intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

31
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong giai đoạn mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam, Phan Khôi (1887 -1959) là người tiên phong, mở đường với tư tưởng hiện đại và sự cách tân về phong cách nghị luận báo chí độc đáo, không trộn lẫn với bất cứ ai. Phong cách “rất Phan Khôi” ấy được định hình rõ nét nhất trong thể tài Hài đàm. Đó là những bài viết theo lối tạp văn và được coi là “đặc sản”, chiếm một số lượng rất lớn trong sáng tác báo chí của ông. Sự độc đáo và hấp dẫn của hài đàm Phan Khôi thể hiện ở trong kết cấu độc đáo, bất ngờ, lối kể chuyện hài hước, dí dỏm, trào lộng và nhất là ở thủ pháp liên tưởng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi

Tập 183, Số 07, 2018<br /> <br /> Tập 183, số 07, 2018<br /> <br /> 183(07)<br /> N¨m<br /> <br /> 2018<br /> <br /> T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ<br /> <br /> Journal of Science and Technology<br /> <br /> CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ<br /> Môc lôc<br /> <br /> Trang<br /> <br /> Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy”<br /> <br /> 3<br /> <br /> Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê<br /> <br /> 9<br /> <br /> Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn<br /> học trung đại Việt Nam<br /> <br /> 15<br /> <br /> Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông<br /> qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông<br /> <br /> 21<br /> <br /> Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ<br /> người Việt<br /> <br /> 27<br /> <br /> Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay<br /> <br /> 33<br /> <br /> Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng<br /> <br /> 39<br /> <br /> Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên<br /> <br /> 45<br /> <br /> Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai<br /> đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm<br /> <br /> 51<br /> <br /> Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên<br /> <br /> 57<br /> <br /> Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ<br /> dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay<br /> <br /> 63<br /> <br /> Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc<br /> tổng tiến công Mậu Thân năm 1968<br /> <br /> 69<br /> <br /> Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi<br /> <br /> 73<br /> <br /> Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại<br /> khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái<br /> Nguyên hiện nay<br /> <br /> 79<br /> <br /> Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường<br /> Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 85<br /> <br /> Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử<br /> tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017<br /> <br /> 91<br /> <br /> Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho<br /> học sinh trung học phổ thông<br /> <br /> 97<br /> <br /> Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện<br /> Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên<br /> <br /> 105<br /> <br /> Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên<br /> vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học<br /> Y Dược – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 111<br /> <br /> Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng<br /> phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay<br /> <br /> 117<br /> <br /> Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm<br /> <br /> 123<br /> <br /> Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên<br /> ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất<br /> <br /> 129<br /> <br /> Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh<br /> viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 135<br /> <br /> Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học<br /> Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 141<br /> <br /> Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây<br /> dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế<br /> <br /> 147<br /> <br /> Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất<br /> lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự<br /> <br /> 153<br /> <br /> Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên<br /> trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 159<br /> <br /> Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ<br /> <br /> 165<br /> <br /> Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính<br /> kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay<br /> <br /> 171<br /> <br /> Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học<br /> thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh<br /> <br /> 177<br /> <br /> Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,<br /> tỉnh Bắc Kạn<br /> <br /> 183<br /> <br /> Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên<br /> minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi<br /> <br /> 189<br /> <br /> Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản<br /> lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa<br /> <br /> 195<br /> <br /> Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại<br /> học Thái Nguyên<br /> <br /> 201<br /> <br /> Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ<br /> khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam<br /> <br /> 207<br /> <br /> Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái<br /> <br /> 213<br /> <br /> Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên<br /> <br /> 219<br /> <br /> Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may<br /> Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG<br /> <br /> 227<br /> <br /> Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên<br /> cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên<br /> <br /> 233<br /> <br /> Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả<br /> kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam<br /> <br /> 239<br /> <br /> Phạm Anh Nguyên<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 183(07): 73 - 78<br /> <br /> SỨC HẤP DẪN TRONG HÀI ĐÀM CỦA PHAN KHÔI<br /> Phạm Anh Nguyên*<br /> Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong giai đoạn mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam, Phan Khôi (1887 -1959) là người tiên phong,<br /> mở đường với tư tưởng hiện đại và sự cách tân về phong cách nghị luận báo chí độc đáo, không trộn<br /> lẫn với bất cứ ai. Phong cách “rất Phan Khôi” ấy được định hình rõ nét nhất trong thể tài Hài đàm.<br /> Đó là những bài viết theo lối tạp văn và được coi là “đặc sản”, chiếm một số lượng rất lớn trong sáng<br /> tác báo chí của ông. Sự độc đáo và hấp dẫn của hài đàm Phan Khôi thể hiện ở trong kết cấu độc đáo,<br /> bất ngờ, lối kể chuyện hài hước, dí dỏm, trào lộng và nhất là ở thủ pháp liên tưởng.<br /> Từ khóa: Phan Khôi, Hài đàm, kết cấu bài độc đáo, thủ pháp liên tưởng, nghệ thuật châm biếm.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ *<br /> Trong những năm gần đây, tên tuổi và sự<br /> nghiệp báo chí của học giả Phan Khôi mới<br /> được nhiều người biết tới một cách rõ ràng<br /> hơn là dựa vào kết quả sưu tầm của nhà<br /> nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Cho đến nay, Lại<br /> Nguyên Ân đã công bố các tác phẩm báo chí<br /> của Phan Khôi viết từ năm 1928 đến năm<br /> 1943, đây là ngữ liệu căn bản cho nhiều<br /> nghiên cứu, đánh giá những đóng góp của<br /> Phan Khôi ở các lĩnh vực văn học nghệ thuật,<br /> triết học, lịch sử, ngôn ngữ, báo chí... Riêng<br /> về Hài đàm có hai tác giả đề cập tới:<br /> Năm 2013, trong luận văn thạc sĩ ngôn ngữ<br /> học “Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật sáng tạo<br /> trong ngôn từ của nhà báo Phan Khôi” (Đại<br /> học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên), tác giả<br /> Phạm Anh Nguyên tập trung vào việc phân<br /> tích các kiểu dạng bài báo để từ đó hệ thống<br /> hóa các thủ pháp nghệ thuật ngôn từ mà Phan<br /> Khôi thường sử dụng và bước đầu đề cập tới<br /> sự độc đáo trong cách viết Hài đàm [1].<br /> Cho tới năm 2015, luận án tiến sĩ báo chí học<br /> đầu tiên nghiên cứu về Phan Khôi “Vai trò<br /> của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu<br /> thể kỷ XX” (Học viện Báo chí và Tuyên<br /> truyền), tác giả Phạm Thị Thành chủ yếu đề<br /> cập tới vấn đề thể loại và nhận định các bài<br /> khôi hài của Phan Khôi mang đặc điểm tiểu<br /> phẩm báo chí [2].<br /> Có thể thấy việc tìm hiểu về Hài đàm của<br /> Phan Khôi cần được giới nghiên cứu quan<br /> *<br /> <br /> tâm hơn nữa, nhất là xem xét Hài đàm như là<br /> một thể tài báo chí mà Phan Khôi đã có công<br /> lao gây dựng.<br /> Trong sự nghiệp làm báo của mình, Phan<br /> Khôi viết rất nhiều thể loại, kiểu dạng bài<br /> khác nhau, từ những bài khảo luận, nghiên<br /> cứu công phu đăng nhiều kỳ tới những bài<br /> tranh luận sôi nổi gai góc, bài phê bình văn<br /> học sắc sảo cho đến làm thơ, dịch thuật, sáng<br /> tác tiểu thuyết. Ở thể loại nào Phan Khôi cũng<br /> để lại dấu ấn cá tính rõ nét, nhưng độc đáo<br /> nhất, gây ấn tượng nhất lại chính là các bài<br /> tạp văn ngắn có trong chuyên mục “Câu<br /> chuyện hằng ngày”, “Những điều nghe thấy”<br /> mà đương thời được độc giả mến mộ gọi tên<br /> là Hài đàm. Từ năm 1928 đến năm 1932<br /> trong hai chuyên mục này Phan Khôi đã viết<br /> 1084 bài. Đặc trưng các bài hài đàm của Phan<br /> Khôi thể hiện trong kết cấu độc đáo, đặc biệt<br /> ngắn gọn, lối kể chuyện hài hước, dí dỏm,<br /> trào lộng và nhất là ở thủ pháp liên tưởng.<br /> Trên thực tế tờ Gia định báo (1865) – tờ báo<br /> quốc ngữ đầu tiên ra đời của Nam Kỳ, đã<br /> từng có những mục mang hơi hướng hài<br /> hước: “Chuyện đời xưa”, “Lựa nhón lấy<br /> những chuyện hay và có ích”, “Chuyện khôi<br /> hài” của Trương Vĩnh Ký. Đây có thể xem<br /> như là gợi ý ban đầu cho sự ra đời của các<br /> chuyên mục trào phúng trên báo chí Việt Nam<br /> sau này. Các cây bút lão luyện như Tản Đà,<br /> Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhất, Ngô Tất Tố...<br /> cũng đều viết trào phúng, hài đàm trên báo<br /> chí, song không đều đặn và chưa hẳn làm nổi<br /> bật thể tài này. Chỉ từ khi Phan Khôi viết Hài<br /> <br /> Tel: 0913395451; Email: phamanhnguyennn17@gmail.com<br /> <br /> 73<br /> <br /> Phạm Anh Nguyên<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đàm, góp những câu chuyện kể thì người đọc<br /> báo mỗi ngày mới quả thực là biết “câu<br /> chuyện hàng ngày” với đủ loại nội dung: từ<br /> các việc xảy ra hàng ngày tại đô thị Sài Gòn<br /> và mọi miền trong nước đến các sự kiện ở<br /> nước ngoài. Biết từ chuyện bầu cử của hội<br /> đồng quản hạt, chuyện ăn Tết, chuyện thiếu<br /> nước, chuyện giá gạo tăng đến chuyện phế đế<br /> Phổ Nghi, chuyện quân phiệt bên Tầu, chuyện<br /> thi sắc đẹp bên Tây... và nổi bật lên là giọng<br /> điệu khi mỉa mai, lúc hài hước của tác giả.<br /> Hài đàm của Phan Khôi là những bài viết theo<br /> lối tạp văn và được coi là “đặc sản”, chiếm số<br /> lượng rất lớn trong sáng tác báo chí của ông<br /> “Lượng bài Phan Khôi viết và đăng trên Trung<br /> lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông<br /> đăng trên bất cứ tờ báo nào... Trước hết là<br /> mục hài đàm “Những điều nghe thấy” mà tòa<br /> soạn dành riêng cho ông viết với bút danh<br /> Thông reo (10 ngày đầu lấy là Tha Sơn)”. Từ<br /> 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị<br /> đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho<br /> mục “Những điều nghe thấy” [3; tr. 18].