intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu phương pháp nhân giống vô tính làm cơ sở cho công tác bảo tồn, khai thác phát triển nguồn gen cây râu mèo (Orthosiphon stamineus Benth) tại tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: ViApollo11 ViApollo11 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

73
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cây Râu mèo có tên khoa học là Orthosiphon stamineus Benth, còn có tên gọi là Bông Bạc, thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Trong chiến lược phát triển ngành dược của Bộ Y tế, cây Râu mèo được xếp vào loại cây hiếm cần được bảo vệ và phát triển nguồn gen. Cây Râu mèo có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, các nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt chất sinensetin ở loài cây này có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu phương pháp nhân giống vô tính làm cơ sở cho công tác bảo tồn, khai thác phát triển nguồn gen cây râu mèo (Orthosiphon stamineus Benth) tại tỉnh Thái Nguyên

Phạm Thị Thúy và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 180(04): 159 - 164<br /> <br /> NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH LÀM CƠ SỞ<br /> CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN, KHAI THÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN GEN<br /> CÂY RÂU MÈO (Orthosiphon stamineus Benth) TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN<br /> Phạm Thị Thúy1, Vũ Văn Thông2*, Vũ Phạm Thảo Vy3<br /> 1<br /> <br /> Đại học Thái Nguyên, 2Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên,<br /> 3<br /> Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Cây Râu mèo có tên khoa học là Orthosiphon stamineus Benth, còn có tên gọi là Bông Bạc, thuộc<br /> họ Hoa môi (Lamiaceae). Trong chiến lược phát triển ngành dược của Bộ Y tế, cây Râu mèo được<br /> xếp vào loại cây hiếm cần được bảo vệ và phát triển nguồn gen. Cây Râu mèo có tác dụng thanh<br /> nhiệt, lợi tiểu, các nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt chất sinensetin ở loài cây này có tiềm năng xuất<br /> khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn dược liệu này ngày càng trở lên cạn kiệt, do khai thác quá<br /> mức trong tự nhiên, trong khi việc gây trồng chưa được quan tâm đúng mức. Những nghiên cứu về<br /> cây Râu mèo mới tập trung vào điều tra, mô tả đặc tính sinh học, phân tích thành phần hóa học,<br /> chưa có những nghiên cứu về nhân giống cây Râu mèo cũng như kỹ thuật gây trồng. Nghiên cứu<br /> này đã tiến hành thử nghiệm kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp giâm hom, kết quả cho thấy:<br /> Sử dụng chất kích thích sinh trưởng IBA, IAA và NAA với nồng độ 500, 1000 và 1500 ppm tỷ lệ<br /> ra rễ bình quân tương ứng là 98,52%; 98,52%; 98,89% và công thức đối chứng là 94,44%. Các<br /> loại chất kích thích sinh trưởng IBA, IAA và NAA không ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom cây<br /> Râu mèo. Tuổi hom (vị trí lấy hom) hầu như không ảnh hưởng đến tỷ lệ ra bật mầm, tỷ lệ ra rễ và<br /> tỷ lệ sống của hom cây Râu mèo. Thời vụ có ảnh hưởng đến số lượng rễ/hom cây Râu mèo trong<br /> điều kiện cùng sử dụng cùng một loại chất kích thích sinh trưởng và cùng nồng độ.<br /> Từ khóa: Râu mèo, dược liệu, nhân giống, bông bạc, giâm hom, thời vụ, bật mầm.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Chữa bệnh bằng thảo dược đang dần trở thành<br /> xu hướng của y học thế giới. Trong khoảng<br /> 30 năm trở lại đây, Viện Ung thư Hoa Kỳ<br /> (CNI) đã điều tra nghiên cứu sàng lọc hơn<br /> 40.000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm<br /> cây thuốc có khả năng chữa trị bệnh ung thư,<br /> 25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế phẩm dược<br /> tính mạnh nguồn gốc từ thực vật [1].<br /> Theo Võ Văn Chi đất nước Việt Nam ta có<br /> nguồn dược liệu rất phong phú lên đến trên<br /> 4.000 loài thực vật và nấm lớn có công dụng<br /> làm thuốc; 52 loài tảo biển, 408 loài động vật<br /> và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc<br /> [2]. Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê<br /> cho biết, trong năm 2014, doanh thu sản xuất<br /> thuốc từ dược liệu tại Việt Nam đạt 3.500 tỷ<br /> đồng (gấp hơn 1,75 lần so với doanh thu năm<br /> 2013) [4]. Hiện nay tình trạng khai thác quá<br /> mức và khai khác rừng bừa bãi đã dẫn đến<br /> tình trạng một số loài cây thuốc quý đang<br /> *<br /> <br /> Email: vuvanthong68@gmail.com<br /> <br /> ngày càng khan hiếm, trong đó có cây Râu<br /> mèo, nên việc thúc đẩy và không ngừng phát<br /> triển công tác nghiên cứu gây trồng cây thuốc<br /> là một yêu cầu cấp bách hiện nay.<br /> Cây Râu mèo có tên khoa học là Orthosiphon<br /> stamineus Benth, còn có tên gọi là Bông Bạc,<br /> thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae) [3]. Trong<br /> chiến lược phát triển ngành dược của Bộ Y tế,<br /> cây Râu mèo được xếp vào loại cây hiếm cần<br /> được bảo vệ và phát triển nguồn gen [6]. Do<br /> có những tác dụng to lớn mà cây Râu mèo<br /> mang lại nên người dân địa phương thường<br /> khai thác cây Râu mèo từ ngoài tự nhiên để<br /> sử dụng. Tuy vậy, nguồn dược liệu này ngày<br /> càng trở nên khan hiếm hơn do khai thác<br /> không hợp lý làm hạn chế khả năng tái sinh<br /> của cây. Mặt khác chất lượng dược liệu khai<br /> thác không ổn định do sự sinh trưởng của cây<br /> không đồng đều, điều đó đã ảnh hưởng đến<br /> kết quả không cao trong điều trị bệnh. Nghiên<br /> cứu nhân giống và trồng trọt sẽ góp phần chủ<br /> động nguồn nguyên liệu làm thuốc và nâng<br /> cao chất lượng dược liệu, đưa công tác sản<br /> 159<br /> <br /> Phạm Thị Thúy và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 180(04): 159 - 164<br /> <br /> xuất dược liệu cây Râu mèo dần đi vào ổn<br /> định về số lượng và chất lượng.<br /> <br /> CT2: Thí nghiệm với IBA, IBA, IAA nồng độ<br /> là: 1000 ppm.<br /> <br /> Lê Duy Thành [5], đã chỉ ra rằng dược chất<br /> sinensetin có mặt trong dịch chiết lá của tất cả<br /> các dòng Râu mèo thu thập được. Tuy vậy,<br /> hàm lượng hợp chất này biến động rất lớn, từ<br /> 0,002% đến 0,188% (hàm lượng chất khô).<br /> <br /> CT3: Thí nghiệm với IAA, IBA, IAA nồng độ<br /> là: 1500 ppm<br /> <br /> Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây mới tập<br /> trung đi sâu nghiên cứu thành phần hóa học<br /> cũng như công dụng của cây Râu mèo, chưa<br /> có các nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống,<br /> gây trồng loài cây này. Xuất phát từ những lí<br /> do nêu trên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên<br /> cứu nhân giống vô tính cây Râu mèo<br /> (Orthosiphon stamineus Benth) tại tỉnh Thái<br /> Nguyên”, có ý nghĩa cả về lý luận và thực<br /> tiễn, góp phần phục hồi, bảo tồn và khai thác<br /> phát triển nguồn gen loài cây thuốc có giá trị<br /> cao, đồng thời phù hợp với chủ trương phát<br /> triển cây dược liệu của Nhà nước và nguyện<br /> vọng của cộng đồng nhân dân địa phương.<br /> <br /> CT4: Công thức đối chứng không dùng thuốc.<br /> Các công thức thí nghiệm được bố trí theo<br /> phương pháp ngẫu nhiên gồm 3 lần lặp, mỗi<br /> công thức 30 hom.<br /> - Các chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ hom sống; tỷ lệ<br /> bật mầm; tỷ lệ ra rễ; số rễ cấp 1/hom (chiếc)<br /> và chiều dài rễ (cm).<br /> - Thí nghiệm về tuổi hom (vị trí lấy hom).<br /> Không thể xác định được tuổi của hom giâm<br /> nên đề tài đã thay thế tuổi của hom bằng vị trí<br /> lấy hom trên cùng một cành. Hom già là hom<br /> được lấy ở vị trí gốc cành phần sát với thân<br /> cây đến vị trí 1/3 chiều dài của cành, hom lấy<br /> ở vị trí 1/3 đến 2/3 theo chiều dài của cành<br /> (hom bánh tẻ), hom non là hom lấy ở vị trí<br /> 2/3 chiều dài của cành đến đỉnh sinh trưởng.<br /> <br /> Bài báo này nhằm cung cấp một số thông tin<br /> về kỹ thuật nhân giống cây Râu mèo bằng<br /> phương pháp giâm hom.<br /> <br /> - Thí nghiệm về mùa, vụ giâm hom. Thí<br /> nghiệm được bố trí vào vụ xuân – hè (tháng<br /> 3-6) và vụ thu đông (tháng 8-9).<br /> <br /> VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> <br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> Vật liệu nghiên cứu: Mẫu giống Râu mèo<br /> được lấy từ vườn bảo tồn nguồn gen thuộc<br /> Nhiệm vụ quỹ gen cấp Bộ của Trường Đại<br /> học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên.<br /> <br /> Ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích<br /> thích đến tỷ lệ ra rễ<br /> <br /> - Hóa chất: KMnO4 nồng độ 0,5% để xử lý<br /> giá thể.<br /> - Các hóa chất α-Naphthalene acetic acid<br /> (NAA), indole-3-acetic acid (IAA), Indole-3butyric acid (IBA) có nồng độ tương ứng là<br /> 500, 1000 và 1500 ppm.<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> - Tiêu chuẩn hom giâm: Các hom trong thí<br /> nghiệm được lấy ở những cây Râu mèo tuổi<br /> 1, chiều dài hom 7-10 cm (mỗi hom có tối<br /> thiểu 3 đốt).<br /> - Bố trí thí nghiệm về ảnh hưởng của loại<br /> thuốc kích thích và nồng độ đến tỷ lệ ra rễ:<br /> CT1: Thí nghiệm với NAA, IBA, IAA nồng<br /> độ là: 500 ppm.<br /> 160<br /> <br /> Thí nghiệm được tiến hành vào vụ xuân – hè,<br /> loại hom thí nghiệm là hom lấy ở vị trí 1/3 2/3 theo chiều dài của cành tính từ gốc cành.<br /> Kết quả sau 6-7 ngày hom bắt đầu ra rễ và ra<br /> mầm. Sau 30 ngày giâm hom tiến hành xác định<br /> tỷ lệ hom ra rễ, số rễ trung bình, chiều dài rễ<br /> trung bình và được thể hiện trong bảng 1.<br /> Số liệu ở bảng 1 cho thấy tỷ lệ ra rễ ở các<br /> công thức nồng độ khác nhau trong cùng<br /> một loại thuốc chênh lệch không đáng kể.<br /> Thí nghiệm sử dụng chất kích thích sinh<br /> trưởng IBA tỷ lệ ra rễ dao động từ 97,7898,89%, bình quân 98,52%; sử dụng chất<br /> IAA tỷ lệ ra rễ dao động từ 96,67 – 100%,<br /> bình quân 98,52%; sử dụng chất kích thích<br /> sinh trưởng NAA dao động từ 97,78 –<br /> 100%, bình quân 98,89%. Như vậy, bước<br /> <br /> Phạm Thị Thúy và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đầu có thể kết luận rằng ảnh hưởng của loại<br /> chất kích thích sinh trưởng với các nồng độ<br /> khác nhau đến tỷ lệ ra rễ là như nhau. Công<br /> thức đối chứng tỷ lệ ra rễ là 94,44%. Từ số<br /> liệu tổng hợp ở bảng 1, đã tiến hành phân<br /> tích phương sai một nhân tố theo loại thuốc<br /> kích thích sinh trưởng trên cùng nồng độ<br /> (1000 ppm), kết quả cho thấy số hom ra rễ<br /> không có sự khác nhau rõ rệt giữa các công<br /> <br /> 180(04): 159 - 164<br /> <br /> thức thí nghiệm (Sig.F>0,05), sử dụng chất<br /> kích thích sinh trưởng I B A , IAA và NAA<br /> không có sự sai khác về mặt thống kê. Tuy<br /> nhiên, các chỉ tiêu trên với loại chất kích thích<br /> sinh trưởng NAA với nồng độ 1000 ppm có<br /> trội hơn so với loại chất kích thích sinh<br /> trưởng IBA và IAA ở cùng nồng độ. Do vậy,<br /> các thí nghiệm tiếp theo sẽ sử dụng NAA với<br /> nồng độ 1000 ppm.<br /> <br /> Bảng 1. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ và loại chất kích thích sinh trưởng đến tỷ lệ ra rễ<br /> Loại<br /> chất<br /> kích<br /> thích<br /> <br /> IBA<br /> <br /> IAA<br /> <br /> NAA<br /> Đối chứng<br /> <br /> Số hom<br /> thí nghiệm<br /> <br /> Công<br /> thức<br /> <br /> Nồng độ<br /> (ppm)<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> BQ<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> BQ<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> BQ<br /> <br /> 500<br /> 1000<br /> 1500<br /> <br /> 90<br /> 90<br /> 90<br /> <br /> 500<br /> 1000<br /> 1500<br /> <br /> 90<br /> 90<br /> 90<br /> <br /> 500<br /> 1000<br /> 1500<br /> <br /> 90<br /> 90<br /> 90<br /> <br /> -<br /> <br /> 90<br /> <br /> Số<br /> hom<br /> ra rễ<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> ra rễ<br /> (%)<br /> <br /> Số rễ cấp 1/<br /> hom<br /> <br /> Chiều dài<br /> rễ TB<br /> (cm)<br /> <br /> 88<br /> 89<br /> 89<br /> 89<br /> 90<br /> 87<br /> 89<br /> 88,70<br /> 88<br /> 90<br /> 89<br /> 89,00<br /> 85,00<br /> <br /> 97,78<br /> 98,89<br /> 98,89<br /> 98,52<br /> 100<br /> 96,67<br /> 98,89<br /> 98,52<br /> 97,78<br /> 100<br /> 98,89<br /> 98,89<br /> 94,44<br /> <br /> 5,5<br /> 5,7<br /> 6,2<br /> 5,8<br /> 5,9<br /> 6,1<br /> 6,2<br /> 6,1<br /> 5,2<br /> 6,3<br /> 5,5<br /> 5,7<br /> 5,0<br /> <br /> 4,5<br /> 4,3<br /> 4,1<br /> 4,3<br /> 3,9<br /> 4,5<br /> 4,8<br /> 4,4<br /> 4,5<br /> 4,6<br /> 4,5<br /> 4,5<br /> 4,3<br /> <br /> Số liệu bảng 1 được minh họa qua biểu đồ hình 1, 2 dưới đây.<br /> <br /> Hình 1. Ảnh hưởng của loại thuốc đến tỷ lệ ra rễ<br /> của hom Râu mèo<br /> <br /> Hình 2. Ảnh hưởng của loại thuốc đến số rễ cấp 1/hom<br /> Râu mèo<br /> <br /> Ghi chú: 1- IBA, 2 – IAA, 3- NAA, 4 – Đối chứng<br /> <br /> Hình ảnh về mầm, rễ của hom cây Râu mèo lấy ở các vị trí khác nhau được minh họa qua hình 3,<br /> 4 và 5 dưới đây.<br /> <br /> 161<br /> <br /> Phạm Thị Thúy và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Hình 3. Chiều dài mầm hom gốc<br /> Râu mèo sau 30 ngày<br /> <br /> 180(04): 159 - 164<br /> <br /> Hình 4. Chiều dài mầm hom giữa Hình 5. Chiều dài mầm hom ngọn<br /> Râu mèo sau 30 ngày<br /> Râu mèo sau 30 ngày<br /> <br /> Ảnh hưởng của vị trí lấy hom đến khả năng ra mầm, ra rễ và tỷ lệ sống<br /> Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng và vị trí hom giâm đến khả năng<br /> ra mầm, ra rễ và tỷ lệ sống của hom cây Râu mèo được tổng hợp ở bảng dưới đây.<br /> Bảng 2. Ảnh hưởng của vị trí lấy hom đến khả năng bật mầm, ra rễ và tỷ lệ sống<br /> Sử dụng chất<br /> kích thích/<br /> Không sử dụng<br /> NAA nồng độ<br /> 1000 ppm<br /> Đối chứng<br /> (Không sử dụng<br /> chất kích thích<br /> sinh trưởng)<br /> <br /> Công thức/ Vị trí<br /> hom<br /> <br /> Thời gian<br /> bật mầm<br /> (ngày)<br /> <br /> Thời gian<br /> ra rễ<br /> (ngày)<br /> <br /> Hom ngọn<br /> Hom giữa<br /> Hom gốc<br /> Bình quân<br /> Hom ngọn<br /> Hom giữa<br /> Hom gốc<br /> Bình quân<br /> <br /> 6<br /> 6<br /> 6<br /> 6<br /> 7<br /> 7<br /> 8<br /> 7,3<br /> <br /> 6<br /> 6<br /> 6<br /> 6<br /> 8<br /> 8<br /> 8<br /> 8<br /> <br /> Qua bảng 2 nhận thấy thời gian từ khi giâm<br /> đến nẩy mầm của Râu mèo ở các công thức<br /> có sử dụng chất kích thích sinh trưởng khác<br /> nhau không có sự sai khác. Số ngày hom bắt<br /> đầu nảy mầm là 6 ngày. Công thức đối chứng,<br /> số ngày bắt đầu nảy mầm bình quân là 7,3 ngày.<br /> Thời gian giâm hom đến khi bắt đầu ra rễ ở<br /> các công thức có sử dụng chất kích thích sinh<br /> trưởng là 6 ngày. Đối với công thức đối<br /> chứng, thời gian bắt đầu ra rễ là 8 ngày, chậm<br /> hơn 1,3 ngày so với công thức có sử dụng<br /> chất kích thích sinh trưởng. Ở các công thức<br /> thí nghiệm và đối chứng số ngày hom bắt đầu<br /> ra rễ là 8 ngày.<br /> Tỷ lệ bật mầm bình quân chung ở các công<br /> thức thí nghiệm có sử dụng chất kích thích<br /> sinh trưởng là 98,89%, công thức đối chứng<br /> là 92,96%, chênh lệch giữa công thức có sử<br /> dụng chất kích thích sinh trưởng và không sử<br /> 162<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> bật<br /> mầm<br /> (%)<br /> 100<br /> 100<br /> 96,67<br /> 98,89<br /> 94,44<br /> 93,33<br /> 91,11<br /> 92,96<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> ra rễ<br /> (%)<br /> <br /> Tỷ lệ cây<br /> sống<br /> (%)<br /> <br /> 100<br /> 100<br /> 97,78<br /> 99,26<br /> 96,67<br /> 92,22<br /> 90,00<br /> 92,96<br /> <br /> 100<br /> 100<br /> 95,45<br /> 98,48<br /> 94,25<br /> 96,38<br /> 88,89<br /> 93,17<br /> <br /> dụng chất kích thích sinh trưởng là 5,93%. Tỷ<br /> lệ ra rễ ở các công thức thí nghiệm có sử dụng<br /> chất kích thích là 99,26%, ở công thức đối<br /> chứng là 92,96%, chênh lệch giữa công thức<br /> có sử dụng chất kích thích sinh trưởng và<br /> không sử dụng chất kích thích sinh trưởng là<br /> 6,3%. Tỷ lệ sống của cây hom ở các công<br /> thức thí nghiệm có sử dụng chất kích thích<br /> sinh trưởng 98,48% và không sử dụng thuốc<br /> kích thích sinh trưởng là 93,17%. Như vậy,<br /> tuổi hom (vị trí lấy hom) hầu như không ảnh<br /> hưởng đến tỷ lệ ra bật mầm, tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ<br /> sống của hom cây Râu mèo trong các thí<br /> nghiệm trên đây.<br /> Ảnh hưởng của thời vụ đến số lượng rễ của hom<br /> Để nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ đến số<br /> lượng rễ của hom cây Râu mèo, đã tiến hành<br /> thử nghiệm nhân giống bằng phương pháp<br /> giâm hom vào vụ xuân - hè và thu – đông.<br /> <br /> Phạm Thị Thúy và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 180(04): 159 - 164<br /> <br /> Căn cứ vào kết quả nghiên cứu đã trình bày ở mục trên đây, trong nghiên cứu này tiến hành thử<br /> nghiệm ảnh hưởng của thời vụ đến số lượng rễ của hom ngọn, hom giữa với loại chất kích thích<br /> sinh trưởng là NAA nồng độ 1000 ppm và công thức đối chứng không sử dụng chất kích thích<br /> sinh trưởng.<br /> Bảng 3. Ảnh hưởng của thời vụ đến tỷ lệ ra rễ của hom<br /> <br /> Công thức<br /> <br /> Nồng<br /> độ<br /> <br /> Vị trí hom<br /> <br /> Số lượng rễ<br /> trung<br /> bình/hom<br /> <br /> Chiều dài rễ<br /> dài nhất (cm)<br /> <br /> Vụ xuân - hè<br /> CT1<br /> CT2<br /> BQ<br /> <br /> 1000<br /> 1000<br /> <br /> Hom ngọn<br /> Hom giữa<br /> <br /> Đối chứng<br /> <br /> 0<br /> 0<br /> <br /> Hom ngọn<br /> Hom giữa<br /> <br /> BQ<br /> <br /> 17,60<br /> 14,10<br /> 15,85<br /> 15,30<br /> 13,60<br /> 14,45<br /> <br /> Qua kết quả thí nghiệm bảng 3, thời vụ có ảnh<br /> hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom giâm. Vụ xuân<br /> – hè số lượng rễ bình quân/hom ngọn và hom<br /> giữa là 15,85 và chiều dài bình quân của<br /> những rễ dài nhất là 9,75 cm; vụ Thu – đông,<br /> số lượng rễ bình quân/hom ngọn và hom giữa<br /> là 13,75 và chiều dài bình quân của những rễ<br /> dài nhất là là 5,55 cm. Các chỉ tiêu này ở công<br /> thức đối chứng tương ứng có nhỏ hơn nhưng<br /> không đáng kể. Kết quả phân tích phương sai<br /> một nhân tố về ảnh hưởng của thời vụ đến số<br /> rễ TB/hom ngọn cho thấy đã có sự khác nhau<br /> rõ rệt giữa (Sig.F
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2