tính pháp lý còn rất hạn chế. Mặc dù, trong 5 năm qua đã có nhiều cố gắng, song đến nay hệ thống kiểm toán Nhà nớc mới có khoảng 450 kiểm toán viên, trình độ quản lý Nhà nớc, quản lý tài chính, đặc biệt là nghiệp vụ chuyên môn của kiểm toán còn nhiều mặt hạn chế. Do vậy, hoạt động kiểm toán mới triển khai bớc đầu ở một số ngành, địa phơng và doanh nghiệp trọng điểm. - Bộ máy quản lý tài chính, bảo vệ phát luật đợc tổ chức rất đồ sộ, nhiều khâu nhiều cấp rất hệ thống, từ Trung ơng đến địa phơng biên chế lớn, song cha đợc quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động còn chồng chéo cha có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan với nhau nói chung và hệ thống kiểm toán nói riêng. Tình trạng vi phạm phát luật nh tham nhũng làm thất thoát hàng tỷ đồng, tài sản của doanh nghiệp, của Nhà nớc dới nhiều hình thức vẫn cứ xảy ra và ngày càng nhiều vụ việc mang tính chất phổ biến và nghiêm trọng, thậm chí có vụ mang tính tập thể có tổ chức cả trong và ngoài doanh nghi ệp. Rõ ràng chí xét về mặt quản lý tài chính, ngân sách Nhà nớc ở nhiều doanh nghiệp Nhà nớc có thể kết luận là: Công tác này, lâu nay bị buông lỏng, bộ máy quản lý cấp trên và trong doanh nghiệp vô cùng đồ sộ nhng kém hiệu lực và hiệu quả, không thể xác định đợc trách nhiệm về khâu nào, cấp nào, cơ quan tổ chức nào. Trong khi đó sự tác động của hệ thống kiểm toán còn quá mỏng manh và hụt hẫng, rất xa so với nhu cầu công tác kiểm toán đối với các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị sự nghiệp đứng trên góc độ phát luật. Những sai sót, gian lận và sự vi phạm các văn bản phát luật của đối tợng kiểm toán, tuỳ mức độ nặng nhẹ, tuỳ nguyên nhân chủ quan hay khách quan, kiểm toán viên và đoàn thể kiểm toán có sự phân tích đánh giá và kết luận. Có thể nêu ra một số dấu hiệu chủ yếu của việc không tuân thủ các quy phạm pháp luật. 1. Những dấu hiệu sai phạm trong khâu tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh. - Tổ chức cơ quan, đơn vị không đúng với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về thành lập và vi phạm điều lệ quy chế về tổ chức và hoạt động của đơn vị.
- - Tổ chức quản lý và hạch toán tuỳ tiện không tuân theo 1 mô hình nhất quán và chặt chẽ, phân cấp hạch toán và tổ chức bộ máy kiểm toán tuỳ tiện, không phù hợp với quy định của pháp lệnh kiểm toán thống kê và chế độ kiểm toán hiện hành. - Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các công chức và viên chức lãnh đạo và kiểm toán trởng trái các quy định của luật pháp. Tuyển dụng công chức, cán bộ và viên chức không tuân theo 1 trình tự, thủ tục, tiêu chuẩn cho phép. - Phát triển các hoạt động một cách tự phát không theo chức năng nhiệm vụ. Liên doanh, liên kết không có cơ sở pháp lý và luân chức hợp lý, hợp pháp dẫn đến rối loạn trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh gây thiệt hại về nguồn nhân lực. 2. Những dấu hiệu sai phạm về các hoạt động kinh tế. - Tiến hành các hoạt động vụ lợi trái quy định pháp luật ngoài vi phạm thẩm quyền. - Vi phạm các chế định của pháp lệnh hợp đồngkt, đặc biệt là trong quan hệ thầu, ký kết hợp đồng kinh tế. Gian lận khi tiến hành các thủ tục hợp đồng. Vận dụng sai nguyên tắc các chế định về giá cả. - Gian lận và man trá trong thủ tục đấu thầu. - Vi phạm các chế định luật pháp về quản lý sử dụng tài sản vật t, nhân lực, tiền vốn trong triển khai các hoạt động kinh tế. - Không làm hoặc làm sai các quy định về kiểm kê, đặc biệt là việc kiểm kê hình thức. Không có quy trách nhiệm vật chất trong biên bản kiểm kê và không có quyết định xử lý kiểm kê. - Sử dụng một cách vô nguyên tắc thiếu hiệu quả các khoản chi phí tiếp thị, lợi dụng để biển thủ các khoản kinh phí dành cho tiếp thị, ký kết hợp đồng kinh tế. - Vi phạm các quy định luật pháp và các quy định nội ngành, nội bộ về quản lý và điều hành đơn vị về mặt kinh tế. 3. Những dấu hiệu sai phạm về xử lý các quan hệ tài chính, các quan hệ lợi ích. - Không có quy tắc chuẩn mực hoặc vi phạm các chế định luật pháp khi xử lý các quan hệ tài chính dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, gặp đâu làm đó, làm rối loạn các quan hệ tài chính, đặc biệt là khâu giải quyết công nợ thanh toán và tất nhiên là sự gây nên sự căng thẳng về quan hệ tài chính, hạn chế, thậm chí triệt tiêu hiệu quả các hoạt động kinh tế tài chính. - Trốn, lậu thuế, đặc biệt là những đơn vị trốn lậu thế kéo dài. - Vi phạm các quy tắc và quy định chế độ tián dụng, xâm hại lợi ích của ngân hàng, của ngời cho vay, làm thất thoát tài sản khi cho vay, cho tạm ứng, vi phạm các chế định luật pháp, về lãi suất, tiền vay, tiền gửi. Về kế ớc nhận vốn của ngời góp vốn. - Vi phạm các chế định pháp luật khác về thị trờng vốn, các giao dịch cổ phiếu, trái phiếu và các quy định luật pháp về thị trờng chứng khoán nói chung. - Vi phạm luật hoặc các quy định về chống độc quyền, gian lận trong thơng mại. - Đầu cơ, trục lợi trong hoạt động kinh tế và sản xuất - kinh doanh.
- - Vi phạm các quy định về luật thơng mại, luật bản quyền hoặc các công ớc quốc tế mà chính phủ đã cam kết thực hiện. 4. Những dấu hiệu sai phạm về công tác tài chính. - Không thực thi các quy định về bảo toàn tồn phát triển nguồn vốn trong quy định của biên bản giao nhận vốn. - Vi phạm các cam kếttài chính trong khế ớc vay vốn, góp vốn nhận nợ. - Vi phạm các quy định về tài chính trong hợp đồng kinh tế, cả trong hợp đồng tập thể giữa thủ trởng và ngời lao động. - Vi phạm các quy định về phân chia lợi nhuận, chia cổ tức khi phân phối lợi nhuận hoặc sử dụng các quỹ khi giải quyết quan hệ lợi ích với các bên liên quan. - Vi phạm về phân cấp quản lý vốn, điều hoà chu chuyển vốn, thanh toán trong nội bộ . - - Vi phạm các quy định về các nguyên tắc quản lý nguồn vốn chủ sơ hữu, nguồn đi vay, phần vốn góp và các quỹ của đơn vị. - áp dụng sai các quy tắc về luật pháp về định giá tài sản, làm thất thuát, xâm hại nguồn tài chínhcủa đơn vị. - Dùng công quỹ để hối lộ, để vụ lợi, để che dấu các hoạt động bất minh. 5. Những dấu hiệu vi phạm về kiểm toán. - Vi phạm các nguyên tắc về tổ chức kiểm toán, bao gồm cả tổ chức bộ máy và tổ chức công tác kiểm toán nhất là về phân cấp hạch toán. - Vi phạm về khâu hạch toán ban đầu, đặc biệt là sử dụng lu hành các chứng từ kiểm toán bất hợp pháp, không hợp lệ. - Vi phạm chế độ tài khoản , làm rối loạn khâu hạch toán đặc biệt nghi êm trọng là chủ tâm gây nhiễu khi thiết kế sơ đồ hạch toán và vi phạm các nguyên tắc ghi sổ, che dấu các quan hệ tài chính bất minh. - Vi phạm nguyên tắc định giá, nguyên tắc bảo toàn vốn, nguyên tắc phản ánh trung thực khách quan các tài sản của đơn vị. Cố ý sử dụng sai tỷ giá hối đoái để vụ lợi bất chính. - Vi phạm nguyên tắc hạch toán kiểm toán chỉ dùng đồng Việt Nam. - Hạch toán sai doanh thu, chi phí, thu nhập. - Xuyên tác kết quả sản xuất kinh doanh, biến lãi thành lỗ và ngợc lại. - Lên báo cáo tài chính sai quy tắc kiểm toán, gian lận khi lên các chỉ tiêu tổng hợp, xuyên tạc thực trạng tài chính của đơn vị. - Không duy trì, hoặc có ý không duy trì sự hạch toán liên tục, đúng kỳ, vi phạm, quy định về lập báo cáo kiểm toán. - Vi phạm quy định bảo quản, lu trữ hồ sơ kiểm toán. cố tình che dấu, làm thất lạc hoặc huỷ hoại tài liệu, hồ sơ kiểm toán. - Không điều chỉnh sổ sách theo quyết định kiểm kê, theo quyết định của các đoàn kiểm tra, kiểm toán có thẩm quyền.
