intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguyễn Thông và vẻ đẹp thơ văn nhà nho hành đạo nửa sau thế kỷ XIX

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

64
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguyễn Thông (1827-1884) tự Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am, là quan lại triều Nguyễn và là một danh sĩ nổi tiếng Việt Nam. Ông từng thi đỗ cử nhân lúc 23 tuổi và nhận chức Huấn đạo ở huyện Phú Phong (An Giang), từng tòng quân đánh giặc dưới quyền của Tôn Thất Hiệp và làm quan trải qua các chức Vệ úy, Chưởng vệ, Phó đề đốc, Đốc học, Án sát, Bố chánh…

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguyễn Thông và vẻ đẹp thơ văn nhà nho hành đạo nửa sau thế kỷ XIX

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018<br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thông và vẻ đẹp thơ văn nhà nho hành đạo<br /> nửa sau thế kỷ XIX<br /> Nguyen Thong and the Poetic Beauty of the Active Confucian Scholar<br /> in the Late 19th Century<br /> <br /> PGS.TS. Lê Văn Tấn, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam<br /> Lê Van Tan, Assoc. Prof., Ph.D., Vietnam Academy of Social Sciences<br /> <br /> ThS. Kim Gang San, Hàn Quốc<br /> Kim Gang San, M.A., South Korea<br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Nguyễn Thông (1827-1884) tự Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am, là quan lại triều Nguyễn và<br /> là một danh sĩ nổi tiếng Việt Nam. Ông từng thi đỗ cử nhân lúc 23 tuổi và nhận chức Huấn đạo ở huyện<br /> Phú Phong (An Giang), từng tòng quân đánh giặc dưới quyền của Tôn Thất Hiệp và làm quan trải qua<br /> các chức Vệ úy, Chưởng vệ, Phó đề đốc, Đốc học, Án sát, Bố chánh… Cùng với một số tác giả khác<br /> gần như đồng thời là Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, Tống Duy Tân…, Nguyễn Thông đã xác<br /> lập cho mình một con đường hành đạo mới của nhà nho trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Sự nghiệp<br /> của ông trải trên nhiều tư cách: nhà hoạt động chính trị - xã hội, nhà giáo dục, nhà thơ, nhà văn nổi<br /> tiếng, nhà sử học có ý thức trách nhiệm cao, có đóng góp rất tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước.<br /> Những phương diện này đều được Nguyễn Thông thể hiện khá sinh động, chân thực trong thơ văn của<br /> mình và đây là nội dung chính được chúng tôi triển khai trong bài viết này.<br /> Từ khóa: Nguyễn Thông, nhà nho hành đạo, vẻ đẹp thơ văn, thế kỷ XIX, phong trào tỵ địa.<br /> Abstract<br /> Nguyen Thong (1827-1884), given name Hy Phan, pen-name Ky Xuyen, personal name Don Am, was a<br /> mandarin of the Nguyen Dynasty and a well-known Vietnamese intellectual. He had passed his<br /> bachelor's degree at the age of 23 and took up the teaching position in Phu Phong district (An Giang<br /> province). He used to fight under the control of Ton That Hiep and worked as the posts of military<br /> officer, patrol, Deputy Provincial Military Commander, Provincial Education Commissioner,<br /> Surveillance Commissioner, Administration Commissioner, etc. Along with some other authors such as<br /> Nguyen Xuan On, Nguyen Quang Bich and Tong Duy Tan, Nguyen Thong established a new path of<br /> practice in the late nineteenth century. His career spanned multiple degrees: political activist, educator,<br /> poet, writer, historian with high sense of responsibility, who greatly contributed to the common cause of<br /> the country. These aspects are all quite lively and true in his poetry, and this is what will be discussed in<br /> this article.<br /> Keywords: Nguyen Thong, the active Confucian scholar, poetic beauty, nineteenth century, non-<br /> cooperation movement.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> NGUYỄN THÔNG VÀ VẺ ĐẸP THƠ VĂN NHÀ NHO HÀNH ĐẠO NỬA SAU THẾ KỶ XIX<br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề nạp dân Nam kỳ ra đấy ngụ cư, vận động<br /> Cuộc đời và con đường hành đạo của nhân dân địa phương khẩn hoang, làm thuỷ<br /> nhà nho trong bối cảnh mới của lịch sử lợi, trồng cây.., và dốc sức diệt tệ nhũng<br /> dân tộc nửa sau thế kỷ XIX. lạm, cường hào.<br /> Nguyễn Thông (1827-1884) tự Hy Nhận thấy Nguyễn Thông làm được<br /> Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am, nhiều việc, bọn xôi thịt, hủ lậu cấu kết<br /> là quan lại triều Nguyễn và là một danh sĩ nhau gièm pha, cộng thêm ông bị tên Lê<br /> nổi tiếng Việt Nam thế kỷ XIX. Ông sinh Doãn vu cáo. Cả tin, Triều đình ra lệnh<br /> tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, cách chức, bắt giam và xử đánh roi ông.<br /> huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia May mà nhờ bạn bè, nhân dân hết sức<br /> Định (nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện minh oan, ông mới được giảm tội.., Năm<br /> Châu Thành, tỉnh Long An). Ông từng có 1873, do nhiều bệnh, Nguyễn Thông xin<br /> điều kiện theo học trường của thầy Võ cáo quan về nghỉ ở Trại Núi (Bình Thuận),<br /> Trường Toản tại Gia Định. Năm 1849, ông lập thi xã, mở trường dạy học. Năm 1876,<br /> thi đỗ cử nhân lúc 23 tuổi. Hai năm sau thi ông ra Huế làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám,<br /> hội, vào đến trường ba nhưng vì quyển thi rồi lại về Bình Thuận giữ chức Phó sứ<br /> của ông lấm mực nên bị đánh hỏng. Vì Điền nông kiêm Đốc học. Bấy giờ, bệnh<br /> hoàn cảnh nhà nghèo không thể tiếp tục của ông ngày càng nặng, bởi những trận<br /> theo đuổi việc học, Nguyễn Thông đành đòn tra khảo năm xưa cùng tâm trạng luôn<br /> phải nhận chức Huấn đạo ở huyện Phú lo âu vì nạn dân, nạn nước..., nên vào năm<br /> Phong (An Giang). Đến năm 1856, nội các 1878, Nguyễn Thông xin nghỉ dài hạn tại<br /> đề cử ông ra Huế dự việc biên soạn sách. Phan Thiết. Dù vậy, thường ngày ông vẫn<br /> Ba năm sau, thực dân Pháp chiếm lấy Gia cùng quan lại địa phương sốt sắng giải<br /> Định, Nguyễn Thông xin vào Nam tòng quyết việc cho dân. Nơi đây, ông lập một<br /> quân đánh giặc dưới quyền của Tôn Thất nhà học lấy tên Ngoạ Du Sào (tổ nằm<br /> Hiệp. Năm 1859, khi thực dân Pháp xâm chơi). Năm 1881, Nguyễn Thông được<br /> chiếm miền Đông Nam Kỳ, ông xin tòng lệnh ra lại Bình Thuận đảm đương trọng<br /> quân và được cử làm tham mưu (coi việc trách cũ và ông đã qua đời tại đấy (ngày<br /> cơ mật) cho tướng Tôn Thất Hiệp. Năm 7/7/1884), hưởng dương 57 tuổi.<br /> 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông được Về đời sống riêng, Nguyễn Thông có<br /> thăng từ Vệ úy lên Chưởng vệ, sung chức kết hôn với bà Ngô Thị A Thúy (Ngô Thị<br /> Phó đề đốc để hiệp thương cùng Trương Tý), cháu cố của Ngô Nhân Tịnh, sinh<br /> Định chống giặc. Năm 1862, Triều đình được hai người con trai là Nguyễn Trọng<br /> nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, Lội và Nguyễn Quý Anh (cả hai sau này<br /> hưởng ứng phong trào “tị địa” (không sống đều là những nhà cải cách trong phong<br /> chung với giặc), ông về miền Tây giữ chức trào Duy Tân) và ba người con gái. Ngoài<br /> Đốc học Vĩnh Long, dưới quyền của Phan ra, ông còn có một người con trai và một<br /> Thanh Giản. Đến khi ba tỉnh này cũng bị người con gái với người vợ kế họ Đoàn.<br /> mất vào năm 1867, Nguyễn Thông nhận Theo ghi chép của một số nhà nghiên cứu,<br /> chỉ ra Bình Thuận làm Án Sát rồi tiếp theo mặc dù tâm lực dành chủ yếu cho sự<br /> là Bố Chánh tỉnh Quãng Ngãi. Ở những nghiệp hành đạo song ông vẫn luôn cố<br /> nơi ấy, ông cho lập nhiều trang trại, thu gắng quan tâm, chăm lo cho gia đình, cho<br /> <br /> 4<br /> LÊ VĂN TẤN - KIM GANG SAN<br /> <br /> <br /> vợ và đặc biệt luôn theo sát sự học cũng Vì nạn ngoại xâm cộng thêm thiên tai mất<br /> như con đường phát triển của các con. Ở mùa triền miên, sưu cao thuế nặng, cường<br /> tư cách này, Nguyễn Thông cũng đã có hào ác bá áp bức nên người nông dân nhiều<br /> nhiều bài thơ bày tỏ tình cảm và sự gắn bó nơi li tán, loạn lạc, đói rách… Lời thơ của<br /> máu thịt với gia đình, vợ con của mình. ông vì lẽ đó mà được viết ra với một nỗi<br /> Chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở phía dưới. đồng cảm, chia sẻ hết sức sâu sắc:<br /> Như vậy, với những gì đã thể hiện, có Vọng tận thiên Nam chiến huyết tinh,<br /> thể khẳng định, Nguyễn Thông trước hết Thập niên mã thủ mộng Mai Đình.<br /> xác lập trên tư thế một nhà nho hành đạo Na tri đán vũ, man yên địa,<br /> trong thời đại mới, thời đại của sự đổi thay Thượng hữu giang hồ lão khách tinh.<br /> mẫu người này trong lịch sử Nho giáo (Bình Hoà phùng đồng quận Hà Lang)<br /> trung đại. Nếu nhà nho hành đạo trước đó, Ngóng về nơi sực mùi máu chiến tranh<br /> sinh ra và theo đuổi gắn bó với sự nghiệp phía trời Nam,<br /> khoa cử, với khát vọng kinh bang tế thế, Mười năm mơ được quay đầu ngựa về<br /> khát vọng được hiện thực hóa giáo lý của hướng Mai Đình.<br /> Nho giáo, được mang tài năng phục vụ Nào hay ngay chốn xa xôi mưa Mường<br /> triều đại và nhân dân thì đến giai đoạn này, khói Mán,<br /> khi Nho giáo dần không đảm nhiệm được Cũng vẫn có mặt vị khách tinh lưu lạc<br /> sứ mạng của nó và chuyển giao cho các giang hồ.<br /> học thuyết chính trị xã hội mới thì nhà nho (Ở xứ Bình Hòa gặp người đồng<br /> hành đạo cũng buộc phải có sự lựa chọn hương là Hà Lang)1<br /> con đường của riêng mình. Cùng với một Hay: Nhất ngoạ Long Giang chử,<br /> Niên hoa ngũ độ xuân.<br /> số nhà nho - nhân sĩ trí thức thức thời của<br /> Tiệm khan nhi nữ đại,<br /> thời đại, Nguyễn Thông đã tích cực tham<br /> Đấu giác mấn mao tân.<br /> gia vào công cuộc kháng Pháp. Mặc dù thất<br /> Quan dĩ trì tàng chuyết,<br /> bại song qua đó những nhà nho hành đạo<br /> Thân tương kiệm bổ bần.<br /> đã bộc lộ được vẻ đẹp nhân tính của mình Cố hương nhung mã tại,<br /> trên tư cách một người yêu nước, yêu dân Cốt nhục chính bi tân.<br /> và khát vọng độc lập dân tộc tiêu biểu của (Ðinh Mão tân tuế tác)<br /> Nam Bộ giai đoạn từ sau 1858 đến hết thế Nằm ở bãi Long Giang,<br /> kỷ XIX. Tác phẩm của ông gồm có Ngoạ Đã trải qua năm năm rồi.<br /> Du Sào thi tập, Ngoạ Du sào văn tập, Kỳ Nhìn lại đoàn con trai con gái đã khôn<br /> Xuyên công độc văn sao, Việt sử cương lớn lên dần,<br /> giám khảo lược, Nhân sự kim giám… Bỗng thấy mái tóc mình đã đổi sắc mới.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu Làm quan vì chậm thăng nên giấu<br /> Thơ văn Nguyễn Thông có nội dung được vụng về,<br /> khá phong phú. Trong đó, một số lượng Nhà nghèo giữ được tiết kiệm để đỡ<br /> đáng kể ông dành cho việc tỏ bày, thể hiện túng thiếu.<br /> nỗi xót xa, đau đớn khi chứng kiến cảnh Ở làng cũ nay đương có giặc giã,<br /> khói lửa chiến tranh trên quê hương trong Bà con cốt nhục đang chịu cảnh tang<br /> cuộc đối đầu không cân sức giữa dân tộc tóc đắng cay.<br /> Việt Nam với thực dân Pháp lúc bấy giờ. (Ngày tết năm Đinh Mão, 1867)<br /> <br /> 5<br /> NGUYỄN THÔNG VÀ VẺ ĐẸP THƠ VĂN NHÀ NHO HÀNH ĐẠO NỬA SAU THẾ KỶ XIX<br /> <br /> <br /> Nhìn cảnh Triều đình cứ một bước Chỉ kim Yên Triệu bi ca khách,<br /> một lùi, nhân nhượng đến nhượng bộ kẻ Nhiệt huyết điền ưng lữ mấn sương.<br /> thù, thực dân mặc sức thao túng, hoành (Thư hoài thị Doanh điền phó sứ Bùi<br /> hành ở phía Nam, trong khi phía Bắc vẫn Bá Xương)<br /> hừng hực khí thế của các cuộc khởi nghĩa Bến Nghé không dưng hóa thành chiến<br /> của các sĩ phu và nông dân yêu nước song trường,<br /> tất cả đều thất bại.., mà lòng ông quặn Hai mươi năm nơi miền sông bể, lấy<br /> thắt. Tác giả nhìn đâu cũng thấy chiến say làm quê hương.<br /> trường máu đổ, mà mình thì dường như Từ đất cũ cùng đến đây giờ chỉ còn có ông,<br /> bất lực trong khi bầu máu nóng với dân Quen va chạm với hiểm nguy, đáng<br /> với nước vẫn nguyên vẹn: cười tôi là ngông cuồng.<br /> Vũ hám phong chàng chiến huyết đôi, Lời nghị luận trong triều toàn nghe<br /> Bằng cao đương nhật quyện đê hồi. bàn về năm điều lợi,<br /> Ninh tri nhất lão ky tinh hậu, Buồm mây biết ngày nào thẳng ra<br /> Hoàn hữu tiên tra phạm Đẩu lai. trùng dương.<br /> Thụ đới tàn chi kinh kiếp hỏa, Đến nay duy chỉ có những khách<br /> Trúc trừu tân duẫn đãi xuân lôi. khảng khái bi ca nước Yên nước Triệu,<br /> Ưu thời Giả phó thiên đa cảm, Máu nóng vẫn đầy lồng ngực nhưng<br /> Khẳng khái đằng lâm thủ trụng hồi. mái tóc đã bạc trắng nơi quê người rồi.<br /> (Phụng họa Nguyễn Phạm thị hiền (Ghi nỗi lòng đưa ông Doanh điền phó<br /> Gia Định cố thành, ký chi tác) sứ Bùi Bá Xương)<br /> Gió dập mưa dồn trên vùng đất đẫm Cuối năm 1861, khi quân Pháp chiếm<br /> máu chiến tranh, thành Biên Hòa, quân triều đình rút lui về<br /> Trên cao mỏi mệt cúi đầu nhớ lại buổi ấy. Phước Tuy, Nguyễn Thông có đi theo, cảm<br /> Nào hay sau khi một ông già cưỡi sao khái trước hoàn cảnh lúc bấy giờ, Nguyễn<br /> đi rồi, Thông viết:<br /> Lại có bè tiên phạm sao Đẩu tới. Ngâm thiền bất tri xứ,<br /> Cây mang cành tàn còn sợ cơn lửa kiếp, Bạc mộ thanh cánh bi.<br /> Tre nảy măng non đang chờ tiếng sấm Hành khách quyện dục tức,<br /> xuân. Thâm lâm nhân tích hy.<br /> Lòng Giả phó lo đời riêng ngổn ngang Cơ hổ giáp lộ đề,<br /> cảm xúc, Linh lộ triêm ngã y.<br /> Ngậm ngùi lên cao trông về, mấy lần Sở tư diểu thiên mạt,<br /> ngoái đầu lại. Bồi hồi tương an quy.<br /> (Kính họa thơ “Thành cũ Gia Định” (Long Thành Phước Tuy đồ trung<br /> của hai ông Nguyễn và Phạm gởi) cảm hoài)<br /> Ngưu Chử vô đoan tác chiến trường, Ve kêu không biết ở nơi nào,<br /> Trấp niên giang hải túy vi hương. Lúc chiều tối, tiếng nghe càng thêm<br /> Đồng lai cố quận duy quân tại, buồn thảm.<br /> Quán xúc nguy cơ tiếu ngã cuồng. Khách đi đường mỏi mệt muốn nghỉ,<br /> Triều luận không văn đàm ngũ lợi, Rừng sâu vết chân người ít.<br /> Vân phàm hà nhật hạ trùng dương. Hổ đói gào thét sát bên đường,<br /> <br /> 6<br /> LÊ VĂN TẤN - KIM GANG SAN<br /> <br /> <br /> Sương rơi ướt đầm áo ta. Mồ chôn nơi đất khách nay lại càng<br /> Nơi mình nghĩ tới ở chân trời xa vời, thêm hiu quạnh.<br /> Dùng dằng nhưng làm sao trở về được. Rưới một chén rượu vào đám cỏ thơm<br /> (Từ Long Thành đi Phước Tuy cảm trên mồ,<br /> hoài trên đường) Hai hàng nước mắt lã chã rơi dưới<br /> Bên cạnh đó, thơ Nguyễn Thông còn bóng chiều tà.<br /> thể hiện tình cảm chân thành, giản dị mà Các cháu (con của em) biết gửi nhờ<br /> sâu sắc đáng quý của ông cho gia đình, vợ ai,<br /> con nói riêng, cho xóm làng nói chung: Một mình lẻ loi ra đi khác với mọi<br /> Âm phù thư đố kiếm ngân ân, người.<br /> Mã giác nan kỳ lữ mấn ban. Đêm nay từ chỗ sông Mân dời thuyền<br /> Tạc dạ thuần lô giang thượng mộng, Trời lạnh mưa lất phất suốt đêm<br /> Tiên tuỳ hoàn hội đáo gia san. (Từ biệt mộ người em)<br /> (Tống nội tử Ngô Vũ khanh Nam quy, Đặc biệt, Nguyễn Thông dành tình<br /> kỳ 2) cảm khá sâu nặng của mình để bày tỏ sự sẻ<br /> Sách âm phù đã mọt, gươm đã rỉ hoen, chia với những nhân sĩ vì chí vì nghĩa lớn<br /> Khó hẹn đến khi ngựa mọc sừng, ở mà phải bỏ mình. Đó là các thơ viết về<br /> mãi đất khách khóm tóc mai đã pha bạc. Phan Văn Đạt, Trương Định, Hồ Huân<br /> Đêm qua nằm mơ về trên sông hưởng Nghiệp, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn<br /> cái thú canh rau cần chả cá vược, Duy… Trường hợp ông viết về Nguyễn<br /> Giấc mơ ấy đã theo vòng xuyến bà về Duy là một ví dụ tiêu biểu. Ngày 16 tháng<br /> quê nhà trước. giêng năm Tân Dậu (1861) quân Pháp đánh<br /> (Tiễn vợ về Nam, kỳ 2) đồn Phú Thọ, Nguyễn Duy (cháu Nguyễn<br /> Ông nặng lòng với nấm mồ của người Tri Phương) lúc bấy giờ làm chức tán lý<br /> em quạnh quẽ nơi đất khách. Đây là bài thơ khu Ðịnh Biên ra sức chống trả, bị tử trận,<br /> ông viết về người em tên Hài chữ Quý xác không còn nguyên vẹn, nhờ có người<br /> Hòa, mất chôn ở thôn Trung, xã Mỹ nhận ra dấu áo ông thường mặc mới thu<br /> Thạnh, huyện Vĩnh Bình (tỉnh Vĩnh Long). lượm được đem về táng ở cửa phương<br /> Ngày 19-5-1867 (Ðinh Mão) thành Vĩnh Ðông thành Biên Hoà. Bài thơ như sau:<br /> Long thất thủ, Nguyễn Thông nhận chỉ đổi Tây phong phiêu đại thụ,<br /> ra Bình Thuận. Ngày 5 tháng 7 ra đi, ông Nhất địch ế viên môn.<br /> làm bài thơ này để từ biệt nấm mồ em: Mãn địa mai hùng lược,<br /> Nam sự kỷ thì định, Tam quân khấp cựu ân<br /> Lữ phần kim cánh vi. Ðồ tích không y táng,<br /> Nhất bôi loại phương thảo, Na tri hạo khí tồn.<br /> Song lệ lạc tà huy. Niên niên hư trủng thượng,<br /> Chư điệt bằng thuỳ thác, Di lão loại phương tôn.<br /> Cô tung dữ chúng vi. (Khấp Nguyễn Duy)<br /> Mân giang di trạo xứ, Gió tây xô cây đại thụ,<br /> Hàn vũ dạ phi phi. Một đêm ngã lấp cửa viên.<br /> (Biệt vong đệ lữ phần) Khắp đất vùi chôn thịt xương người<br /> Việc trong Nam biết bao giờ xong, thao lược hùng tài,<br /> <br /> 7<br /> NGUYỄN THÔNG VÀ VẺ ĐẸP THƠ VĂN NHÀ NHO HÀNH ĐẠO NỬA SAU THẾ KỶ XIX<br /> <br /> <br /> Ba quân khóc nhớ ơn xưa. Há phải cúng tế thánh thần trong núi.<br /> Người người tiếc chỉ chôn có chiếc áo Khó nhọc một lần mà có thể thong thả<br /> không mà thôi, lâu dài,<br /> Nào hay hạo khí mãi vẫn còn. Tốn phí chốc lát mà có thể yên ổn mãi<br /> Hàng năm trên chỗ mộ phần rỗng, mãi.<br /> Các bậc di lão vẫn rưới rượu lên ngọn Mấy lời nhắn với bạn nhà nông ta,<br /> cỏ thơm. Có chí thì cuối cùng việc sẽ xong.<br /> (Khóc Nguyễn Duy) (Khuyên chấn hưng việc thủy lợi)<br /> Trong cuộc đời hành đạo của mình, Một nội dung nữa cần phải nhắc đến<br /> Nguyễn Thông còn có đóng góp quan trọng trong thơ văn Nguyễn Thông chính là sự<br /> cho công cuộc vận động tổ chức đưa dân đi quan tâm của ông đối với sự nghiệp giáo<br /> khai hoang, làm thủy lợi, trồng cây ở hai dục nhằm nâng cao học phong của thời đại<br /> xứ Quảng Ngãi và Bình Thuận. Những bấy giờ. Nguyễn Thông đã có quãng thời<br /> việc làm của ông trên mặt trận này càng gian khá dài làm Đốc học và đây chính là cơ<br /> cho thấy ở Nguyễn Thông một năng lực tư hội giúp ông hiện thực hóa tư tưởng thực<br /> duy và hành động gắn chặt với thực tiễn, học của mình được khơi nguồn từ trước với<br /> tiến bộ, yêu quý và chủ động gắn bó, gần danh nho Võ Trường Toản. Đây là bài ông<br /> gũi với đời sống của người nông dân viết để ngợi ca tài học và công đức của Võ<br /> đương thời. Nội dung này cũng được ông Trường Toản:<br /> phản ánh sinh động trong các sáng tác của Phu tử đĩnh sinh hậu thiên tải,<br /> mình mà tiêu biểu như các bài Khuyến cần Nhược tại Thù Tứ thân cung tường.<br /> nông (Khuyên chăm việc làm ruộng), Đại học nhất biên yết vi chỉ,<br /> Khuyến hưng cừ (Khuyên chấn hưng việc Hoàng hoàng thu hiệu trác hán chương.<br /> thủy lợi), Khuyến tài thực (Khuyến trồng Thiên sinh đại hiền vị giác thế,<br /> trọt), Tân lang thụ (Cây cau), Ngô đồng Huân liệt bất tại đăng nham lang.<br /> (Cây ngô đồng)… Cập môn chư công thụ tâm pháp,<br /> Cao điền thủy dị hạc, Thủ chỉnh hải nhạc phù hoàng cương...<br /> Đê điều thủy bất dinh. (Đinh Mão tam nguyệt nhị thập bát<br /> Cận sơn hữu tuyền mạch, nhật thiên táng Sùng Đức Võ phu tử<br /> Cừ yển nghi tảo doanh. thuật sự húc đồng học chư tử)<br /> Cử tháp tự thành vũ, Phu tử sinh ra sau hàng ngàn năm,<br /> Hà tất từ sơn linh. Mà như gần cạnh cung tường nơi sông<br /> Nhất lao khả cửu dật, Thù sông Tứ.<br /> Tạm phí khả vĩnh ninh. Một quyển Đại học phát huy yếu chỉ<br /> Ký ngữ ngã nông nhân, tinh vi,<br /> Hữu chi sự cánh thành. Rực rỡ như dòng sông Hán ngời ngời<br /> (Khuyến hưng cừ) trên trời thu.<br /> Ruộng trên cao nước dễ bị cạn, Trời sinh bậc đại hiền để dạy dỗ cho đời,<br /> Ruộng dưới thấp nước không đầy. Công nghiệp không phải ở chỗ làm<br /> Gần núi có mạch suối, quan cho triều đình.<br /> Việc đào nương đắp đập nên làm cho sớm. Các ông môn đệ được trao tâm pháp,<br /> Cầm cái mai đào là thành mưa, Đều là những người sửa sang non bể,<br /> <br /> 8<br /> LÊ VĂN TẤN - KIM GANG SAN<br /> <br /> <br /> nâng đỡ hoàng gia... kẻ sĩ mà cả cuộc đời hành trình cùng thời<br /> (Ngày 28 tháng 3 năm Đinh Mão 1867 đại đau thương của đất nước:<br /> dời mộ Sùng Đức Võ phu tử thuật lại để Dục tầm dao thảo nhiễu hồ thành,<br /> khuyên các học trò) Vân ảnh hồ quang chiếu nhãn thanh.<br /> Với những trải nghiệm quý giá của Tối ái dạ lai tân nguyệt thượng,<br /> mình trên các cương vị khác nhau, đặc biệt Dã hàng hoành dịch kích không minh.<br /> là những công việc có liên quan đến giáo (Bạch Hồ nhàn hành)<br /> sự, Nguyễn Thông càng thêm cơ hội và Muốn tìm cỏ thơm, đi vòng quanh hồ,<br /> kinh nghiệm thể hiện tư tưởng học tập Bóng mây pha ánh hồ chiếu lên sắc xanh.<br /> cũng như sáng tạo nghệ thuật phải gắn với Thích làm sao khi đêm đến, trăng non<br /> hiện thực đời sống xã hội. Vì lẽ đó, ông vừa lên,<br /> phản đối lối học cũ sáo mòn, tầm chương Được thổi sáo bơi thuyền nan khua<br /> trích cú, hoa mỹ hình thức mà không đào bóng trăng trên mặt nước.<br /> sâu vào nội dung tư tưởng. Ông đòi hỏi kẻ (Đi dạo ở Bạch Hồ)<br /> sĩ thì không chỉ sách vở ru rú một xó, mà Lịch tận nguy cơ toái phách tô,<br /> phải tham gia xông pha, xâm nhập vào đời Hải thiên hà xứ nhận quy đồ.<br /> sống của nhân dân thì mới có thể có những Bán song thủy nguyệt Nam Trung cảnh,<br /> trang viết sinh động và thuyết phục được Tứ bích vân sơn vật ngoại đồ.<br /> người đọc: Cao ngọa tiệm thành Kê Thúc lãn,<br /> Bệnh khởi nha thiêm cửu ô trần, Phóng ca thùy tín Liễu Châu ngu.<br /> Án đầu kiểm điểm mỗi thận thân. Tửu hàm ngạn trách giang thôn vãn,<br /> Quái lai cổ tịch năng lưu độc, Nhàn hứa sa âu bạn điếu đồ.<br /> Thích thủ thương đa dục sát nhân. (Giang đình đề bích)<br /> (Nhàn cư kiểm thư vị độc vật sở thích) Trải hết nguy nan, thể phách tan nát<br /> Khỏi bệnh, thấy những cái thể đánh rồi sống lại,<br /> dấu sách bị bụi phủ đã lâu, Góc bể chân trời biết dường về nơi đâu.<br /> Một mình xem xét dọn dẹp ở trước án. Trăng nước nửa song gợi cảnh Nam Trung,<br /> Việc kỳ quái xảy ra trong sách cũ lại Núi mây bốn vách như tranh cõi tiên.<br /> chứa giữ vật độc, Nằm khểnh dần trở nên lười như Kê Thúc,<br /> Chích vào tay ta rất đau tưởng chết. Ca tràn ai tin được cái ngu của Liễu Châu.<br /> (Lúc rỗi kiểm lại sách vở bị con vật Rượu say bịt khăn đi dạo bên thôn ven<br /> độc chích) sông lúc xế chiều,<br /> Bên cạnh những quan hoài trở trăn của Nhàn hẹn với chim âu trên bãi cát,<br /> mình trên tư cách của một nhà nho yêu đánh bạn với ông câu.<br /> nước và hành động hướng về đất nước, về (Đề vách đình bên sông)<br /> người dân cũng như học phong Nam Bộ Một đóng góp quan trọng khác của<br /> lúc đó, Nguyễn Thông còn một số bài thơ Nguyễn Thông không thể không nhắc tới<br /> hướng nội với sự thể hiện nhưng ưu tư thân chính là những tư tưởng của ông được thể<br /> phận cá nhân, lời thơ buồn váng vất mà hiện qua điều trần 4 việc nội trị khi được<br /> đẹp đẽ. Đó cũng là lúc ông hướng sự quan vua Tự Đức cầu lời nói thẳng. Bốn việc đó<br /> tâm của mình tới thiên nhiên trăng gió với là “Chọn nhân tài bổ làm quan; cải tiến<br /> mong muốn được hưởng chút an nhàn của việc võ lược; sửa đổi thuế và thổ sản; chú<br /> <br /> 9<br /> NGUYỄN THÔNG VÀ VẺ ĐẸP THƠ VĂN NHÀ NHO HÀNH ĐẠO NỬA SAU THẾ KỶ XIX<br /> <br /> <br /> trọng điều khoan hậu”. Bản tấu này mặc dù đất nước, một lần nữa chúng ta chia sẻ với<br /> đã có lịch sử trên một thế kỷ, song theo các ông về khát vọng, tâm huyết trong việc xây<br /> nhà nghiên cứu nó hiện vẫn chứa đựng dựng một bộ máy quan lại trong sạch, vì<br /> nhiều giá trị, nhất là với công cuộc cải dân và chế độ. Chỉ tiếc là nhà Nguyễn đã<br /> cách, đổi mới của đất nước trong giai đoạn không nghe theo điều trần của ông như đã<br /> hiện nay. Ví như về việc chọn nhân tài bổ từng không nghe nhiều đề nghị canh tân<br /> làm quan, Nguyễn Thông viết: “Thời xưa của nhiều trí thức cấp tiến lúc bấy giờ<br /> chọn kẻ sĩ, phải xem xét rõ ràng, chắc chắn (Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,<br /> rồi mới bổ làm quan. Vì chức quan mà Phạm Phú Thứ...). Âu đó cũng là do sự<br /> chọn người, không vì người mà chọn chức quy định bởi điều kiện và hạn chế có tính<br /> quan... Thế mà nay những học trò sơ học lịch sử mà nhà Nguyễn đã không vượt<br /> non nớt, những con nhà quyền quí vênh qua được.<br /> váo, những bọn lại điển tầm thường; không 3. Kết luận<br /> xét hạnh kiểm, không lường tài năng, chỉ Đánh giá về thơ văn Nguyễn Thông,<br /> căn cứ vào phẩm hàm của cha ông mà giao tác giả Lê Chí Dũng và Nguyễn Kim Hưng<br /> ngay cho trách vụ trọng yếu. Làm quan viết: “Thơ văn Nguyễn Thông là tấm lòng<br /> không có đủ tư cách mà cho giữ chức điều ưu ái đối với những người xấu số, sự quan<br /> khiển, không trong sạch mà cho giữ quyền tâm đến nghề làm ruộng và gắn bó với đời<br /> tài chánh, không giỏi phán đoán mà cho sống của nông dân. Ông ca ngợi và xót<br /> giữ việc can răn, quen thói nể nang mà cho thương những người hy sinh trong cuộc<br /> làm việc điều bổ quan chức. Như thế muốn chiến đấu chống Pháp. Nổi bật và bao<br /> quan lại xứng chức, nhân dân thoả lòng và trùm là tấm lòng yêu mến quê hương mà<br /> chính sự mở mang, phỏng có được không? ông phải lìa bỏ vì không chịu sống trên đất<br /> Gần đây, có tệ bỏ chức nghiệp để đi cầu kẻ thù đã chiếm đóng... Đó là nét đặc sắc<br /> cạnh thanh danh, kết nhiều bè bạn để nhờ của một con người tiêu biểu cho phong<br /> đề cử. Đã là thân nhơ bẩn mà muốn danh trào tỵ địa - một trong những phong trào<br /> được đồn vang... Thần trộm thấy, thói cầu yêu nước ở Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX”2.<br /> cạnh thịnh hành thì đạo liêm sỉ bị tổn thất, Về bút pháp, nhận thấy, hầu hết trước tác<br /> phép lựa chọn càng thả lỏng thì quan lại của ông thiên về tả thực, hướng đến và thể<br /> kém cỏi... Từ nay xin, mỗi lần chức vụ có hiện sự gắn bó sâu sắc với tình hình chính<br /> khuyết thì Bộ Lại phải xét trước những trị xã hội cũng như đời sống của người dân<br /> người đáng được điều bổ. Phẩm hàm lúc bấy giờ. Thơ ông giàu tính chất trữ<br /> ngang nhau thì xét hạnh kiểm. Hạnh kiểm tình, mang tính tố cáo cao, không sa đà<br /> ngang nhau thì xét tài năng. Tài năng viển vông hay sáo rỗng... Tuy nhiên, đôi<br /> ngang nhau thì xét công trạng... Sau khi đã lúc trong thơ văn ông, nhất là những bài<br /> nhận chức, nếu có người nào làm công việc thơ, câu thơ thể hiện tính hướng nội, khai<br /> không chạy hoặc làm điều tham ô, thì Bộ thác cái tôi cá nhân trong sự đối diện với<br /> ấy phải chịu trách nhiệm. Có như thế, ở mất mát của dân tộc hay khi trở trăn phận<br /> triều đình không có người bất tài, quan lại vị theo truyền thống Nho giáo thì xúc cảm<br /> không có người lạm chức...”. Đề cập những không tránh khỏi sự buồn bã hiu hắt của<br /> ý tưởng và cách làm trên đây của Nguyễn một nhà nho cảm thấy bất lực trước vận<br /> Thông và đặt trong bối cảnh hiện nay của mệnh tồn vong của non sông mà mình<br /> <br /> 10<br /> LÊ VĂN TẤN - KIM GANG SAN<br /> <br /> <br /> đang mang nặng lòng yêu thương tha thiết. Chú thích:<br /> Nguyễn Thông là một nhà trí thức yêu 1Tác phẩm Nguyễn Thông, Cao Tự Thanh, Đoàn<br /> nước, nhà văn hóa lớn tiêu biểu của Nam Lê Giang trích dịch và giới thiệu, Sở Văn hóa và<br /> bộ và Nam Trung Bộ ở nửa cuối thế kỷ Thông tin Long An, 1984, tr.153. Trích văn thơ<br /> XIX. Ông vốn xuất thân là một nhà nho và Nguyễn Thông trong bài chúng tôi đều lấy từ đây.<br /> sự nghiệp hành đạo của Nguyễn Thông<br /> 2<br /> Từ điển văn học, bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội,<br /> minh chứng cho sự tồn tại để xác lập nên 2004, tr.1189.<br /> một mẫu nhà nho hành đạo trong thời đại TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> mới ở vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX 1. Cao Chí Dũng (2004), “Nguyễn Thông”, Từ<br /> trong lịch sử văn chương Nho giáo Việt điển văn học, bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội,<br /> Nam. Ông đồng thời là nhà hoạt động tr.1189.<br /> chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà thơ, nhà 2. Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ<br /> văn nổi tiếng, nhà sử học có ý thức trách XIX (1858-1900), in lần thứ hai, có sửa chữa,<br /> nhiệm cao, có đóng góp rất tích cực vào sự Nxb Văn học, Hà Nội, 1976.<br /> nghiệp chung của đất nước. Trước tác 3. Bùi Thụy Đào Nguyên, Nhớ Nguyễn Thông,<br /> nguồn:<br /> Nguyễn Thông hiện còn 76 bài thơ, 25 bản http://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-<br /> văn, 6 bản sớ điều trần, và cùng với đó đã Th%C3%B4ng/author-<br /> có khoảng 200 đầu sách nghiên cứu về thân rfaS1tOCWjWB9PkLJ5MHxw.<br /> thế sự nghiệp của ông. Tất cả cho thấy vị 4. Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang (1984), trích<br /> trí quan trọng của ông trong lịch sử văn dịch và giới thiệu, Tác phẩm Nguyễn Thông,<br /> hóa dân tộc. Tài năng và nhân cách của Sở Văn hóa Thông tin Long An.<br /> ông là một tấm gương sáng về hình ảnh 5. Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang (1984) (biên<br /> soạn), Nguyễn Thông con người và tác phẩm,<br /> một trí thức chân chính, một con người mà<br /> Nxb Tp. Hồ Chí Minh.<br /> cuộc đời từng trải qua nhiều cay đắng song<br /> 6. Lê Quang Trường (2013), “Nguyễn Thông -<br /> luôn giữ trọn lòng trung hiếu son sắt luôn người thầy phát huy học phong Nam Bộ,<br /> hướng về đất nước và người dân. Tạp chí Văn hóa và Du lịch, số 14 (68).<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 01/10/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2