Nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng
lượt xem 6
download
Tư tưởng về lực lượng cách mạng là một bộ phận và là một bộ phận hợp thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, xuyên suốt cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu một số nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng
- Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TS. Nguyễn Khắc Trai* Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng Tóm tắt Tư tưởng về lực lượng cách mạng là một bộ phận và là một bộ phận hợp thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, xuyên suốt cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng cách mạng vào điều kiện đặc thù của thực tiễn Việt Nam. Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu một số nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng. Từ khóa: Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng, nét độc đáo. I. MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ thiên tài, vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Ngƣời đi xa, nhƣng Ngƣời đã để lại cho dân tộc, cho cách mạng nhiều tƣ tƣởng lớn và có ý nghĩa sâu sắc. Một trong những đóng góp to lớn của Ngƣời cho sự thành công của cách mạng nƣớc ta, đó là tƣ tƣởng về lực lƣợng cách mạng. Tƣ tƣởng của Ngƣời về lực lƣợng cách mạng trở thành nét độc đáo, trên cơ sở kế thừa có trọn lọc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, truyền thống sử dụng lực lƣợng của dân tộc, nhƣng phù hợp với đặc điểm và đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn cách mạng nƣớc ta. II. NỘI DUNG Lực lƣợng là vấn đề chiến lƣợc của cách mạng, là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu cấu thành đƣờng lối cách mạng của Đảng. Lực lƣợng là yếu tố rất quan trọng, quyết định đến việc thành bại của sự nghiệp cách mạng. Khi bàn về lực lƣợng cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Lực lƣợng cách mạng là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố hợp thành. Tuy nhiên, trong phạm vị bài viết sẽ tập trung làm sáng tỏ nét độc đáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh những vấn đề cơ bản của lực lƣợng cách mạng trong Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. |268
- “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Thứ nhất, Hồ Chí Minh luôn xác định lực lượng quan trọng nhất của cách mạng đó là giai cấp công nhân. Trƣớc, trong và sau Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930, Hồ Chí Minh đều nhất quán quan điểm rằng: Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin và đƣờng lối của Quốc tế Cộng sản là lực lƣợng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Càng về sau, nhận thức này của Hồ Chí Minh càng đầy đủ và rõ ràng hơn. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định, cách mạng trƣớc hết cần có Đảng, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên hiệp với vô sản và giai cấp bị áp bức mọi nơi, Đảng có vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nhƣ ngƣời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ Nam. Chủ nghĩa của Đảng Cộng sản chỉ có thể là chủ nghĩa Mác - Lênin; bởi theo Ngƣời, thì bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Trong Sách lược vắn tắt, tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đƣợc thể hiện rõ nét: "Đảng là đội tiền phong của giai cấp,.. phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"1. Khi đề cập vấn đề này, trong Điều lệ tóm tắt của Đảng đã nói rõ hơn: Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm cách mạng, để tiêu trừ bọn tƣ bản đế quốc thực hiện xã hội cộng sản. Ngƣời vào Đảng phải theo chủ nghĩa cộng sản, chƣơng trình của Đảng và Quốc tế Cộng sản. Đây chính là những khẳng định rứt khoát và rõ ràng về vai trò của lãnh đạo Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Mặc dù, sau tháng 10/1930, giữa Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản có những bất đồng về một số vấn đề chiến lƣợc cách mạng Việt Nam. Nhƣng trong các báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam là của giai cấp công nhân thông qua Đảng của mình. Điều đó thể hiện rõ nhất trong báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12/7/1940, sau khi điểm lại một số hoạt động của các đảng phái ở Việt Nam nhƣ: Đảng Lập hiến, Tân Việt Đảng, Quốc dân Đảng. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Tóm lại, chúng tôi có thể nói rằng, ở Đông Dương chỉ có Đảng Cộng sản là một chính đảng chân chính, có tính chất toàn quốc và có quần chúng"2. Trong Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và anh chị em bị áp bức, bóc lột sau khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng Cộng sản Việt Nam 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3. 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.200. 269 |
- Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay, anh chị em chúng ta cần phải ra nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng"3. Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là của giai cấp công nhân, là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. Đây là một quan điểm hết sức đúng đắn và phù hợp với đặc điểm của nƣớc ta, một đất nƣớc có lịch sử và văn hóa lâu đời, phong trào yêu nƣớc phát triển mạnh mẽ, ra đời trƣớc phong trào công nhân, phong trào yêu nƣớc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin trƣớc phong trào công nhân. Quan điểm trên cho phép Đảng đƣợc tăng cƣờng lực lƣợng và sức chiến đấu từ nhiều đối tƣợng trong xã hội, miễn là họ thừa nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tự nguyện đấu tranh trong hàng ngũ của Đảng, đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm trên đã vƣợt lên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là Đảng là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Tƣ tƣởng độc đáo của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy nhanh chóng việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm về số lƣợng và chất lƣợng, bảo đảm Đảng đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Thứ hai, Hồ Chí Minh xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân, trí thức. Từ sự phân tích đặc điểm xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh trong mọi giai đoạn cách mạng đều xác định “công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Ngƣời đã viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản”4. Theo Ngƣời, “Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản”5. Ngƣời nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng nói: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nƣớc nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và “lao động trí óc cần được khuyến khích, giúp đỡ, phát triển tài năng”6. Xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức làm lực lƣợng chủ lực cách mạng của Hồ Chí Minh là kế thừa và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.22. 4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.4. 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.255. 6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.54. |270
- “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) xây dựng lực lƣợng cách mạng. C. Mác và Ph. Ăngghen từ lý luận và thực tiễn của phong trào công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX, trực tiếp nhất là cách mạng tƣ sản Đức năm 1848 và Công xã Pari năm 1871 đã khẳng định: Cuộc cách mạng vô sản hay phong trào công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tƣ bản nếu không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Trong Cách mạng tháng Mƣời Nga, phát triển lý luận của C. Mác, Ph. Ăngghen về tổ chức liên minh công - nông khi nƣớc Nga lúc đó đang tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I. Lênin đã nói đến liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với binh lính, vận động thành lập các xô viết công nhân, nông dân và binh lính… Xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức làm lực lƣợng chủ lực cách mạng của Hồ Chí Minh là kế thừa và phát triển sáng tạo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Trong thƣ của Ban Phƣơng Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ngày 13/11/1930 đã chỉ rõ: Động lực của cách mạng Đông Dƣơng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Đồng thời, trong nhiều văn kiện khác, Quốc tế Cộng sản luôn cho rằng: Giai cấp công nhân và nông dân là động lực chính của cách mạng là vô sản. Hai giai cấp này cũng đƣợc Quốc tế Cộng sản đánh giá là lực lƣợng chính của cách mạng Đông Dƣơng. Thƣ của Quốc tế Cộng sản gửi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ngày 03/8/1934 có viết: Động lực chủ yếu của cách mạng là giai cấp vô sản và giai cấp nông nhân. Trong tài liệu đƣa ra để thảo luận tại phiên họp của Hội đồng Ban Phƣơng Đông ngày 18/10/1929 có đoạn viết: Những ngƣời cộng sản phải luôn chú ý rằng, phong trào phản đế có đƣợc sức mạnh thực sự, trở thành phong trào cách mạng thực sự chỉ khi nào ngày càng có đông đảo quần chúng công nông đƣợc lôi cuốn vào phong trào ấy và chỉ khi nào có sự tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản và của Đảng Cộng sản trong phong trào ấy. Quốc tế Cộng sản đòi hỏi: "Những người cộng sản phải hướng sự chú ý chủ yếu của mình vào việc lôi kéo ngày càng động đảo quần chúng công nông vào phong trào phản đế, phải ra sức phát triển theo hướng đó"7. Nhƣ vây, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản chƣa đề cập đến sự liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, mà phần lớn đề cập đến liên minh công nông. Theo Hồ Chí Minh xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức là sự phù hợp với thực tiễn cách mạng nƣớc ta. Dân tộc Việt Nam luôn coi trọng trí thức, trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”, là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc Việt Nam, “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, coi trọng sức mạnh vô tận của trí tuệ con ngƣời và 7 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.601. 271 |
- Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức. Thực tế lịch sử chứng minh, khi thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam, trí thức là tầng lớp có số lƣợng khiêm tốn trong xã hội, nhƣng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong các phong trào đấu tranh chống Pháp, bảo vệ độc lập, hoặc đòi lại quyền dân tộc, tự chủ. Trí thức cũng là những ngƣời đi tiên phong trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận những luồng tƣ tƣởng mới, tiến bộ từ bên ngoài, thực hiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân. Mặc dù, trí thức đa số xuất thân từ các thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tƣ sản. Nhƣng Hồ Chí Minh đã coi trí thức cùng với công nhân và nông dân là chủ lực của cách mạng, vì trí thức Việt Nam đều bị đế quốc áp bức. “Tất cả những ngƣời trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đƣa đi đày. Tất cả các trƣờng tƣ thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nƣớc ngoài đều bị cấm”. Ngƣời chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng” và nhận xét: “trí thức có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”8. Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn nhận thức đúng và đánh giá cao khả năng tham gia của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Đây là một nét độc đáo, đặc sắc và sáng tạo trong tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về lực lƣợng cách mạng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ dựa trên sự phân tích về quan hệ sản xuất, mà còn rất chú trọng xem xét thái độ của các giai cấp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chính chủ nghĩa dân tộc đã thúc giục ngƣời An Nam bao gồm cả các nhà tƣ bản, cả một số ngƣời đứng đầu chế độ phong kiến nhƣ Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân cũng nổi dậy chống thực dân Pháp. Chính từ sự nhìn nhận sát thực và sáng tạo đó, Hồ Chí Minh xem xét hai giai cấp đối lập với giai cấp công nhân và nông dân, tức giai cấp tƣ sản và giai cấp địa chủ. Điểm độc đáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh khi xem xét, đánh giá giai cấp tƣ sản và địa chủ, Ngƣời đã đánh giá một cách khách quan, cụ thể bản chất của hai giai cấp đó mà không bị rơi vào "vơ đũa cả nắm". Về lợi ích kinh tế thì cả tƣ sản và điạ chủ là những giai cấp bóc lột, đối lập với giai cấp công nhân và nông dân. Nhƣng xét trên bình diện lớn hơn đó là lợi ích quốc gia dân tộc, trƣớc hết là độc lập dân tộc thì tƣ sản, địa chủ là những giai cấp không thuần nhất. Một bộ phận đi hẳn với thực dân, đế quốc, trong khi một bộ phận khác có thể đồng hành với giai cấp công nhân và nông dân, đồng hành cùng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng: "Họ tuy hai mà một, một mà hai"9. Đây chính là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra đối sách phù hợp với từng bộ phận. 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.258. 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.195. |272
- “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Trước hết, đối với giai cấp tư sản: Hồ Chí Minh chia giai cấp tƣ sản thành hai loại, tƣ sản mại bản và tƣ sản dân tộc. Trong đó, tƣ sản mại bản có quyền lợi gắn liền với đế quốc, phong kiến, đây là đối tƣợng mà cách mạng cần đánh đổ. Tƣ sản dân tộc hay "tư sản bản xứ" không có thế lực gì, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trong tƣ sản dân tộc không có ai làm chủ nhà máy hoặc nhà hàng lớn. Họ chỉ là chủ xƣởng nhỏ nhƣ xƣởng mộc, xay xát lúa gạo, xƣởng in, nên thế và lực của họ yếu ớt. Một mặt họ oán ngƣời Pháp, mặt khác khi phong trào công nhân lên mạnh, họ sợ cách mạng. Từ đó Hồ Chí Minh chủ trƣơng: Đảng phải có thái độ khôn khéo, mềm dẻo, phải hết sức lôi kéo họ, thúc đẩy họ hành động nếu có thể, cô lập họ về chính trị nếu cần, chí ít là trung lập họ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tránh hết sức để họ ngoài mặt trận, và nhƣ vậy là đẩy họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng thêm lực lƣợng cho chúng. Đối với giai cấp địa chủ. Về mặt lý thuyết thì đây chính là đối tƣợng của cách mạng giải phóng dân tộc, cần phải đánh đổ, nhƣng Hồ Chí Minh lại là một trong số ít những nhà chính trị, lãnh tụ cộng sản nhìn nhận, đánh giá giai cấp địa chủ ở các nƣớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam rất độc đáo. Tháng 01/1924, Ngƣời đã nhận định rằng, địa chủ ở Trung Quốc gồm hai lực lƣợng: Địa chủ hạng lớn, địa chủ hạng vừa. Khi xem xét giai cấp địa chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận định: Có một bộ phận có thể đồng hành cùng dân tộc trong cuộc đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, giai cấp địa chủ bao gồm: Đại địa chủ, bộ phận này về kinh tế cũng nhƣ chính trị đều đứng hẳn về phe đế quốc, là những lực lƣợng phản động. Vì vậy, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng phải đánh trúc bọn đại địa chủ. Đối với phú nông, trung và tiểu địa chủ thì cần khôn khéo phát động và phát huy tinh thần dân tộc của họ, chí ít là trung lập họ. Nhƣ vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ gần giống với bộ phận tƣ sản dân tộc. Đối với tiểu tư sản. Hồ Chí Minh cho rằng, ở Việt Nam thì thƣơng nghiệp lớn đã nằm trong tay ngƣời Pháp, nhỏ hơn thì nằm trong tay Hoa kiều. Ngƣời Việt chỉ buôn bán nhỏ, họ không ngoi lên đƣợc do bị chèn ép và phải chịu các loại thuế rất nặng nề. Do đó, họ rất căm ghét ngƣời Pháp, đồng tình với cách mạng. Chính từ sự phân tích khách quan, khoa học trên, Hồ Chí Minh đã vạch rõ: Đảng phải lôi kéo tiểu tƣ sản,... về phía giai cấp vô sản. Cách xem xét, đánh giá các giai cấp, tầng lớp của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, cho phép phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tinh thần dân tộc, chủ nghĩa dân tộc, tiềm ẩn trong từng giai cấp và tầng lớp cũng nhƣ cá nhân mỗi con ngƣời vào sự nghiệp chung là giải phóng dân tộc. 273 |
- Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam Về lực lượng quốc tế ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Đông Dương: Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu giai cấp công nhân phải đoàn kết quốc tế, nhằm tận dụng tối đa nguồn sức mạnh bên trong kết hợp với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế, nguồn lực từ bên ngoài. Thấm nhuần quan điểm đó, ngay từ khi chƣa trở thành ngƣời cộng sản, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm mang tính mácxít về vai trò của nhân tố quốc tế. Những nhận thức đó đƣợc Ngƣời phát triển trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Lực lƣợng quốc tế chủ yếu ủng hộ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền đƣợc Hồ Chí Minh nói tới bao gồm: Đối với quốc tế cộng sản: Hồ Chí Minh luôn gắn niềm tin của mình vào chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản ở cùng một thời điểm. Tháng 7/1920, khi Ngƣời đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Từ đó đến năm 1940, Hồ Chí Minh luôn đề cập đến vấn đề Quốc tế Cộng sản cần và phải giúp đỡ Việt Nam nhiều hơn nữa. Theo Hồ Chí Minh, tầm quan trọng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam không chỉ là những vấn đề chủ trƣơng, đƣờng lối, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, mà còn là vấn đề trƣớc tiên mọi cuộc cách mạng cần phải có, đó chính là việc thành lập Đảng Cộng sản. Trong điều kiện thuộc địa thiếu thốn và ở thời kỳ đầu khi Đảng ta mới ra đời, sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản càng cần thiết. Ngay từ những việc tƣởng chừng nhƣ rất nhỏ nhƣ cung cấp các loại sách báo ABC về chủ nghĩa cộng sản. Trong thƣ gửi Ban Phƣơng Đông của Quốc tế Cộng sản vào tháng 01/1935, Hồ Chí Minh nhận thấy có trách nhiệm báo cáo với Ban một vấn đề bức thiết của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đó là tình trạng: đại đa số các đồng chí của chúng tôi, trình độ lý luận và chính trị rất thấp. Học không hiểu cách mạng dân chủ tƣ sản là gì. Hồ Chí Minh thẳng thắn gọi đó là sự ngu dốt. Ngƣời cho rằng, biện pháp duy nhất có hiệu quả để khắc phục tình trạng trên là Ban Phƣơng Đông cần xuất bản và cung cấp cho những ngƣời cộng sản Đông Dƣơng những quyển sách nhỏ viết về các vấn đề nhƣ: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản; Đảng Cộng sản và tổ chức của Đảng; lịch sử Quốc tế Cộng sản; vấn đề dân tộc; vấn đề ruộng đất; khởi nghĩa vũ trang. Từ đó, Hồ Chí Minh kết luận: An Nam muốn cách mệnh thành công, thì nhất thiết phải nhờ đệ tam quốc tế. Đối với Liên bang Xô viết: Trƣớc và sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh sống và làm việc ở Liên Xô hơn 10 năm. Do đó, Ngƣời thấu hiểu và luôn nhấn mạnh vai trò và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam. Trƣớc hết đó là tấm gƣơng sáng cho các nƣớc thuộc địa trong đó có Việt Nam noi theo. Cách mạng tháng |274
- “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Mƣời Nga là cuộc cách mạng đã thành công và thành công đến nơi: Đuổi đƣợc bọn tƣ bản, địa chủ, ra sức giúp đỡ công nông các nƣớc và các dân tộc thuộc địa làm cách mạng để đạp đổ tất cả đế quốc và tƣ bản trên thế giới. Từ những năm 1920 của thế kỷ XX trở đi, Hồ Chí Minh có nhiều bài viết về vai trò to lớn của Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh tự đặt cho mình nhiệm vụ viết một cuốn sách để nói cho ngƣời Việt Nam biết về đất nƣớc của Lênin. Hồ Chí Minh viết thƣ gửi các đồng chí Liên Xô kèm theo đề cƣơng cuốn sách. Sự kiện trên càng chứng tỏ tầm quan trọng về sự giúp đỡ của Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam. Đối với Trung Quốc: Trung Quốc là nƣớc láng giềng của Việt Nam, đã thành lập đƣợc Đảng Cộng sản vào năm 1921, trở thành chỗ dựa quan trọng của cách mạng Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam là một nƣớc thuộc địa, không những mọi hoạt động cộng sản mà cả những hoạt động tự do, dân chủ tối thiểu cũng bị cấm, nên việc dựa vào Trung Quốc để phát triển cách mạng là rất quan trọng. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX đến trƣớc khi về nƣớc (tháng 01/1941), Hồ Chí Minh có rất nhiều bài viết đề cập đến sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam. Sự giúp đỡ của hai nƣớc đối với nhau theo Hồ Chí Minh, giúp bạn là tự giúp mình. Đối với Pháp thì sự giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Pháp là sự giúp đỡ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, giữa hai nƣớc có cùng chung một kẻ thù trực tiếp đó là chủ nghĩa tƣ bản Pháp. Mối quan hệ đã đƣợc Hồ Chí Minh nhắc đến bằng hình tƣợng rất sinh động: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết chết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"10. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp đối với Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp"11. III. KẾT LUẬN Như vậy, nét độc đáo của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về lực lƣợng cách mạng, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy việc hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam về số 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 320 11 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.4. 275 |
- Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam lƣợng và chất lƣợng. Góp phần vào xây dựng lực lƣợng chủ lực của cách mạng, tranh thủ triệt để các lực lƣợng có thể tranh thủ đƣợc nhƣ giai cấp tƣ sản dân tộc, giai cấp địa chủ vừa và nhỏ, tầng lớp trí thức, giai cấp tiểu tƣ sản và các lực lƣợng cách mạng quốc tế, tạo nên lực lƣợng cách mạng hùng mạnh. Quán triệt nét độc đáo tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về lực lƣợng cách mạng có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hội đồng Trung ƣơng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005) Tập mô hình hóa kiến thức cơ bản của giáo trình các bộ môn khoa học Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, (Tài liệu dùng cho lớp tập huấn giảng viên các môn khoa học Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh các trƣờng đại học, cao đẳng). 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh (Tài liệu phục vụ dạy và học Chƣơng trình các môn Lý luận chính trị trong các trƣờng đại học, cao đẳng), Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. 4. Đại học Sài Gòn, TS. Võ Văn Lộc (Biên soạn, tuyển chọn và giới thiệu) (2011), Tài liệu nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS.TS. Đinh Xuân Lý - PGS.TS. Phạm Ngọc Anh (2008), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị,. 6. GS.TS. Mạch Quang Thắng (2010), Hồ Chí Minh con người của sự sống (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. GS. Trần Nhâm (2011) Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. |276
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đôi nét về binh pháp tôn tử
48 p | 152 | 54
-
Văn hóa Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2
110 p | 172 | 54
-
TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ VIỆC HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ THỜI NIÊN THIẾU
8 p | 278 | 46
-
Bí ẩn trang điểm cung đình Huế - Các nghi thức trang điểm
5 p | 149 | 21
-
Mộng tượng thần mật Trung Hoa trong Đạo giáo triết lý nhân sinh: Phần 2
210 p | 65 | 13
-
Tư duy triết lý trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu nhìn từ phương diện đề tài, chủ đề
8 p | 85 | 9
-
Nghệ thuật tổ chức các Motif hình tượng trong tiểu thuyết Mạc Ngôn
7 p | 76 | 8
-
Khéo léo sử dụng con người - nét độc đáo trong quan điểm chính trị truyền thống Việt Nam và sự kế thừa của Hồ Chí Minh
11 p | 92 | 5
-
Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
8 p | 85 | 4
-
Ca dao về tình yêu đôi lứa từ góc nhìn văn hóa
8 p | 51 | 4
-
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết “tiểu thời đại” của Quách Kính Minh
8 p | 50 | 4
-
Nét sáng tạo trong quá trình đấu tranh giữ gìn lực lượng và tiến tới Đồng Khởi ở Kiến Tường giai đoạn 1954 – 1960
10 p | 66 | 4
-
Hiện thực và huyễn tưởng trong Ổ quỷ của M.Bulgakov
7 p | 37 | 3
-
Sự gắn kết giữa đạo và đời trong con người quản cơ Trần Văn Thành
5 p | 46 | 3
-
Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi
11 p | 30 | 2
-
Lễ Vu Lan ở Việt Nam – nguồn gốc và ý nghĩa
7 p | 75 | 2
-
Về đề tài cái chết trong thơ Edgar Allan Poe
11 p | 38 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn