intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguyên tắc và kỹ xảo trong hoạt động dạy học chữ Hán

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết chỉ ra và phân tích một số nguyên tắc, kỹ xảo cơ bản trong hoạt động dạy học chữ Hán, hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến giải hữu ích cho vấn đề nghiên cứu quan trọng này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguyên tắc và kỹ xảo trong hoạt động dạy học chữ Hán

v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NGUYÊN TẮC VÀ KỸ XẢO<br /> TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỮ HÁN<br /> BÙI HUY CƯỜNG*<br /> *<br /> Học viện Khoa học Quân sự,  huiqiang1985@gmail.com<br /> Ngày nhận bài: 16/12/2018; ngày sửa chữa: 17/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/02/2019<br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Chữ Hán là đơn vị cơ bản trong kết cấu ngôn ngữ văn tự tiếng Hán. Học chữ Hán ngoài việc phải<br /> nhớ âm, nhớ nghĩa còn phải nhớ cả mặt chữ. Nếu người học không nhớ được mặt chữ sẽ không<br /> đọc được, không viết được và không biên dịch được. Do vậy, hoạt động dạy học chữ Hán ở giai<br /> đoạn sơ cấp có ý nghĩa then chốt, hiệu quả của nó quyết định lớn đến năng lực thực hành tiếng<br /> Hán tổng hợp của người học ở các giai đoạn tiếp theo. Bài viết chỉ ra và phân tích một số nguyên<br /> tắc, kỹ xảo cơ bản trong hoạt động dạy học chữ Hán, hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến<br /> giải hữu ích cho vấn đề nghiên cứu quan trọng này.<br /> Từ khóa: chữ Hán, dạy học, kỹ xảo, nguyên tắc<br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ khó sau” trong dạy viết chữ Hán, ví dụ Ngô Thế<br /> Hùng (吴世雄, 1998) cho rằng, dạy học chữ Hán<br /> Chữ Hán là ký hiệu ngôn ngữ của tiếng Hán, cần phải tiến hành từ dễ đến khó, từ đơn giản đến<br /> là loại chữ trải qua tiến trình phát triển lâu đời, phức tạp. Về vấn đề dạy bộ kiện trước hay chữ<br /> với các dấu mốc là các kiểu chữ Giáp cốt - Kim - chỉnh thể trước, dạy chữ độc thể trước hay chữ hợp<br /> Triện - Lệ - Khải - Thảo - Hành. Về mặt kết cấu thể trước, có hai quan điểm khác nhau. Tô Anh Hà<br /> chỉnh thể, chữ Hán là sự kết hợp giữa ba yếu tố (苏英霞, 2015) cho rằng, sau khi nắm vững các<br /> hình - âm - nghĩa, tức là mỗi chữ Hán đều có mối nét chữ người học mới có thể viết được chữ Hán,<br /> liên hệ giữa âm đọc, hình dạng và ý nghĩa. Đặc đồng thời chỉ ra rằng, bộ kiện nên được dạy viết<br /> điểm này khác biệt với loại chữ biểu âm như chữ trước chữ hoàn chỉnh, chữ độc thể nên được dạy<br /> phiên âm Latinh. Do vậy, hoạt động dạy học chữ viết trước chữ hợp thể. Châu Kiện (周健, 2010) lại<br /> Hán cũng mang những đặc trưng riêng và cần tuân cho rằng, trong hoạt động dạy học chữ Hán có lúc<br /> thủ các nguyên tắc, vận dụng các phương pháp, kỹ đi từ bộ phận đến chỉnh thể, có lúc đi từ chỉnh thể<br /> xảo mang tính đặc thù. Những nguyên tắc, phương đến bộ phận, bởi nghiên cứu tâm lý học đã chứng<br /> pháp và kỹ xảo này có sự khác biệt so với dạy học minh rằng, con người tri nhận sự vật ở thế giới bên<br /> các loại ngôn ngữ văn tự khác trên thế giới. ngoài, vừa đi từ bộ phận đến chỉnh thể, cũng có cả<br /> từ chỉnh thể đến bộ phận.<br /> 2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC<br /> CHỮ HÁN Theo chúng tôi, dạy học chữ Hán cần tiến hành<br /> theo nguyên tắc “dễ trước khó sau”, tuy nhiên việc<br /> 2.1. Nguyên tắc “dễ trước khó sau”<br /> thực hiện nguyên tắc này cũng cần có sự linh hoạt.<br /> Phần lớn các học giả Hán tự của Trung Quốc Dạy học chữ Hán không nên cứng nhắc đi từ bộ<br /> đều có chung quan điểm về tính tuần tự “dễ trước kiện đến chỉnh thể, từ chữ độc thể đến chữ hợp thể,<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 46 Số 18 (3/2019)<br /> PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> từ chữ ít nét đến chữ nhiều nét. Điều này có nghĩa giải ý nghĩa của tất cả 214 bộ thủ này, nhưng cần<br /> là chúng ta có thể đi từ chỉnh thể đến bộ phận ở phải giới thiệu cho học viên cách viết và ý nghĩa<br /> mức độ phù hợp. Dạy chữ nào trước, chữ nào sau của các bộ thủ cơ bản, thường gặp, như: “十”<br /> còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, có lúc không (thập), “亻” (nhân), “八” (bát ), “力” (lực), “讠”<br /> còn phụ thuộc vào số nét của chữ, cũng như độ khó (ngôn), “又” (hựu) , “氵” (chấm thuỷ), “口” (khẩu),<br /> trong viết và nhớ chữ, mà phụ thuộc vào tính thực “土” (thổ), “女” (nữ), “山” (sơn), “大” (đại), “扌”<br /> dụng, tần suất sử dụng của chữ đó cao hay thấp, (thủ) , “忄” (tâm đứng), “马” (mã), “心” (tâm) ,<br /> độ khó trong sử dụng của chữ đó như thế nào,... “日” (nhật ), “曰” (viết), “月” (nguyệt), “木” (mộc),<br /> Dạy học chữ Hán không đơn thuần chỉ là viết và “车” (xa), “火” (hoả), “贝” (bối), “目” (mục), “田”<br /> nhớ chữ, mà cần kết hợp với dạy học các kiến thức (điền ), “禾” (hoà), “白” (bạch), “立” (lập), “米”<br /> về ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Ví dụ, (mễ). Chúng tôi cho rằng, trong hoạt động dạy học<br /> chữ “我” (tôi) tạo bởi 7 nét bút, chữ “了” (rồi) tạo chữ Hán, giảng viên không những phải phân tích<br /> bởi 2 nét bút, nhưng chữ “我” được dạy sớm hơn kết cấu của chữ, mà còn phải phân tích ý nghĩa của<br /> chữ “了” . Bởi lẽ “我” là đại từ nhân xưng, có tính các bộ thủ hoặc bộ kiện tham gia cấu thành chữ<br /> thực dụng và tần suất sử dụng cao. Chữ “了” mặc Hán đó. Từ đó giúp học viên hình thành ý thức tìm<br /> dù ít nét hơn, dễ viết hơn, nhưng là trợ từ, cách sử hiểu, khám phá nội hàm ẩn chứa bên trong mỗi bộ<br /> dụng tương đối phức tạp. Trọng điểm dạy học chữ thủ, mỗi con chữ, hình thành ý thức nhớ chữ, học<br /> “了” không còn ở phương diện cách viết mà là ở chữ theo bộ thủ.<br /> phương diện ngữ pháp, cho nên chữ Hán này sẽ<br /> phải bố trí ở các bài về sau. 2.2. Chú trọng thuần thục quy tắc bút thuận<br /> <br /> Đơn vị tạo chữ nhỏ nhất là nét, nét cấu thành Khi viết những chữ Hán có từ hai nét trở lên,<br /> bộ, bộ cấu thành chữ, do vậy muốn học tốt chữ thông thường đều phải tuân thủ theo các quy tắc<br /> Hán người học cần phải cần mẫn từ những nét bút bút thuận, tức là phải tuân thủ nét nào trình bày<br /> đầu tiên. Nét chữ Hán có thể chia thành 2 nhóm, đó trước, nét nào trình bày sau, không được tùy tiện<br /> là nhóm nét cơ bản và nhóm nét phái sinh. Nhóm đảo lộn thứ tự các nét. Quy tắc chính tả chữ Hán<br /> nét cơ bản gồm 6 nét, đó là: ngang (一), sổ (丨), (thường gọi là quy tắc bút thuận) bao gồm 7 quy<br /> phẩy (丿), chấm (丶), mác (㇏), hất (㇀). Nhóm tắc như sau: phẩy trước mác sau (VD: 人, 八, 入);<br /> nét phái sinh gồm 25 nét, được hình thành trên cơ ngang trước sổ sau (VD: 十, 干, 王); trên trước<br /> sở 6 nét cơ bản. Các nét phái sinh thông dụng như: dưới sau (VD: 三, 竟, 音); trái trước phải sau (VD:<br /> ngang gập (
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2