NHỮNG THỦ TỤC SAU MỘT PHIÊN TÒA
HÌNH S HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ
Khi kết thúc phiên tòa hình sự, thông thường vẫn còn
hai khâu đối với bị đơn nếu bị tuyên có tội: quyết
định hình phạt và kháng án.
Quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là lời công bchính thức của
tòa án về việc xét xử bị đơn mà vào thời điểm đó sự
trừng phạt hay hình phạt được đưa ra.
Ở cấp độ liên bang và ở hầu hết các bang, quyết định
hình phạt chỉ do thm phán đưa ra. Tuy nhiên, ở một
số bang bị đơn có thể lựa chọn được thẩm pn hoặc
bồi thẩm đoàn quyết định hình phạt, và trong các v
án tử hình các bang thường yêu cầu rằng không được
áp dụng hình phạt tử hình nếu không có quyết định
đồng thuận của 12 thành viên bồi thẩm đoàn. Tại một
số bang, sau khi bồi thẩm đoàn xác minh và tuyên b
mt ai đó là có tội thì bồi thẩm đoàn sẽ thảo luận kỹ
lưỡng lần thứ hai để xác định bản án. Ở một vài bang,
mt bồi thẩm đoàn mới sẽ được đưa vào danh sách
cốt để tuyên án. Khi đó những quy tắc về bằng chứng
sẽ được nới lỏng hơn, và bồi thẩm đoàn có thể được
phép nghe bằng chứng đã bị loại trừ trong thời gian
xét xử thực tế (chẳng hạn, hồ sơ tội phạm trước đó
của bị cáo).
Sau khi thẩm phán công bố bản án, theo tập quán sẽ
có một vài tuần tính từ lúc bị đơn bị xác minh và
tuyên b là có tội đến khi hình phạt được đưa ra.
Khoảng thời gian này cho phép thm phán nghe và
xem xét những kiến nghị sau phiên tòa mà luật
bào chữa có thể nêu ra (như kiến nghị một phiên tòa
mới) và cho phép một người quản chế tiến hành điều
tra trước khi kết án. Người quản chế này là mt
chuyên gia về tội phạm học, tâm lý học hay xã hội
học - người sẽ gợi ý cho thm phán về độ dài thời
gian áp đặt hình phạt. Người quản chế thông thường
xem xét những yếu tố như lai lịch của tội phạm, mức
độ nghiêm trọng của tội danh phạm phải, và khả năng
tội phạm tiếp tục tham gia vào nhng hoạt động phi
pháp. Các thẩm phán không buộc phải tuân theo
khuyến nghị của người quản chế, nhưng khuyến nghị
này vẫn là một yếu tố quan trọng trong đánh giá của
thẩm phán về việc sẽ đưa ra bản án nào. Các thm
phán được giới thiệu rất nhiều biện pháp thay thế và
hàng loạt những bản án khi trừng phạt tội phạm.
Nhiều biện pháp thay thế trong số này liên quan đến
khái nim cải tạo và đòi hi phải có sự hỗ trợ của các
chuyên gia trong các lĩnh vực tội phạm học và khoa
học xã hội.
Hình phạt nhẹ nhất mà một thẩm phán có thể đưa ra
là án treo. Đây thường là hình phạt mà tội phạm được
coi là rất nhẹ hoặc nếu thẩm phán tin rằng người
phm tội sẽ không tiếp tục tham gia vào những hoạt
động phi pháp. Nếu án treo được đưa ra thì người
phm tội có thể không phải ngồi tù một tí nào chừng
nào những điều kiện của án treo vẫn được duy trì.
Những điều kiện như vậy có thể gồm tránh xa những
tên tội phạm đã bị kết án, không phạm những tội
danh khác, hay thực hiện một số hoạt động cộng
đồng một cách thường xuyên hơn. Nếu một người
phm tội trải qua thời gian án treo mà kng vi
phm gì thì hồ sơ tội phạm của người đó thường
được xóa sạch và trong con mắt của pháp luật thì
dường như người đó chưa hề phạm tội gì.
Nếu thẩm phán không mấy ngả về quyết định án treo
và thấy rằng thời gian trong nhà lao là cần thiết thì
thẩm phánthể đưa ra một án tù trong phạm vi quy
định của luật pháp. Lý do phải có một dãy số năm tù
thay vì tự động áp dụng số năm tù là ở chỗ luật pháp
nhận thấy không phải mọi tội danh và kẻ phạm tội là
đồng nhất với nhau và trên nguyên tắc hình phạt phải
phù hợp với tội danh.
Trong nỗ lực xóa bỏ nhng chênh lệch lớn trong việc
kết án, chính quyền liên bang và nhiu bang đã c
gắng đưa ra những bộ hướng dẫn chun mực để tạo
sự nhất quán cao hơn giữa các thẩm phán. Ở cấp độ
quốc gia, nỗ lực này được thể hiện bằng việc ban
hành Đạo luật cải cách việc quyết định hình phạt năm
1987 - là đạo luật xây dựng những hướng dẫn cơ cấu
thủ tục kết án.
Quốc hội quy định rằng các thm phán chỉ có thể đi
trệch khỏi những hướng dẫn nếu họ tìm ra một tình
tiết trầm trọng hơn hoặc giảm nhẹ đi mà ti danh
phm phải không được xem xét một cách thỏa đáng.