Chương 5<br />
PHẢI VIẾT THÔI? KIÊN THƯỜNG TỰ NHỦ MỘT cách nghiêm trang và quả quyết,<br />
một cách thôi thúc và nôn nóng như thế, như thể thầm hô lên một khẩu hiệu để giục lòng<br />
mình, những khi anh một mình đi trên đường phố ban đêm. Những đêm âm u buồn thảm<br />
đầu óc tối sầm tuyệt vọng, như đêm nay, như nhiều đêm.<br />
Phải viết thôi. Đời anh từ bấy lâu nay còn gì hơn là viết, mặc dù là viết khổ viết sở, như<br />
đập đầu vào đá, như là tự tay tước vụn trái tim mình, như là tự lộn trái con người mình ra.<br />
Nhưng ấy thực là tồn duy nhất, là phần còn lại của tâm hồn đã bao lâu rồi ngợp đi trong<br />
buồn thương và tủi nhục. Viết cho đến khi không còn được nữa. Cho tới khi ngay cả phần<br />
còn lại cũng bị nhận chìm đi thì xin thề là sẽ biết đường mà tự xử. Còn bây giờ, những lúc<br />
lờ mờ cảm thấy sự vô nghĩa lý của những giờ dằng dặc triền miên cặm cụi bên bàn viết thì<br />
Kiên ra đường, ra với thành phố đêm khuya của anh. Nhất là những đêm không điện, từng<br />
mảng rộng của Hà Nội bị nuốt đi trong đêm. Đêm tối đen, hoang vu như đêm đồng nội.<br />
Và thêm nữa mưa gió rét mướt. Trong cái buồn của đêm đen thành phố anh như thấy được<br />
cảm thông, nỗi buồn riêng dường như dịu đi.<br />
Đôi khi lò mò đi trong những ngõ hẻm câm lặng như hang sâu, lòng anh lại chợt bừng<br />
lên cảm giác ngọt ngào nao nức như thể đang đứng trước một khoảng trời rộng mở. Một ý<br />
tưởng lơ vơ có thể được làn gió lùa dọc phố bốc mạnh lên như một cánh buồm.<br />
Phải viết thôi. Viết để quên đi, viết để nhớ lại. Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu<br />
rỗi, để mà chịu đựng, để giữ lòng tin, để mà còn muốn sống. Cần phải viết về những người<br />
thân yêu cũng như về những con người xa lạ hàng ngày nườm nượp qua đường vô tình trở<br />
thành những chứng nhân của cuộc đời nhau. Viết về những khoảng trời khác nhau, tương<br />
phản nhau trong đời sống và trong tâm hồn, về những mái nhà, những tổ ấm, về thành phố<br />
mẹ đẻ… có biết bao số phận, biết bao nhiêu nông nỗi đời người thấp thoáng trong bóng tối<br />
đêm mưa, dưới những mái hiên, lướt ngang những cột đèn góc phố.<br />
Tiếng chân người bước trong vắng tối phố dài nghe như âm vang của im ắng, như tiếng<br />
bước chân của suy nghĩ. Một chiếc xích lô phủ bạt bóng loáng nước mưa đạp qua không<br />
tiếng động. Một cặp ôm nhau trong cái bốt của cảnh sát điều khiển giao thông. Tiếng gà<br />
gáy mơ hồ trong góc phố. Một quãng đường tối câm đột nhiên có điện trở lại, đèn bật<br />
sáng, bừng lên từng đợt như bị gió thổi bạt đi. Lá bàng rụng xuống một tiếng khô giòn.<br />
Còn lá sấu mặc dù ướt át vẫn đuổi nhau vùn vụt trên vỉa hè. Kiên cảm thấy mình đang đi<br />
trong quãng lặng của bản nhạc lớn lao và trong đêm tối phố phường anh cảm thấy rõ mình<br />
đang sống. Sống một cánh thôi thúc, một cách đầy giục giã, bất chấp cuộc đời tham lam<br />
không trí nhớ, bất chấp sự trì trệ của đời sống thị dân không ký ức, không ước mơ. Phải<br />
viết thôi, phải viết thôi.<br />
Ở góc phố nọ, Kiên dừng lại trước một cửa hiệu bày bán một mình giữa canh khuya.<br />
Vừa mải mê vừa lơ đễnh, anh ngắm những mặt hàng lụa bày trong tủ kính. Rất nhiều màu<br />
sắc và tất thảy đều dịu nhẹ gợi cảm giác êm ái, tinh khiết và trang nhã lạ thường.<br />
<br />
- Chọn mua đi chú ơi? Một giọng trẻ măng tinh nghịch mời chào, và Kiên nom thấy sau<br />
quầy gương mặt thanh tú phơn phớt phấn hồng của cô bé chủ tiệm - phụ nữ bọn cháu ấy<br />
mà, ở mọi lứa tuổi chẳng ai là không thích mê khi được làm quà bằng thứ hàng này.<br />
Kiên mỉm cười, nhưng mà anh hơi thẹn vì đã nhận ra đây là quầy bán toàn đồ của phụ<br />
nữ. Thật không ngờ lại đẹp đến thế, tinh xảo đến như vậy. Hẳn là vẻ mặt anh lúc này, nom<br />
phải đặc biệt tỉnh lẻ. Cô bé khúc khích cười tán:<br />
- Tuyệt, đúng không chú? Có thể ví như những lượt da trời buổi sớm ý…<br />
Trên vỉa hè, trong bóng tối đẫm hơi mưa, Kiên rảo bước, và hồi lâu trước mắt anh thú<br />
thực cứ phấp phới dập dờn những món đồ lụa mặc bên trong đẹp không thể nào ngờ được<br />
ấy của người phụ nữ thời đại mới. Tự nhiên anh nhớ tới mấy cô giao liên người Miên ở<br />
vùng Tây đắc-rệt, họ xài coóc-xê như đồ trang sức: mặc ra bên ngoài áo cánh. Mà nói gì<br />
tận xứ đó, ở Quảng Bình hồi bọn anh hành quân qua, trong ba lô tay nào có trữ loại phụ<br />
tùng ấy của phái đẹp thì hầu như muốn gì được nấy, các cô thanh niên xung phong chiều<br />
hết. Phải, các cô gái thời bọn anh quả là thua kém thời nay. Và, ôi chao như hồi năm 73,<br />
thật tức cười, tiểu đoàn anh nhận lầm phải một đợt quân trang nữ, áo ngắn cũn, quần lại xẻ<br />
bên hông, song kỳ khôi nhất là mỗi bộ thế đều có kèm cả “xích líp phụ tùng”. Lính tráng<br />
gọi đùa là đồ gia giảm. Cứng ngang mo cau, thật sự là giáp che ngực, và lục thẫm, lục nhạt<br />
hệt như những con cánh cam. Đấy là chuyện hài song cũng có những chuyện kinh khủng.<br />
Bao giờ cũng thế, từ sự nhỏ nhặt nhất trong đời sống con người thời đó cũng có những<br />
chuyện đau đớn kèm theo. Những chuyện không thể quên, nhưng không dám nhớ tới…<br />
Kiên bước qua đường. Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn, anh thấy một người ăn mày<br />
đang đứng co ro, tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái người qua đường và cất<br />
giọng ống bơ rỉ kêu van một cách tự tin:<br />
- Xin hãy để mắt quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy<br />
nhớ tới những miền đang lụt lội, đồng chí.<br />
- Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ<br />
giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường - một ông bệ vệ diện bành tô<br />
quắp một ả áo lông đi từ trong quán ra, lên giọng - Ê, hạ lập trường xuống, thì cho.<br />
Ả áo lông cười rú lên như bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình sẽ dùng<br />
đến cảnh này, tự nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng cha bệ vệ kia và người ăn<br />
xin là bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội. Mà cũng có thể… Nhưng, vớ vẩn chưa kìa.<br />
Kiên nghĩ sao lại lạc sang nghĩ đến chuyện này? Mọi ý bị xáo trộn lên, không còn mạch<br />
lạc gì, mọi tình cảm và suy tư như cố hòa vào nhau để làm mờ nhòa cái điều chủ yếu đang<br />
