CHÀO MỪNG KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/1956 - 01/04/2014<br />
<br />
<br />
Vậy giới hạn ta chọn để tránh vùng cộng hưởng là tàu có vận tốc và góc mạn sóng nằm<br />
ngoài giới hạn Vmin và Vmax .<br />
Trong ví dụ như hình, ta có các thông số đầu vào:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Mô hình chương trình tính toán<br />
+ Hướng tàu HT = 300;<br />
+ Hướng sóng HS = 900;<br />
+ Vận tốc tàu Vt = 7 knots;<br />
+ Chiều cao thế vững của tàu H = 2.0m;<br />
+ Chiều rộng tàu B = 15m;<br />
+ Hệ số lắc của tàu f = 6.0.<br />
Từ đó, thông qua các hệ công thức được lập trình trên phân mềm tin học Visual Basic, chương<br />
trình bảng tính đã thể hiện cho ta biết được khoảng cộng hưởng cũng như đưa ra giới hạn hướng<br />
đi an toàn và tốc độ an toàn là Vmin = 4 knots và Vmax = 6,5 knots.<br />
3. Kết luận<br />
Như vậy với chương trình bảng tính, người sỹ quan hàng hải có thể lựa chọn được một<br />
hướng đi và tốc độ an toàn khi tàu hành trình trong điều kiện sóng gió.<br />
Bên cạnh đó, chương trình bảng tính đã hạn chế được những nhược điểm mà các bảng<br />
tính, các công thức thực nghiệm trước đây thường dùng. Đó là đã đưa ra một kết quả nhanh hơn,<br />
chính xác hơn. Đồng thời khi máy tính được kết nối với các thiết bị hàng hải thì kết quả sẽ luôn tự<br />
động cập nhật, giúp cho người sỹ quan hàng hải ít kinh nghiệm đi biển cũng có thể theo dõi<br />
thường xuyên và liên tục tình trạng của tàu, tránh được hiện tượng cộng hưởng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] PGS.TS. Nguyễn Đức Ân (2005), Lý thuyết tàu thủy I, II, NXB Giao thông Vận tải Hà Nội.<br />
[2] TS.TTr. Nguyễn Viết Thành (2007), Điều động tàu, NXB Khoa học Kỹ thuật Hà Nội.<br />
[3] Tiếu Văn Kinh (1992), Hướng dẫn nghiệp vụ hàng hải - Tập 1, NXB Giao thông Vận tải.<br />
[4] Phòng Bảo đảm Hàng hải, Bộ tư lệnh Hải Quân nhân dân Việt Nam (1983), Sổ tay Điều khiển tàu.<br />
<br />
Người phản biện: TS. Trần Văn Lượng<br />
<br />
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN KÍCH THƯỚC<br />
LUỒNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NGƯỜI ĐIỀU ĐỘNG TÀU<br />
RESEARCH AND ESTIMATION OF DESIGN GUIDE FOR CHANNELS AND THE<br />
EFFECT OF MANEUVERING HUMAN FACTOR<br />
ThS. NGUYỄN XUÂN THỊNH<br />
Khoa Công trình, Trường ĐHHH Việt Nam<br />
Tóm tắt<br />
Các tuyến luồng hang hải Việt Nam là nhân tố cần thiết trong việc định hướng phát triển<br />
hệ thống Cảng biển Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế biển. Và mỗi tuyến luồng<br />
đều mang những đặc điểm địa hình, địa chất riêng biệt . Do đó việc tính toán thiết kế các<br />
tuyến luồng ngoài các lý thuyết tính toán thì yếu tố con người trực tiếp điều động phương<br />
<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 38 – 04/2014 71<br />
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/1956 - 01/04/2014<br />
<br />
<br />
tiện hang hải cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính an toàn trong<br />
hàng hải để đảm bảo hiệu suất khai thác hàng hải sao cho tốt nhất. Trong bài báo này<br />
tác giả chỉ đề cập đến các lý thuyết tính toán thiết kế kênh biển và đề suất nghiên cứu<br />
ảnh hưởng của người điều động tầu trên luồng hành hải phục vụ thiết kế xây dựng giao<br />
thông vận tải đường thủy.<br />
Abstract<br />
Vietnam channels are the essential factors of development orientation for Vietnam port<br />
system in improving sea economy, and each channel has a separate terrain<br />
characteristic. Thus, besides the design guide for channels, the ship maneuvering human<br />
factor plays an important role in enhancing navigation safety. As a result, this assists the<br />
productiveness of maritime transportation operation superior. The purpose of this article<br />
givens a brief about a guide for channels and study promotion of the effect of ship<br />
maneuvering human factor for the construction design of water way transportation.<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Việc tìm hiểu khả năng đi biển của các phương tiện hành hải là vô cùng cần thiết và quan<br />
trọng, nó có ý nghĩa quyết định tính an toàn và tính kinh tế trong công tác, không những thế nó còn<br />
có ý nghĩa làm giải phóng sức lao động của con người bằng phương pháp tự động hoá và cơ giới<br />
hoá. Để đảm bảo an toàn cho tàu khi đi vào luồng, có rất nhiều các tiêu chuẩn lý thuyết tính toán<br />
thiết kế luồng như là tiêu chuẩn thiế kế kênh biển 1976, tiêu chuẩn PIANC – IAPH, Approach<br />
Channels để phục vụ cho việc thiết kế xây dựng hệ thống luồng giao thông hàng hải sao cho phù<br />
hợp nhất. Do vậy trong bài báo này tác giả chỉ đề cập đến các tiêu chuẩn áp dụng thiết kế luồng<br />
tàu và đề suất nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng của người điều khiển phục vụ công tác thiết kế xây<br />
dựng giao thông đường thủy.<br />
2. Các tiêu chuẩn tính toán thiết kế luồng<br />
2.1 Quy trình thiết kế kênh biển 1976 [1]<br />
Sau khi dựa vào các yếu tố khí tượng thủy hải văn, lưu lượng tàu, các chỉ tiêu kinh tế, lựa<br />
chọn tàu tính toán, tốc độ tàu tính toán, chọn vị trí đổ đất. Các thông số cơ bản tính toán thiết<br />
tuyến luồng như sau:<br />
Đối với kênh chạy tàu một chiều thì chiều rộng chạy tàu BC tính bằng m xác định theo công<br />
thức:<br />
BC Bhd 2.C1 B<br />
(1)<br />
Trong đó:<br />
Bhd: Chiều rộng dải hoạt động của tàu ở cao độ chiều sâu chạy tàu.<br />
C1: Dự phòng chiều rộng giữa dải hoạt động của tàu và mái dốc kênh.<br />
B: Dự phòng chiều rộng cho sa bồi trên kênh.<br />
Chiều rộng dải hoạt động đối với tàu tính toán. Tính bằng m, xác định theo công thức:<br />
Bhd L. sin1 2 B. cos1 2 t. sin .Vmax<br />
(2)<br />
<br />
Trong đó trị số<br />
t. sin <br />
(t là thời gian tàu chệch hướng luồng,<br />
<br />
là góc lệch)<br />
Chiều sâu chạy tàu thực chất và chiều sâu thiết kế H0 của kênh tính bằng mét, xác định<br />
theo các công thức:<br />
3<br />
HC T zi H<br />
i 0 (3)<br />
H 0 H C z4<br />
(4)<br />
Trong đó:<br />
T: Mớn nước của tàu(m).<br />
3<br />
<br />
z<br />
i 0<br />
i<br />
: Tổng dự phòng chiều sâu chạy tàu (m).<br />
<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 38 – 04/2014 72<br />
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/1956 - 01/04/2014<br />
<br />
<br />
H: Trị số chuyển mực nước tính toán về số không độ sâu (với dấu trừ nếu mực nước tính<br />
toán cao hơn và với dấu cộng nếu mực nước tính toán thấp hơn số không độ sâu).<br />
z4: Dự phòng chiều sâu cho sa bồi (m).<br />
Các kích thước cơ bản của luồng tàu được tính toán trên cơ sở các kích thước cơ bản của<br />
tàu tính toán cộng thêm các dự trữ an toàn cho chạy tàu; bao gồm: dự trữ an toàn do sóng, gió và<br />
dòng chảy, dự trữ về điều kiện chạy tàu (vận tốc, hỗ chợ hàng hải, hình dạng luồng), mức độ nguy<br />
hiểm của hàng hóa... Xác định các dự trữ này là nội dung chính của các hướng dẫn thiết kế hiện<br />
hành. Ở các nước trên thế giới phương pháp tất định chỉ được áp dụng trong giai đoạn thiết kế sơ<br />
bộ. Tuy nhiên, do điều kiện về kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật, phương pháp này vẫn đang<br />
được sử dụng trong giai đoạn thiết kế chi tiết ở Việt Nam.<br />
2.2 Quy trình thiết kế kênh biển theo PIANC – IAPH [2]<br />
Đối với luồng 1 chiều, chiều rộng đáy luồng W được tính như sau:<br />
n<br />
W WBM Wi WBr WBg<br />
i 1 (5)<br />
Và đối với luồng 2 chiều:<br />
n<br />
W 2W BM 2 Wi WBr W Bg W P<br />
i 1 (6)<br />
Trong đó:<br />
WBM: Chiều rộng cần thiết để điều động tàu, là bội số của chiều rộng B của tàu.<br />
Wi: Các chiều rộng dự phòng.<br />
WBr, WBg: Dự phòng chiều rộng bên phải và bên trái luồng.<br />
WP: Khoảng cách vượt nhau giữa các tàu.<br />
Lực cản động học tới chuyển động của tàu trong điều kiện nước cạn được thể hiện thông<br />
qua hệ số Froud là một hệ số không thứ nguyên thể hiện quan hệ giữa chiều sâu luồng và vận tốc<br />
tàu.<br />
V<br />
Fnh = (7)<br />
g.h<br />
V: Vận tốc tàu (m/s).<br />
h: Độ sâu nước mà tại đó nước không bị khuấy động do chuyển động của tàu (m).<br />
g: Gia tốc trọng trường (m/s2).<br />
Squat là hiện tượng tàu chìm mớn nước khi chuyển động và do đó làm giảm độ lớn chân<br />
hoa tiêu.<br />
Fnh2<br />
Squat(m) 2.4 2 <br />
L pp 1 F 2<br />
nh<br />
(8)<br />
Trong đó:<br />
: Lượng dãn nước của tàu = CB.Lpp.B.T<br />
Lpp: Chiều dài tàu trên đường mớn nước (m).<br />
T: Mớn nước tàu (m).<br />
CB: Hệ số béo.<br />
Fnh : Hệ số Froude Độ sâu<br />
Theo phương pháp này, các thông số thiết kế của luồng được xác định bằng các công thức<br />
thực nghiệm, ngoài ra chiều rộng tàu dựa vào các yếu tố dự phòng theo từng ảnh hưởng khác<br />
nhau như dòng chảy ngang, mức độ tin cậy báo hiệu..vv<br />
<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 38 – 04/2014 73<br />
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP TRƯỜNG 01/04/1956 - 01/04/2014<br />
<br />
<br />
2.3 Ảnh hưởng của người điều khiển tàu [4]<br />
Chuyển động cơ sở của tàu:<br />
Tàu thủy là một công trình kỹ thuật hết sức đặc biệt là phương tiện hoạt động trên môi<br />
trường nước. có thể chuyển dịch trên mặt nước, hay ngầm dưới nước,,nó có hai dạng đặc điểm<br />
chính là nổi được trên mặt nước (hoặc ngầm dưới nước)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Tàu dưới tác động của gió Hình 1. Khả năng điều động tàu<br />
<br />
Tàu có khả năng điều động theo đúng<br />
với lộ trình ứng với tác động của sóng gió dòng chảy tại thời điểm mà nó hành trình (Hình vẽ 1)<br />
Có thể thẩy trên hình vẽ 1 thì khả năng điều động tàu gây lên những ảnh hưởng đáng kể lên<br />
bề rộng của tuyến luồng<br />
Ảnh hưởng của con người: Trong mọi trường hợp điều động tàu đi qua các kênh vượt<br />
qua các loại điều kiện địa hình, thời tiết khác nhau ví du như trong hình vẽ 2 ta thấy tàu được<br />
người điều khiển lái tàu trước ảnh hưởng của gió mạn từ bên trái để con tàu đi đúng hướng.<br />
Kinh nghiệm thực tế giúp người điều động tàu biết được cần điều khiển tàu hành hải sao<br />
cho phù hợp nhất với từng điều kiện địa hình, điều kiện khí tượng sóng gió dòng chảy trên từng<br />
đoạn luồng cụ thể để đưa ra những quyết định điều động an toàn [2].<br />
Ở đây chính người điều khiển dẫn đến những ảnh hưởng lớn tới bề rộng và chiều sâu của<br />
tuyến luồng hàng hải đi qua.<br />
Kỹ thuật mô phỏng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Màn hình chương trình mô phỏng PORTSIM<br />
<br />
Chương trình mô phỏng giúp cho người điều động tàu dự đoán trước được các tình huống<br />
có thể xảy ra trong quá trình điều động, và đặc biệt là giúp cho người thiết kế tuyến luồng đưa<br />
thêm vào các thông số tính toán đầy đủ hơn với từng đoạn luồng ứng với mỗi điều kiện địa hình,<br />
khí tượng tại mỗi khu vực khác nhau [2].<br />
<br />
<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 38 – 04/2014 74<br />