Những điều cần chú ý khi sử dụng hóa chất nuôi tôm sú
lượt xem 14
download
Phương pháp tắm: Dùng thuốc với nồng độ tương đối cao cho động vật thủy sản theo thời gian quy định (tương ứng với nồng độ thuốc cho phép). Lưu ý rằng cách này chỉ áp dụng trong các trại giống hoặc môi trường nuôi có diện tích nhỏ. Phương pháp ngâm: Thuốc được sử dụng với nồng độ thấp và thời gian kéo dài, áp dụng cho các đầm ao có diện tích lớn. Để giảm lượng hóa chất sử dụng cần hạ thấp mực nước trong ao nuôi, đồng thời phải chuẩn bị một lượng nước sạch để chủ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những điều cần chú ý khi sử dụng hóa chất nuôi tôm sú
- Những điều cần chú ý khi sử dụng hóa chất nuôi tôm sú NNVN, 18/5/2004 Theo TS Lý Thị Thanh Loan, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, hiện nay có 4 phương pháp sử dụng thuốc để áp dụng trong nuôi trồng tùy theo từng loại hình sản xuất, nhưng người nuôi chưa phân biệt rõ do thiếu hiểu biết hoặc vì quá lo lắng nên vội vã lạm dụng. 1. Phương pháp tắm: Dùng thuốc với nồng độ tương đối cao cho động vật thủy sản theo thời gian quy định (tương ứng với nồng độ thuốc cho phép). Lưu ý rằng cách này chỉ áp dụng trong các trại giống hoặc môi trường nuôi có diện tích nhỏ. 2. Phương pháp ngâm: Thuốc được sử dụng với nồng độ thấp và thời gian kéo dài, áp dụng cho các đầm ao có diện tích lớn. Để giảm lượng hóa chất sử dụng cần hạ thấp mực nước trong ao nuôi, đồng thời phải chuẩn bị một lượng nước sạch để chủ động cấp vào ao đề phòng khi có sự cố xảy ra. 3. Phương pháp uống: Dùng thuốc hoặc các chế phẩm trộn vào thức ăn, cách này thường kém hiệu quả đối với một số bệnh vì khi đối tượng nuôi bị bệnh khả năng hoạt động sẽ kém, đôi khi bỏ ăn nên hiệu quả không cao. Do vậy khi áp dụng cần bổ sung thêm dầu gan mực, dầu thực vật bao bên ngoài viên thức ăn để hạn chế thuốc, hóa chất bị mất đi do hòa tan trong môi trường nuôi. 4. Phương pháp tiêm: Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào cơ thể động vật thủy sản, nhưng chỉ áp dụng cho loài quý hiếm hoặc đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao. Về các loại thuốc, hóa chất trong danh mục sử dụng nuôi trồng gồm có 10 loại sau: 1/ Vôi (CaCO3, CaO) là tác nhân chính dùng xử lý đất và nước ao nuôi cũng được xem như chất diệt tạp và khử trùng trước khi thả giống, ngoài ra còn có tác dụng giảm độ chua (axid) trong đất, tăng kiềm, hòa tan các chất hữu cơ, kích thích tảo phát triển. 2/ Chlorine có 2 dạng là Calci hypochloride và Natri hypochloride là hợp chất oxy hóa mạnh, có tính độc với tất cả
- các sinh vật dùng khử trùng nước, ao nuôi, bể ương dụng cụ. Chlorine có thể diệt tất cả các vi khuẩn, virút, tảo, phiêu sinh động vật trong nước. Với hàm lượng Chlorine 60%, có thể dùng từ 50100ppm để khử trùng đáy ao và 2030ppm để khử trùng nước ao. Trong ao có tôm thì hàm lượng dùng từ 0,08 0,10ppm. 3/ Formaldehyde (Formalin, Formol) sử dụng như chất khử trùng trong trại giống và ngoài ao nuôi, diệt nấm, vi khuẩn, ngoại ký sinh trùng trên tôm, cá. Lượng dùng từ 1025ppm khi bệnh bùng nổ nhưng phải có sẵn nước để thay để tăng cường ôxy trong ao. Khi sử dụng trong ao nuôi thì ngưng cho tôm cá ăn và sau 24 giờ phải thay nước. Trong trại giống có thể dùng từ 200300ppm từ 30 giây đến 1 phút để phòng bệnh MBV trên ấu trùng tôm sú. 4/ Benzalkonium Chlorine (BKC) cũng là chất độc đối với vi khuẩn, vi rút, nấm…hiệu quả nhanh hơn Formaldehyde. Liều dùng khi cải tạo ao 35ppm ở mực nước 1030cm và để kiểm soát mầm bệnh từ 0,31,0ppm ở mực nước 1m. 5/ Iodine cũng tương tự như Chlorine là chất ôxy hóa mạnh để diệt sinh vật, vi rút. 6/ Thuốc tím (KMnO4) là chất có khả năng ôxy hóa chất hữu cơ, vô cơ và diệt khuẩn được sử dụng với nồng độ 12ppm có tác dụng tăng DO, giảm chất hữu cơ trong ao. 7/ Rotenol, Saponin được chiết từ rễ dây thuốc cá (Rotenol) và có nhiều trong bã hạt trà (Saponin) là chất độc với cá nhưng không với loài giáp xác. Được dùng để diệt cá tạp trong ao tôm hoặc ức chế hô hấp của cá, ngoài ra còn có thể xử lý bệnh mảng bám trên tôm. 8/ Nhóm chế phẩm sinh học (Probiotic) và men vi sinh, trong đó nhóm 1 dùng xử lý ao nuôi hoặc bổ sung vào thức ăn, tuy nhiên hiện nay hiệu quả chưa có tính thuyết phục. Còn nhóm 2 giúp các men phân hủy chất hữu cơ có nguồn gốc từ đạm, béo, đường, xơ giúp phân hủy chất thải trong ao nuôi. 9/ Vitamin C giúp tăng cường trao đổi chất và tăng sức đề kháng chống các bệnh nhiễm khuẩn, giảm strees do các biến động môi trường.
- 10/ Sắc tố Carotenoid giúp tạo màu sắc cho thức ăn thủy sản, có trong thịt và vỏ tôm do cá, tôm không tự tổng hợp được sắc tố mà tùy thuộc vào lượng carotenoid trong thức ăn. Một số lưu ý khi sử dụng thuốc kháng sinh trong thủy sản Khi sử dụng kháng sinh cho các đối tượng thủy sản nuôi dùng làm thực phẩm phải thận trọng, chính xác và phải tuân theo những nguyên tắc dưới đây: - Thật hạn chế khi sử dụng thuốc kháng sinh trong phòng trị bệnh thủy sản để tránh ảnh hưởng đến người tiêu thụ sản phẩm và thuốc sử dụng phải được luật pháp của các nước cho phép sử dụng. Chọn lựa và sử dụng đúng loại thuốc kháng sinh: kháng sinh sử dụng phải nằm trong danh mục cho phép sử dụng. Tránh sử dụng những kháng sinh được dùng điều trị bệnh cho người để hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. Nếu sử dụng những kháng sinh này thì dư lượng (MRL) không được phép hiện diện trong sản phẩm . DANH MỤC MỘT SỐ HÓA CHẤT SỬ DỤNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN STT Tên hóa chất Công dụng Các loại vôi 1 Cải tạo, xử lý nền đáy ao CaCO3, CaO Dolomite, Zeolite, bột vỏ sò, Xử lý nước, nền đáy ao trong khi nuôi CaCO3 Các loại hóa chất khử 2 trùng, diệt tạp Chlorine, Formaldehyde, thuốc tím (KMnO4), Iodine, Xử lý nền đáy ao, xử lý nước ao nuôi, GDA (Glutaraldehyde), BKC diệt tảo, nhóm Nguyên sinh động vật (Benzalkonium Chloride) Nhóm hạt bã trà, dây 3 thuốc cá Saponin, Rotenol, dây thuốc Diệt cá tạp, diệt nhóm Nguyên sinh động vật tạo mảng bám trên thân tôm cá Nhóm phân bón (vô cơ và 4 hữu cơ) NPK, bột đậu nành, bột cá, Gây màu nước (kích thích tảo phát bột cám gạo triển) Nhóm chế phẩm sinh học 5 Các loại chế phẩm (vi sinh Phân hủy chất hữu cơ, kích thích nhóm vi khuẩn có lợi phát triển và enzym) Đường cát (đường mía - Kích thích nhóm vi khuẩn có lợi phát 6 triển, ức chế nhóm vi khuẩn gây hại Saccharose)
- TS. Lý Thị Thanh Loan Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II Sử dụng hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản và các biện pháp thay thế Các hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản ven biển bao gồm các chất khử trùng, các tác nhân kháng khuẩn, các thuốc trị bệnh khác. Các loại vật tư kiến trúc công trình như chất dẻo, các phụ gia, chất màu, chất chống ôxy hoá, chất chống cháy, diệt nấm, tẩy trùng... Tuy các chất này có tính hoà tan thấp nhưng chúng đôi khi vẫn gây độc đối với sự sống ở dưới nước; Các chất xử lý đất và nước như phèn (sunfat nhômkali), EDTA (Axit dinatri ethylendiamintetraacetic), thạch cao, vôi, zeolit. Ngoài ra, phải kể đến các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, rong tảo, chất phụ gia thức ăn, thuốc gây tê và các loại hoócmôn. Các hoá chất hiện đang được dùng trong nuôi trồng thuỷ sản có thể được chia làm ba loại. Loại thứ nhất bao gồm các hoá chất. Loại này gồm có chloramphenicol, thuốc diệt nhuyễn thể organotin, malachit xanh lục và có khả năng là cả một số phốtphát hữu cơ. Loại thứ hai gồm có các hoá chất có thể được sử dụng một cách an toàn nếu tuân theo các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn, nhưng lại có nguy cơ đối với môi trường và sức khoẻ con người nếu sử dụng không đúng cách. Ví dụ dùng liều lượng quá mức, hoặc không trung hoà được, hoặc không pha loãng trước khi thải ra, hoặc thiếu các thiết bị bảo vệ cá nhân cần thiết. Loại thứ ba gồm có các loại có thể an toàn về mặt môi trường trong hầu hết các trường hợp nhưng lại có hại đối với một số địa điểm đặc biệt vì các thuộc tính đơn nhất của các địa điểm này. Vì vậy, lựa chọn đúng các địa điểm trại nuôi có thể giảm đáng kể tác động về mặt môi trường của các hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản. Khi được sử dụng, ngoài những tác dụng mong muốn, các hoá chất còn gây ra nhiều tác hại ảnh hưởng xấu đến môi trường và con người. Cụ thể là chúng bị tồn lưu trong môi trường thuỷ sinh, sự tích tụ các dư lượng thuốc kháng khuẩn trong các
- chất lắng đọng có tiềm năng ức chế hoạt tính của vi khuẩn và giảm mức độ phân rã của các chất hữu cơ. Các hoá chất có thể gây độc và để lại dư lượng cả ở trong các sinh vật không phải là đối tượng nuôi, ví dụ như khu hệ động vật không xương sống trong môi trường. Các thuốc còn gây ra sự kích thích kháng thuốc trong động vật nuôi, làm giảm tác dụng của nhiều loại thuốc. Ðặc biệt, hiệu ứng có thể có của một số hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là thuốc trừ sâu (ví dụ các phốtphát hữu cơ) và một số thuốc trị bệnh đối với sức khoẻ của những người làm việc ở trại nuôi trồng thuỷ sản là vấn đề đáng quan tâm. Các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn về an toàn và sức khoẻ sẽ làm giảm nhẹ các rủi ro có liên quan và điều quan trọng là các chủ trại nuôi và những người làm việc ở trại nuôi phải tuân thủ các biện pháp phòng ngừa này. Dư lượng trong thực phẩm hải sản có thể gây ra các rủi ro tiềm tàng cho người tiêu dùng qua việc tăng mẫn cảm với các dư lượng thuốc hoặc sự xuất hiệu của hệ vi khuẩn đường ruột kháng lại các chất kháng khuẩn. Hiện nay, hầu hết các nước đều không có các dữ liệu về số lượng các hoá chất được dùng trong NTTS ở nước mình. Các nhà sản xuất hoá chất không tiết lộ thông tin này và trong nhiều trường hợp họ cũng không biết được cuối cùng thì các sản phẩm của họ được sử dụng đến mức nào. Chúng ta cũng thiếu các dữ liệu hiện trường giúp cho việc định lượng rủi ro, chẳng hạn như nồng độ các chất thải hoá học, tính chất và mức độ phản ứng sinh học ở các vùng nước có sử dụng hóa chất. Các biện pháp lựa chọn để thay thế hoá chất trong nuôi trồng Thuỷ sản Cách làm tốt nhất để giảm hiệu quả bất lợi của các hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản đơn giản là chỉ cần bớt sử dụng các hoá chất này. Tuy nhiên, việc bớt sử dụng không dễ dàng do người nuôi phải đối phó với hàng loạt các vấn đề về ô nhiễm và bệnh dịch, vì vậy hiện nay người ta đã áp dụng một số các biện pháp nhằm giảm thiểu hoặc thay thế việc sử dụng hoá chất. Cụ thể là các vấn đề sau: Các hệ thống tái tuần hoàn nước
- Các hệ thống tái tuần hoàn được phát triển ở nhiều nơi chủ yếu để loại bỏ các tác nhân gây bệnh virút (ví dụ virút đầu vàng và virút đốm trắng) trong các hệ thống nuôi. Chúng cũng có hiệu quả trong việc giảm nước thải ra môi trường. Một chương trình tiêu biểu bao gồm việc sử dụng các ao lắng đọng và chứa nước, trị bệnh bằng hoá chất, bằng liệu pháp sinh học, và sục khí. Các hệ thống phức tạp hơn có thể bao gồm lọc sinh học, tia cực tím, ôzôn hoá, lọc, kết bông, tập trung và thu gom bùn đặc. Còn có nhiều môđun khác để xử lý nước, được chuyển hoá từ các nhà máy xử lý nước thải, hiện đang được đánh giá để sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản. Trong bối cảnh có sử dụng hoá chất, các hệ thống tái tuần hoàn tỏ ra có nhiều lợi thế. Thứ nhất, lượng nước thải đi vào các thuỷ vực lân cận giảm đi đáng kể. Thứ hai, các hệ thống khép kín này giúp người NTTS ngăn ngừa các chất độc hại (ví dụ các tác nhân gây bệnh, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ). Thứ ba, các hệ thống tái tuần hoàn có thể được dùng để tăng cường việc diệt vi khuẩn (ví dụ việc sử dụng cách ôzôn hoá), gia tăng mức độ quang phân của thuốc kháng sinh (ví dụ việc sử dụng ánh sáng cực tím) và giúp loại bỏ các chất hữu cơ lơ lửng là những chất có thể chứa các tác nhân gây bệnh hay dư lượng hoá chất (tập trung và thu gom bùn đặc, lọc). Cách trị bệnh sinh học Công nghệ này bao hàm việc bổ sung vi khuẩn và enzym vào ao nuôi tôm để khoáng hoá chất hữu cơ. Hầu hết các công thức trị bệnh sinh học xuất phát trừ các nước ôn đới và được xây dựng để xử lý nước thải. Các thí nghiệm tiến hành ở Thái Lan cho thấy rằng hầu hết các tác nhân trị bệnh sinh học không có hiệu quả có lợi đối với chất lượng nước và sự sinh trưởng của tôm. Mặc dù các tác nhân này đắt tiền và hiệu quả của chúng chưa được chứng minh nhưng chúng đã được sử dụng thường xuyên. Ðiều này cần phải có những nghiên cứu kỹ hơn để giúp những người nuôi tôm trong nỗ lực quản lý môi trường ao. Hỗ trợ tính năng sinh học Hỗ trợ tính năng sinh học dựa trên nguyên lý loại trừ có cạnh tranh và bao hàm việc sử dụng vi khuẩn sống hoặc men trong khẩu phần ăn hoặc trong nước nuôi để đảm bảo rằng ruột của
- các loài nuôi có được trong quần thể ban đầu của các vi sinh vật có ích nhằm làm cho quá trình tiêu hoá được tốt hơn. Cách tiếp cận này đang được tích cực nghiên cứu nhưng công việc mới đang ở giai đoạn đầu. Ðã có những kết quả ban đầu về sự cạnh tranh thành công giữa các dòng Vibrio độc hại và các dòng Vibrio không độc hại. Việc tạo ra quần thể các dòng vi khuẩn mong muốn có thể giúp con giống vượt qua được tính dễ bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh sau khi chuyển từ trại giống ra ngoài (trong đó hệ vi thực vật thay đổi rất lớn do việc sử dụng dài hạn các thuốc kháng khuẩn), hoặc sau khi sử dụng hệ thống tái tuần hoàn "sạch" về mặt vi khuẩn như được nhắc ở trên. Chất kích thích miễn dịch Một số nghiên cứu cho thấy có sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và sức kháng bệnh tốt hơn (thông qua hoạt lực được tăng cường của các tế bào bạch huyết cầu) của cá hồi, cá trê phi và tôm he Nhật Bản, tôm sú sau khi sử dụng các chất tăng cường miễn dịch gồm cả glucan và peptidoglycan. Cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ các chế độ trị bệnh tối ưu, định rõ đặc điểm hệ miễn dịch của tôm và thiết lập các phương pháp sử dụng các chất này một cách thực tiễn và hiệu quả. Dùng vắcxin ngừa bệnh Ðã xuất hiện sự quan tâm đáng kể đến việc phát triển các loại vắcxin như một công cụ phòng bệnh và tăng cường sức khoẻ của các loài được nuôi. Không giống với các hoá chất trị bệch, vắcxin không để lại dư lượng trong thịt của cá được phòng ngừa, trừ phi sử dụng các tá dược có dầu. Tuy nhiên hiện vẫn chưa phát triển được các loại vắcxin hữu hiệu đối với nhiều loại bệnh hệ trọng trong nuôi trồng thuỷ sản vùng nhiệt đới. Ðặc biệt, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ được hệ thống miễn dịch của tôm. Thuần hoá Việc dựa vào đàn giống bố mẹ đã được thuần hoá, chứ không phải là đàn giống hoang dã, có khả năng giúp giảm nhu cầu sử dụng các hoá chất trị bệnh. Sinh sản chọn lọc để tăng sức kháng bệnh là việc làm phổ biến trong nông nghiệp và cũng cần được áp dụng trong NTTS. Sự thuần hoá cũng có thể góp
- phần vào việc sử dụng các đàn giống không có tác nhân gây bệnh đặc trưng (SPF) và có thể kháng tác nhân gây bệnh đặc trưng (SPR). Song, thành công của các công nghệ SPF và SPR phụ thuộc nhiều vào công tác quản lý và môi trường ương nuôi. Do vậy, không nên coi việc phát triển các công nghệ này như một vị thuốc trị bách bệnh để giải quyết tất cả các vấn đề trong sản xuất. Thuốc trị bệnh thay thế Hiện vẫn đang có xu hướng tìm ra các loại dược thảo để trị bệnh cho thuỷ sản nuôi một cách an toàn nhằm thay thế các hoá chất và thuốc kháng sinh. Ví dụ như người nuôi trồng thuỷ sản ở Trung Quốc đã sử dụng thảo dược để trị bệnh thối mang do vi khuẩn và bệnh nhiễm trùng máu ở cá. Tuy nhiên, nhiều loại thảo dược được sử dụng nhưng người ta vẫn chưa hiểu được các thành phần hoạt tính của chúng. Kết luận Hiện nay các nhà chức trách của chính phủ, cộng đồng các nhà khoa học, ngành nuôi trồng thuỷ sản và ngành dược phẩm đều phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo cho việc sử dụng hoá chất phù hợp với việc bảo vệ chất lượng môi trường và sức khoẻ con người. Ðặc biệt là cần có các cơ chế và thi hành nghiêm chỉnh các cơ chế này đ Sức sống của ngành nuôi trồng thuỷ sản hiện nay phụ thuộc vào việc sử dụng các hoá chất. Trong khi ai cũng biết rằng cần phải giảm thiểu lượng hoá chất ược sử dụng trong NTTS thì việc sử dụng hoá chất hiện nay lại mang tính chất không thể thiếu. Vì vậy, cần phải nhậnthức rõ ràng các liệu pháp hoá học và các loại thuốc, hoá chất đang sử dụng hiện nay đều đem lại các hiệu quả và mối nguy khác nhau. Nếu được tiến hành đúng cách thì việc sử dụng hầu hết các hoá chất trong NTTS có thể được coi là hoàn toàn có lợi mà không có hậu quả môi trường bất lợi hoặc các rủi ro gia tăng đối với sức khoẻ của những người nuôi trồng thuỷ sản. ối với việc đăng ký và kiểm soát các hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản để có thể bảo vệ được môi trường và sức khoẻ con người, từ đó đảm bảo được sự tăng trưởng bền vững của nuôi trồng thủy sản ă
- Theo tài liệu: Towards safe and effective use of chemicals FAO ttkhts 112003
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bảo vệ thực vật ở Việt Nam - Từ điển sử dụng thuốc
51 p | 983 | 441
-
Công nghệ Thu Hoạch và Bảo Quản Chuối
18 p | 814 | 165
-
Thuốc điều trị và Vacxin sử dụng trong thú y: Phần 2 - NXB Nông Nghiệp
33 p | 279 | 80
-
Bài giảng Thú y cơ bản : MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở VẬT NUÔI part 5
5 p | 157 | 41
-
Vì sao cá bảy màu mới đẻ hao hụt nhiều?
2 p | 197 | 30
-
Vườn và những điều cần chú ý khi lập vườn
65 p | 122 | 27
-
Các Phương Pháp Nhân Giống Cây Ăn Quả
22 p | 164 | 25
-
Những chú ý khi chăm sóc bể thủy sinh hàng ngày
3 p | 153 | 25
-
THUẬT VƯỜN ƯƠM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG CÂY ĂN QUẢ
3 p | 155 | 18
-
Những lưu ý khi sử dụng thuốc BVTV
2 p | 146 | 14
-
BẢNG CÂU HỎI DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI
33 p | 79 | 12
-
Cách bảo vệ cây ăn trái trong mùa mưa bão
2 p | 132 | 9
-
Giảm thời gian sinh trưởng ngô đông
2 p | 119 | 8
-
Kỹ thuật ương cá bột thành cá giống
3 p | 75 | 6
-
Cần Giữ Vệ Sinh Thức Ăn Nước Uống
5 p | 62 | 4
-
Các kỹ năng dành cho cán bộ thú y cơ sở: Phần 1
39 p | 26 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn