PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NÂNG CAO VỐN TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT<br />
CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ LÀO<br />
THÔNG QUA DẠY HỌC THEO ĐỊNH<br />
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC<br />
NGUYỄN THỊ YẾN*<br />
*<br />
Học viện Khoa học Quân sự, ✉ haiyen.6789@yahoo.com.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Từ vựng là nền móng vững chắc của một ngôn ngữ. Bất cứ ai khi học ngôn ngữ cũng đều mong<br />
muốn sẽ chiếm lĩnh được một vốn từ vựng phong phú, có chức năng hành dụng. Vì vậy, để làm<br />
đầy kho từ vựng tiếng Việt cho học viên quân sự Lào, trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải<br />
chú trọng dạy từ ngữ theo định hướng phát triển năng lực.<br />
Từ khóa: dạy học, định hướng, học viên quân sự Lào, năng lực, từ vựng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU một vốn từ vựng phong phú và hữu dụng nhất.<br />
Chính vì vậy, để nâng cao trình độ tiếng Việt cho<br />
Bất cứ người nào khi học một ngôn ngữ đều<br />
học viên quân sự (HVQS) Lào, trong quá trình<br />
bắt đầu bằng việc học từ. Trẻ em học tiếng mẹ<br />
dạy học, giáo viên cần phải chú trọng dạy học từ<br />
đẻ hay việc học ngoại ngữ của mỗi cá nhân cũng<br />
đều có chung một khởi đầu như vậy! Thực tế vựng theo định hướng phát triển năng lực.<br />
cho thấy, sự phát triển năng lực giao tiếp của 2. NỘI DUNG<br />
mỗi người tỉ lệ thuận với việc mở rộng vốn từ<br />
ngữ của họ. Ai có vốn từ vựng càng phong phú, 2.1. Vai trò của việc dạy học từ vựng<br />
đa dạng thì người đó càng dễ dàng tiếp thu các<br />
kiến thức khoa học và tiến hành tổ chức giao Việc dạy học từ vựng đóng một vai trò vô<br />
tiếp thuận lợi, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao. cùng quan trọng trong quá trình dạy học ngoại<br />
Tuy nhiên, kho tàng ngôn ngữ của một dân tộc ngữ nói chung và dạy học tiếng Việt với tư cách<br />
là vô cùng đồ sộ, nhà trường không thể dạy hết là một ngoại ngữ nói riêng. Từ vựng không chỉ<br />
và học viên cũng không thể học hết vốn từ đó ở là công cụ giúp người học có thể tiến hành giao<br />
các giờ học trên lớp. Lúc này, cần phải lựa chọn tiếp thành công, mà còn là nền tảng để phát triển<br />
một phương pháp dạy học sao cho trong thời các kỹ năng ngôn ngữ khác như nghe, nói, đọc,<br />
gian ngắn nhất, người học có thể tiếp thu được viết. Thiếu vốn từ, người nói có thể diễn đạt<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 08 - 7/2017 37<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
thiếu hoặc sai lệch ý so với chủ ý của bản thân. từ “tái” (thức ăn, thịt chưa chín: thịt tái, rau tái)<br />
Ở góc độ của người tiếp nhận, vốn từ nghèo với từ “tái” (từ Hán Việt, nghĩa là hai lần, lần<br />
nàn cùng với sự non yếu về ngữ pháp cũng sẽ nữa, thêm vào: tái hôn, tái thành lập),….<br />
là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng người đọc/<br />
người nghe hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu sai Như vậy, có thể khẳng định rằng, không chỉ<br />
hoặc không thể hiểu được ý đồ mà người viết/ khi dạy tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ mẹ<br />
người nói muốn biểu đạt. đẻ mà cả khi dạy tiếng Việt với tư cách là một<br />
ngoại ngữ, giảng viên cũng cần phải đặc biệt<br />
Không ai có thể phủ nhận vai trò của từ vựng chú trọng đến khâu dạy từ vựng. Từ vựng là<br />
trong hệ thống ngôn ngữ. Với người học ngoại chất liệu quan trọng để làm nên một ngôn ngữ,<br />
ngữ, chiếm lĩnh được vốn từ vựng càng phong giống như mỗi viên gạch là chất liệu quan trọng<br />
phú thì khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ để làm nên một ngôi nhà vậy. Vì thế, tuy chương<br />
đó càng cao; biết cách cảm nhận và diễn đạt một trình dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào hiện<br />
vấn đề nào đó không chỉ chính xác mà còn tinh nay về cơ bản là dạy giao tiếp, dạy từ được lồng<br />
tế, sâu sắc và nhanh. Chẳng hạn, khi vốn từ tiếng ghép trong quá trình dạy ngữ âm, dạy ngữ pháp<br />
Việt còn ít, gặp một người phụ nữ có vẻ đẹp sang và được thực hiện trong các giờ rèn luyện kỹ<br />
trọng, HVQS Lào chỉ có thể dùng từ “đẹp” để năng nghe, nói, đọc, viết dưới dạng thực hành,<br />
miêu tả một cách chung chung, khái quát (Cô chứ không phân tách ra thành các bài học cụ<br />
ấy đẹp). Nhưng khi vốn từ phong phú, họ có thể thể giống với chương trình dạy học tiếng Việt<br />
sử dụng nhiều từ ngữ khác để miêu tả vẻ đẹp đó ở bậc phổ thông trong nhà trường Việt Nam,<br />
một cách chính xác, cụ thể hơn (Cô ấy thật lộng nhưng không vì thế mà việc dạy từ ở đây bị coi<br />
lẫy/Cô ấy thật đài các/Cô ấy thật kiêu sa,…). nhẹ. Sau khi hoàn thành khóa học, HVQS Lào<br />
Các từ lộng lẫy, đài các, kiêu sa không chỉ thể sẽ được trang bị một lượng từ cơ bản, đảm bảo<br />
hiện được vẻ đẹp mà còn toát lên được cả thần có thể tham gia vào hoạt động giao tiếp – tùy<br />
thái, phong cách của người phụ nữ đó. theo trình độ (cơ sở hoặc nâng cao).<br />
Bên cạnh đó, nắm vững từ ngữ, học viên 2.2. Mục đích của việc dạy học từ vựng<br />
sẽ hiểu đúng khái niệm. Khái niệm là cơ sở để<br />
người học khám phá hiện thực khách quan và Mục đích của việc dạy học từ vựng nói chung<br />
mở rộng tư duy. Vì vậy, khi dạy tiếng Việt với tư là nhằm đảm bảo hai nội dung: nhận thức và ứng<br />
cách là một ngoại ngữ, giảng viên cần phải chú dụng. Với đích nhận thức, người học sẽ được<br />
trọng làm thế nào để học viên nắm vững các lớp trang bị những kiến thức cơ bản về từ vựng, mối<br />
nghĩa của từ, tránh hiện tượng người học chưa quan hệ giữa từ vựng với các đơn vị khác như<br />
hiểu hoặc hiểu chưa hết sẽ dẫn đến hiện tượng ngữ âm, ngữ pháp…. Với đích ứng dụng, người<br />
nói sai, viết sai hay hiểu sai nội dung. học sẽ được học cách lựa chọn và sử dụng từ<br />
ngữ sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp,<br />
Ví dụ, khi dạy cho học viên từ “đỉnh” với nội dung giao tiếp, đối tượng giao tiếp nhằm đạt<br />
nét nghĩa chỉ “phần cao nhất”, giảng viên có thể được mục đích giao tiếp. Nói cách khác, ứng<br />
liên hệ đến các từ như đỉnh núi, đỉnh đồi, đỉnh dụng là quá trình “đánh thức” vốn từ vựng mà cá<br />
đầu, đỉnh dốc…. Nhưng đồng thời cũng cần nhân đã tích lũy được, là kết dính các từ ngữ rời<br />
phân biệt cho học viên thấy được sự khác nhau rạc trong “kho lưu trữ” để tạo thành những câu<br />
giữa từ “đỉnh” với các từ khác cũng cùng chung mang nội dung thông báo khác nhau. Hiểu như<br />
nét nghĩa chỉ “phần cao nhất” như “nóc” (nóc vậy, việc dạy học từ vựng không chỉ đơn thuần là<br />
nhà), “ngọn” (ngọn cây), “chóp” (chóp nón)…; nhằm cung cấp vốn từ, mở rộng vốn từ, mà quan<br />
hoặc khi dạy về từ “tái”, giảng viên cần giảng trọng hơn, nó còn hướng đến mục tiêu giúp cho<br />
giải cho học viên nắm vững các lớp nghĩa của từ người học có thể sử dụng thành thạo vốn từ vựng<br />
này; tránh hiện tượng nhầm lẫn giữa nghĩa của đó vào trong những tình huống giao tiếp cụ thể.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
38 Số 08 - 7/2017<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Trên cơ sở mục đích đặt ra, dạy học từ vựng hành tiếng đều là những “từ ngữ sống”, chúng<br />
được xác định “trước hết là cung cấp vốn từ mang đầy đủ các đặc điểm về nghĩa biểu vật,<br />
ngày càng mở rộng, chính xác, tinh tế theo trình biểu niệm, biểu cảm và ứng với mỗi ngữ cảnh<br />
độ tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, tri thức khoa học khác nhau thì từ lại có những sự kết hợp linh<br />
và kinh nghiệm xã hội ngày càng được nâng cao, hoạt biểu thị những nét nghĩa khác nhau. Chẳng<br />
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng lớn của hạn, khi nói: “Cô ấy mặt đẹp chưa?” thì rõ ràng<br />
sự diễn đạt và giao tiếp mà việc học tập trong đó là một câu khen: Cô ấy có khuôn mặt đẹp.<br />
nhà trường và sinh hoạt xã hội đặt ra cho học Nhưng khi nói: “Cô ấy đẹp mặt chưa!” thì đích<br />
sinh” (Đỗ Hữu Châu, 1981). thị đây lại là một câu mang nghĩa chê bai: Cô<br />
ấy đã làm điều gì đó không tốt đến nỗi giờ đây<br />
Để thực hiện được yêu cầu đó, không thể<br />
phải hổ thẹn trước mọi người như vậy.<br />
không nhắc đến vai trò của người dạy và người<br />
học. Ở vị trí của người truyền thụ, giảng viên 2.3. Dạy học từ vựng tiếng Việt cho học<br />
cần phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong viên quân sự Lào theo định hướng phát triển<br />
hoạt động dạy, từ khâu chuẩn bị bài đến việc năng lực<br />
lựa chọn vận dụng phương pháp sao cho phù<br />
hợp với nội dung bài học và đối tượng người Chương trình giáo dục định hướng phát triển<br />
học. Chẳng hạn, khi dạy về chủ đề Lễ hội (bài năng lực (hay còn gọi là định hướng kết quả đầu<br />
10 – Tiếng Việt B), bên cạnh việc giúp học viên ra) đã được đề cập nhiều từ những năm 90 của<br />
nắm vững các từ mới có trong bài học (cả nghĩa thế kỷ XX. Tuy nhiên, mãi đến những năm gần<br />
từ điển và nghĩa ngữ cảnh), giảng viên còn cần đây nó mới thực sự được đón nhận và trở thành<br />
bám sát trình độ học viên để giúp họ mở rộng xu hướng giáo dục quốc tế.<br />
vốn từ thông qua các bài đọc bổ trợ, giới thiệu So sánh với chương trình dạy học truyền<br />
video về các lễ hội văn hóa đặc sắc của người thống là định hướng nội dung (hay còn gọi là<br />
Việt như hội Lim, hội Chùa Hương, hội Đền định hướng đầu vào), có thể thấy rằng, điểm<br />
Hùng…. Bằng các hình thức này, học viên vừa khác biệt lớn nhất đó là chương trình giáo dục<br />
được củng cố vốn từ (như phân biệt được chính định hướng nội dung chú trọng việc truyền thụ<br />
xác giữa lễ, hội và lễ hội, tìm được điểm tương hệ thống tri thức khoa học theo các môn đã được<br />
đồng và khác biệt giữa rước và khiêng trong các quy định trong chương trình dạy học, ít quan<br />
từ rước kiệu và khiêng kiệu;…), vừa mở rộng tâm đến chủ thể người học cũng như khả năng<br />
được vốn từ (nắm được các từ liên quan đến ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống<br />
hoạt động lễ hội như: nghi thức lễ, trang phục thực tiễn. Trong khi đó, chương trình giáo dục<br />
truyền thống, trò chơi dân gian…), đồng thời, có định hướng phát triển năng lực không chỉ chú ý<br />
thể sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt trong các tích cực hóa người học về hoạt động trí tuệ mà<br />
tình huống giao tiếp cụ thể. Ở vị trí của người còn chú trọng rèn luyện năng lực giải quyết vấn<br />
tiếp nhận cũng vậy! Học viên không thu nạp đề gắn với những tình huống của cuộc sống và<br />
từ ngữ một cách thụ động, máy móc mà cần có nghề nghiệp; đồng thời, gắn hoạt động trí tuệ<br />
phương pháp học tập chủ động, tích cực nhằm với hoạt động thực hành, thực tiễn. Nói cách<br />
nâng cao vốn từ của bản thân. Ngoài những giờ khác, chương trình giáo dục định hướng phát<br />
học trên lớp, học viên có thể chủ động làm giàu triển năng lực sẽ quan tâm đến việc giáo dục<br />
vốn từ thông qua một số hình thức như: học từ hướng tới người học làm được gì? chứ không<br />
qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông, phải hướng tới mục tiêu người học biết gì?<br />
qua bài hát, qua các hoạt động giao tiếp thông<br />
thường,…. Đặc biệt, việc học từ thông qua các Soi chiếu mục đích của việc dạy học từ vựng<br />
hoạt động giao tiếp luôn được giảng viên khích với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học theo<br />
lệ bởi từ ngữ khi được đưa vào môi trường thực định hướng phát triển năng lực người học, có<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 08 - 7/2017 39<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
thể thấy rằng, ở một góc độ nào đó, việc dạy học Lào biết dùng từ, đặt câu đúng với ngữ pháp của<br />
từ vựng từ trước đến nay ít nhiều cũng đã tiếp tiếng Việt thì nhận thức văn hóa sẽ giúp họ biết<br />
cận được mục tiêu phát triển năng lực người cách sử dụng các câu đặt ra phù hợp với tình<br />
học. Bởi dạy từ vựng, suy cho cùng, là trang bị huống giao tiếp, giúp cho sự giao tiếp diễn ra<br />
cho người học một vốn từ nhất định, đồng thời, nhanh chóng và thu được hiệu quả cao.<br />
giúp họ sử dụng được và sử dụng có hiệu quả<br />
vốn từ vựng đó vào trong hoạt động giao tiếp. Thực tế cho thấy, với mỗi đối tượng người<br />
nước ngoài học tiếng Việt khác nhau lại có những<br />
Với chương trình dạy học tiếng Việt cho yêu cầu về năng lực nhận thức khác nhau. Chẳng<br />
HVQS Lào, việc dạy học từ vựng theo định hạn, người bình thường thì vốn từ cơ bản chỉ<br />
hướng phát triển năng lực lại càng cần được cần đáp ứng các kỹ năng trong giao tiếp thông<br />
chú trọng. Học viên quân sự Lào học tiếng Việt, thường, gắn liền với cuộc sống thường nhật của<br />
thực chất là học ngoại ngữ. Mà dạy học ngoại họ; nhưng với những người làm công tác chuyên<br />
ngữ thì cần phải xuất phát từ chức năng giao môn (như bác sĩ, quân nhân, luật sư, nhà kinh<br />
tiếp và hướng tới việc rèn luyện năng lực giao tế học,…) thì ngoài vốn từ cơ bản còn cần thêm<br />
