Người cao tuổi ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi cấu trúc gia đình
lượt xem 7
download
Trên cơ sở phân tích mô hình cấu trúc gia đình xưa và nay, bài viết nhấn mạnh tính khách quan của sự biến đổi và xã hội cần thiết có chiến lược thích ứng đối phó để đảm bảo cuộc sống người cao tuổi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Người cao tuổi ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi cấu trúc gia đình
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC GIA ĐÌNH NGUYỄN HỒNG MAI Tóm tắt Người cao tuổi (NCT) là nhóm đối tượng được đặc biệt quan tâm khi quá trình già hóa dân số đang diễn ra với tốc độ “phi mã”. Ngoài những khó khăn chung của những người ở nhóm tuổi này, người cao tuổi Việt Nam còn đối diện với một số vấn đề có tính đặc thù, trong đó có yếu tố văn hóa. Nhiều người gặp cú sốc tâm lý khi chứng kiến sự biến đổi giá trị: từ chỗ đề cao giá trị cộng đồng - người già gắn bó suốt đời với con cái, đến việc khẳng định giá trị cá nhân, cổ vũ lối sống độc lập. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này đến từ việc biến đổi cấu trúc gia đình. Trên cơ sở phân tích mô hình cấu trúc gia đình xưa và nay, bài viết nhấn mạnh tính khách quan của sự biến đổi và xã hội cần thiết có chiến lược thích ứng đối phó để đảm bảo cuộc sống người cao tuổi. Từ khóa: Người cao tuổi, cấu trúc gia đình, biến đổi gia đình Abstract The elderly is particularly concerned when the aging process of the population is occurring at the speed of “galloping”. In addition to the common difficulties of people at this age group, Vietnamese elderly people have to face a number of specific issues, including cultural aspects. Many people experience psychological shock when they witness the change of values: from the dignification of community values, the old continue all the rest of lives with their children, to the affirmation of personal values, the promotion of independent living. One of the causes of this state comes from the changing in family structure. Based on the analysis of the past and present family structure model, the article emphasizes the objectivity of change and the social need to have adaptive coping strategies to ensure the well-being of the elderly. Keywords: Elderly, family structure, family change 1. Người cao tuổi trong cơ cấu dân số quốc gia kèm theo những cơ hội và thách thức đối với 1.1. Cơ cấu dân số là một trong những dữ quốc gia đó. Cũng dựa trên số liệu này, các nhà liệu quan trọng làm tiền đề cho việc hoạch kinh tế học sẽ thống kê được nhóm người ở định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tuổi lao động (từ 15 đến 65) và tuổi phụ thuộc mỗi quốc gia: Đó là tổ hợp của nhiều thông số: (dưới 15 và trên 65), còn các nhà xã hội học lứa tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn và thường tiếp cận khía cạnh “thế hệ” với độ tuổi nghề nghiệp, tộc người, địa bàn cư trú... Trong linh hoạt hơn. Độ ngắn dài của mỗi thế hệ (trẻ đó, cơ cấu độ tuổi có ý nghĩa rất đặc biệt. Căn - trung niên - cao tuổi) có thay đổi trong các cứ vào tỷ lệ độ tuổi, người ta xếp hạng quốc bối cảnh kinh tế xã hội khác nhau, thí dụ so với gia có Dân số Trẻ, Dân số Già hay Dân số Vàng thời kỳ trước đây, khoảng tuổi của ba thế hệ - như chỉ báo hàng đầu về tiềm lực phát triển hiện nay đều kéo dài hơn (7, tr. 29). Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 77
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Theo quy định của luật pháp Việt Nam, + Việc làm của người cao tuổi. Vấn đề này người cao tuổi là khái niệm chỉ nhóm người ở đặt ra như một nghịch lý. Trên lý thuyết, ở tuổi độ tuổi trên 60, những người đang bước vào này, họ đã hoàn thành các nghĩa vụ đối với giai đoạn cuối của cuộc đời. Kết quả Điều tra gia đình và xã hội. Họ cần thiết và được quyền dân số năm 2006, nước ta còn ở nhóm quốc gia nghỉ ngơi thụ hưởng thành quả do chính mình có Dân số Vàng (2 người lao động/ 1 người phụ tạo ra trong quá khứ. Nhưng trong thực tế, họ thuộc), nhưng chỉ sau 5 năm đã chính thức vẫn có nhu cầu lao động cũng như gặp không đứng trên ngưỡng Dân số Già với tỷ lệ 11% là ít khó khăn khi tìm việc. Số liệu năm 2014 cho NCT (trong 10,1 triệu NCT có 2 triệu người trên biết, vẫn còn trên 50% nam giới và 36% phụ nữ 80). Già hóa dân số tuy được coi là xu hướng là NCT đang lao động kiếm sống, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế tư nhân. Nhu cầu này xuất phát phổ biến trên thế giới, nhưng ở nước ta, hiện từ cả khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn hóa. Về tượng này có hai điểm khác biệt cơ bản. Trước mặt kinh tế, đại bộ phận NCT ở nước ta ở trong hết, quá trình này diễn ra quá nhanh (có nghiên hoàn cảnh “già mà chưa giàu”, không có nguồn cứu dùng từ “phi mã”). Ở các nước khác, quá tích lũy nào để dưỡng già. Trên 70% - chủ yếu trình già hóa thường kéo dài gần thế kỷ (Pháp ở nông thôn và vùng cao - không có lương hưu 100 năm, Thụy Điển 85 năm, Mỹ 69 năm,…) hay trợ cấp xã hội, phải tự kiếm sống và trông còn ở nước ta, con đường đi từ Dân số Trẻ đến chờ vào sự cấp dưỡng của con cái. Lương hưu Dân số Già chỉ khoảng 20 - 22 năm. Hội thảo và trợ cấp của nhóm 30% còn lại cũng rất thấp, quốc tế “Thích ứng với xu hướng già hóa dân số” trung bình chỉ từ 3 - 4 triệu đồng. 95% cho biết tổ chức ở Hà Nội tháng 7/2017 còn đưa ra dự khoản trợ cấp đó không đáp ứng được nhu báo: mỗi giây có hai người Việt Nam bước vào cầu chi dùng cơ bản trong tình huống vật giá tuổi 60 và tỷ lệ NCT trong tổng dân số có thể là leo thang từng ngày. Vì vậy, mong muốn tiếp 18% vào năm 2030 và 26% ở giữa thế kỷ. Mặt tục làm việc có thu nhập trước hết bắt nguồn khác, nếu các quốc gia trên thế giới chuyển từ nhu cầu để tồn tại của chính họ. Cũng cần sang giai đoạn già hóa thường ở thời điểm phải nhắc thêm một nguyên nhân nữa mang ý phát triển cao của nền kinh tế, thì Việt Nam lại nghĩa văn hóa. NCT ở nước ta muốn làm việc đón nhận xu hướng này khi nền kinh tế mới để giảm bớt gánh nặng cho con cháu khi hằng đạt mức trung bình thấp. Điều này có nghĩa, ngày chứng kiến chúng đang rất vất vả mưu hiện nay nước ta còn thiếu rất nhiều điều kiện sinh. Luôn mang tâm lý “nước mắt chảy xuôi”, để thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ thương con xót cháu, với thói quen cần cù chịu cuộc sống NCT. khó, họ vẫn muốn tìm mọi cách giúp đỡ thêm cho chúng, bất kể sức khỏe đã suy yếu. Đặc 1.2. Không thể phủ nhận, già hóa dân số biệt, với nhóm người tuổi sơ lão (từ 61 đến 70) là dấu hiệu tích cực, thành quả khách quan của - chủ yếu là trí thức và doanh nhân - nhu cầu có cuộc vận động hạ tỷ suất sinh trong vài thập việc làm lại càng lớn. Đây là những người còn kỷ qua, cũng như những đóng góp quan trọng sức khỏe, có trình độ học vấn cao, bề dày kinh của y học hiện đại nhằm giảm tỷ suất tử vong nghiệm chuyên môn nên rất muốn tiếp tục và nâng cao tuổi thọ. Nhờ nâng tuổi thọ trung đóng góp cho xã hội. Với họ, được hoạt động bình lên 73, cùng với cải thiện mức thu nhập (lao động và giao tiếp) là nhu cầu sống và chỉ quốc dân và trình độ học vấn, mà Chỉ số Phát có cảm giác sống thực sự khi còn làm việc. Hơn triển con người (HDI) của nước ta đã vượt qua nữa, khi được làm công việc yêu thích, phù hợp một số quốc gia có chỉ số GDP cao hơn. Tuy với khả năng, có thêm thu nhập, họ có điều nhiên, do hai điểm khác biệt kể trên, NCT ở kiện khẳng định vai trò “có ích” của mình trước Việt Nam cũng đang đối diện với một số thách gia đình và xã hội. Do đó, nếu phát triển được thức mang tính đặc thù so với nhóm người nguồn việc làm phù hợp với NCT, một mặt sẽ cùng tuổi trong các quốc gia phát triển. đáp ứng được mong muốn chính đáng, đem 78 Số 24 - Tháng 6 - 2018
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI lại cho họ niềm vui sống, góp phần đảm bảo đắp một lối tư duy khác: tư duy tổng hợp biện an sinh xã hội; mặt khác, xã hội có thêm một chứng - duy tình, luôn coi trọng các mối quan hệ, nguồn lực đáng kể vào công cuộc phát triển đề cao giá trị cộng đồng, trước hết là cộng đồng đất nước. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước gia đình. Tính phong phú của hệ thống đại từ còn chưa có đủ việc làm cho cả nhóm tuổi lao nhân xưng trong ngôn ngữ tiếng Việt là một ví động (nhất là khi cuộc Cách mạng 4.0 đang dụ cho tư duy trọng quan hệ. Khi giao tiếp, tuỳ đến gần) thì nhu cầu này của NCT vẫn đang là theo tương quan độ tuổi, địa vị xã hội và bối một thách thức. cảnh cụ thể, người ta sử dụng linh hoạt các đại + Sức khỏe của người cao tuổi. NCT ở nước từ “chú khi ni, mi khi khác”. Ngay khi tự vấn bản ta không chỉ mang đặc điểm “già mà chưa thân, người Việt cũng thường dùng từ “mình” giàu” mà còn là những người “thọ nhưng không thay cho từ “tôi”. Người Việt Nam thường tâm khỏe”. Tuy tuổi thọ cao hơn nhưng trung bình niệm: mỗi người chỉ là một mắt xích nhỏ trong mỗi người mang trong mình 2,7 bệnh (chủ yếu đường dây lịch sử gia đình - bên trên là tổ tiên, bệnh về tim mạch, tiểu đường, xương khớp, phía dưới là hậu duệ - với những nghĩa vụ, suy giảm về trí nhớ, thị giác, thính giác và năng trách nhiệm cụ thể. Họ không chỉ cầu mong lực vận động). Hiện trạng này là hệ quả tất bình an, may mắn trong hiện tại mà còn luôn yếu của những giai đoạn lịch sử khó khăn của khắc sâu ơn nghĩa với quá khứ và chuẩn bị hết đất nước. Họ đã trải qua hai cuộc kháng chiến lòng cho tương lai. Việc thờ cúng tổ tiên nhiều khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, những năm tháng đời một cách quy củ, chặt chẽ trong mỗi gia vất vả phục hồi kinh tế sau chiến tranh, thời kỳ đình là một ví dụ rõ rệt cho điều này. Con cháu bao cấp thiếu thốn với chế độ lương thực, thực phải thực hiện phận sự lâu dài với cha mẹ, cả phẩm tem phiếu hạn hẹp. Do tận sức cống khi sống lẫn khi qua đời và bậc bề trên, dù đã hiến thời tuổi trẻ, lại thêm lối sống tiết kiệm đến mức khắc kỷ, họ bước vào tuổi già trong khuất, vẫn tiếp tục ở bên con cháu, dõi theo trạng thái sức khỏe kém. Hơn thế, theo truyền và phù trợ bí ẩn cho chúng! Vùng tâm thức trở thống, người Việt Nam không có thói quen thành nền tảng cho quy ước tự nhiên: những kiểm tra sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện sớm người ruột thịt phải cùng chung sống và gắn những điều bất thường trong cơ thể. Cho nên, bó, nương tựa nhau suốt đời. khi tuổi cao, sức đề kháng giảm, bệnh tật dễ “Trẻ cậy cha, già cậy con”, vì vậy, đã trở bùng phát, việc điều trị trở nên khó khăn và thành nguyên lý sống của mỗi người Việt Nam. chi phí tốn kém hơn. Nhà nước ta đã ban hành Mối liên hệ hai chiều trong tâm thức còn được một số chính sách tích cực trong việc chăm ủng hộ, bảo trợ bằng cả hai công cụ quản lý xã sóc, điều trị cho nhóm đối tượng này. Trung hội: hương ước của làng xã và pháp luật của tâm lão khoa của các bệnh viện đã được thành Nhà nước. Trong các giá trị tinh thần mà người hình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thể đáp ta hướng tới, phúc và hiếu được coi là những ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của NCT. giá trị thiêng liêng. “Vô phúc” đối với người già + Tâm lý truyền thống của người cao tuổi. là nỗi bất hạnh lớn nhất và tội “bất hiếu” của Ở bất kỳ quốc gia nào, NCT cũng là nhóm con cháu cũng xếp hàng đầu trong “thập ác”. người bảo lưu bền bỉ và sâu đậm nhất những Người làm cha mẹ có phúc khi sinh được đông giá trị truyền thống của nền văn hóa mà mình con nhiều cháu (đặc biệt là con trai) và chúng sinh trưởng. Ở phương Tây, nền văn hóa công ngoan ngoãn, hiếu thảo, tạo ra một đường dây nghiệp thành hình hàng trăm năm đã giúp con thế hệ trường tồn. Trách nhiệm (kể cả quyền người quen thuộc với lối tư duy phân tích - duy uy) của cha mẹ với con cháu là mãi mãi, ngay lý, đề cao giá trị cá nhân và lối sống độc lập. khi chúng đã trưởng thành. Có thể nhắc tới Còn ở phương Đông, bao gồm Việt Nam, nền những câu thơ hiện đại nhưng phản ánh rất văn hóa nông nghiệp (dạng tiểu nông) lại bồi đúng tâm lý truyền thống này: Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 79
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU “Cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời con” xã hội mà người chủ gia đình mong muốn. Cấu hay trúc gia đình, do đó được hình thành và biến đổi trên nền tảng của nhiều yếu tố khách quan “Con dù lớn vẫn là con của mẹ cũng như ý thức chủ quan của con người. Nó Đi suốt cuộc đời, lòng mẹ vẫn theo con”… có ảnh hưởng to lớn tới vai trò, vị trí của mỗi Nhìn chung, người làm cha mẹ không bao gia đình trong xã hội, cũng như tác động sâu giờ đo đếm công sức của mình đối với con sắc tới đời sống vật chất và tinh thần của các cái, thậm chí chắt chiu dành dụm tài sản bồi thành viên, bao gồm cả người cao tuổi. đắp cho con, mong con sung sướng (Con hơn 2.1. Gia đình Việt Nam trong xã hội nông cha là nhà có phúc), không loại trừ cả niềm hy nghiệp truyền thống có một đặc điểm khái vọng vào sự đền đáp của chúng khi mình vào quát, đó là tính tương đối thuần nhất về kiểu loại tuổi “chân yếu, tay run” (Có lẽ đây là điểm khác cấu trúc. Tuyệt đại gia đình kết cấu theo khuôn biệt trong tâm lý NCT thuộc hai nền văn hóa mẫu: kết hôn dị tính, đầy đủ vợ chồng - con Đông - Tây). Ngược lại, chính lòng hiếu thảo cái. Rất hiếm gia đình khác kiểu, vì khi “đi chệch của những đứa con sẽ xây thành lũy vững chắc khỏi truyền thống cũ và đi theo ý tưởng mới có cho chữ phúc của cha mẹ. Đạo làm con là đạo thể dẫn tới kết quả bị xa lánh, bị tẩy chay, loại lý cơ bản nhất của Đạo làm Người. “Làm con bỏ và đó là điều đáng kinh sợ khủng khiếp đối trước phải đền ơn sinh thành”. với người sống trong làng” (4, tr.194). Tất nhiên, Lòng biết ơn đối với cha mẹ vốn đã có cội rễ trong nhóm các gia đình theo đúng khuôn trong nền văn hóa bản địa Đông Nam Á (Văn mẫu, cũng không có duy nhất một cấu trúc. “Ở hóa thờ Mẫu), nhưng nhờ quá trình giao lưu, nước ta trước năm 1945, tầng lớp quan lại và địa tiếp biến, các dòng văn hóa ngoại lai như Phật chủ mới có điều kiện tạo lập gia đình 4 thế hệ với giáo, Kitô giáo, đặc biệt là Nho giáo, đã cung hàng chục nhân khẩu. Còn gia đình nông dân cấp thêm lý thuyết và lễ thức để nó trở thành lao động thì kết cấu phổ biến là hai hoặc ba thế Đạo Hiếu. Con cái phải có bổn phận tôn kính, hệ - một loại gia đình không lớn lắm” (2, tr.175). vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ suốt đời. Ai Vậy gia đình truyền thống được bàn luận ở đây vi phạm, không những bị pháp luật kết tội mà là loại gia đình nào? Xuất phát từ quan niệm còn bị tòa án của cộng đồng lên án, chối bỏ. gia đình truyền thống phải là gia đình chiếm Phân tích yếu tố tâm lý truyền thống mà số đông, trên diện rộng, trong một giai đoạn hầu hết NCT ở nước ta đang lưu giữ chính để lịch sử lâu dài, chúng tôi coi cấu trúc của loại lý giải hiện trạng tại sao những xúc cảm tiêu gia đình nông dân - trực canh là cấu trúc gia cực (thất vọng, buồn bã) lại chiếm ưu thế trong đình điển hình mang tính đại diện. Từ đó, có tâm trạng họ khi đối diện với sự khủng hoảng thể khẳng định: gia đình truyền thống nước ta đang diễn ra trong các mối quan hệ gia đình thuộc loại gia đình nhỏ, ít thế hệ. Hơn nữa, gia cũng như sự biến đổi mô hình cấu trúc gia đình hai thế hệ chiếm tới 2/3, gia đình ba thế đình. Đây là vấn đề thuộc khía cạnh văn hóa, hệ - nơi bố mẹ già sống cùng con - có tỷ lệ thấp một thách thức không nhỏ đối với những NCT hơn, khác với những ý kiến cho rằng gia đình ở nước ta hiện nay. mở rộng (3, 4 thế hệ) mới là mô hình điển hình 2. Người cao tuổi trong cấu trúc gia đình trong xã hội truyền thống. Vậy nguyên nhân xưa và nay nào dẫn đến việc gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ Cấu trúc gia đình là thuật ngữ khoa học chỉ cao trong xã hội trước đây? các yếu tố hợp thành chỉnh thể gia đình (số thế Trước hết, “Cây thấp, tán rộng” là hình ảnh hệ, số thành viên trong mỗi thế hệ) cũng như phổ quát được chúng tôi hình dung về gia mối tương tác giữa các yếu tố ấy với nhau. Mỗi đình truyền thống. “Cây thấp” gắn liền với tuổi kiểu loại gia đình có một dạng thức cấu trúc - thọ của người chủ gia đình. Ở nhiều làng quê, được kiến tạo nhằm thực hiện các chức năng đàn ông mới 48 - 50 đã được làng mừng thọ với 80 Số 24 - Tháng 6 - 2018
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI nghi thức “lên lão”, bắt đầu có “xỉ tước”(khác với với những món nợ mà con cái họ mắc phải” (4, “quan tước” đây là một tước vị mà mọi thường tr.162). Hình ảnh “biển tư hữu ruộng đất” trong dân đều có thể có được, “sống lâu lên lão làng”). làng xã đã được nhiều nghiên cứu nhắc tới Họ luôn được cộng đồng kính trọng (nhường chính bắt nguồn từ thực tế này, “làng phân đường, nhường chỗ) vì gia tài kinh nghiệm chia ruộng đất cho các thành viên theo định kỳ”. sống và kỹ năng sản xuất. Có lẽ vì lý do “cây Sang đầu thế kỷ XIX, số ruộng tư đã nhiều gấp thấp” này nên rất hiếm gia đình song hành bốn năm số ruộng công” (6, tr.33). Lý do thứ ba giải thế hệ. “Tán rộng” vì cây có nhiều cành, cành thích hiện tượng gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ có nhiều nhánh, biểu tượng người chủ nhà có cao trong làng xã, tìm thấy trong quan điểm đông con, nhiều cháu. Đó là một ước vọng của ủng hộ, khuyến khích của chính quyền phong người nông dân. Nó vừa thỏa mãn về mặt tâm kiến trung ương. Ở Việt Nam, con cái ra ở riêng linh (Con cái là “của Trời cho”, là “hồng ân của khi cha mẹ còn sống không bị coi là phạm tội Chúa”), đáp ứng nguồn nhân lực trực tiếp trên “bất hiếu” như những quy ước của Nho giáo. mảnh ruộng gia đình (“mỗi con, mỗi của”), vừa “Mặc dầu đã Nho giáo hóa pháp luật, vua Việt phòng ngừa sa sảy do “hữu sinh vô dưỡng”, tạo Nam vẫn thận trọng không chấp nhận nhũng gì thêm mối liên kết vợ chồng… Đặc biệt, sinh có thể dẫn tới việc tạo ra những gia đình có thế nhiều con là một dạng đầu tư lâu dài cho tuổi lực gây trở ngại cho việc xây dựng và điều hành già (Con cái là “của để dành”). Tuy đông con, chính quyền tập trung. Việc phân chia quyền sở nhưng ở nước ta, rất hiếm mô hình “huynh đệ hữu tài sản và khả năng sống độc lập của con cái đồng củ” (anh em đã kết hôn vẫn sống chung cần phải được hiểu theo quan điểm đó” (4, tr.97). và có kinh tế chung) như ở nước láng giềng Tuy nhiên, trước kia, mối quan hệ giữa Trung Hoa. Người Việt Nam có phong tục cho những gia đình hạt nhân này với gia đình con trai ra ở riêng ngay sau khi kết hôn. Vợ gốc - nơi cha mẹ sống cùng vợ chồng người chồng con trai trưởng (ở miền Bắc) hoặc con anh trưởng - vẫn rất mật thiết. Họ sống riêng trai út (ở miền Nam) ở lại ngôi nhà của cha mẹ nhưng gần kề nhà cha mẹ, họ làm ruộng riêng với trách nhiệm chính trong việc chăm sóc bậc nhưng vẫn trong không gian chật hẹp của sinh thành và thờ cúng tổ tiên - bằng nguồn làng. Công việc ấy, khoảng cách địa lý ấy giúp hoa lợi từ ruộng hương hỏa (Theo qui định của họ dễ dàng thực hiện được các nghĩa vụ của pháp luật, ruộng hương hỏa chiếm 1/20 tài sản mình (Sáng viếng, tối thăm). Một khía cạnh nữa của gia đình). “Một người con trai, thường là con cũng cần lưu ý là vai trò của những người phụ trưởng sẽ ở cùng cha mẹ, còn những người con nữ (con dâu, con gái) trong mối quan hệ với khác, đặc biệt người đã kết hôn, phải ra xây dựng NCT. Do quan niệm chăm già, chăm trẻ thuộc hộ riêng và sống cùng vợ con mình” (4, tr.175). việc nhà nên công việc này, người phụ nữ Có một số lý do dẫn đến việc phát triển các thường đảm nhiệm chính. Dù cũng phải làm gia đình hạt nhân. Một là, đặc điểm của quy việc vất vả trên đồng ruộng với vai trò người trình sản xuất lúa nước (ruộng nhỏ, công cụ cộng sự của chồng, nhưng các nàng dâu (cả và thô sơ) không cần đông người mà phù hợp thứ) đều có ý thức cùng nhau chia sẻ nghĩa vụ. với kết cấu gia đình nhỏ (Chồng cày, vợ cấy). Những người con gái đã xuất giá cũng thường Hai là, các bậc cha mẹ có ý thức tạo lập tài sản xuyên đi lại thăm nom cha mẹ, đây là điểm riêng cho từng người con ngay khi mình còn khác biệt với xã hội Trung Hoa - nơi mà sau khi sống, tránh sự tranh chấp giữa các con. Khi lấy chồng, người con gái phải cắt đứt quan hệ lấy vợ, người con trai đuợc chia cho một phần với gia đình cha mẹ đẻ (xuất giá tòng phu). Việc đất làm nhà ở riêng và còn được làng cấp cho người con gái giữ được quyền liên lạc với gia một phần đất công để cấy cày. Những đứa con đình mình, bắt nguồn từ vai trò của họ trong ra ở riêng cũng làm giảm sự liên đới của cha hoạt động kinh tế. Phụ nữ đóng góp công sức mẹ khi xảy ra sự cố. “Chính sự sở hữu độc lập chính trong nền kinh tế tiểu nông, đặc biệt đó khiến cha mẹ được miễn giảm trách nhiệm khi người đàn ông được coi là trụ cột gia đình Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 81
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU nhưng thường xuyên vắng nhà (đi lính, đi phu, Trước hết, ngày càng xuất hiện nhiều kiểu đi học). Vì thế, phạm vi giao tiếp của họ không loại gia đình khác khuôn mẫu truyền thống. Có bị bó hẹp trong khuôn khổ gia đình chồng. thể kể tới một số kiểu loại như gia đình chọn Hơn nữa, khi xưa, bán kính hôn nhân thường không sinh con; gia đình sống chung không rất hẹp, việc kết hôn diễn ra trong làng, hoặc kết hôn; gia đình ly thân, ly hôn, tái hôn; gia làng trên làng dưới, không gây trở ngại gì cho đình cha/mẹ đơn thân; gia đình đa chủng tộc; việc đi lại thăm hỏi. Ca dao còn có câu: gia đình đồng giới; gia đình ba cha mẹ (đứa Có con mà gả chồng gần con sinh ra do nhờ người mang thai hộ);... Có bát canh cần nó cũng mang cho Trong các loại gia đình này, việc chăm sóc NCT Trong trường hợp gia đình không có con chắc chắn gặp không ít khó khăn bởi vì con cái trai hoặc con trai ốm đau bệnh tật, phong tục họ cũng đang vướng bận đối phó với những cộng đồng cũng ủng hộ việc cha mẹ già ở với vấn đề của riêng mình. vợ chồng người con gái (“Thầy mẹ em không có Tỷ lệ gia đình hạt nhân có xu hướng tăng con trai, kiếm anh rể thảo một mai phụng thờ”). lên, nhưng cho đến nay cũng không chênh Cùng với việc sống cùng với cha mẹ đẻ, người lệch quá lớn so với xã hội trước đây. Nguyên con gái còn có thể được quyền hương hỏa, thờ nhân của việc gia tăng cấu trúc này đã được phụng tổ tiên. nêu ra trong nhiều nghiên cứu. Đó là kết quả Như vậy, mặc dù gia đình hạt nhân chiếm của di cư lao động, kèm theo việc kết hôn trên tỷ lệ cao, nhưng ở nông thôn xưa, NCT vẫn ở vùng đất mới (từ nông thôn ra thành thị, từ cùng và ở gần con cháu, được chúng chăm sóc, vùng miền này sang vùng miền khác, từ trong phụng dưỡng. Do điều kiện kinh tế thấp kém nước ra ngoài nước, từ quốc gia này sang (tự cung, tự cấp), có thể cuộc sống vật chất của quốc gia khác). Điều kiện làm việc và sinh sống NCT không được đầy đủ, nhưng về mặt tinh không cho phép họ mang theo cha mẹ. Mặt thần, họ thường có được cảm giác an toàn (Tre khác, bản thân NCT cũng không muốn đi theo đông, ấm bụi). Hạnh phúc của họ được đo bằng con, phần vì e ngại những rủi ro, phần vì tình sự xum họp, quây quần của con cháu. cảm sâu nặng với quê hương, nơi có mồ mả 2.2. Gia đình Việt Nam hiện nay đang ở giai ông bà tổ tiên mà họ cần chăm sóc. Điều kiện đoạn quá độ của quá trình chuyển biến từ gia cư trú ở đô thị vốn chật hẹp, trong khi nhu cầu đình truyền thống của nền văn minh nông cần có không gian riêng cho từng thành viên, nghiệp sang gia đình hiện đại - sản phẩm của khiến mô hình chung sống ba thế hệ trở nên nền văn minh công nghiệp. Một số giá trị tốt khó khăn. Ở nông thôn, tuy không gian rộng đẹp của truyền thống vẫn được bảo tồn bên rãi hơn, nhưng do chính sách đất đai (mỗi hộ cạnh việc thu nhận những giá trị nhân văn mới được sở hữu 120m2 đất ở) nên tỷ lệ tách hộ, mẻ của nhân loại. kiến tạo cấu trúc hạt nhân còn tăng nhanh hơn Mô hình kiểu loại - cấu trúc mang tính ở đô thị. Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất tương đối thuần nhất trước kia đã được thay chi phối xu hướng này là sự phát triển ý thức cá bằng sự tồn tại song hành của nhiều kiểu loại - nhân, mong muốn tháo gỡ những ràng buộc cấu trúc gia đình. Điều này xuất phát từ tính đa quá chặt chẽ như truyền thống. Nhu cầu sống dạng trong các tiền đề chi phối sự hình thành gia đình, ví như điều kiện hoạt động kinh tế, độc lập không phải chỉ của riêng lớp trẻ mà môi trường sinh sống, trình độ học vấn, mức của cả một bộ phận người cao tuổi, chủ yếu thu nhập…, đặc biệt là quan niệm của mỗi cá là những người còn sức khỏe và có đủ nguồn nhân về hạnh phúc gia đình. Mỗi kiểu loại gia lực kinh tế để chi dùng. Điều đáng nhấn mạnh đình được ví như “một lối đi kiếm tìm hạnh phúc” là, nếu trước kia, gia đình hạt nhân của các con (5). Cấu trúc của mỗi kiểu loại gia đình tất yếu thứ vẫn quây quần quanh ngôi nhà của cha ảnh hưởng tới cuộc sống của người cao tuổi. mẹ thì giờ đây các gia đình phân tán ở nhiều 82 Số 24 - Tháng 6 - 2018
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI nơi. Khoảng cách địa lý xa xôi, khiến sự thăm mang hình ảnh “Cây cao, tán hẹp”. Tuổi thọ của nom trở nên thưa thớt: một tuần, một tháng, ông bà đã tăng gấp rưỡi so với truyền thống, một năm, thậm chí vài năm một lần. cá biệt có gia đình tồn tại đồng thời hai lớp Trong nhóm gia đình hạt nhân hiện nay người cao tuổi cần phải chăm sóc. Nhưng số còn xuất hiện ngày càng nhiều loại gia đình con, số cháu của mỗi gia đình đều giảm, xuất một thế hệ: cặp đôi của người già hoặc người hiện nhiều nhà chỉ có một con. Cấu trúc 6/1 già góa/độc thân. Họ phải tự lo cho cuộc cho một ví dụ điển hình: ông bà nội, ông bà sống của mình và chăm sóc lẫn nhau. Nếu ngoại, cha mẹ cùng xoay quanh phục vụ một còn sức khỏe, họ sẽ tham gia các hoạt động đứa trẻ. So với gia đình truyền thống, hiện nay cộng đồng tìm thêm niềm vui cho cuộc sống, liên hệ chiều dọc (cha mẹ - con cái) giảm đi, nhưng khi yếu đau, các cuộc giao tiếp hạn liên hệ chiều ngang tăng lên, nhưng chủ yếu chế, họ sẽ sống trong cảm giác trống trải, cô tập trung vào sự liên kết giữa vợ và chồng. Còn đơn. Ở nhiều vùng quê, còn xuất hiện loại gia trong các gia đình “tán hẹp” này, quan hệ chiều đình khuyết thế hệ giữa (do con cái đi làm ăn ngang của đứa trẻ rất hạn chế, thậm chí triệt xa), ở nhà chỉ có ông bà và cháu nhỏ - cả hai tiêu. Gia đình ít người, mọi thành viên đều có đối tượng đều rất dễ tổn thương, cần được đặc thể được quan tâm, mức sống được nâng cao biệt quan tâm. Các bậc ông bà, dù tuổi đã cao hơn, nhưng do không cần chia sẻ nhường nhịn vẫn phải làm trách nhiệm cha mẹ đối với các như trong gia đình đông anh em, đứa trẻ “con cháu. Trong cấu trúc gia đình này, mọi chức một” rất dễ trở thành người cô độc hoặc ích năng đều khó thực hiện, từ việc giáo dục - xã kỷ. Mặt khác, nó phải chịu sức ép khi được coi hội hóa đứa trẻ cho tới chăm sóc sức khỏe thể là nguồn hỗ trợ duy nhất về vật chất và tinh chất và tinh thần của người già. thần cho cha mẹ khi già yếu. Người cao tuổi Gia đình ba thế hệ - nơi NCT sống cùng vợ trong loại gia đình này cũng hạn chế cơ hội lựa chồng con trai hoặc con gái - hiện vẫn chiếm chọn mô hình sống của mình (trước kia, người tỷ lệ trên dưới 30%. Loại gia đình này cũng có già không muốn sống với con này có thể sẽ hai dạng thức: gia đình nửa hạt nhân - chủ hộ chuyển sang ở với con khác). là con cái, và gia đình mở rộng - chủ hộ là ông Nhìn chung, quan hệ tương tác hai chiều bà, với những khía cạnh văn hóa riêng (ví dụ trong cấu trúc gia đình ba thế hệ vẫn diễn ra như tiếng nói quyết định trong gia đình). Do nhưng có nhiều thay đổi. Việc chăm sóc người chính sách hạn chế sinh đẻ, xuất hiện nhiều già, nếu không có người giúp việc, sẽ trở nên gia đình chỉ có con gái, nên số lượng cha mẹ rất khó khăn khi vợ chồng người con bị cuốn già sống cùng con rể gia tăng. Có tỉ lệ khác biệt vào tiết tấu căng thẳng của guồng quay lao về loại gia đình này giữa các vùng miền. Theo động công nghiệp. Thời gian dành cho trò kết quả khảo sát cách đây hai thập kỷ, nếu ở chuyện, tâm sự với cha mẹ già không được bao Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ chỉ 6,8% thì ở nhiêu. Việc giúp đỡ, hỗ trợ con cháu của ông miền Trung là 16,7%, riêng ở Đồng bằng Nam bà giờ đây cũng không dễ dàng. Do vậy những bộ lên tới 26,7%. Điều đó được giải thích từ mô khác biệt vốn có giữa các thế hệ (quan niệm, hình văn hóa chủ đạo ở mỗi vùng miền: ở phía phương thức, thói quen), rất dễ trở thành mâu Bắc in đậm dấu ấn của văn hóa Nho giáo phụ thuẫn, xung đột. Trong một số trường hợp, hệ, còn ở phía Nam chi phối bởi văn hóa Đông người già còn là nạn nhân bạo hành của chính Nam Á lưỡng hệ (1, tr.15). con cháu. Hiện nay người cao tuổi còn có khả Trước kia, gia đình ba thế hệ được hình năng lựa chọn một mô hình sống khác, đó là dung như “Cây thấp, tán rộng” thì giờ đây sống tại các Trung tâm dưỡng lão tùy theo Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 83
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU mức chi phí có thể đóng góp. Ở các Trung tâm Tài liệu tham khảo có dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp và hiện 1. Bùi Thế Cường (2001), Sắp xếp đời sống gia đại, NCT có điều kiện sống tốt hơn: được quan đình ở người Việt cao tuổi - một so sánh giữa hai tâm thường xuyên, có những người cùng tuổi vùng đất nước, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt giao tiếp, chuyện trò, giảm bớt tâm trạng cô Nam học lần thứ nhất tháng 7-1997, Tập IV, Nxb. đơn, buồn bã... Nhưng việc lựa chọn mô hình Thế giới, Hà Nội. này cũng gặp phải không ít trở ngại. Ngoài khó 2. Phan Đại Doãn (2006), Tìm hiểu chức năng khăn về chi phí, còn là những định kiến xã hội và đặc điểm của gia đình truyền thống người Việt, (con cái bất hiếu mới đưa cha mẹ vào nhà dưỡng trong sách Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, lão), nhất là tâm lý truyền thống của chính Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, người cao tuổi luôn mang cảm giác bị người 3. Phạm Hiển (2017), Tâm trạng của người cao thân quên lãng, bỏ rơi hay đối xử tệ bạc (3). tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão ở nước ta hiện nay, Luận án Tâm lý học, Học viện Khoa học Lời kết xã hội, Hà Nội. Già hóa dân số, gia tăng người cao tuổi là 4. Insun Ju (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế xu hướng chung của thế giới, việc thay đổi kỷ XVII - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. mô hình cấu trúc gia đình cũng là một tất yếu 5. Nguyễn Hồng Mai (2013), Đa dạng kiểu loại khách quan. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải gia đình - Xu thế khách quan của xã hội Việt Nam có những chiến lược kinh tế - xã hội thích ứng đương đại, Tạp chí Gia đình và Giới, số 2. nhằm đối phó với những hệ lụy đang và sẽ xảy 6. Nguyễn Quang Ngọc (2018), Nông thôn ra: từ việc cải cách chế độ hưu trí và bảo hiểm và đô thị Việt Nam - Lịch sử thực trạng và khuynh xã hội cho tới việc phát triển hoàn thiện hệ hướng biến đổi, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. thống dịch vụ liên quan đến người cao tuổi; từ 7. Lê Thi (2009), Sự tương đồng và khác biệt việc tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng trong quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hiếu thảo cho đến việc truyền thông thay đổi hệ người Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, định kiến xã hội, tôn trọng sự lựa chọn mô hình Hà Nội. sống của nhóm dân số này. Mặt khác, bản thân những người trẻ - với tư cách sẽ là NCT trong Ngày nhận bài: 6 - 4 - 2018 vài thập niên tới - cũng phải chuẩn bị nền tảng Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2018 kinh tế và tâm thức sẵn sàng đón nhận tuổi Ngày chấp nhận đăng: 23 - 6 - 2018 già. Khi cấu trúc gia đình đã tất yếu thay đổi, việc sống chung hay không sống chung giữa người cao tuổi và con cháu có lẽ không phải là vấn đề quan trọng nhất. Điều cần nhấn mạnh hơn là, mỗi con người trong xã hội hiện đại không được phép quên cội nguồn của mình. Trong quá trình hòa nhập vào xã hội, vào thế giới bao la của nhân loại, chúng ta vẫn cần có ý thức trân trọng và hành động tích cực để gìn giữ những tình cảm thiêng liêng giữa những người ruột thịt. N.H.M (NGƯT. Nguyên GV Khoa LLCT&KHCB, Trường ĐHVH HN) 84 Số 24 - Tháng 6 - 2018
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sổ tay Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam
68 p | 297 | 41
-
Áp dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng trong xây dựng và chuẩn hóa công cụ đo lường chất lượng cuộc sống người cao tuổi Việt Nam
12 p | 219 | 34
-
Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách
7 p | 146 | 14
-
An sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
8 p | 110 | 11
-
Vấn đề về người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
11 p | 189 | 10
-
Chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
8 p | 110 | 9
-
Một số yếu tố tác động đến khả năng nhận biết của người cao tuổi ở Khánh Mậu, Yên Khánh, Ninh Bình
12 p | 96 | 8
-
Thực hiện chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay – Vấn đề và kiến nghị
6 p | 108 | 8
-
Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Việt Nam - một số vấn đề cần quan tâm hiện nay
10 p | 109 | 6
-
Một số cơ sở thực tiễn cần quan tâm trong xây dựng, điều chỉnh chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam
15 p | 87 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với người cao tuổi (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
117 p | 17 | 5
-
Nghiên cứu về tuổi già trong miền an sinh xã hội Việt Nam: Phần 2
88 p | 52 | 5
-
Đánh giá một số nhóm chính sách quan trọng dành cho người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
12 p | 21 | 5
-
Phát triển dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi ở Việt Nam
4 p | 47 | 4
-
Người cao tuổi ở miền Trung và Nam Bộ Việt Nam năm 2000: Phác thảo từ một số kết quả nghiên cứu định tính - Bế Quỳnh Nga
0 p | 103 | 3
-
Vai trò của hưu trí xã hội trong việc giảm nghèo cho người cao tuổi ở Việt Nam
13 p | 65 | 3
-
Một số cơ sở thực tiễn cần quan tâm trong xây dựng, đình chỉnh chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam
15 p | 74 | 3
-
Việc làm của người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số
11 p | 13 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn