intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhìn lại hai năm chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS tại Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Chia sẻ: Lệ Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong phạm vi bài viết "Nhìn lại hai năm chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS tại Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp", tác giả đề cập đến (i) thực trạng việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong hai năm vừa qua, (ii) những khó khăn và (iii) giải pháp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhìn lại hai năm chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS tại Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

  1. NHÌN LẠI HAI NĂM CHUẨN BỊ CHO VIỆC ÁP DỤNG IFRS TẠI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP Ths. Nguyễn Thị Thanh Hà1 Tóm tắt Việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính (“IFRS”) tại Việt Nam được Bộ tài chính phê duyệt theo Quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16/3/2020. Theo lộ trình Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam, giai đoạn hai năm từ 2020-2021 là giai đoạn đầu tiên, được coi là bước chuẩn bị nền tảng cho việc áp dụng IFRS sau này. Trong giai đoạn này, Bộ Tài chính chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng IFRS, một số doanh nghiệp có đáp ứng đủ điều kiện về chiến lược, nhân lực, quy trình, hệ thống được vận động áp dụng IFRS cho việc trình bày Báo cáo tài chính. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến (i) thực trạng việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong hai năm vừa qua, (ii) những khó khăn và (iii) giải pháp. Từ khóa: áp dụng IFRS, chuẩn mực kế toán, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế 1. Đặt vấn đề IFRS là tên gọi của một hệ thống các chuẩn mực kế toán do Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế, một cơ quan trực thuộc Quỹ IFRS ban hành với mục đích toàn cầu hóa về kế toán, giúp cho các Báo cáo tài chính (“BCTC”) được trình bày nhất quán, minh bạch, tin cậy và dễ dàng so sánh với nhau không phân biệt lĩnh vực, quốc gia hay vùng lãnh thổ. Tại Việt Nam, từ năm 2000-2005, Bộ tài chính đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam (“VAS”) trên cơ sở vận dụng chọn lọc các chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với tình hình kinh tế trong nước. Khi đó, mọi giao dịch của nền kinh tế non trẻ đều được VAS phản ánh hết. Song trải qua nhiều năm, nền kinh tế phát triển, một số nội dung của VAS không còn phù hợp với những giao dịch phức tạp của nền kinh tế thị trường mở như mô hình giá gốc; bên cạnh đó, VAS cũng chưa phản ánh được một số nội dung của nền kinh tế như thị trường vốn đang phát triển mạnh mẽ, sự xuất hiện của các công cụ tài chính phái sinh, chuẩn mực nông nghiệp, giá trị hợp lý, tổn thất tài sản, … Do vậy, việc đưa các BCTC của Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn chung của thế giới là nhu cầu cấp thiết. Ngày 16/3/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án Áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam. Theo đó, Bộ tài chính chia lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam thành 3 giai đoạn: (i) Giai đoạn chuẩn bị: từ năm 2020 đến hết năm 2021, (ii) Giai đoạn áp dụng tự nguyện: từ năm 2022 đến hết năm 2025, (iii) Giai đoạn bắt buộc áp dụng: từ sau năm 2025. Quyết định 345/QĐ-BTC đã ra đời được hai 1 Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, Email:thanhhant.tcqtkd@gmail.com, Điện thoại: 0973.812.746 410
  2. năm, khoảng thời gian này đủ dài để có những tìm hiểu, đánh giá nhất định về việc chuẩn bị cho áp dụng IFRS tại Việt Nam, cụ thể, các doanh nghiệp đã có thời gian để tìm hiểu những nội dung cần chuẩn bị trước khi áp dụng IFRS; Bộ tài chính, các cơ quan có thẩm quyền, hiệp hội hành nghề kế toán kiểm toán,… đã có thời gian thực hiện công tác chuẩn bị như tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, đưa ra lộ trình áp dụng IFRS, dịch thuật IFRS sang tiếng Việt, xây dựng các văn bản hướng dẫn áp dụng IFRS. Nhìn lại hai năm chuẩn bị này, thành tựu đạt được là số lượng các doanh nghiệp đã áp dụng thành công IFRS trong việc trình bày BCTC, đã vượt ra khỏi thị trường vốn trong nước, niêm yết trên các sàn giao dịch nước ngoài. Các doanh nghiệp này đi trước trong việc áp dụng IFRS một mặt thúc đẩy mức độ ảnh của mình vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, mặt khác tạo động lực, tích lũy kinh nghiệm cho các doanh nghiệp còn lại trong nước noi theo. Trong bài viết này, tác giả đã thực hiện phương pháp nghiên cứu định tính với số liệu thứ cấp để phân tích, trình bày kết quả nghiên cứu gồm năm nội dung cơ bản, từ mục 1 đến mục 5. 2. Thực trạng việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong hai năm vừa qua. 2.1. Các yếu tố dẫn đến việc doanh nghiệp Việt Nam áp dụng IFRS Có nhiều yếu tố dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng IFRS, theo ông Nguyễn Thanh Nghị, Phó tổng giám đốc Bộ phận Kiểm toán và Bộ phận Tư vấn chuyển đổi IFRS (KPMG Việt Nam) yếu tố dẫn đến áp dụng IFRS của doanh nghiệp có thể chia làm hai nhóm chính: yếu tố thu hút và yếu tố thúc đẩy. Nhóm yếu tố thu hút xuất phát từ phía bản thân doanh nghiệp muốn thay đổi để đạt được mục đích của mình, như việc doanh nghiệp muốn tìm vốn từ nước ngoài, muốn được niêm yết trên thị trường nước ngoài, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Do vậy, thông tin tài chính doanh nghiệp đưa ra cần đáp ứng được tính minh bạch, tính hiệu quả giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội cũng như rủi ro, tăng trách nhiệm giải trình của nhà điều hành… BCTC lập theo IFRS sẽ giúp doanh nghiệp đạt được những yêu cầu về thông tin tài chính. Yếu tố thúc đẩy là những yếu tố bắt buộc doanh nghiệp phải tuân theo mà không có lựa chọn nào khác. Các yếu tố này xuất phát từ bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp. Yếu tố đến từ bên ngoài như việc Bộ tài chính đưa ra lộ trình từ sau năm 2025 bắt buộc các doanh nghiệp là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn có các khoản vay từ định chế quốc tế, các công ty niêm yết, các công ty đại chúng có quy mô lớn là công ty mẹ không niêm yết và các công ty mẹ quy mô lớn khác phải lập BCTC hợp nhất theo IFRS; Yếu tố đến từ bên trong như việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài định kỳ phải lập BCTC theo IFRS cho công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc doanh nghiệp 411
  3. muốn vươn ra thị trường quốc tế, ký kết các hợp đồng thương mại quốc tế yêu cầu phải có BCTC chuẩn theo yêu cầu quốc tế. Dù là yếu tố thu hút hay thúc đẩy, thì các doanh nghiệp cũng sẽ phải thay đổi, lập và trình bày BCTC theo hướng tiệm cận với yêu cầu quốc tế. IFRS là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp vận dụng cho việc lập BCTC. 2.2. Thực trạng việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong 2 năm qua Để tìm hiểu thực trạng nhu cầu áp dụng và mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong hai năm vừa qua, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM kết hợp với Công ty TNHH Deloitte Việt Nam đã thực hiện hai khảo sát về mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS tại Việt Nam. Khảo sát thứ nhất được thiết kế từ tháng 4/2020 đến tháng 7/2020 và thực hiện khảo sát, thu thập kết quả, sàng lọc dữ liệu, phân tích đánh giá kết quả từ tháng 8/2020 đến tháng 10/2020 trên các đối tượng hướng đến là cấp Quản lý và nhân sự kế toán cấp cao của các doanh nghiệp tại Việt Nam, với mục tiêu là nắm bắt tình hình và tìm hiểu mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của doanh nghiệp sau 6 tháng triển khai quyết định 345/QĐ-BTC, cũng như giúp doanh nghiệp xác định thuộc hay không thuộc đối tượng của quyết định này. Khảo sát được thực hiện theo phương pháp bảng câu hỏi trực tuyến thông qua các kênh online của Bộ Tài Chính, ACCA, VACPA và khách hàng của Deloitte. Kết quả thu về là 515 phản hồi trong đó có 322 phản hồi hợp lệ được xem là đại diện cho doanh nghiệp Việt Nam. Tổng quan kết quả khảo sát theo loại hình doanh nghiệp được thể hiện như sau: Hình 1. Tổng quan kết quả theo loại hình doanh nghiệp tham gia khảo sát (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Kết quả khảo sát cho thấy trong 322 phản hồi có 107 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 34%), 66 doanh nghiệp niêm yết (20%), 43 doanh nghiệp đại chúng 412
  4. quy mô lớn chưa niêm yết (14%), 23 tập đoàn kinh tế nhà nước chưa niêm yết (7%), 06 doanh nghiệp cổ phần, còn lại là các doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên kết, văn phòng đại diện. Như vậy sau 6 tháng triển khai các doanh nghiệp tại Việt Nam đã bắt đầu quan tâm và có nhu cầu áp dụng IFRS trong việc lập và trình bày BCTC và đặt biệt là những doanh nghiệp thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng IFRS theo Quyết định số 345/QĐ-BTC. Khi khảo sát về tình trạng áp dụng IFRS tại doanh nghiệp, kết quả thu được: Hình 2. Tình trạng áp dụng IFRS của các doanh nghiệp tại Việt Nam (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Kết quả khảo sát cho thấy một tín hiệu khả quan rằng chỉ sau gần 06 tháng ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC, hơn 50% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết họ đã áp dụng hoặc đang chuẩn bị chuyển đổi theo IFRS. Điều này cho thấy sự đồng thuận về tầm quan trọng của việc áp dụng IFRS trong cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Theo các chuyên gia, tỷ lệ tự nguyện áp dụng chuyển đổi IFRS sẽ tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo. Trong giai đoạn ban đầu, để áp dụng IFRS vào việc trình bày BCTC doanh nghiệp có thể tiến hành một trong hai hình thức: (1) Chuyển đổi báo cáo VAS sang báo cáo IFRS bằng việc lập thủ công các bút toán điều chỉnh từ VAS sang IFRS dựa trên cơ sở sự khác biệt trong ghi nhận của hai hệ thống chuẩn mực này; (2) triển khai một hệ thống phần mềm kế toán phục vụ đồng thời cả hạch toán theo IFRS theo VAS. Kết quả khảo sát về hình thức áp dụng IFRS được biểu thị qua hình sau: 413
  5. Hình 3. Hình thức áp dụng IFRS (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Theo khảo sát, trong các doanh nghiệp lập BCTC theo IFRS, 30% doanh nghiệp vận dụng IFRS ngay từ khâu ghi nhận ban đầu và số còn lại (70%) thực hiện chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS. Lý do các doanh nghiệp chọn chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS là sự tiết kiệm thời gian và chi phí, đội ngũ kế toán chưa đủ khả năng áp dụng IFRS, công ty ở Việt Nam lập Báo cáo gửi công ty mẹ ở nước ngoài. Nhóm khảo sát cũng tìm hiểu về thời gian áp dụng IFRS của doanh nghiệp và thu được kết quả: Hình 4. Dự định thời gian áp dụng IFRS (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Khi khảo sát dự định thời gian áp dụng IFRS, có 55% doanh nghiệp trả lời họ sẽ lập BCTC theo IFRS muộn nhất là năm 2025, trong đó 23% doanh nghiệp sẽ thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị từ 2020-2022. Con số trên cho thấy các doanh nghiệp đón nhận Quyết định 345/QĐ-BTC với thái độ tích cực và đã nhận thức được tầm quan trọng của 414
  6. IFRS trong thời điểm hiện tại. Số còn lại phần lớn không thuộc đối tượng áp dụng IFRS của Quyết định số 345/QĐ-BTC, các doanh nghiệp này sẽ áp dụng chuẩn mực BCTC Việt Nam mới hoặc được Bộ Tài chính quy định cụ thể về cách lập BCTC. Khảo sát thứ hai được thực hiện vào tháng 12/2021, sau gần 2 năm triển khai quyết định 345/QĐ-BTC. Khảo sát đã đưa ra 12 tiêu chí đánh giá về chiến lược, nhân sự, nguồn lực và hệ thống mà doanh nghiệp khảo sát đang thực hiện, từ đó doanh nghiệp được tự đánh giá mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của mình trên thang điểm từ 1 (chữa sẵn sàng) đến 5 (hoàn toàn sẵn sàng). Khảo sát được thực hiện theo phương pháp bảng câu hỏi trực tuyến thông qua các kênh online của Bộ Tài Chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, ACCA, VACPA, và khách hàng của Deloitte. Kết quả hợp lệ thu về là 374 phản hồi được xem là đại diện cho doanh nghiệp Việt Nam (con số này năm 2020 là 322 phản hồi). Hình dưới đây cho thấy số liệu tổng quan về hai khảo sát. Hình 5. Tổng quan về khảo sát “Tính sẵn sàng áp dụng IFRS của doanh nghiệp tại Việt Nam” trong hai năm 2020 và 2021 (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Thành phần doanh nghiệp tham gia khảo sát được phân loại như hình sau: 415
  7. Hình 6. Thành phần tham gia khảo sát (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Kết quả cho thấy năm 2021, ngoài sự tăng lên của số lượng doanh nghiệp tham gia khảo sát, nhóm đối tượng quan tâm đến IFRS còn thay đổi theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp quan tâm đến IFRS trong ngành nghề năng lượng, khai thác, sản phẩm công nghiệp và công nghệ, truyền thông, viễn thông đều tăng lên theo thứ tự tương ứng từ 15% (năm 2020) lên 27% (năm 2021) và từ 4%( năm 2020) lên thành 10% (2021). Mức độ quan tâm đến IFRS hàng đầu thuộc về loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp niêm yết chiếm 76% số doanh nghiệp khảo sát, do đây là nhóm đối tượng phải lập BCTC theo IFRS theo Quyết định 345/QĐ-BTC. Để đánh giá mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS, khảo sát 2021 đã đưa ra 4 nhóm tiêu chí (chiến lược, nhân sự, quy trình và hệ thống) để doanh nghiệp tự đánh giá mức độ sẵn sàng của mình trên thang điểm từ 1 (chưa sẵn sàng) đến 5 (hoàn toàn sẵn sàng) và thu được kết quả như sau: Hình 7. Thước đo sự sẵn sàng chuyển đổi áp dụng IFRS (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) 416
  8. Kết quả khảo sát cho thấy điểm số trung bình về mức độ sẵn sàng chuyển đổi áp dụng IFRS của doanh nghiệp dao động trong khoảng 3,57 - 3,66 đối với từng nhóm tiêu chí, cao vượt ngưỡng so với điểm số trung bình 2,5. Đây là một tín hiệu tích cực với lộ trình áp dụng đề án áp dụng IFRS nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong khảo sát 2021, các doanh nghiệp được phân nhóm theo năm loại hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp có quy mô lớn chưa niêm yết, doanh nghiệp nhà nước chưa niêm yết, doanh nghiệp khác) và hai mức giá trị vốn chủ sở hữu (trên 500 tỷ đồng và dưới 500 tỷ đồng) và tính điểm bình quân cho mỗi nhóm doanh nghiệp sở hữu quy mô vốn trên và dưới 500 tỷ đồng để có cái nhìn chi tiết hơn về mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của từng nhóm doanh nghiệp. Kết quả như sau: Hình 8. Tự đánh giá mức độ sẵn sàng chuyển đổi áp dụng IFRS (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Như vậy, mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS cao nhất thuộc về nhóm doanh nghiệp khác - vốn chủ sở hữu trên 500 tỷ đồng với điểm số mức độ sẵn sàng là 4,32/5, dẫn đầu cả 4 tiêu chí sẵn sàng về chiến lược, nhân sự, quy trình và hệ thống. Ngay sau đó là nhóm doanh nghiệp nhà nước chưa niêm yết - vốn chủ sở hữu dưới 500 tỷ đồng với điểm số mức độ sẵn sàng là 4,11/5 và nhóm doanh nghiệp đại chúng quy mô lớn chưa niêm yết - vốn chủ sở hữu dưới 500 tỷ đồng với điểm trung bình 3,99/5. Ngược lại, mức độ sẵn sàng thấp nhất thuộc về nhóm doanh nghiệp nhà nước chưa niêm yết - vốn chủ sở hữu trên 500 tỷ đồng có điểm là 2,85/5. Nhóm doanh nghiệp niêm yết - vốn chủ sở hữu dưới 500 tỷ đồng mặc dù thuộc đối tượng áp dụng IFRS theo quyết định 345/QĐ- BTC nhưng chưa sẵn sàng và rất cần sự trợ giúp của các cơ quan quản lý, điểm trung bình chỉ ở mức 3,24/5, dưới mốc trung bình của toàn khảo sát. 417
  9. Theo một cuộc khảo sát khác do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM thực hiện, với đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp niêm yết, số lượng phản hồi hợp lệ là 149, kết quả khảo sát cho thấy 79% các doanh nghiệp niêm yết cho biết có quan tâm và sẽ áp dụng IFRS. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 2,7% các doanh nghiệp đã thực sự áp dụng IFRS và 10,7% các doanh nghiệp dự định chuyển đổi trong tương lai gần. Như vậy, việc áp dụng IFRS ở các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam vẫn còn tương đối khiêm tốn. 3. Những khó khăn Trong khi chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS hoặc áp dụng ngay IFRS vào việc trình bày BCTC, doanh nghiệp gặp phải một số khó khăn. Hai khảo sát năm 2020 và 2021 do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện thực hiện cho thấy 5 khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải nhiều nhất khi áp dụng IFRS sắp xếp theo thứ tự: (1)khó khăn lớn nhất là hệ thống IT chưa hiệu quả, cần nâng cấp; (2) thiếu sự hướng dẫn của cơ quan quản lý về việc áp dụng IFRS; (3) nhiều sự khác biệt giữa VAS - IFRS – quy định về thuế; (4) Thiếu nhân lực/Năng lực đội ngũ kế toán chưa đảm bảo và (5) Chuẩn mực IFRS phức tạp và thay đổi thường xuyên. Hình 9. Những khó khăn mà doanh nghiệp đang đối mặt (Nguồn: Công ty TNHH Deloitte Việt Nam) Có thể chia những khó khăn này thành hai nhóm chính: Khó khăn do yếu tố khách quan và khó khăn do yếu tố nội tại. Khó khăn do yếu tố khách quan: 418
  10. Chuẩn mực IFRS phức tạp và sự thay đổi thường xuyên: Theo khảo sát năm 2020, 53% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng khó khăn lớn nhất họ gặp phải trong quá trình chuyển đổi sang IFRS là độ phức tạp của IFRS. Còn theo khảo sát năm 2021 thì độ phức tạp và sự thay đổi thường xuyên của IFRS là một trong 5 khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải khi áp dụng IFRS. Các IFRS được trình bày theo ngôn ngữ tiếng Anh, gồm nhiều đoạn, mục, do đó rào cản ngôn ngữ và nội dung phức tạp của IFRS ảnh hưởng lớn đến việc hiểu và tiếp thu các chuẩn mực. Mặt khác, khi các doanh nghiệp lập BCTC theo IFRS đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ phải tuân thủ tất cả các IFRS có hiệu lực bao gồm cả các sửa đổi, bổ sung hoặc các thay thế IFRS. Như vậy, việc cập nhật thường xuyên và đánh giá tác động của các sửa đổi, bổ sung và thay thế với các giao dịch tài chính phải được doanh nghiệp chú trọng, Trong khi đó ở Việt Nam nguồn tài liệu tiếng Việt phân tích và hướng dẫn về các sửa đổi, bổ sung và thay thế IFRS rất ít (gần như không có), nên việc cập nhật áp dụng IFRS khá khó khăn. Nhiều khác biệt giữa IFRS – VAS - quy định về thuế: Hiện nay luật kế toán và luật thuế tại Việt Nam đã có một số điểm không tương đồng, các doanh nghiệp đồng thời phải lập song song hai hệ thống BCTC và báo cáo thuế, chưa tính đến hệ thống báo cáo kế toán quản trị nội bộ doanh nghiệp. Điều này đã gây khó khăn cho do công tác kế toán. Kế toán lại càng khó khăn hơn khi doanh nghiệp áp dụng IFRS trong trình bày BCTC, không chỉ mẫu báo cáo thay đổi; mà mô hình giá thay đổi, giá gốc không còn phù hợp được thay thế bằng mô hình giá trị hợp lý, mô hình đánh giá lại; bên cạnh đó, IFRS còn hướng tới một số đối tượng mà VAS chưa phản ánh như hoạt động nông nghiệp, hoạt động thăm dò và đánh giá tài sản tài nguyên khoáng sản, công cụ tài chính, thanh toán trên cơ sở cổ phiếu, đo lường giá trị hợp lý,… Thiếu sự hướng dẫn của cơ quan quản lý về việc áp dụng IFRS: Mặc dù từ khi ban hành quyết định 345/QĐ-BTC và trước đó, Bộ Tài chính liên kết với các hiệp hội liên quan đã mở một số buổi hội thảo, đào tạo chuyên sâu về IFRS với quy mô hàng trăm người, nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước với số lượng hàng trăm nghìn doanh nghiệp và xu hướng ngày một ra tăng. Sự thiếu thông tin và hỗ trợ của các cơ quan quản lý còn được thể hiện ở thông tin đầu vào còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của IFRS. Ví dụ, khi xác định giá trị hợp lý của tài sản, yêu cầu của IFRS là phải có thị trường hoạt động của tài sản đó hoặc tài sản tương tự để có thể so sánh được. Hay với thị trường vốn Việt Nam công cụ vốn và công cụ nợ nếu muốn đo lường và xác định giá trị một cách hợp lý thì còn gặp nhiều khó khăn do quy mô doanh nghiệp nhỏ, thị trường trái phiếu chuyển đổi chưa phát triển. Mặt khác doanh nghiệp hoạt động phải tuân thủ các quy định, các luật khác nhau như luật kế toán, luật 419
  11. thuế, luật doanh nghiệp,…của nhiều cơ quan quản lý nhà nước như Quốc hội, Bộ Tài chính, tổng cục thuế, ủy ban chứng khoán, ngân hàng nhà nước,… đôi khi các quy định này có sự khác biệt, các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc lập báo cáo phù hợp với từng cơ quan quản lý. Ngoài ra còn có một số khó khăn khách quan khác như sự lo ngại vì IFRS ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: IFRS yêu cầu các doanh nghiệp phải ghi nhận ngay các khoản tổn thất do suy giảm giá trị tài sản, do biến động về giá trị hợp lý, do giá trị thuần có thể thực hiện được hoặc giá trị có thể thu hồi của tài sản thấp hơn giá trị ghi sổ… Do đó, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém lo ngại về sự sụt giảm kết quả kinh doanh ảnh hưởng đến việc huy động vốn, tiếp cận các nguồn tín dụng khi áp dụng IFRS trong việc trình bày BCTC. Khó khăn do yếu tố nội tại: Khó khăn do yếu tố nội tại bao gồm: hệ thống công nghệ thông tin chưa hiệu quả cần nâng cấp, thiếu nhân lực/trình độ đội ngũ kế toán chưa đảm bảo Hệ thống thông tin chưa hiệu quả, cần nâng cấp: Hiện nay phần mềm kế toán của doanh nghiệp thường chỉ liên quan đến bộ phận kế toán, lượng thông tin dữ liệu không có sự kết nối với các bộ phận khác trong doanh nghiệp và các bên liên quan ngoài doanh nghiệp, chưa cung cấp thông tin toàn diện về doanh nghiệp, và những thông tin phi tài chính, chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin mà IFRS quy định. Mặt khác, trong một số tập đoàn, lượng dữ liệu tại các công ty con rất lớn và phức tạp, việc thu thập, tập hợp và xử lý thông tin phục vụ cho lập BCTC hợp nhất theo IFRS rất khó khăn và mất thời gian. Thêm vào đó, hệ thống phần mềm kế toán tại các doanh nghiệp chưa hoàn toàn đồng bộ và chưa có tính năng để nhập các bút toán chuyển đổi theo IFRS, việc chuyển đổi BCTC sang IFRS đều phải tiến hành thủ công dẫn đến tiêu hao nhiều thời gian, công sức và dễ gặp sai sót, nhầm lẫn trong quá trình tính toán. Do vậy, việc nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin để lưu trữ dữ liệu quá khứ, phản ánh được bản chất tất cả các hoạt động kinh tế trong doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu lập BCTC theo IFRS là điều thiết yếu. Thiếu nhân lực/trình độ đội ngũ kế toán chưa đảm bảo: Khi doanh nghiệp áp dụng IFRS vai trò của kế toán cũng tăng lên rất nhiều. Kế toán không chỉ đơn thuần ghi sổ nữa, mà còn lập và trình bày BCTC trên cơ sở nắm bắt bản chất kinh tế của giao dịch, thực hiện các xét đoán có cơ sở dựa vào thông tin quá khứ và dự báo tương lai. Các doanh nghiệp đang ở trong trạng thái thiếu trầm trọng nguồn nhân lực am hiểu, có kinh nghiệm và kỹ năng lập BCTC theo IFRS. Đa số đội ngũ kế toán và bản thân ban lãnh đạo doanh nghiệp thành thục với VAS mà chưa được đào tạo về IFRS, việc đào tạo sẽ mất nhiều thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Do vậy với trình độ đội ngũ kế toán như hiện tại, 420
  12. các doanh nghiệp khó có thể tiếp cận được tới IFRS cũng như lập và trình bày BCTC theo IFRS. Hiện tại, Việt Nam có rất ít chuyên gia về IFRS, chủ yếu là các nhà nghiên cứu và kiểm toán viên của các công ty kiểm toán lớn. Ngay đội ngũ giảng viên các trường đại học cũng chưa được trang bị kiến thức đầy đủ về IFRS nên chỉ có một số rất ít cơ sở đào tạo đã đưa IFRS vào chương trình giảng dạy. Vì vậy, đội ngũ kế toán viên tại các doanh nghiệp (đối tượng trực tiếp áp dụng IFRS) chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc nâng cao trình độ của đội ngũ kế toán cũng như tìm kiếm sự trợ giúp của đội chuyên gia tư vấn triển khai IFRS bên ngoài là cần thiết. Ngoài ra còn có một số khó khăn nội tại khác như chiến lược áp dụng IFRS và ngân sách: Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược và kế hoạch chuyển đổi cụ thể, đảm bảo đúng hướng ngay từ đầu, điều này rất cần sự trợ giúp của đội ngũ tư vấn bên ngoài. Chi phí cho việc lập BCTC theo IFRS là rất lớn, từ thuê kiểm toán, tư vấn, thuê tổ chức định giá, đến đào tạo nhân viên nên có một số doanh nghiệp chưa có điều kiện để thực hiện được. 4. Giải pháp Việc áp dụng IFRS trong việc lập và trình bày BCTC là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ năng lực chuyên môn, ngoại ngữ đối với nhân viên kế toán, kiểm toán, của các nhà đầu tư và cả các nhà quản lý. Nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp và những người làm công tác kế toán, cũng như cần sự phối hợp đồng bộ của Chính phủ, các cơ quan ban ngành, nhằm điều chỉnh môi trường kinh tế, pháp luật đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế. Việc áp dụng IFRS là một quá trình lâu dài qua nhiều bước, do đó doanh nghiệp cần phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu, xây dựng và chuẩn bị. Để thúc đẩy doanh nghiệp chủ động áp dụng IFRS, cần có những giải pháp từ phía nhà nước và cơ quan có thẩm quyền để khắc phục những khó khăn do yếu tố khách quan, và cần có những giải pháp từ phía doanh nghiệp để khắc phục những khó khăn do yếu tố nội tại. Từ phía Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền Để tăng cường áp dụng IFRS ở Việt Nam, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần có chính sách khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS. Bộ Tài chính cần nhanh chóng công bố bộ bản dịch IFRS chính thức đến các doanh nghiệp; cập nhật và công bố kịp thời khi có bất kỳ sự thay đổi, bổ sung, điều chỉnh nào của IFRS; Tổ chức nhiều chương trình tập huấn, hội thảo với quy mô lớn ở các địa phương để hướng dẫn các doanh nghiệp lập BCTC theo IFRS; Khuyến khích các doanh nghiệp chuyển sang áp dụng IFRS thông qua các hình thức đối thoại, vận động, hỗ trợ kỹ thuật; tuyên truyền phổ biến IFRS để nâng cao nhận thức về lợi ích của IFRS. 421
  13. Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM và các cơ quan chức năng liên quan cần dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc áp dụng IFRS: cần có thị trường hoạt động hoặc có những giao dịch tương tự phục vụ cho việc xác định giá trị hợp lý,… Đồng thời các bộ, ngành liên quan cần rà soát, ban hành lại các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo hướng giảm thiểu sự khác biệt, đan xen chồng chéo giữa các văn bản; Xác định và phân biệt rõ phạm vi áp dụng chuẩn mực kế toán, chính sách thuế và cơ chế tài chính, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật của doanh nghiệp, cũng như nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC để cung cấp ra công chúng. Mặt khác, cần tăng cường vai trò của các cơ sở đào tạo đại học trong việc đào tạo IFRS. Chính các đơn vị này sẽ là nơi đào tạo nguồn lực chuyên môn và kỹ năng IFRS tiềm năng cho đất nước trong tương lai gần. Các đơn vị này cần tích cực hơn trong quá trình tiếp thu IFRS và xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, tích cực trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm từ các học viên ở những quốc gia có hệ thống kế toán phát triển, cũng như các tổ chức ban hành chuẩn mực quốc tế… Từ phía doanh nghiệp Để lập và trình bày được BCTC tuân thủ theo IFRS, doanh nghiệp phải có quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng từ chiến lược, nhân sự, quy trình đến hệ thống. Đây là một công việc quan trọng và cấp thiết đối với các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp là đối tượng áp dụng IFRS theo quyết định 345/QĐ- BTC. Việc áp dụng IFRS thành công và hiệu quả, đòi hỏi doanh nghiệp cần chủ động trong mọi công việc chuẩn bị và cần triển khai đồng bộ các nhóm công việc chủ chốt, bao gồm: Nâng cấp, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiệu quả: Doanh nghiệp cần xây dựng, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin nhằm đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của công tác quản trị nội bộ, đảm bảo kết nối giữa bộ phận kế toán, tài chính và các bộ phận khác liên quan, đảm bảo kết nối được giữa công ty mẹ, các công ty con và các đơn vị trực thuộc; Phần mềm kế toán và quản trị nội bộ cần tự động hóa ở mức cao, hướng đến có thể cung cấp BCTC ở bất cứ thời điểm nào cho các nhà đầu tư hay những người có nhu cầu sử dụng thông tin. Đồng thời phải xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu bao gồm các dữ liệu quá khứ, dữ liệu dự đoán tương lai, dữ liệu dự báo tổn thất tài chính, dữ liệu phân loại tài sản tài chính, dữ liệu của các biến kinh tế vĩ mô, dữ liệu cho các thuyết minh BCTC,….như giá trị hợp lý, đường cong lãi suất, lãi suất cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất tiền VNĐ và lãi suất ngoại tệ, tỷ giá hối đoái… Đồng thời, xây dựng dữ liệu phi tài chính như: thị phần, số lượng khách hàng, dung lượng sử dụng, mức tiêu thụ dịch vụ, sản phẩm, hàng hóa, thị trường thuận lợi nhất…Cần liên tục rà soát, bổ sung làm sạch các 422
  14. trường dữ liệu còn thiếu và chưa đầy đủ, hướng tới đầu tư dài hạn các mảng dữ liệu chuyên biệt liên quan đến ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp Bổ sung, đào tạo nguồn nhân lực: Các doanh nghiệp cần bổ sung thêm nguồn nhân lực am hiểu, có trình độ chuyên môn, kỹ năng lập và trình bày BCTC theo IFRS. Đồng thời đẩy nhanh kế hoạch đào tạo IFRS cho nguồn nhân lực kế toán bài bản, kịp thời, liên tục và lâu dài bằng việc mời những chuyên gia về IFRS đến doanh nghiệp đào tạo hoặc cử nhân viên theo học các khóa đạo tạo IFRS chuyên sâu. Bên cạnh đó, cần tăng cường đào tạo kiến thức, nâng cao nhận thức về IFRS cho ban giám đốc, cán bộ quản lý chủ chốt, thay đổi tư duy lãnh đạo, nâng cao ý thức tuân thủ, tổ chức bộ phận pháp chế tại các doanh nghiệp đủ mạnh. Mặt khác, cần chủ động tận dụng những kiến thức, hiểu biết, sự hỗ trợ và nguồn lực từ các doanh nghiệp tư vấn, kiểm toán, hội nghề nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài,… Ngoài hai giải pháp trên, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược và ngân sách: doanh nghiệp cần xác định nhu cầu áp dụng IFRS; xác định phương án, lộ trình cụ thể áp dụng cho doanh nghiệp của mình; công bố thông tin về lộ trình, phương án áp dụng; thiết lập kênh thông tin với cơ quan hoạch định chính sách, công ty kiểm toán, hội nghề nghiệp, nhà tư vấn; Xây dựng chính sách kế toán rõ ràng, nhất quán giữa công ty mẹ và các công ty con; phân định ranh giới giữa BCTC và báo cáo thuế, báo cáo quản trị nội bộ; Bố trí ngân sách cho từng công việc cần triển khai. Tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ phận: Tổ chức bộ máy kế toán phù hợp, thông suốt từ công ty mẹ đến công ty con và các đơn vị trực thuộc; có nhân lực chuyên trách về IFRS và BCTC hợp nhất. Xây dựng quy trình chuyển đổi BCTC từ chuẩn mực của Việt Nam sang IFRS: Nhận diện các giao dịch, khoản mục trên BCTC cần chuyển đổi; xây dựng hệ thống hồ sơ, dữ liệu mang tính kế thừa; quy định trách nhiệm chuyển đổi BCTC phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp; xây dựng bộ quy tắc chuyển đổi BCTC với hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp …. Để đảm bảo việc triển khai áp dụng IFRS đúng, ngay từ bước chuẩn bị, doanh nghiệp nên lựa chọn đội ngũ tư vấn đủ năng lực hỗ trợ. Việc thuê kiểm toán độc lập có chuyên môn, kinh nghiệm để tiến hành rà soát số liệu, quy trình chuyển đổi sang IFRS nhằm chấn chỉnh các bất cập và rút kinh nghiệm cho các kỳ sau cũng là một việc làm cần thiết. Việc chuẩn bị cần được bắt đầu sớm ngay khi doanh nghiệp có quyết định chuyển đổi để có thể đề ra những kế hoạch thay đổi về quy trình kinh doanh, tuyển dụng nhân sự và nguồn lực tài chính cho việc chuyển đổi IFRS thay vì đợi đến năm lập BCTC theo IFRS lần đầu tiên mới chuẩn bị. 423
  15. 5. Kết luận Cùng với xu hướng toàn cầu hóa về hợp tác phát triển kinh tế, kế toán không còn là vấn đề mang tính nội tại quốc gia, để phù hợp với yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp, cũng như các nhà đầu tư, BCTC mà kế toán cung cấp cần phải được trình bày theo ngôn ngữ quốc tế. Do đó, việc áp dụng IFRS vào việc trình bày BCTC tại Việt Nam là điều tất yếu. Bài viết đã cho thấy thực trạng việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hai năm chuẩn bị. Mặc dù mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS ở các doanh nghiệp khảo sát là khá cao, tuy nhiên việc thực hiện lộ trình áp dụng IFRS này vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn thử thách cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải khắc phục những khó khăn do yếu tố nội tại mang lại, đồng thời Nhà nước, các đối tượng liên quan như các cơ quan quản lý các hiệp hội hành nghề kế toán- kiểm toán, các doanh nghiệp kế toán- kiểm toán; và các cơ sở đào tạo cần chung tay để có các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện tốt hơn nữa lộ trình Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính (2020), “Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam”, Hà Nội; 2. Bộ Tài chính (2020), “Quyết định 345/QĐ-BTC về việc phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam”, Hà Nội; 3. Bộ Tài chính (2020), “Hội nghị triển khai áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam”, Hà Nội; 4. Cục Quản lý và giám sát kế toán và kiểm toán – Bộ Tài chính (2020), “Giải pháp và những nội dung cần thay đổi để áp dụng thành công IFRS tại Việt Nam”, Hà Nội; 5. Công ty TNHH Deloitte Việt Nam (2020), “Báo cáo kết quả khảo sát mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của doanh nghiệp tại Việt Nam”, Hà Nội; 6. Hội thảo (2018), “Xu hướng toàn cầu của ngành Kế toán Kiểm toán Tài chính và chiến lược của Việt Nam đến 2020”, Hà Nội; 7. Hội thảo trực tuyến (2022), “Chuyển đổi áp dụng IFRS - Thời điểm vàng để doanh nghiệp bứt phá”; 8. Hội thảo trực tuyến (2022) “Diễn dàn IFRS – Tương lai ngành Tài chính Kế toán tại Việt Nam”; 9. Website: Báo đầu tư: https://baodautu.vn/, IFRS Việt Nam: https://ifrs.vn./. 424
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
20=>2