tiếp cho người học. Học viên sẽ không thể tham vốn từ chuyên ngành (thuật ngữ) để phục vụ cho<br />
gia được vào hoạt động giao tiếp bằng tiếng nhiệm vụ thuộc lĩnh vực chuyên môn. Vì thế,<br />
Việt nếu như bản thân họ không được trang bị với HVQS Lào, năng lực từ ngữ tiếng Việt sẽ là<br />
một vốn từ vựng nhất định, không nắm chắc khả năng sử dụng thành thạo cả từ ngữ giao tiếp<br />
những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng từ lẫn từ ngữ thuộc lĩnh vực quân sự. Học viên sau<br />
ngữ cũng như những quy tắc ngữ pháp của tiếng khi tốt nghiệp các khóa học tiếng Việt không chỉ<br />
Việt. Vì vậy, muốn HVQS Lào sử dụng thành có khả năng thực hiện hoạt động giao tiếp bằng<br />
thạo tiếng Việt thì trước tiên cần phải giúp họ tiếng Việt mà còn có khả năng làm việc bằng<br />
nâng cao năng lực từ ngữ. tiếng Việt trong các vấn đề liên quan đến lĩnh<br />
Từ nền móng vững chắc là từ ngữ, học viên vực quân sự, đối ngoại và an ninh quốc phòng.<br />
sẽ được bồi đắp thêm năng lực nhận thức về các Để đáp ứng yêu cầu đó, dạy học từ vựng cần<br />
quy tắc ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ (gọi tắt là phải chú trọng đến việc làm giàu vốn từ cơ bản<br />
năng lực nhận thức) của tiếng Việt như: dùng từ, và vốn từ chuyên ngành cho người học.<br />
đặt câu, phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu Theo cách hiểu chung nhất, vốn từ cơ bản là<br />
từ,…. Nắm vững các kiến thức này, HVQS Lào những từ ngữ được dùng trong giao tiếp hàng<br />
có thể tự đối chiếu, so sánh để thấy được những ngày, được tập hợp và giới thiệu thông qua các<br />
điểm tương đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ mẹ<br />
chủ đề bài học gắn liền với những hoạt động<br />
đẻ với tiếng Việt; qua đó biết cách khắc phục<br />
của đời sống xã hội như: bản thân, gia đình, nhà<br />
những lỗi thường gặp do hiện tượng chuyển di<br />
trường, dịch vụ, giáo dục, y tế, giao thông,…<br />
tiêu cực trong quá trình học tiếng Việt với tư<br />
Nắm được vốn từ cơ bản sẽ giúp cho học viên<br />
cách là một ngoại ngữ.<br />
có khả năng thực hiện các hoạt động giao tiếp<br />
Năng lực nhận thức bao gồm hai mảng: nhận thông thường bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, để sở<br />
thức ngôn ngữ và nhận thức văn hóa. Nhận thức hữu vốn từ cơ bản thì đòi hỏi mỗi cá nhân cần<br />
ngôn ngữ chính là nhận thức về các đơn vị ngôn phải tích lũy dần dần chứ không thể có ngay<br />
ngữ, các quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, quy tắc trong ngày một ngày hai được! Không nhà<br />
kết hợp các đơn vị ngôn ngữ thành những đơn vị trường nào có thể dạy hết cho học viên tất cả<br />
lớn hơn,…. Nhận thức văn hóa là nhận thức về vốn từ cơ bản. Vì thế, giảng viên cần phải chỉ ra<br />
các điều kiện sử dụng những đơn vị ngôn ngữ cho người học thấy được việc học từ không chỉ<br />
đó trong thực tiễn học tập, sinh hoạt và công dựa vào sách vở, hay phó thác cho nhà trường,<br />
tác. Nếu nhận thức ngôn ngữ giúp cho HVQS mà cần phải không ngừng tự học, đa dạng hình<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
40 Số 08 - 7/2017<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
thức học tập. Chẳng hạn, để tích lũy và mở rộng không đối đất, hệ cánh ngang xòe, máy bay tiêm<br />
vốn từ về biển đảo – một trong những nhóm từ kích, máy bay không người lái, máy bay trinh sát<br />
vựng khá xa lạ với người Lào vì Lào là quốc gia vô tuyến tầm xa, tín hiệu phản xạ hiệu dụng,…<br />
không có biển, học viên có thể lựa chọn các hình (thuộc không quân); vật cản, khu vực cảnh giới,<br />
thức như xem video giới thiệu về các vùng biển, khu vực phòng thủ, đánh chiếm đầu cầu, đánh<br />
bãi biển nổi tiếng của Việt Nam; tìm đọc những chéo sườn, ổ phục kích, điểm tựa,… (thuộc lục<br />
bài báo về du lịch biển, về ngành ngư nghiệp quân). Hơn nữa, trong giao tiếp thông thường, ít<br />
Việt Nam hay đón xem các tin, bài về việc hợp khi, thậm chí rất hiếm khi các từ ngữ này xuất<br />
tác, trao đổi, mạn đàm giữa Hải quân Việt Nam hiện. Vì vậy, trong quá trình học tiếng Việt, cơ<br />
với lực lượng Hải quân của các nước khác,.... hội để học viên thực hành tiếng Việt quân sự rất<br />
Để củng cố và mở rộng vốn từ thuộc lớp từ địa hạn chế. Ngoài một lượng từ ít ỏi được học trong<br />
phương, HVQS Lào cũng có thể kết hợp một số sách vở, phần lớn, học viên phải tự học thông<br />
hình thức như: xem chương trình ti vi trên các qua từ điển thuật ngữ quân sự hoặc kinh nghiệm<br />
kênh truyền hình địa phương (ví dụ truyền hình làm việc của bản thân.<br />
Hà Tĩnh, truyền hình Huế, truyền hình Quảng<br />
Tất nhiên, dù theo con đường nào thì đích<br />
Trị, truyền hình Đà Nẵng, truyền hình Cần<br />
cuối cùng của dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào<br />
Thơ,…); hoặc đón xem các chương trình yêu<br />
theo định hướng phát triển năng lực cũng nhằm<br />
thích được phát sóng trên HTV, VTV9,…. Nếu<br />
hướng tới người học làm được gì? chứ không<br />
có điều kiện, học viên cũng nên tiếp cận thực tế<br />
phải hướng tới mục tiêu người học biết gì?. Điều<br />
bằng cách đi du lịch, tham gia các chuyến tham<br />
đó có nghĩa là, vốn từ tiếng Việt, sau khi được<br />
quan dã ngoại hay đơn giản hơn là đến những<br />
học viên tiếp nhận sẽ được sử dụng hiệu quả như<br />
nơi tập trung đông khách du lịch như hồ Hoàn<br />
thế nào, hoạt động tích cực ra sao, thể hiện cụ thể<br />
Kiếm, hồ Tây, bảo tàng, vườn thú, chợ,… để<br />
qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, nghĩ và dịch<br />
nâng cao năng lực thực hành tiếng Việt. Có như<br />
thế nào, chứ không đơn thuần chỉ là những từ ngữ<br />
vậy, vốn từ cơ bản mới thực sự phong phú và<br />
rời rạc, được xếp gọn ghẽ trong “kho từ chết”. Vì<br />
việc sử dụng vốn từ cơ bản trong hoạt động giao<br />
thế, trong quá trình dạy học từ vựng tiếng Việt<br />
tiếp mới đạt được hiệu quả cao.<br />
cho HVQS Lào, giảng viên cần xây dựng cho học<br />
Vốn từ chuyên ngành được tích lũy thông qua viên ý thức làm giàu vốn từ, tích cực hóa vốn từ<br />
“con đường” hẹp hơn so với vốn từ cơ bản. Với (cả vốn từ cơ bản và vốn từ chuyên ngành), sao<br />
thuật ngữ quân sự, con đường đó lại có phần còn cho vốn từ vựng đó thực sự hữu dụng khi tham<br />
“gồ ghề”, “khúc khuỷu” hơn. Một phần, từ vựng gia vào hoạt động giao tiếp thông thường lẫn các<br />
thuộc chuyên ngành quân sự đồ sộ hơn rất nhiều lĩnh vực khác có liên quan.<br />
so với thuật ngữ của các chuyên ngành khác,<br />
3. KẾT LUẬN<br />
bao gồm các quân, binh chủng như lục quân, hải<br />
quân, không quân…. Mỗi một quân, binh chủng, Bám sát nội dung Nghị quyết Hội nghị<br />
ngoài những lớp từ chuyên ngành có tính chất Trung ương 8 khóa XI: “Tiếp tục đổi mới mạnh<br />
phổ biến như: vũ khí, khí tài, đại đội, trung đội, mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện<br />
tiểu đội, súng, cối, lực lượng cơ động, lực lượng đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo<br />
tại chỗ, sát thương, mục tiêu, đánh giáp lá cà, và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;<br />
bao vây, chiến dịch, chiến thuật, tiến công, phản khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi<br />
công… thì lại có những từ ngữ chuyên biệt được nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách<br />
sử dụng riêng như: chiến hạm, hạm đội, tàu khu nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người<br />
trục, tàu ngầm chống ngầm, tàu ngầm nguyên học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,<br />
tử, tàu mặt nước, lượng giãn nước,… (thuộc phát triển năng lực”, những năm qua, việc<br />
hải quân); phi đội, tên lửa hành trình, tên lửa dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào đã có nhiều<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 08 - 7/2017 41<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
đổi mới. Hoạt động dạy học theo định hướng 2. Lê A (2001), “Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt<br />
phát triển năng lực (hay còn gọi là định hướng động và bằng hoạt động”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.<br />
kết quả đầu ra) được nhiều cơ sở giáo dục chú<br />
trọng, quan tâm. Kết thúc khóa học tiếng Việt, 3. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa<br />
HVQS Lào không chỉ được trang bị một vốn từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br />
vựng phong phú, mà còn có khả năng sử dụng<br />
thành thạo kho từ vựng ấy trong các hoạt động 4. Quế Lai (1978), “Một số đặc trưng của vốn<br />
giao tiếp bằng tiếng Việt, cả trong giao tiếp lẫn<br />
từ tiếng Lào”, Tìm hiểu lịch sử văn hóa Lào, NXB<br />
hoạt động chuyên môn./.<br />
Khoa học Xã hội, Hà Nội.<br />
Tài liệu tham khảo:<br />
5. Lê Phương Nga (2003), “Phương pháp dạy<br />
1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán<br />
(1997), Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB học tiếng Việt ở tiểu học – Một vài hướng nghiên<br />
Giáo dục, Hà Nội. cứu và kết quả”, Tạp chí Giáo dục, số 12.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ENRICHING VIETNAMESE VOCABULARY FOR LAOTIAN CADETS THROUGH<br />
CAPACITY-DEVELOPMENT TEACHING APPROACHES<br />
NGUYEN THI YEN<br />
Abstract: Vocabulary is the foundation of a language. Anyone who learns a language has a<br />
desire to master a certain amount of vocabulary that can be used for various purpose. Therefore,<br />
to enrich Vietnamese vocabulary for Laotian cadets of Vietnamese, in the process of teaching,<br />
teacher should pay attention to the ability oriented teaching.<br />
Keywords: teaching, orient, Laotian cadets, ability, vocabulary.<br />
Received: 03/5/2017; Revised: 28/6/2017; Accepted for publication: 28/6/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
42 Số 08 - 7/2017<br />