intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nang xương phình mạch xương bánh chè: Nhân một trường hợp

Chia sẻ: ViThimphu2711 ViThimphu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

30
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nang xương phình mạch xương bánh chè là tổn thương hiếm gặp chiếm 1-5% u xương bánh chè tùy báo cáo. Bài viết này báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam 23 tuổi, không có tiền sử chấn thương, đến khám tại Bệnh viện Việt Đức vì đau mặt trước gối trái.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nang xương phình mạch xương bánh chè: Nhân một trường hợp

  1. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 NANG XƯƠNG PHÌNH MẠCH XƯƠNG BÁNH CHÈ: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP Hoàng Minh Thắng TÓM TẮT Nang xương phình mạch xương bánh chè là tổn thương hiếm gặp chiếm 1-5% u xương bánh chè tùy báo cáo [1] [2]. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam 23 tuổi, không có tiền sử chấn thương, đến khám tại Bệnh viện Việt Đức vì đau mặt trước gối trái. Bệnh nhân được chẩn đoán u xương bánh chè trái, được mổ lấy u và ghép xương tự thân. Sau phẫu thuật 18 tháng, biên độ vận động gối tốt, không đau, xương ghép liền tốt. ĐẶT VẤN ĐỀ được phẫu thuật ngày 8/11/2014. Đường rạch da dài 8cm Nang xương phình mạch là u lành tính mà nguyên nhân mặt trước gối trái. Tổn thương: dịch trong nang dạng và cơ chế bệnh sinh chưa rõ, được mô tả lần đầu tiên bởi dịch máu đen loãng, nang đồng nhất, không có vách, Jaffe và Lichtenstein (1942). Tổn thương này chiếm tỉ lệ mặt khớp không tổn thương. Chúng tôi cẩn thận lấy nhỏ hơn 1% tổng số u xương, thường xuất hiện ở phần sạch u gửi giải phẫu bệnh , không làm tổn thương diện hành xương, cột sống, xương ức [3], [4]. Nang xương khớp và ghép xương tự thân. Kết quả giải phẫu bệnh phình mạch xương bánh chè hiếm gặp, có thể là tổn là: nang xương phình mạch. Diễn biến sau mổ ổn định, thương nguyên phát hoặc thứ phát sau chấn thương. Thông bệnh nhân ra viện sau 3 ngày. Bệnh nhân được bất động thường, nang xương phình mạch xương bánh chè được ống bột chân trái 4 tuần, tập luyện phục hồi chức năng điều trị bằng lấy u và ghép xương. Nút mạch và lấy bỏ theo hướng dẫn, khám lại định kỳ. Kết quả sau 18 tháng, xương bánh chè được chỉ định trong trường hợp gãy xương xương ghép liền tốt, không thấy hình ảnh tái phát trên bánh chè trên bệnh lý nang xương phình mạch hoặc diện Xquang, biên độ vận động gối bình thường, không đau. khớp bị phá hủy nhiều. Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp nang xương phình mạch xương bánh chè. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân nam 23 tuổi, không có tiền sử chấn thương, đi khám bệnh vì đau mặt trước gối trái kéo dài 1 năm và tự sờ thấy khối mặt ngoài đùi trái. Tại bệnh viện huyện, bệnh nhân được chẩn đoán u mỡ. Sau mổ, bệnh nhân vẫn tiếp tục đau kéo dài thêm 1 năm và đến khám tại Bệnh viện Việt Đức. Trên lâm sàng, chúng tôi thấy: biên độ vận động gối bình thường, tràn dịch nhẹ, khớp gối vững, không có biểu hiện viêm. Phim X quang quy ước và CT có hình ảnh nang xương tiêu xương xương bánh chè, thành nang đều, không gãy xương, không tổn thương diện khớp, dịch trong nang đồng nhất. Bệnh nhân Hình 1. Hình ảnh Xquang, CT trước mổ Hình 2. Hình ảnh trong mổ 254
  2. Hình 3. Kết quả sau mổ 18 tháng BÀN LUẬN Nhìn chung, theo chúng tôi, việc chẩn đoán u xương U xương bánh chè là bệnh lý hiếm gặp. Dữ liệu của bánh chè không khó, hoàn toàn có thể chẩn đoán trên các trung tâm u bướu tại 4 quốc gia châu Âu chỉ ghi phim Xquang quy ước. Nhưng chẩn đoán được bản chất nhận 69 trường hợp u xương bánh chè trong vòng 35 khối u là một việc khó khăn. U xương bánh chè thường là năm và tất cả đều là u lành tính [3]. Cũng theo các báo u lành tính như đã nói ở trên, ung thư di căn xương cũng cáo này, u xương bánh chè gặp ở bệnh nhân dưới 40 tuổi có thể gặp ở xương bánh chè nhưng với tỉ lệ rất thấp mà gồm có u nguyên bào sụn, u tế bào khổng lồ, u xương u xương bánh chè ác tính chủ yếu là osteosarcoma. Mặc dạng xương, nang xương đơn độc và nang xương phình dù, các phương tiện chẩn đoán hình ảnh giúp khu trú về mạch. Nang xương phình mạch chỉ gặp 6/ 69 trường hợp mặt chấn đoán, nhưng ngay cả hình ảnh mức dịch-dịch này và đều gặp ở bệnh nhân trẻ độ tuổi 20 [3]. Hay Bệnh hay vách trong u như mô tả ở trên cũng không phải là viện đại học Sao Paulo, Brazil báo cáo 8 bệnh nhân u triệu chứng đặc hiệu giúp cho chẩn đoán phân biệt [7]. xương bánh chè trong 17 năm (1998-2015) [5]. Vì vậy, sinh thiết gửi giải phẫu bệnh chẩn đoán là hết sức cần thiết. Với những phẫu thuật viên kinh nghiệm, Lý do đến khám bệnh vì đau mặt trước gối kéo dài hình ảnh đại thể và tính chất dịch trong u góp phần quan hoặc phát hiện tình cờ khi bị gãy xương bánh chè bệnh lý. trọng trong chẩn đoán. Với trường hợp này, dịch trong Khám lâm sàng thấy gối bình thường hoặc gồ lên ở mặt nang có dạng nước máu đen loãng. Chúng tôi hướng tới trước bánh chè, biên độ gối không bị ảnh hưởng [6]. Bệnh chẩn đoán nang xương phình mạch nhưng vẫn cẩn thận nhân của chúng tôi đến khám bệnh vì đau gối kéo dài mà gửi sinh thiết tức thì và kết quả giải phẫu bệnh trùng không có tiền sử chấn thương. Triệu chứng đau khớp gối khớp với chẩn đoán đại thể. kéo dài là than phiền duy nhất ở bệnh nhân của chúng tôi; cũng như các báo cáo khác, triệu chứng của bệnh lý này Điều trị nang xương phình mạch xương bánh chè nghèo nàn, chủ yếu là đau mặt trước gối. Phim Xquang bằng lấy sạch u và ghép xương tự thân hoặc đồng loại quy ước có hình ảnh ổ khuyết xương lớn của xương bánh ngay một thì . Tuy nhiên, một số trường hợp khó chẩn chè. Chúng tôi chỉ định chụp cắt lớp vi tính gối trái nhắm đoán xác định trong mổ thì việc ghép xương được tiến đánh giá mức độ tổn thương của vỏ xương, diện khớp hành sau khi có kết quả giải phẫu bệnh. Điều trị nút cũng như tính chất dịch trong u. Kết quả là u không phá mạch chọn lọc sử dụng, đặc biệt trong trường hợp gãy vỡ vỏ xương, không tổn thương sụn khớp, dịch trong u có xương bệnh lý. Mặc dù, phẫu thuật lấy bỏ xương bánh tỉ trọng đồng nhất. Chúng tôi không chỉ định chụp MRI chè trong gãy xương bệnh lý này cũng được báo cáo cho bệnh nhân này. Tuy nhiên theo y văn, dịch trong nang trong y văn, nhưng cũng chỉ áp dụng trong trường hợp tăng tín hiệu trên T2, giảm tín hiệu trên T1 và trên phim điều trị bảo tồn thất bại. Áp lạnh cũng được chỉ định như T2 có hình ảnh mức dịch-dịch [7] [8]. một điều trị hỗ trợ nhằm hạn chế tái phát hay xâm lấn Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung 255
  3. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 phần mềm nhưng có khả năng hoại tử bánh chè do tắc KẾT LUẬN mạch nuôi [9]. Nhìn chung, điều trị lấy u và ghép xương U xương bánh chè nói chung vả nang xương phình mang lại kết quả rất tốt, như bệnh nhân của chúng tôi. mạch xương bánh chè nói riêng là bệnh lý hiếm gặp. Không thấy trường hợp nào tái phát hay ác tính hóa với Chẩn đoán u xương bánh chè không khó, nhưng chẩn nang xương phình mạch xương bánh chè được báo cáo đoán phân biệt các loại u dựa trên lâm sàng và chẩn trong y văn. Tuy nhiên, một số báo cáo ghi nhận nang đoán hình ảnh gặp khó khăn.Nang xương phình mạch xương phình mạch ở các vị trí khác có trường hợp tái xương bánh chè điều trị cơ bản bằng lấy u, ghép xương phát và ác tính hóa. Theo chúng tôi, những báo cáo này mang lại kết quả tốt. cũng nên cần được lưu ý vì nang xương phình mạch xương bánh chè hiếm gặp, số lượng và thời gian theo dõi chưa được nhiều bằng các vị trí khác Tài liệu tham khảo 1. Mercuri M., Casadei R. (2001). Patellar tumors. Clin Orthop 6. Marudanayagam A., Gnanadoss J.J. (2006). Secondary Relat Res. (389), 35-46. aneurysmal bone cyst of the patella: a case report. Iowa Orthop J. 26, 144-6. 2. Bulas R.V., et al. (1992). Case report 738: Osteoid osteoma of the patella. Skeletal Radiol. 21 (5), 326-9. 7. Sullivan R.J., et al. (1999). Diagnosing aneurysmal and unicameral bone cysts with magnetic resonance imaging. 3. Singh J., et al. (2009). Tumour and tumour-like lesions of Clin Orthop Relat Res. (366), 186-90. the patella--a multicentre experience. Eur Radiol. 19 (3), 701-12. 8. Casadei R., et al. (2013). Imaging tumors of the patella. Eur J Radiol. 82 (12), 2140-8. 4. Kransdorf M.J., Sweet D.E. (1995). Aneurysmal bone cyst: concept, controversy, clinical presentation, and imaging. 9. Song M., et al. (2015). Primary tumors of the patella. World AJR Am J Roentgenol. 164 (3), 573-80. J Surg Oncol. 13, 163. 5. Baptista A.M., et al. (2016). Tumors of the Patella: The Experience of Institute of Orthopedics and Traumatology at University of Sao Paulo, Brazil. Acta Ortop Bras. 24 (3), 151-154. 256
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1