<br /> Để thể nghiệm thành công thể tài mới mẻ này<br /> trên báo chí ngoài sự học hỏi kinh nghiệm của<br /> hai nhà báo Pháp là Clément Vautel và<br /> Georges de la Fouchardière trên các tờ Le<br /> Journal và L’Oeuvre xuất bản ở Paris đương<br /> thời 1 thì ta thấy được trong lối viết hài đàm<br /> của Phan Khôi có sự kết hợp tinh tế của tạp<br /> văn ngắn (viết sắc, gọn) với trí liên tưởng<br /> thông minh giàu sức sáng tạo. Đây là việc<br /> không phải ai cũng làm được. Vì thế những<br /> tài năng khôi hài, những cây bút trào phúng<br /> trên báo chí như Phan Khôi quả thật xưa nay<br /> vẫn hiếm.<br /> 1<br /> <br /> Georges de la Fouchardière (1874 – 1946) năm<br /> 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập ra tờ L’Oeuvre<br /> (xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn<br /> thế sự với giọng hài hước, hóm hỉnh, thu hút đủ loại<br /> độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến<br /> thứ II. Clément Vautel (1876 – 1954; bút danh: Đảo<br /> Let thành Tel): viết cho các báo ngày ở Paris như Le<br /> Matin, Le Liberté..., đặc biệt giữ mực “Mon film”<br /> (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái<br /> nhìn rất “phải lẽ” của một “français moyen”<br /> (thường dân) được độc giả đương thời hâm mộ...<br /> Đây cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến<br /> thứ II. [4; tr.411-412]<br /> <br /> 74<br /> <br /> 183(07): 73 - 78<br /> <br /> KẾT CẤU ĐỘC ĐÁO VÀ CÁCH KỂ<br /> CHUYỆN VỪA HOẠT BÁT, HIỆN ĐẠI<br /> THEO LỐI TÂY PHƯƠNG VỪA SÂU SẮC,<br /> THÂM THÚY CỦA NHO GIA<br /> Bài Hài đàm của Phan Khôi độc đáo trước hết<br /> là ở kết cấu nội dung ngắn gọn: Từ năm 1928<br /> đến năm 1932 trong hai chuyên mục “Câu<br /> chuyện hằng ngày”, “Những điều nghe thấy”<br /> Phan Khôi đã viết 1084 bài Hài đàm, tất cả<br /> các bài này đều có dung lượng ngắn gọn<br /> khoảng 400 đến 1500 chữ, về cơ bản các bài<br /> Hài đàm này đều có lối viết dẫn dắt như “kể<br /> chuyện”. Đó là nhân có một sự kiện, vấn đề<br /> xã hội đã xảy ra, vừa mới diễn ra trong đời<br /> sống sinh hoạt thường ngày được Phan Khôi<br /> “mượn” coi như là cái cơ để đặt vấn đề, dẫn<br /> dắt người đọc. Với cách mở đầu như vậy đã<br /> góp phần làm nổi bật, sáng rõ thông tin đã tạo<br /> nên phong cách thông tấn báo chí cho các bài<br /> Hài đàm. Sự ngắn gọn còn được thể hiện rất<br /> rõ trong việc tổ chức các đoạn văn. Đa phần<br /> các bài Hài đàm có từ 7 – 15 đoạn, đoạn ngắn<br /> nhất là 1 câu và đoạn dài là từ 3 – 7 câu.<br /> Chẳng hạn bài “Cấm lạy còn lạy” (Đông<br /> Pháp thời báo, Sài Gòn, số 773, ngày<br /> 21/08/1928) gồm 9 đoạn, 12 câu:<br /> (i) “Vừa rồi có người đọc báo gởi thơ đến xin<br /> bổn báo dịch đăng cái tờ thông tin của quan<br /> Thống đốc Nam Kỳ truyền cho các chủ tỉnh<br /> phải khuyên quan viên Lang Sa tùng sự trong<br /> các tỉnh đãi người An Nam cho có lễ phép (1).<br /> (ii) Song tôi nghĩ có gì đâu mà đăng (2). Và tôi<br /> cũng đã nói tử tế không đều do ở nơi mình (3).<br /> (iii) Nếu như mình thấy mặt ai, cứ cúi xuống<br /> lạy đùa, thì một trăm tờ thông tư như vậy<br /> cũng chẳng làm chi, huống là một tờ (4).<br /> (iv) Tôi còn nhớ ông đốc phủ kia, cứ mỗi năm<br /> đầu năm tây, khăn đen áo lớn, dắt mấy thằng<br /> nhỏ đi đến chúc mừng ông Thống đốc Nam<br /> Kỳ (5). Ông đó có tiếng hay lạy, nên một hôm,<br /> trước khi đi vô, mấy thầy đã dặn: Chuyến nầy<br /> đừng lạy, nghe quan lớn! (6)<br /> (v) Ấy vậy mà vô nói chỉ năm ba tiếng cũng cúi<br /> xuống mà cuốc dài, làm cho mấy thầy mặc đồ<br /> Lang Sa té lên té xuống gần chết. (7)<br /> (vi) Ta mà còn đê hèn như vậy, mong gì ai<br /> trọng ta ! (8)<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2