intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

28
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trinh Công Sơn" sẽ là một đóng góp cho Việt ngữ học một thí dụ điển hình về nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong ngôn ngữ nghệ thuật. Phần 1 gồm các nội dung chính sau: Khái lược về ẩn dụ; Vai trò của ngữ cảnh văn hóa trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn; Ẩn dụ, ẩn dụ tri nhận - Quan điểm và hệ thống khái niệm;... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn: Phần 1

  1. Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn   Tác giả: T.S Nguyễn Thị Bích Hạnh Thể loại: Chuyên khảo Số trang: 320 Kích thước: 16x24 cm Phát hành: Nxb Khoa học xã hội Năm xuất bản: 11/2015 E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy. TVE-4U CÙNG ĐỌC - CÙNG CHIA SẺ!
  2. Lời giới thiệu Hiện nay, ngôn ngữ học tri nhận với cách tiếp cận đa ngành, liên ngành các khoa học trong nghiên cứu đã trở thành tâm điểm của ngôn ngữ học hiện đại. Trong số các vấn đề mà ngôn ngữ học tri nhận quan tâm, có vấn đề về ẩn dụ tri nhận. Ở Việt Nam, trong bối cảnh những nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ học tri nhận vẫn đang ở giai đoạn bắt đầu thì cuốn chuyên khảo này ít nhiều mang tính thời sự, có nhiều ý nghĩa về lí luận và thực tiễn. Trong nền âm nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn là một hiện tượng hiếm gặp. Là một nhạc sĩ tài danh, ông được công chúng mến mộ không chỉ trong nước mà phần nào vượt qua biên giới quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh đời sống âm nhạc Việt ngày càng nở rộ với nhiều dòng nhạc như: nhạc giao hưởng, nhạc cổ điển, nhạc đồng quê, nhạc nhẹ, nhạc kịch, nhạc dân ca, nhạc dân gian đương đại, nhạc Rap, R&B, Jazz, Rock, Pop,… thì nhạc Trịnh Công Sơn tồn tại như một dòng nhạc độc lập, trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và ngay cả trong lĩnh vực văn học từ trước đến nay. Nhạc Trịnh Công Sơn tự mình tạo ra một ma lực đặc biệt cuốn hút, mê hoặc người nghe. Làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là ở phần ca từ, cái hay, cái lạ, cái đẹp của nhạc Trịnh chủ yếu ở phần lời chứ không hoàn toàn ở phần nhạc. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng Trịnh Công Sơn ghép nhạc vào lời hơn là ghép lời vào nhạc, ngôn ngữ trong ca từ của ông vô cùng mới lạ, bằng cách mượn hình ảnh để cụ thể hóa những ý niệm trừu tượng. Việc tìm hiểu giá trị ca từ Trịnh Công Sơn đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là soi chiếu ca từ dưới góc độ ngôn ngữ.
  3. Đã có rất nhiều công trình sách, báo, bài viết cả trong và ngoài nước viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của người nhạc sĩ tài hoa này. Nghiên cứu ca từ nhạc Trịnh dưới góc độ ngôn ngữ học bắt đầu được quan tâm từ mấy năm trở lại đây, nhưng các tác giả chủ yếu tiếp cận ngôn ngữ nhạc Trịnh theo quan điểm của ngôn ngữ học cấu trúc. Tiếp cận ngôn ngữ nhạc Trịnh dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận là địa hạt mới mẻ, có khả năng mang đến một cái nhìn đa chiều hơn về con người cũng như góp phần khai thác các giá trị trong các tác phẩm âm nhạc Trịnh Công Sơn, làm nổi bật triết lý nhân sinh sâu sắc của nhạc sĩ về con người và về cuộc đời. Từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể là ẩn dụ tri nhận, chuyên khảo đã nghiên cứu, khảo sát cách sử dụng ngôn từ tiếng Việt trong ca từ của Trịnh Công Sơn, đi sâu khai thác và giải mã các mô hình ẩn dụ tri nhận trong khối liệu ca từ này, từ đó làm nổi bật tính sáng tạo, sự linh hoạt và tính triết lí thấm đẫm trong ca từ của ông, góp phần nghiên cứu toàn diện về các sáng tác của nhạc sĩ tài ba này. Các kết quả nghiên cứu của chuyên khảo sẽ góp phần củng cố lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, làm rõ thêm một số vấn đề lí thuyết về ẩn dụ thông qua ca từ của một trong những nhạc sĩ Việt Nam tài hoa nhất, với những bài hát có ca từ thuộc vào loại đẹp nhất, đã làm lay động và say mê nhiều thế hệ. Chuyên khảo sẽ góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lý thuyết về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, góp phần chứng minh ẩn dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một cơ chế cực kỳ quan trọng để con người nhận thức thế giới. Chuyên khảo Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn sẽ là một đóng góp cho Việt ngữ học một thí dụ điển
  4. hình về nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong ngôn ngữ nghệ thuật. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng độc giả! Hà Nội, tháng 9 năm 2015 GS.TS. Võ Khánh Vinh
  5. Lời nói đầu Nhạc sĩ Văn Cao sinh thời từng cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa phần ca từ với phần âm nhạc, hai phần này hòa quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, vì vậy, ông gọi Trịnh Công Sơn là “Người ca thơ”1. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay nhất thế kỷ”. Cùng với thời gian, nhạc Trịnh ngày càng khẳng định được vị trí và tên tuổi của mình trong lòng công chúng yêu nhạc trong và ngoài nước. Việc tìm hiểu giá trị ca từ Trịnh Công Sơn đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là soi chiếu ca từ dưới góc độ ngôn ngữ. Chuyên khảo đã dựa trên lý thuyết về ngôn ngữ học tri nhận để lý giải những mô hình ẩn dụ tri nhận trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn. Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, các mô hình ẩn dụ được khai thác, giải mã dựa trên kinh nghiệm thân thể, trải nghiệm sinh học, các cơ chế thần kinh và phản xạ hành vi, các mô hình văn hóa và các tri thức nền mang đặc trưng tâm lý, tư duy tộc người; bên cạnh đó những ước định về văn hoá, tôn giáo và những định chế về tư duy tâm linh con người cũng được vận dụng để suy nghiệm các ẩn dụ. Trên cơ sở phân tích các mô hình ẩn dụ, chuyên khảo đã so sánh, đối chiếu trong các miền văn hóa khác nhau, từ đó có thể làm sáng tỏ tính khác biệt về văn hóa trong ngôn từ của nhạc sĩ, đặt trong tương quan giữa cái mang tính phổ quát toàn nhân loại với cái đặc thù mang tính dị biệt của từng dân tộc. Để hoàn thành chuyên khảo này, tác giả xem ca từ của Trịnh Công Sơn như một hệ thống những ý niệm (hay
  6. hệ thống từ vựng tinh thần) để khảo sát. Đây không chỉ là sản phẩm đơn thuần của trí tuệ, mà hệ thống ý niệm này đã cấu trúc hóa tình cảm, cảm xúc, hành vi, quan hệ của nhạc sĩ trong mối quan hệ thường nhật với thế giới bên ngoài, được xây dựng dựa trên những sơ đồ nhất định mà hằng ngày chúng ta vẫn nhận thức về nó một cách thụ động, vô thức bởi nó vốn tiềm tàng trong tư duy văn hóa dân tộc. Từ việc phân tích các ý niệm, chuyên khảo làm rõ bản chất của các mô hình ẩn dụ tri nhận trong vai trò cấu trúc hóa tri giác, tư duy, và hoạt động của con người. Đặc biệt, khi ánh xạ vào tư duy của Trịnh Công Sơn, các ẩn dụ ấy còn mang được nét riêng biệt trong cách tri giác và tư duy về thế giới của cá nhân nhạc sĩ. Với thao tác liên văn bản, chuyên khảo sử dụng không những các văn bản có tính văn học khác để soi chiếu các tác phẩm của Trịnh Công Sơn mà còn sử dụng những huyền thoại, truyền thuyết, ngữ cảnh văn hóa như là những nguồn cung cấp những dữ kiện, những hình ảnh, những yếu tố để qua đó, mỗi người đọc tự cảm nhận được những vỉa tầng sâu kín của các ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn. Với thao tác xếp chồng văn bản, chuyên khảo sử dụng những tác phẩm khác nhau của Trịnh Công Sơn, “xếp chồng” các văn bản cùng thể loại của ông để tìm những đường nét của huyền thoại tập thể, từ đó làm phát lộ huyền thoại cá nhân của nhạc sĩ. Kết hợp với sử dụng thủ pháp so sánh văn hoá, chuyên khảo đã so sánh, đối chiếu các ẩn dụ ý niệm tương đương ở các nền văn hóa khác (qua so sánh trên cơ sở các truyền thuyết, thần thoại, các quan niệm trong tôn giáo, tâm thức văn hóa cộng đồng…) với ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn để tìm ra các nét tương đồng, tương cận, hay dị biệt giữa chúng. Từ đó, chỉ ra
  7. những thẩm nhận đặc trưng và cá tính sáng tạo trong ca từ nhạc Trịnh. Chuyên khảo nỗ lực gắn phân tâm học và các luận điểm của triết học Hiện sinh phương Tây vào việc lí giải các mô hình ý niệm, nghiên cứu những mạng lưới liên tưởng trong ngôn ngữ và hình ảnh được thể hiện trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn, giúp người đọc, người nghe khám phá ra những ám ảnh mà nhạc sĩ luôn ôm ấp trong đời sống cũng như trong những giấc mơ giữa đời thường của mình. Tất cả những ám ảnh này làm nên con người vô thức của tác giả, làm nên “huyền thoại cá nhân” của nghệ sĩ. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của chuyên khảo còn có thể ứng dụng vào việc giảng dạy trong lĩnh vực phong cách học, phong cách sáng tác ca từ. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa luôn mang trong mình các hệ thống ẩn dụ mang tính ổn định tương đối, lại vừa chứa đựng một tiềm năng biến đổi. Vì vậy, khi nghiên cứu ẩn dụ tri nhận, nhất thiết phải đặt nó trong sự vận động xã hội. Xuất phát từ cơ sở nêu trên, trong quá trình phân tích các ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn, ngoài các thao tác phân tích ý niệm và suy luận của ngôn ngữ, chuyên khảo đặc biệt chú ý kết hợp với các nhân tố của ngữ cảnh văn hóa như: đặc điểm và diễn biến của thời đại; ý thức hệ tư tưởng; môi trường văn hóa - nghệ thuật; Những quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hóa,… có ảnh hưởng đến thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả. Để lý giải các ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn, tác giả cho rằng cần thiết nắm rõ một số yếu tố của ngữ cảnh văn hóa như: đời sống tâm lý cá nhân và đời sống tâm lý cộng đồng; các yếu tố văn hóa hay tri thức nền của nhạc sĩ; bối cảnh xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy nghệ thuật của Trịnh Công Sơn,…
  8. từ đó mới có thể hiểu một cách sâu sắc thông điệp của nhạc sĩ. Đây cũng là căn cứ để giải mã toàn bộ hệ thống ẩn dụ trong ca từ của ông. Chuyên khảo sẽ góp phần làm sinh động, tươi mới các ý niệm có tính chất phổ niệm bằng các ngữ liệu của đối tượng nghiên cứu; khảo sát chi tiết các ẩn dụ tri nhận điển dạng (cơ sở) cũng như các ẩn dụ tri nhận phái sinh (thứ cấp) và đề xuất các khung tri nhận cụ thể; sơ đồ hóa mối tương ứng trong cơ trình ẩn dụ giữa miền nguồn và miền đích với những dẫn liệu ngôn ngữ ca từ độc đáo, chính xác, thuyết phục; phát hiện và làm rõ tính lưỡng phân thống nhất trong ẩn dụ tri nhận và nỗi ám ảnh thân phận con người trong ca từ Trịnh Công Sơn. Chuyên khảo sẽ giúp người đọc có thêm công cụ để tự ý thức và giải mã được “cái bí ẩn sâu kín” trong ca từ nhạc Trịnh. Để chuyên khảo đến được với người đọc, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Võ Khánh Vinh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, kiêm Giám đốc Học viện Khoa học xã hội nói riêng và Ban Giám đốc Học viện KHXH nói chung, đã tạo mọi điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần để tác giả sớm hoàn thành công trình này; Tác giả cũng xin được cảm ơn Phòng Quản lý khoa học; Ban Chủ nhiệm khoa Khoa Ngôn ngữ học - Học viện Khoa học xã hội; GS.TS. Đỗ Việt Hùng; GS.TS. Nguyễn Đức Tồn; GS.TS. Nguyễn Văn Khang; GS.TSKH. Lý Toàn Thắng; GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp, GS.TS. Lê Quang Thiêm; GS.TS. Bùi Minh Toán đã cho tác giả nhiều ý kiến quý báu để sửa chữa, biên tập, hoàn thành chuyên khảo. Và nhân đây cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cho phép tác giả sử dụng một số tranh và ảnh tư liệu liên quan đến nhạc sĩ; cảm ơn GS.TS. Nguyễn
  9. Quang đã cho phép tác giả sử dụng bức họa về Trịnh Công Sơn để in trong chuyên khảo; đặc biệt, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến GS.TS. Hồ Sĩ Quý - người thiết kế mỹ thuật cho bìa cuốn sách, cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã tạo mọi điều kiện để cuốn chuyên khảo này sớm đến được với độc giả. Vì khả năng nghiên cứu có hạn, nội dung chuyên khảo không tránh khỏi những mặt hạn chế. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các độc giả để công trình đạt chất lượng tốt hơn ở những lần tái bản sau. Xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, tháng 09 năm 2015 Tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh
  10. Chương 1 Dẫn nhập
  11. 1. Khái lược về ẩn dụ Ẩn dụ vốn thường được xem là vấn đề của bản thân ngôn ngữ, bao gồm một số biểu trưng hiểu theo nghĩa bóng, dựa trên các ngôn từ chứa đựng nghĩa đen. Ẩn dụ vốn được các nhà tu từ học quan tâm nghiên cứu, thường được coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Cơ chế của ẩn dụ tạo ra sự chuyển đổi nghĩa phổ biến nhất trong tất cả các ngôn ngữ. Có thể xem so sánh ngầm là quy trình cơ bản để hiểu về ẩn dụ. Quan điểm truyền thống này về ẩn dụ có từ thời Aristotle, được nhiều nhà ngôn ngữ học cấu trúc luận trên thế giới đồng tình và khẳng định. Trong Việt ngữ học, ẩn dụ được xem xét theo hai góc độ. Thứ nhất, là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các đơn vị từ vựng dựa vào mối quan hệ tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Thứ hai, là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, ẩn dụ là một biện pháp tu từ nhằm tạo nên những biểu tượng trong nhận thức của con người, được khảo sát trong những ngữ cảnh cụ thể, gắn liền với văn bản. Trong ba thập niên gần đây, định nghĩa về ẩn dụ đã có sự thay đổi mang tính đột phá khi các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ còn là một công cụ tri nhận hữu hiệu để con người ý niệm hóa các khái niệm trừu tượng. Ẩn dụ là hình thái tư duy của con người về thế giới. Tư duy ẩn dụ dựa trên cơ sở các ý niệm. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng các đơn vị ngôn ngữ (từ, ngữ, kết cấu) đều biểu đạt các ý niệm và những ý niệm này đều tương ứng với các ý nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ đó. Mỗi khi tạo sinh một phát ngôn, một cách vô thức,
  12. con người đã cấu trúc mọi phương diện của kinh nghiệm mà ta có ý định truyền tải và sử dụng quá trình ý niệm hóa cho phát ngôn đó. Ý niệm hóa bao hàm tất cả các quá trình tư duy (hay bất cứ sự trải nghiệm tinh thần nào của con người). Quá trình này chính là quá trình nhận thức của con người trong việc tạo ra ý niệm: các thông tin mà con người tri giác từ thế giới khách quan được tích hợp lại trong một hình ảnh tinh thần đơn lẻ, hình ảnh này, như một thứ ý nghĩa quy ước, được gắn với âm thanh của một ngôn ngữ để diễn đạt cái mảnh thế giới khách quan đó một cách khái quát. Trong quá trình nhận thức và tư duy, con người thông qua các trải nghiệm tinh thần ý niệm hóa thế giới bằng các thông tin đã tri giác được từ thế giới khách quan. Cơ chế tri nhận của ẩn dụ bao gồm hai miền nguồn và đích tồn tại tiền giả định trong ý thức của con người, trong đó những thuộc tính của miền nguồn được ánh xạ, phóng chiếu lên miền đích, cả hai miền nguồn và đích đều là những ý niệm, được cấu trúc hóa theo mô hình trường - chức năng: trung tâm - ngoại vi, trong đó hạt nhân là khái niệm nằm ở trung tâm, mang tính phổ quát toàn nhân loại, và ngoại vi là những yếu tố ngôn ngữ, văn hóa dân tộc, nằm trong một “khung” hay “nền” văn hóa nhất định mang tính đặc thù. Ý niệm có tính nghiệm thân và chịu tác động của hiệu ứng điển dạng và các mô hình văn hóa, vì vậy, ý niệm không chỉ mang tính phổ quát mà còn mang tính đặc thù văn hóa - dân tộc. Ý niệm không tồn tại riêng lẻ mà liên kết với nhau tạo thành một hệ thống ý niệm. Mỗi một hệ thống ý niệm có những ý niệm cơ sở và ý niệm thứ cấp, giữa chúng có hiện tượng ranh giới mờ, thậm chí một số ý niệm trong hệ thống ý niệm này lại đồng thời nằm trong hệ thống ý niệm khác.
  13. Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) bắt đầu phát triển từ những năm 80 thế kỷ XX như một trường phái ngôn ngữ vận dụng kiến thức liên ngành. Ngôn ngữ học tri nhận “nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật của thế giới khách quan đó”1. Ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận - cognitive/conceptual metaphor) “là một trong những hình thức ý niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới”2. Theo các nhà ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ là một cơ chế tri nhận mà nhờ đó, những tri giác liên tục, tương tự đã trải qua quá trình phạm trù hóa được đánh giá lại trong những bối cảnh ý niệm mới. Ẩn dụ ý niệm phản ánh cơ chế ánh xạ kiểu lược đồ giữa hai miền không gian. Ánh xạ ẩn dụ có tính chất bộ phận vô thức và đơn tuyến. Các lược đồ ý niệm có vai trò tổ chức kiến thức trong quá trình tri nhận. Mẫu lược đồ được chọn từ các miền hữu ảnh, diễn ra trong phạm trù nghiệm thân và tạo thành trải nghiệm tự thân của con người. Vì vậy, các mô hình tri nhận nhấn mạnh vào bản chất tinh thần, kinh nghiệm tri giác và nhận thức khoa học của con người. Trải nghiệm của thân thể vừa kích hoạt, vừa đặt cơ sở tạo thành ẩn dụ, nói cách khác, tri nhận của con người phải được hiểu qua tính nghiệm thân. Nếu nghiên cứu ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học cấu trúc thì chỉ giúp phát hiện ra các cơ chế ẩn dụ theo kiểu hình thái ngôn ngữ, bản chất của ẩn dụ và các dạng khác nhau của ẩn dụ; tìm hiểu được các cơ chế định
  14. danh (ẩn dụ chết), các phương thức chuyển nghĩa của từ trong cùng một trường nghĩa hay giữa các trường nghĩa khác nhau dựa trên các cơ chế ẩn dụ; vận dụng vào trong thi pháp để xây dựng chúng trở thành một thủ pháp tu từ, tạo nên những biểu tượng nghệ thuật ngôn từ mang ý nghĩa biểu trưng và phần nào mang tính chủ quan, sắp đặt của người nghệ sĩ. Việc nghiên cứu ẩn dụ theo phương thức truyền thống không thể giúp chúng ta tìm hiểu được cặn kẽ những “cấu trúc bề sâu của nhận thức” qua ngôn từ. Ngôn ngữ hậu cấu trúc với thuyết ẩn dụ tri nhận đã nhận thức và lý giải các phạm trù của thế giới qua hệ thống các ý niệm được nghiệm thân trong ngôn ngữ; giúp con người khám phá thế giới tri thức quanh mình được phản chiếu qua ngôn từ hằng ngày; thấy được sự tương đồng và khác biệt trong các cơ tầng văn hóa giữa những nền văn hóa khác nhau. Là một bộ phận của khoa học tri nhận, ngôn ngữ học tri nhận cùng với ẩn dụ ý niệm đã trở thành một bộ môn khoa học liên ngành, gắn bó mật thiết với các khoa học về tâm lý học tri nhận, trí tuệ nhân tạo, văn hóa học, triết học, thần kinh học, đặc biệt là nhân học, với thuyết “Dĩ nhân vi trung” (lấy con người làm trung tâm của vũ trụ). Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu sự nhận thức và ý niệm hóa của con người về thế giới quanh mình qua các biểu thức và các diễn ngữ ngôn ngữ, bằng cách lấy con người làm bản thể định vị giữa không gian, thời gian, và các nguyên tắc, sự kiện, hành động, tư tưởng, tôn giáo, niềm tin… của con người tương tác mật thiết với nhau trong không - thời gian ấy. Như thế, ngôn ngữ học tri nhận không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với chính bản thân ngôn ngữ từ những hiện tượng có thể quan sát được, mà còn nghiên cứu cả những gì không quan sát trực tiếp được
  15. như sự hiểu biết (hay tri thức), trí tuệ, cảm xúc, ý chí, các hiện tượng tinh thần nói chung… Các ẩn dụ tri nhận được khai thác, giải mã các vỉa tầng nghĩa dựa trên các tri thức nền, các mô hình văn hoá, đặc trưng tâm lý, tư duy tộc người, những ước định về văn hoá, tôn giáo, và cả những định chế về tư duy tâm linh con người, giúp chúng ta tìm hiểu được cặn kẽ những “cấu trúc bề sâu của nhận thức” qua ngôn từ, bên cạnh đó còn làm rõ sự tương đồng và khác biệt trong các cơ tầng văn hóa giữa những nền văn hóa khác nhau; Những “hiện thực trải nghiệm luận”, “hiện thực nghiệm thân luận” được dùng làm cơ sở để nhận thức các mô hình ẩn dụ ngày càng làm hé lộ cách con người tư duy về thế giới quanh mình dựa trên các cơ sở khoa học rất cụ thể và rõ ràng. Vì vậy, tiếp cận ngôn ngữ theo hướng ngôn ngữ học tri nhận đang là một hướng đi mới được nhiều nhà ngôn ngữ học hiện nay quan tâm ủng hộ.
  16. 2. Đường hướng nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận Ngôn ngữ học tri nhận đã bắt đầu được nghiên cứu từ những thập kỷ 80 của thế kỷ XX với những tên tuổi như G. Lakoff, M. Johnson, G. Fauconnier, Ch. Fillmore, R Jackendoff, R. Langacker, E. Rosch, L. Talmy, M. Turner, A. Wierzbicka, Yu. Stepanov, Yu. Apresian, W. Chafe, M. Minsky… Ngay từ cuối những năm 70 thế kỷ XX, với công trình trở thành kiệt tác trí tuệ Metaphor We live by năm 1980 viết chung với nhà triết học M. Johnson, Lakoff bắt đầu phát triển lý thuyết về ẩn dụ tri nhận. Lý thuyết này làm cho danh tiếng Lakoff vượt ra ngoài phạm vi thuần túy ngôn ngữ học, là một báo hiệu cho thấy có một sự thay đổi lớn trong nghiên cứu về ngôn ngữ trong mối liên hệ với các ngành khoa học khác. Trong những năm qua, lý thuyết của phép ẩn dụ đã phát triển và đào sâu đáng kể. Ban đầu, xu hướng của các nghiên cứu đều cho rằng phép ẩn dụ ý niệm chủ yếu được căn cứ vào kinh nghiệm thân thể. Trong những năm 80 thế kỷ XX, Lakoff và Kovecses đã cho thấy những ẩn dụ cảm xúc (như sự giận dữ của con người) xuất hiện trong ngôn ngữ và đều xuất phát từ cơ sở văn hóa, cơ sở sinh lý học của con người (Lakoff 1987; Kovecses năm 1986, 1990). Đến đầu những năm 90, một quan điểm hoàn toàn mới của phép ẩn dụ được phát hiện ra rằng ẩn dụ ý niệm không chỉ nằm ở lĩnh vực thời gian, mà còn ở trong các lĩnh vực như sự kiện, nhân quả, đạo đức4. Một tiến bộ quan trọng trong lý thuyết ẩn dụ đến năm 1997 là nghiên cứu ẩn dụ ý niệm gắn với các lý thuyết thần kinh, các nghiên cứu chỉ ra rằng kinh nghiệm hằng
  17. ngày, kinh nghiệm cảm giác của con người là cơ sở đưa ra các đánh giá chủ quan của nhận thức ngôn ngữ (Joseph Grady (1997), Christopher Johnson (1997). Tác giả Srinivas Narayanan (1997) còn sử dụng các kỹ thuật tính toán cho mô hình thần kinh, phát triển một lý thuyết mà trong đó, ẩn dụ ý niệm được lý giải thông qua bản đồ thần kinh với hệ kinh mạch kết nối hệ thống cảm giác với các khu vực cao hơn ở vỏ não. Năm 2002, Gilles Fauconnier và Mark Turner đã phát triển một lý thuyết về không gian pha trộn, là một kiểu không gian tinh thần tưởng tượng kết hợp với lý thuyết thần kinh của ngôn ngữ, trong đó, các ánh xạ ẩn dụ được thực hiện trên cơ sở vật lý giống như một bản đồ thần kinh, như thế, chúng tạo thành các cơ chế thần kinh tự nhiên trong các suy luận ẩn dụ5. Tiếp đó, cùng với một số nhà nghiên cứu khác, Lakoff đã phát triển tư tưởng về vai trò của ẩn dụ trong việc hình thành hệ thống ý niệm của con người và cấu trúc của ngôn ngữ tự nhiên. Tư tưởng này đã được Lakoff phát triển thành học thuyết “Trí tuệ nhập thân”, chủ trương nghiên cứu sự phụ thuộc của những năng lực tư duy của con người và những quan niệm về thế giới, kể cả những hệ thống triết học vào những đặc điểm cấu tạo của cơ thể và bộ não con người. Về các nghiên cứu liên quan đến ứng dụng của lý thuyết ẩn dụ: Kể từ lần đầu tiên phát hiện ra ẩn dụ ý niệm, các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học đa dạng như lý thuyết văn học, nghiên cứu pháp luật, ngôn ngữ học và triết học đã thực hiện một cách thú vị ứng dụng của lý thuyết này. Họ đã xác định được ẩn dụ ý niệm nằm ở trung tâm của pháp luật, thơ ca, chính trị, tâm lý học, vật lý, khoa học máy tính, toán học và triết học. Nghiên cứu của họ cho thấy cấu trúc ẩn dụ đã góp
  18. phần làm sáng tỏ cách con người suy nghĩ như thế nào trong một số lĩnh vực trí tuệ. Trong lĩnh vực văn học phân tích, More (1989), Lakoff và Turner đã chứng minh rằng phép ẩn dụ trong thơ ca hầu hết nằm ở các phần mở rộng và trong các trường hợp đặc biệt ổn định, ẩn dụ ý niệm thông thường được sử dụng trong tư tưởng và ngôn ngữ hằng ngày. Các sáng tạo ẩn dụ của nhà thơ không hoàn toàn nằm ở việc tạo ra tư tưởng mới của ẩn dụ, mà nằm trong cơ chế ánh xạ ẩn dụ. Lakoff và Turner (1987) cũng cho thấy, ẩn dụ ý niệm thông thường nằm ở trung tâm của các thể loại văn học, đặc biệt là tục ngữ (1996), Turner sau đó đã chứng minh ẩn dụ nằm ở việc xây dựng các truyện ngụ ngôn và các sản phẩm phổ biến khác của trí tưởng tượng văn học. Các cơ sở ẩn dụ về chiều kích đạo đức trong văn học trở nên rõ ràng từ các cuộc thảo luận về ẩn dụ và đạo đức của Johnson (1993), của Lakoff trong lĩnh vực chính trị và đạo đức (1996), và bởi Lakoff và Johnson trong Triết học(1999)6. Các ứng dụng quan trọng nhất của lý thuyết về ẩn dụ ý niệm là ở các lĩnh vực pháp luật, chính trị và các vấn đề xã hội. Nhà lý thuyết Pháp lý Steven (2001) đã viết nhiều bài báo tổng quan về pháp luật và trong một cuốn sách cũng đã bàn về vai trò trung tâm của phép ẩn dụ trong lý luận pháp luật. Ẩn dụ Pháp lý rất phổ biến trong những ẩn dụ về bất động sản, sự hiểu biết về sở hữu trí tuệ,… Ẩn dụ được xem là một công cụ pháp lý mạnh mẽ và có hiệu ứng rộng rãi trong xã hội. Triết học Lakoff và Johnson (1999) là một phân tích sâu về ẩn dụ cấu trúc được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế, chính trị. Lakoff (1996) phân tích thế giới quan chính trị của những người bảo thủ và cấp tiến ở Mỹ, xem xét các quan điểm về kiểm soát súng, phá thai, án tử hình,
  19. thuế, các chương trình xã hội, môi trường và nghệ thuật,… trong một khung tri nhận nhất định. Còn trong lĩnh vực tâm lý học, ẩn dụ đã chứng minh tầm quan trọng của mình đối với cả hai lĩnh vực nhận thức và tâm lý học. Nhận thức tâm lý bị chi phối bởi ý tưởng cũ mà khái niệm nằm ở các con chữ và nghĩa, nhưng các tài liệu về lý thuyết ẩn dụ cung cấp bằng chứng áp đảo chống lại quan điểm đó và mở ra một khả năng cho nhận thức tâm lý thú vị hơn nhiều, các nghiên cứu của Gibbs (1994), ẩn dụ cảm xúc của Lakoff (1987) hay ẩn dụ nghiệm thân của Kovecses (1990), nghiên cứu về tâm trí, bộ nhớ, và sự chú ý của Fernandez-Duque và Johnson (1999) đã chứng minh điều đó7. Như vậy, kể từ lần đầu tiên phát hiện ra ẩn dụ ý niệm, các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học đa dạng như lý thuyết văn học, nghiên cứu pháp luật, ngôn ngữ học và triết học đã thực hiện một cách thú vị ứng dụng của lý thuyết này. Họ đã xác định được ẩn dụ ý niệm nằm ở trung tâm của pháp luật, thơ ca, chính trị, tâm lý học, vật lý, khoa học máy tính, toán học và triết học. Nghiên cứu của họ cho thấy cấu trúc ẩn dụ đã góp phần làm sáng tỏ cách con người suy nghĩ như thế nào trong một số lĩnh vực trí tuệ. Như vậy, có thể thấy lý thuyết ẩn dụ ý niệm ngày càng được xây dựng tỉ mỉ và cụ thể, mở rộng không chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học mà còn giúp tìm hiểu các lĩnh vực nghiên cứu đa ngành khác. Ở trong nước, nghiên cứu được xem là sớm nhất về khuynh hướng tri nhận có thể kể đến Nguyễn Lai trong công trình Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt (Đại học Tổng hợp, H, 1990), tuy trong công trình này tác giả không dùng đến thuật ngữ “tri nhận” nhưng các nghiên cứu về quá trình phát triển ngữ nghĩa của các từ chỉ hướng ra vào, lên xuống, đến tới, lại qua, sang về hoàn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1