- Những tồn tại yếu kém của ngành còn đợc thể hiện trong nhiều mặt. Song những gì ngành đóng góp cho việc quản lý nguồn lực tài chính của đơn vị, tổ chức, quốc gia nó đợc thể hiện qua 1 số u nhợc điểm sau: Ưu điểm: Thông quan kiểm toán kiểm toán Nhà nớc đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nớc. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là qua kiểm toán đã giúp đỡ các đơn vị thấy đợc thực trạng tình hình tài chính nhiều yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh. Những số liệu kiểm toán còn cung cấp cho cơ quan quản lý và sử dụng nguồn nhân lực NSNN trong từng địa phơng và đơn vị cung cấp thông tin xác thực cho cơ quan quản lý Nhà nớc về thực trạng thu chi, điều hành và quyết toán NSNN... nó cũng là 1 trong những căn cứ để Quốc hội xem xét quyết định phân bổ và phê chuẩn quyết toán NSNN, đồng thời giúp chính phủ hoạch định chính sách và đề ra các biện pháp tăng cờng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh các chức năng chuyên biệt của kiểm toán, kiểm toán còn tực hiện một chức năng quan trọng khách là phát hiện và cảnh báo các nguy cơ nổ ra ọt cuộc khủng hoảng kinh tế. Thông qua kiểm toán để có biện pháp ngăn chặn, hạn chế mức thiệt hại thấp nhất. Thông qua kiểm toán còn phát hiện ra các vụ tham nhũng, tham ô ngân sách Nhà nớc, trốn thuế, tệ nạn buôn lậu, làm thất thoát ngân sách Nhà nớc. Có thể khẳng định một cách nghiêm túc kiểm toán Nhà nớc là cơ quan quyết định trong bộ máy tổ chức quyền lực quan trong của Nhà nớc nó là tích cực giúp cho Quốc hội chính phủ có những cơ sở để hoạch định chính sách phát triển lâu dài của nền kinh tế. Nhợc điểm: Song những mặt tích cực của kiểm toán nó vẫn còn tồn tại những hạn chế cần có biên pháp khắc phục, nhng hiệu lực kiểm toán còn hạn chế, cha đủ mạnh để đi sâu làm rõ sai phạm trong quản lý điều hành phân phối và sử dụng NSNN. Vi phạm hoạt động trong kiểm toán Nhà nớc còn hạn hẹp, chất lợng kiểm toán cha cao, mới chỉ dừng lại ở việc xem xét, xử lý những vấn đề riêng lẻ của từng đối tợng kiểm toán mà cha đi sâu vào phân tích tổnghợp, đội ngũ kiểm toán viên nhìn chung có phẩm chất tốt, cần cù, chịu khó trong công việc nhng trình độ cha tơng xứng với đòi hỏi nhiệm vụ đợc giao. Nó đã xuất hiện 1 vài hiện tợng cá biệt phản ảnh sự thiết trong sáng trong công việc và sinh hoạt, đã xuất hiện việc che dấu những vụ làm ăn phí pháp không trung thực với kết quả kiểm tra phản ánh không đúng thực té tổ chức nhiều khâu làm cho công việc tiến hành đồ sộ qua nhiêu bớc gây mất nhiều thời gian tiền của trong việc thực thi công việc. Nhiều khi còn tạo kẽ hở cho bạn trốn thuế, việc tham nhũng, buôn lậu, làm ăn bất chính. Chức năng, nhiệm vụ cha quy định rõ dàng. Bộ máy hoạt động còn chồng chéo và đồ sộ, phạm vi hoạt động không quy định rõ dàng. Chính vì vậy mà nó tạo cho việc thực thi công việc mấtthời gian, phức tạp hiệu quả công tác cha cao. Giữa các bộ phận không thống nhất còn nhiều sơ hở trong khâu quản lý và điều hành.
- II. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT. Để kiểm toán Nhà nớc hoạt động có kết quả tốt thì một hệ thống chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán cần sớm đợc ban hành các chế độ, chính sách của Nhà nớc cần phải thốngnhất, và trên cơ sở đó xác định đúng địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nớc đẻ xứng đáng là 1 trong những công cụ kiểm kê, kiểm soát đáng tin cậy, góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính Nhà nớc. 1. Mấy kiến nghị tăng cờng hệ thống kiểm toán trong quản lý tài chính ngân sách Nhà nớc. - Kiểm toán Nhà nớc phải sớm phát triển mạnh để thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc với mọi cơ quan, đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nớc. Nhà nớc sớm ban hành luật kiểm toán trớc mắt là pháp lệnh lkiểm toán trong đó quy định rõ vị trí pháp lý, chức năng, từng bộ phận cấu thành và của mỗi kiểm toám viên Nhà nớc. Trong luật kiểm toán cũng phải xác định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và trách nhiệm phối hợp trong kiểm toán nói riêng và giữa kiểm toán với hoạt động của cơ quan khác, thanh tra, quản lý tài chính, điều tra, giám sát trong và ngoài doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức cơ sở kinh tế sự nghiệp nói chung. - Mở rộng mạng lới kiểm toán độc lập, đáp ứng nhu cầu kiểm toán mọi doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Mạng lới kiểm toán này bao gồm các oong ty, kiểm toán thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động theo pháp luật Nhà nớc và hợp đồng trách nhiệm giữa đơn vị kiểm toán với đơn vị kinh tế, sự nghiệp, các cơ quan tổ chức chủ dự án, chủ đầu t. - Cùng với việc sớm ban hành luật kiểm toán mới thay thế pháp lệnh hiện hành (vì ban hành từ năm 1988 nay đã có những nội dung không phù hợp) Củng cố phòng tài chính kiểm toán của doanh nghiệp, đơn vị sự nghi ệp, cần tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp lớn. Bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp hoạt động độc lập với phòng tài chính - kiểm toán của Nhà nớc theo pháp luật, dới sự đầo tạo, hớng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán Nhà nớc. Nhà nớc cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy thanh tra Nhà nớc, kho bạc Nhà nớc, Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nớc tại doanh nghiệp, Tổng cục đầu t phát triển theo hớng tinh giảm khâu cấp, giảm biên chế, đồng thời quy định rõ và bảo đảm hoạt động đúng chức năng có sự phối hợp chặt chẽ giữa các loại cơ quan đó với nhau và với hệ thống kiểm toán nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nớc nói chung, quản lý tài chính, ngân sách và quản lý doanh nghiệp nói chung. Hệ thống kiểm toán không ngừng đợc mở rộng và kiện toàn theo sự phát triển và đa dạng của nền kinh tế quốc dân nó là 1 công cụ đắc lực không thể thiếu đợc của Nhà nớc trong quản lý nền kinh tế thị trờng. 2. Mấy ý kiến về xác lập quyền hạn của kiểm toán Nhà nớc trong bộ máy quyền lực của Nhà nớc. Mỗi cơ quan đều có những quyền hạn nhất định theo các quy định của pháp luật, đối với cơ quan kiểm toán Nhà nớc cũng vậy, quyền lực của Nhà nớc, quyền hạn của co quan
- kiểm toán Nhà nớc chính là điều kiện quan trọng để giúp cho cơ quan này hoàn thanhf tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Các quyền hạn của KTNN phải đợc xác lập 1 cách rõ ràng trên 3 phơng diện: - Quyền hạn nhằm bảo đảm tính tự chủ và tính độc lập cao để KTNN thực hiện đợc các chức năng nhiệm vụ 1 cách khách quan, vô t đạt hiệu quả cao. - Các quyền hạn của KTNN đối với các đơn vị đợc kiểm toán và các hoạt động liên quan, nhằm thực hiện và bảo đảm chất lợng các cuộc kiểm toán. - Các quyền hạn của KTNN về công bố báo cáo kiểm toán và đa ra các kiến nghị có liên quan đến việc xử lý các sai phạm đợc phát hiện. Trên cơ sở phân loại quyền hạn của KTNN, cần xác lập các quyền hạn bằng các điều khoản cụ thể trong luật hay pháp lệnh KTNN. 2.1. Về quyền hạn chung của KTNN. - Quyền hạn về phạm vị kiểm toán. Việc tách 1 số lĩnh vực để kiểm tra phải có quy định cụ thể, ngoài ra quyền hạn KTNN phải bao quát các lĩnh vực, các đơn vị phi chính phủ, các tổ chức. - Quyền tự chủ về lập kế hoạch kiểm toán và lựa chọn đối tợng kiểm toán mà không 1 cơ quan hoặc cá nhân nào có quyền can thiệp, phần lớn các cơ quan KTNN tự lập kế hoạch ra quyết định kiểm toán ngoài ra KTNN có thể kiểm toán theo yêu cầu của chính phủ hoặc Quốc hội.. Hiện nay ở nớc ta, KTNN lập kế hoạch kiểm toán hàng năm trình chính phủ phê duyệt. Tổng kiểm toán Nhà nớc ra quyết định kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán đã đợc chínhphủ phê duyệt, theo em để đảm bảo tính độc lập cao của cơ quan kiểm toán Nhà nớc nên cho phép KTNN quyền tự chủ lập kế hoạch kiểm toán và thông qua quyết định kiểm toán theo cơ chế hội đồng. - Nguồn kinh phí để hoạt động của cơ kiểm toán Nhà nớc dựa vào đâu? Ngân sách cấp hay có phần đống góp của đơn vị kiểm toán, theo em để đảm bảo tính độc lập cần thiết về mặt kinh tế cho cơ quan KTNN cần cho Kiểm toán Nhà nớc quyền hạn tự lập kế hoạch về ngân sách của mình đảm bảo đầy đủ các chi tiết cần thiết theo quy định. 2.2. Các quyền điều tra và các quyền thi hành nhiệm vụ. - Quyền yêu cầu các cơ quan đơn vị, tổ chức thuộc đối tợng kiểm toán cung cấp các báo cáo quyết toán và các thông tin tài liệu cần thết để thực hiệ kiểm toán. - Quyền yêu cầu các cá nhân, tổ chức trong xã hội cung cấp các thông tin, dịch vụ chuyên ngành và t vấn có liên quan đến cuộc kiểm toán. - Quyền phỏng vấn trực tiếp hoặc yêu cầu giải trình tài kiệu đối với các cá nhân thuộc đối tợng kiểm toán. - Quyền đa ra các giải pháp để ngăn chặn kịp thời các sai phạm, vi phạm nghiêm trọng mà kiểm toán Nhà nớc phát hiện khi thực hiện kiểm toán có ảnh hởng trực tiếp đến lợi ích Nhà nớc, lợi ích quốc gia. 2.3. Quyền báo cáo kiểm toán và công bố kết quả kiểm toán. Sự thuyết phục đối với các lực lợng của xã hội của cơ quan kiểm toán Nhà nớc chủ yếu thông qua các kết luận và kết quả phản ánh trong báo cáo kiểm toám. theo luật định
- những kiểm toán cần phải công báo trên các phơng tiện thông tin đại chúng, thông qua việc công bố kết qả kiểm toán, một mặt đảm bảo cho công luận ghi nhận đợc các thông tin về hoạt động kiểm toán tài chính, mặt khác đợc thảo luận công khai về những sai phạm đã đợc công bố sẽ tạo nên áp lực buộc các đơn vị đợc kiểm toán có trách nhiệm sửa chữa và khắc phục ngay những sai phạm. 3. Có những chính sách u đãi đối với ngành nói chung và đối với mỗi kiểm toán nói riêng. Có những chính sách u đãi đối với ngành nói chung và đối với mỗi kiểm toán nói riêng tạo nên động lực cho họ phát huy thế mạnh trong công tác góp phần xây dựng một hệ thống kiểm soát, giám soát ngày càng hoàn thiện, hoàn chỉnh hơn. II. KẾT KUẬN. Cùng với sự đổi mới cơ chế kinh tế. Ngành kiểm toán Nhà nớc một công cụ mới thuộc hệ thống các công cụ kiểm soát vĩ mô của Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghiã Việt Nam. Em mu ốn phân tích, đánh giá chiến lợc của sự phát triển kiểm toán Nhà nớc. Trong phạm vi bài viết này, em trình bày những thành tựu và hạn chế, những vấn đề mà theo có quan hệ đến cách nhìn, đến việc lựa chọn hớng đi, tạo dựng hành lang pháp lý và hệ thống các phơng pháp chuyên môn là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện tổ chức, cho hoạt động kiểm toán Nhà nớc Việt Nam trong thời gian qua. Với bài viết này có luận cứ, phù hợp với xu thế phát triển khách quan của kiểm toán Nhà nớc trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi và trong môi trờng nớc ta đang thực hiện cải cách sâu rộng nền hành chính quốc gia. Với kết quả nghiên cứu, trong bài viết này em đã đa ra những vấn đề nổi bật còn tồn tại hiện nay và đa ra một số ý kiến cá nhân. Em hy vọng với bài viết này sẽ đóng góp một khía cạnh nào đó để cho kiểm toán Nhà nớc ta ngày càng hoàn thiện hơn, giúp cho các nhà quản lý có cách nhìn, một cách thực tế hơn để đa ra cách chính sách phù hợp với thực tế và có các kế hoạch đúng đắn trong việc xây dựng hoàn thiện ngành kiểm toán ở nớc ta.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn