
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai nghén là giai đoạn sinh lý bình thường của người phụ nữ trong lứa
tuổi sinh đẻ. Khi có thai cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi về giải phẫu,
sinh lý và sinh hóa để đáp ứng với các tác động do thai và phần phụ của thai
gây ra. Hệ thống tuần hoàn máu nói chung và hệ thống đông cầm máu nói
riêng cũng có những thay đổi để đảm bảo điều hòa và phát triển của người mẹ
và thai nhi. Tuy những biến đổi này có tính chất sinh lý song nó cũng có thể
dẫn đến các biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng đến sinh mạng của phụ nữ
mang thai cũng như thai nhi [1]. Vì vậy việc tìm hiểu đầy đủ những thay đổi
của cơ thể người mẹ trong quá trình mang thai, trong đó có các đặc điểm của
hệ thống huyết học, sẽ giúp cho quá trình theo dõi thai nghén, xử trí bất
thường trong thời kỳ mang thai được kịp thời, chính xác, tạo điều kiện cho
thai nhi phát triển khỏe mạnh, an toàn.
Trong sản khoa, cầm máu tốt đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự
thành công của một cuộc sinh nở, giúp giảm thiểu tối đa các tai biến trong sản
khoa đặc biệt là băng huyết sau khi sinh. Chảy máu sau đẻ là một biến chứng
thường gặp và rất nguy hiểm khi chuyển dạ, trong khi sinh và sau sinh, là
nguyên nhân chính gây tử vong cho phụ nữ mang thai. Chảy máu sau đẻ được
định nghĩa là chảy máu từ đường âm đạo với thể tích từ 500ml trở lên trong
24 giờ đầu tính từ lúc sinh con [2]. Biến chứng này chiếm tới 30% trong số
các nguyên nhân gây tử vong cho phụ nữ mang thai ở châu Phi và châu Á [3].
Tỷ lệ tử vong do xuất huyết sau sinh của phụ nữ mang thai chiếm khoảng
3,4% ở Anh trong giai đoạn 2006-2008 [4] và 11,4% ở Mỹ trong giai đoạn
2006-2010 [5]. Ở Việt Nam, Thái Danh Tuyên khi nghiên cứu các chỉ số đông