intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu chế độ quan lại triều Lê Sơ (1428-1527) và những giá trị áp dụng cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:140

16
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 cuốn sách "Chế độ quan lại triều Lê sơ (1428-1527) và những giá trị tham khảo cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay" trình bày các nội dung: Khái quát chung về chế độ quan lại thời phong kiến và cơ sở xây dựng chế độ quan lại triều Lê sơ; chế độ quan lại triều Lê sơ (1428-1527). Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu chế độ quan lại triều Lê Sơ (1428-1527) và những giá trị áp dụng cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay: Phần 1

  1. Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG ThS. HOÀNG NGỌC ĐIỆP BÙI BỘI THU Trình bày bìa: LÊ THỊ HÀ LAN Chế bản vi tính: LÂM THỊ HƯƠNG Đọc sách mẫu: NGỌC ĐIỆP VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/4-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5355-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-6099-4.
  2. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th­ viÖn Quèc gia ViÖt Nam NguyÔn ThÞ Thu Hoµ ChÕ ®é quan l¹i triÒu Lª s¬ (1428 - 1527) vµ nh÷ng gi¸ trÞ tham kh¶o cho c¶i c¸ch chÕ ®é c«ng vô, c«ng chøc ë ViÖt Nam hiÖn nay / NguyÔn ThÞ Thu Hoµ. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 260tr. ; 21cm ISBN 9786045754467 1. ChÕ ®é 2. TuyÓn chän 3. Quan l¹i 4. Nhµ Lª 5. 1428-1527 6. ViÖt Nam 352.609597 - dc23 CTM0348p-CIP
  3. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, có nhiều giai đoạn, dưới sự trị vì của các bậc “minh quân”, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, với các hoạt động hành chính luôn đạt hiệu quả cao. Thành quả đó có được là nhờ vào nhiều yếu tố, trong đó, phải kể đến vai trò của đội ngũ quan lại - bộ phận hữu cơ của hoạt động quản lý nhà nước. Nhiều triều đại trong giai đoạn thịnh trị đã ý thức được tầm quan trọng của đội ngũ quan lại, sử dụng đội ngũ đó như một công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý, đưa công tác quản lý nhà nước vào kỷ cương, nền nếp. Trong lịch sử Việt Nam, triều Lê sơ (1428-1527) là giai đoạn đạt được những thành tựu rực rỡ nhất trong xây dựng và phát triển đất nước - được xem là đỉnh cao của sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Để có được vị thế đó, triều Lê sơ đã tập trung xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh và thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, gắn việc xây dựng, củng cố thể chế chính trị theo tư tưởng Nho giáo với việc thực hiện chế độ quan lại như một nhiệm vụ trọng tâm. Nhiều chủ trương, biện pháp, thể lệ liên quan đến đào tạo, tuyển chọn, sử dụng, thăng giáng, thưởng phạt, lương bổng... của quan lại đã được các vị vua triều Lê sơ ban hành nhằm đưa hoạt động quản lý 5
  4. đội ngũ quan lại đi vào quy củ, nền nếp và mang lại những kết quả hữu hiệu. Chế độ quan lại triều Lê sơ thật sự đã góp phần tạo nên một trật tự điều hành quy củ, một hệ thống quan lại vững chắc, trở thành “rường cột” của quốc gia, trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho các triều đại sau học theo và làm theo. Những giá trị đó luôn là cơ sở, nền tảng, là bài học quý giá để thế hệ ngày nay rút kinh nghiệm, kế thừa và phát triển. Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về vấn đề nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Chế độ quan lại triều Lê sơ (1428- 1527) và những giá trị tham khảo cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay của TS. Nguyễn Thị Thu Hòa. Cuốn sách hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quan lại và chế độ quan lại thời phong kiến ở Việt Nam; luận giải cơ sở hình thành chế độ quan lại triều Lê sơ; tìm hiểu về chế độ tuyển chọn quan lại; tìm hiểu việc sử dụng quan lại (phân công, bố trí công việc, thăng - giáng, khảo thí - khảo khóa, kiểm tra, giám sát, văn hóa hành chính, đạo đức công vụ của quan lại, việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với quan lại)... triều Lê sơ; nhìn nhận, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chế độ quan lại triều Lê sơ trong mối liên hệ chặt chẽ với chế độ công vụ, công chức ngày nay; luận giải và đúc rút những giá trị tham khảo quý báu đối với việc hoàn thiện thể chế quản lý, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cấp bách của cải cách chế độ công vụ, công chức nói riêng, công cuộc cải cách hành chính nói chung. 6
  5. Đây là vấn đề chưa có nhiều công trình nghiên cứu, tư liệu chưa được đầy đủ, nên trong quá trình biên soạn và biên tập khó tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót. Nhà xuất bản và tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Tháng 02 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 7
  6. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI THỜI PHONG KIẾN VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUAN LẠI TRIỀU LÊ SƠ I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN LẠI, CHẾ ĐỘ QUAN LẠI THỜI PHONG KIẾN 1. Khái niệm quan lại Cho đến nay khái niệm “quan lại” vẫn còn có nhiều cách giải thích khác nhau trong giới nghiên cứu. Ở nước ngoài, nguồn gốc của từ quan lại là từ “mandarin” trong tiếng Pháp, từ này vay mượn từ từ “mandarim” của người Bồ Đào Nha xuất hiện từ năm 1581. Theo tiếng Bồ Đào Nha, “quan” dùng để chỉ các viên chức đứng đầu các cấp hành chính; các cơ quan chức năng trong bộ máy chính quyền ở Malaysia, Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1514. Theo Từ điển lịch sử của ngôn ngữ Pháp, từ mandarim là biến dạng của từ mandar với nghĩa “ra lệnh, tống đạt”, gốc chữ Phạn mantrin qua trung gian tiếng Mã Lai mantari có nghĩa “cố vấn Nhà nước”. Tiếng Phạn xuất phát từ chữ 9
  7. mantra “lời khuyên”, có từ gốc là man: “suy nghĩ”. Gốc này gắn với gốc tiếng Ấn-Âu chỉ sự vận động của tư tưởng, biểu hiện trong tiếng Latinh là mens, từ đó mà có chữ mental. Xuất hiện trong tiếng Pháp với nghĩa “cố vấn của vua, của quan thượng thư ở châu Á”, từ đó có ý nghĩa hiện tại là “viên chức cao cấp” được dùng ở Trung Quốc, Đông Dương hay Triều Tiên từ năm 1604. Còn chữ mandarinat (chế độ quan trường), biến thể của từ trên, ra đời năm 1700, mang hai ý nghĩa: chức trách, chức vụ của người làm quan; bộ máy quan trường1. Như vậy, chỉ những người làm quan chứ không phải tất cả những người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến đều gọi là quan lại. Ở Việt Nam, theo Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế) thì “quan” là những người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân từ cấp trung ương đến cấp địa phương (trấn - tỉnh - phủ - huyện), có phẩm hàm, tước vị, chức sắc, được tuyển bổ chủ yếu bằng đường khoa cử hoặc bảo cử2. Lại (còn gọi là lại viên, lại sử, lại điển, liêu thuộc, thuộc lại, thư lại, thông lại) là viên chức làm việc trong các cơ quan (nha môn) ở triều đình hoặc các cấp trấn (nếu ở thời Nguyễn là tỉnh), phủ, huyện; có nhiệm vụ thảo giấy tờ, công văn. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc3. ____________ 1. Rey, A (ed): Dictionnaire historique de la langue françcaise, Dictionnaire Le Robert, Vo.2, Paris, 1992, p.1178. 2, 3. Xem Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (mục quan chế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr.175, 130. 10
  8. Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “quan lại” là do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp thành. “Quan” là viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân1. “Lại” gọi chung là viên chức sơ cấp chuyên làm việc bàn giấy trong bộ máy nhà nước phong kiến2. Cũng trong Từ điển tiếng Việt còn có khái niệm “quan chức” - là người có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước của chế độ phong kiến hoặc tư bản. Theo Từ điển Hán Việt, “quan lại” là chỉ những kẻ cai trị trong nhà nước phong kiến nhưng vẫn có sự phân biệt chủ yếu trong bộ máy hành chính giữa “quan” (viên chức chịu trách nhiệm) với “lại” (kẻ thừa hành). Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa “quan lại” là những người giữ các chức vụ từ cấp huyện trở lên trong bộ máy nhà nước phong kiến và thuộc địa. Những người điều hành gọi chung là quan; những người thừa hành gọi chung là lại. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (1777) hay Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí (1821) định nghĩa “quan” là chỉ những người có chức có quyền làm việc trong nhà nước phong kiến, là rường cột thực sự của Nhà nước. Theo Trương Hữu Quýnh, khái niệm quan lại là do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp thành. “Quan” thời quân chủ phong kiến là khái niệm dùng để chỉ những người giữ ____________ 1, 2. Xem Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2000, tr.799, 689. 11
  9. một chức vụ ít nhiều quan trọng của nhà nước, có trách nhiệm quản lý một địa phương hay một hoạt động nhất định, lớn hay nhỏ. Một người làm Tể tướng cũng gọi là quan và một thầy giáo trường công cũng gọi là quan. “Lại” là khái niệm dùng để chỉ các nhân viên phục dịch trong các cơ quan nhà nước, có thể là thư ký, kế toán, giữ sổ sách, thu thuế, chạy giấy, ghi chép...1. GS.TSKH. Vũ Minh Giang trong cuốn Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước đổi mới gọi quan lại là quan liêu. “Quan” có nghĩa gốc là một hệ thống cai trị hoàn bị bao gồm các chức vụ và các cơ quan có quyền ra quyết định; “liêu” là bộ phận tham mưu, giúp việc chuyên trách2. Những khảo sát trên đây cho thấy quan niệm chung của nhiều người đều cho rằng quan là người giữ cương vị chỉ huy, điều khiển công việc, trị dân; còn lại là người thừa hành công việc, giúp quan. Quan do vua tuyển chọn, chỉ định, bổ dụng. Quan là người đứng đầu trong nha môn (hay còn gọi là cơ quan nhà nước phong kiến), là người quản lý, lãnh đạo. Lại là viên chức thừa hành, là nhân viên dưới quyền của quan. Lại do triều đình hoặc do quan lựa chọn, mang tính ổn định để phục vụ cho công việc vận hành bộ máy hành chính nhà nước thời phong kiến (sau ____________ 1. Xem Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.17. 2. Vũ Minh Giang: Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.68. 12
  10. đây gọi chung là quan lại). Việc phân biệt quan hay lại rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc thiết lập cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy; giới hạn quyền và nghĩa vụ cũng như phạm vi trách nhiệm của các đối tượng này. 2. Khái niệm chế độ quan lại Chế độ quan lại hay còn gọi là quan chế là một trong những nội dung quan trọng của các triều đại quân chủ trong việc kiến tạo bộ máy nhà nước, xây dựng đường lối, chủ trương, thực hiện các chính sách của vua và triều đình. Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế) cho rằng: “quan chế là những quy định về cách tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của hệ thống các cơ quan và quan chức từ trung ương đến địa phương của triều đình phong kiến nói chung”1. Cuốn sách Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử của Phan Hữu Dật thì tiếp cận chế độ quan lại dưới góc độ phương thức dùng người. Tác giả cho rằng: “chúng tôi không dùng khái niệm chính sách dùng người vì cho rằng đó là khái niệm tương đối ổn định và rất có thể nó phải được quy định bằng văn bản có tính chất nhà nước, ít biến động trong thời gian và không gian, trong khi lịch sử dân tộc Việt Nam (...) lại diễn biến khá phức tạp”2. ____________ 1. Xem Phạm Văn Hảo: Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế), Sđd, tr.175. 2. Phan Hữu Dật: Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.57. 13
  11. Theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, “quan chế là chế độ tổ chức quan lại thời phong kiến”1. Như vậy, chế độ quan lại không chỉ là những quy định pháp lý riêng lẻ đối với quan lại mà còn bao gồm việc xây dựng, vận hành những quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng, quản lý, kiểm tra, giám sát, sát hạch, chế độ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức, chế độ đãi ngộ, xử phạt và khen thưởng đội ngũ quan lại như thế nào. Cụ thể hơn, chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, bố trí công việc, kiểm tra, giám sát, sát hạch, chế độ trách nhiệm công vụ, đạo đức công vụ, chế độ đãi ngộ, xử phạt và khen thưởng đội ngũ quan lại...). Chế độ quan lại phản ánh trình độ tổ chức, tầm nhìn, sự sáng tạo, canh tân hay bảo thủ, trì trệ của một chế độ với thời đại mà yêu cầu lịch sử, đất nước giai đoạn đương thời đặt ra. 3. Phân loại quan lại Việc phân loại quan lại không được quy định trong bất kỳ văn bản chính thức nào dưới các triều đại phong kiến ở Việt Nam, nhưng thông qua các sử liệu và cơ cấu tổ chức bộ máy của các triều đại phong kiến qua các thời kỳ, có thể phân loại quan lại như sau: ____________ 1. Phan Ngọc Liên: Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.342. 14
  12. Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có thể chia quan lại thành quan lại ở trung ương và quan lại ở địa phương (quan ngoại nhiệm). Quan lại ở trung ương làm việc trong các cơ quan chức năng của triều đình như các bộ, viện, tự... Quan lại ở địa phương là những người làm việc trong các nha môn trong tổ chức chính quyền ở địa phương (cấp trấn - tỉnh - phủ - huyện - châu), hay những nơi được vua biệt phái đến (trung du, miền núi, dinh - trấn không ổn định về chính trị)... Thông thường, những người đỗ đạt cao trong các kỳ thi Hội, thi Đình hoặc các kỳ thi sát hạch khác sẽ được bổ nhiệm để làm quan ở trung ương. Những người đỗ tam trường nhiều khoa kỳ thi Hội sẽ được bổ nhiệm làm quan lại ở địa phương. Quan lại ở trung ương có trách nhiệm quản lý các mặt của đời sống xã hội trong toàn bộ lãnh thổ quốc gia và quản lý các cấp chính quyền ở địa phương. Quan lại ở địa phương chỉ tham gia quản lý nhà nước trong phạm vi địa bàn lãnh thổ của địa phương mình. Thứ hai, căn cứ vào chuyên môn có thể chia quan lại thành quan văn và quan võ. Quan văn được tuyển chọn chủ yếu từ chế độ đào tạo, thi cử, tuyển dụng (cách tuyển dụng quan lại chủ yếu và phổ biến khi có chế độ khoa cử từ năm 1075 đến năm 1919 thì chấm dứt). Quan võ được tuyển chọn chủ yếu từ các võ quan xông pha, chinh chiến trận mạc, có năng lực về quân sự, quốc phòng. Việc phân loại quan văn và quan võ được thể hiện rõ nhất thông qua định chế quan đại thần - một nhóm các chức quan cao cấp nhất không thể thiếu trong các triều đình phong kiến ở 15
  13. Việt Nam. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn, mỗi triều đại mà quan võ hay quan văn được coi trọng hơn. Thường thì cứ vào đầu mỗi triều đại, khi đất nước vừa xảy ra nguy biến, chiến tranh thì quan võ được trọng dụng hơn với trọng trách bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững sự tồn tại của chế độ; khi đất nước thanh bình là lúc cần các quan văn hiến kế thực thi các chính sách về kinh tế - văn hóa - giáo dục để đất nước phát triển phồn thịnh hơn. Thứ ba, căn cứ vào chức năng có thể chia quan lại thành quan hành pháp và quan tư pháp. Trong nhà nước phong kiến với chính thể quân chủ, về nguyên tắc nhà vua thâu tóm cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; trong đó, coi trọng nhất là quyền lập pháp. Vì lẽ đó, quyền lập pháp sẽ thuộc về vua. Còn quyền hành pháp và tư pháp - với tính đa dạng và phức tạp của nó nên nhà vua không thể trực tiếp thực hiện mà giao cho đội ngũ quan lại thi hành. Quan hành pháp có nghĩa vụ triển khai, thi hành các đạo luật của nhà vua, giữ vai trò quản lý đất nước trên các lĩnh vực bằng các chủ trương, quyết sách của nhà vua. Quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và kiểm soát các hoạt động xét xử của các nha môn. Việc phân loại này sẽ giúp cho việc đào tạo, tuyển chọn quan lại theo hướng chuyên môn hóa và đào tạo sát với lĩnh vực hoạt động quản lý của quan lại. Thứ tư, căn cứ vào địa vị, vai trò của quan lại trong bộ máy sẽ có hai loại quan và lại. Về nguyên tắc, trong nhà nước phong kiến, mọi quyền hành thuộc về vua và người 16
  14. trực tiếp xử lý công việc là đội ngũ quan lại ở các cơ quan chức năng. Quan chịu trách nhiệm trước nhà vua về việc điều hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nha môn mình, còn lại chịu trách nhiệm trước quan và chịu sự phân công nhiệm vụ của quan. Quan và lại đều do triều đình trực tiếp bổ nhiệm hoặc phê chuẩn, sau khi trải qua các thủ tục tuyển chọn do bộ Lại phụ trách. Tóm lại, có nhiều cách phân loại quan lại trong thời kỳ phong kiến. Việc phân loại quan lại như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Ví dụ, 1 viên quan, thời chiến được trọng dụng với vai trò quan võ, hết chiến tranh được sử dụng với tư cách quan văn; hoặc có viên quan ở bộ Hình lại thực hiện cả hai chức năng quản lý nhà nước là hành pháp và tư pháp (thi hành án, kiểm soát hoạt động xét xử). 4. Vị trí của quan lại trong xã hội phong kiến Trong trật tự đẳng cấp của xã hội phong kiến: Sự phân tầng vua - quan - dân trở thành một trục quan hệ xã hội chủ đạo; trong đó, vua là người có toàn quyền cai trị thiên hạ, quan được trao sứ mệnh “chăn dắt” dân, là “cha mẹ dân” (dân chi phụ mẫu); còn dân (tứ dân: sĩ - nông - công - thương) là tầng lớp đông đảo trong xã hội, có nghĩa vụ phải đóng góp cho nhà nước để nuôi đội ngũ quan lại. Quan niệm tứ dân là quan niệm thứ bậc các giai cấp chính. Sĩ được xếp là tầng lớp đầu tiên - hàng thứ nhất, trên tất cả mọi tầng lớp khác, được xã hội trọng vọng. Sĩ là tầng lớp trí thức, những người có học, có hiểu biết về chữ nghĩa (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò). Sự trọng 17
  15. dụng nhân tài theo cách kén chọn qua khoa cử đã đưa nho sĩ lên vị trí đầu tiên trong 4 tầng lớp xã hội và đưa quyền uy của người thầy lên hàng thứ hai trong ba quyền lớn nhất (quân, sư, phụ). Công thức Nho học + Thi cử = Quan trường trở thành kim chỉ nam cho những đấng tu mi nam tử rèn đức, luyện trí. Hướng danh vọng của họ là cố gắng phấn đấu thi đỗ để được triều đình tuyển chọn và bổ nhiệm vào một chức quan nhất định. Khoa cử là con đường trực tiếp và công bằng giúp người tài có thể thay đổi địa vị từ giai cấp bị trị vươn lên giai cấp thống trị. Các nhà khoa bảng là tầng lớp ưu tú có uy tín rất lớn và có ảnh hưởng đặc biệt đối với quần chúng, nắm giữ vai trò là tầng lớp trung gian giữa nhà vua và nhân dân. Người xưa còn quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ”. Ngoài việc có đời sống khá sung túc họ còn được xã hội trọng vọng và trở thành niềm tự hào của cả dòng họ, cả làng, cả tổng... Hơn nữa, được trở thành quan lại, chức dịch, họ hàng và gia đình sẽ tránh được tình trạng o ép, áp bức bởi nạn cường hào ở địa phương. Vì vậy, bất cứ người nào cũng ước muốn tìm cho mình một vị trí nào đó ở chốn quan trường, được gia nhập vào đội ngũ quan lại để trở thành người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Trong bộ máy nhà nước phong kiến, với cách nhìn của Nho giáo, giá trị của mỗi con người trong xã hội được đánh giá trước hết là vị trí của người ấy trong bộ máy quyền lực nhà nước, cụ thể là giữ chức vụ gì, có phẩm trật và tước gì. Quan lại luôn được coi là rường cột vững chắc của quốc gia. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2