ám ảnh, giày vò tâm trạng. Tuy nhiên, anh cũng biết, chính những ý nghĩ đứt đoạn, thiếu<br />
ăn nhập không đầu, không đuôi, thấy gì nghĩ nấy này đã luôn giúp anh sao lãng khỏi<br />
những đau đớn quá sức tưởng tượng của tâm hồn.<br />
Trong đêm, những cảnh tượng của mê cung thành phố lướt loáng thoáng qua tâm trí<br />
Kiên như những con tính nhẩm rời rạc, chẳng mấy ý nghĩa nhưng chắp nối tình cờ với<br />
nhau thành chuỗi số vô tận. Nhiều hôm những con tính nhẩm nhặt nhặt trên đường đã dẫn<br />
<br />
dụ anh đi lang thang cả đêm. Dần dần cũng thành ra như một nhu cầu, nó tạo cho anh cảm<br />
giác tò mò êm ái đối với đời sống thường nhật tối tăm, bơ phờ và chán ngấy. Anh có thể<br />
kiên nhẫn uể oải đi theo một bộ hành nhìn thấy tình cờ phía trước, lòng vòng qua hết phố<br />
này đến phố khác hàng giờ cho đến khi y khuất vào sau khung cửa một ngôi nhà. Anh cố<br />
hình dung tướng mạo và sắc diện cuộc đời một con người chỉ qua tấm lưng, anh hình dung<br />
mình nhập thân vào cuộc đời của họ, những con người sống quay lưng lại với tất cả.<br />
Ngày trước, trai đất thánh gặp nhau trong rừng, mắc võng nằm cạnh nhau, nhiều khi<br />
suốt đêm sa đà vào toàn những chuyện phố xá. Phố này ở đâu, phố kia ở đâu, phố nào chỉ<br />
độc một số nhà, phố nào có nhiều số nhà nhất, phố nào dài nhất, ngắn nhất, cổ nhất, vì sao<br />
lại gọi là chợ Đuổi, dân nào ở Hà Nội chuyên làm chả nhái, quán cà phê nào đáng vào<br />
nhất… Năm 72, Kiên, cùng A trinh sát với Thắng “đầu bò” - ba đời đạp xích lô kiếm cơm<br />
ở Hàng Cỏ - Vậy mà “đầu bò phải chịu Kiên là thông thạo Hà Nội hơn hắn”. Không một<br />
tên lính Thăng Long nào rành rẽ những chi tiết thị thành lặt vặt nhất bằng Kiên. Anh có<br />
thể miêu tả không sai một nhánh nhỏ nào trong khối chằng chịt các phố Hàng. Ai có thể<br />
biết được bằng Kiên rằng Hà Nội có bao nhiêu hồ to hồ nhỏ, đường Khâm Thiên có bao<br />
nhiêu ngõ, con gái phố nào đẹp nhất, rạp Thái Bình Dương thường chiếu phim cấm vào<br />
những tối nào, bằng cách nào sắm được vé. Chẳng ai ngờ rằng những tri thức phố xá ấy<br />
của Kiên là do nhặt nhạnh được trong chiến tranh, do anh trải qua nhiều đơn vị, gặp nhiều<br />
lính gốc Hà Nội, chứ bản thân anh trước khi đi bộ đội chỉ là một thằng bé học trò, ít chơi<br />
bời bát phố. Cuộc đời quân ngũ và những năm tháng mịt mù nơi rừng sâu núi đỏ đã làm<br />
cho anh yêu tha thiết thành phố mẹ đẻ của mình.<br />
Thế nhưng giờ đây niềm đam mê quang cảnh thị thành đã phai lạt đi nhiều. Có lẽ, quả<br />
thật, càng ngày anh càng khó nhận ra Hà Nội của mình, không phải vì thành phố đã thay<br />
đổi gì nhiều mà vì trong lòng anh, phía sau đôi mắt, đã có quá nhiều biến động. Anh gắn<br />
bó với đường phố chủ yếu là nhờ những kỷ niệm. Dường như cuộc sống ngày hôm nay<br />
anh thấy đang diễn ra xung quanh chỉ có tác dụng duy trì trong anh một thế năng không<br />
mất đi đối với quá khứ.<br />
Cái cảm giác hòa nhập, cảm giác đồng điệu ngày mới quân ngũ trở về anh thường cảm<br />
thấy khi đi trong phố xá giữa mọi người giờ đây không còn nữa. Ám ảnh cô đơn luôn bám<br />
gót Kiên, nỗi cô đơn không của riêng anh mà của cả đám đông. Nỗi cô đơn của cả một<br />
dòng người. Sự cô đơn của nghèo nàn và đơn lẻ lồ lộ phơi bày trong các số phận đồng<br />
loạt, lầm lũi đi bên nhau nối nhau thành dòng nước quẩn. Niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc<br />
và đau khổ đều cùn mòn, nhạt nhẽo và vô ích, lập lòe tối sáng như những chùm đèn xanh<br />
đỏ nhấp nháy trước các cửa hiệu. Cho nên, đi trên đường phố như để tìm một nguồn quên<br />
lãng mà rốt cuộc lại rơi vào với nỗi buồn. Luôn luôn Kiên nhận thấy rằng, tất cả, cả anh,<br />
cả mọi người đang để trôi đi uổng phí những giây phút bồi hồi, những khoảnh khắc xao<br />
xuyến tình người nhất trong một đêm và trong một cuộc đời. Luôn luôn, khi đi trên đường<br />
phố, trong đầu anh thường bất chợt lóe lên một ý nghĩ. “Phải đi khỏi đấy thôi”. Bóng tối<br />
đen kịt. Gió hú trên cao… “Đi thôi”.<br />
Bất giác anh hình dung thấy Đồi Mơ trong cái vắng lặng của buổi chiều tà tháng năm,<br />
cái tươi mát mới lạ, cái xưa cũ xa vời và trong cảm giác êm đềm tuyệt diệu của làn gió từ<br />
<br />
bìa rừng và mặt sông, của vườn cây đằng sau nhà mẹ Lành. Sao Hôm lấp lánh trên nền<br />
trời ngả tím. Nỗi khát khao được về náu thân ở xó rừng buồn thảm, tươi đẹp ấy của đất<br />
Nhã Nam làm trái tim Kiên tan nát đi vì tuyệt vọng và vì hạnh phúc. Khi đời anh đã hết thì<br />
vẫn còn một nơi, vẫn còn một người chờ anh tại chính chốn mà từ đó anh ra đi lập<br />
nghiệp…<br />
Rồi anh lại nhớ tới những ngày xuân, khi toàn quân B3 từ vùng duyên hải Phan Rang<br />
hành quân ngược lên đèo Ngoạn Mục, qua thủy điện Đa Nhim, qua Đơn Dương, Đức<br />
Trọng, xuống Di Linh để ra đường 14 đi xuống Lộc Ninh, quặt trở lại để đánh vào Tây Sài<br />
Gòn kết thúc chiến tranh. Cuộc hành quân muôn một trong đời lính bộ binh, vùn vụt tiến<br />
quân bằng xe cơ giới xuyên qua đất trời vô tận của thảo nguyên… Khi bình minh đến trên<br />
đồng cỏ, quân lính tỉnh dậy trên xe, mặt bạc đi vì gió và vì sương, hỏi nhau đêm qua đã<br />
vượt qua được những vùng đất nào, bây giờ đang ở đâu đây…<br />
Sung sướng tự hào vì tốc độ của chiến thắng. Hạnh phúc. Ngỡ ngàng. Ngây ngất.<br />
Phải đi thôi? Phải đi thôi… Tới một góc tối ở xế Bờ Hồ, Kiên tạt vào “Caffé de la<br />
Hiên”, một quán đêm bí ẩn nép mình rất kín đáo ở đầu một ngõ hẻm. Đã đi phất phơ ban<br />
đêm thì bao giờ anh cũng ghé vào đây. Ở đây anh có những kỷ niệm. Và nếu cần có thể dễ<br />
dàng thu lượm thêm nhiều những kỷ niệm nữa. Với lại ở đây người ta không nhạc nhọt<br />
làm ầm ĩ lên, cũng không màu mè chuyện văn chương thơ phú như ở các quán quanh hồ<br />
Thuyền Quang đầy rẫy các ông bà thi sĩ. “Hê lô, bộ binh?” - Tay chủ quán mập ú mũi cà<br />
chua hằn rõ ba múi toét cười chào Kiên. Y bưng đến bàn Kiên một tách cà phê, đĩa hạt<br />
hướng dương Tàu và nửa chai…<br />
- Người lính có thích bạn cùng bàn không? - Y trịnh trọng.<br />
- Không. Nhưng thế nào, dạo này thêm cả món ấy nữa à?<br />
- Hì, hì… tư duy mới.<br />
Trong không khí chật chội đầy hơi ẩm và khói thuốc, Kiên ngồi nhâm nhi tách cà phê<br />
và lười nhác ngẫm nghĩ. Ở các bàn khác người ta thầm lặng chơi “ba cây”, rầm rĩ chuyện<br />
mánh mung và hút thứ gì đó lờ mờ mùi vị cần sa. Xa xa, trên mặt hồ hiện lên một ngôi sao<br />
xanh mờ có vẻ huyền ảo. Chắc là một ngọn đèn ở đầu cầu Thê Húc.<br />
Hồi đầu hòa bình, tay chủ tiệm không béo mà gầy như cái xe điếu. Y cũng là lính giải<br />
ngũ, mò đâu từ bên Lào về với cái mặt sốt rét cơn thâm xịt. Y mở quán. Và dạo đó người<br />
ta gọi đây là câu lạc bộ Cựu chiến binh. Khách khứa toàn là quân sĩ về “hoàn kiếm”, phần<br />
lớn chưa công ăn việc làm, chưa định hình cuộc sống mới, và như người ta nói, là còn<br />
chưa lại hồn. Người này mách người kia, dần dần tụ lại với nhau ở đây, cùng nhau nướng<br />
sạch vào túi trung sĩ chủ tiệm những đồng bạc “cửa rừng”.<br />
Ở đây, bên cốc rượu, họ lớn tiếng kể về những bước đi chập chững vào đời dân sự.<br />
Những chuyện bây giờ thì đã nhàm tai nhưng hồi đó thì thật không sao tin nổi, lại được kể<br />
bằng giọng lính, làm cho ai nghe cũng phải cay đắng cười đến rũ rượi và điên cuồng nốc<br />
rượu. Ở đây cũng có thể nhận được những chỉ dẫn và mách bảo tận tình về nơi có thể kiếm<br />
việc làm, về cách lo lót bọn nha lại để xin nhập tịch, xin trợ cấp thương tật, xin vào học lại<br />
<br />
ở trường đại học, xin trở về xí nghiệp cũ…<br />
Nhưng nói chung đây là nơi tụ tập giải sầu, gặp gỡ hàn huyên, nói chung là những sự<br />
cố kết ủy mị. Tại chỗ Kiên đang ngồi dạo trước là “chốt” cố định của Vượng tồ, một cựu<br />
binh thiết giáp, nhà ở sau ga, “đã từng bốn năm trời lái T54 hoành hành ở Miền Đông!”<br />
Có lẽ Vượng là nhân vật đầu tiên thuộc loại người mà về sau Kiên gặp rất nhiều, loại<br />
người không tài nào nhấc chân ra khỏi miệng hố chiến tranh, loại người bị những ức ký<br />
quá kinh khủng đè bẹp và làm cho suy đốn. Hồi mới theo bạn bè tới quán này, Vượng<br />
uống không nhiều, lành và rụt rè lại to con quá khổ nên trông quá tồ.<br />
- Em đang nhờ anh em chạy lo cho một chân lái xe - Anh chàng khoe với Kiên - Xe tải,<br />
xe con, xe khách đều được, Tàu lu cũng được. Cốt là em được nắm tay lái, được chuyển<br />
động trên mặt đường thôi. Em chẳng uống. Ngồi vui với các anh thôi.<br />
Bẵng đi một thời gian, lính tráng kinh hoàng thấy Vượng lù lù xuất hiện ở cửa quán,<br />
râu ria lồm xồm, mắt đỏ ké, bước khật khưỡng, môi nở nụ cười ngơ ngác, “tôi bỏ lái rồi<br />
các chiến hữu ạ. Bây giờ là rượu lái tôi”. Và bắt đầu từ đó, Vượng như ngồi lì ở đờ la Hiên<br />
một góc riêng, luôn luôn một chai với ba thứ đồ nhắm.<br />
Thỉnh thoảng hứng chí, Vượng lại gào lên một khúc quân ca hoặc một bài hát tục tĩu<br />
nào đấy của đời lính.<br />
- Cạn với tớ một li, chàng bộ binh - Hắn ồm ồm gọi - Không thích tớ à? Hay sợ tớ hết<br />
xèng? - Đừng lo, cạn đi? Không có chúng tớ làm đếch gì mà các cậu trở thành “bộ binh<br />
giỏi nhất thế giới” như các vị tướng tá nhà ta khoe? Hãy uống mừng đòn đột phá của chiến<br />
xa đi!<br />
Thật không ngờ một tráng sĩ hùng dũng như thế thuở nào lại trở chứng, biến mình<br />
thành mớ giẻ rách như vậy. Người ta bảo hắn mắc chứng “ngợp mặt đường” nhưng đúng<br />
ra thì còn tồi tệ hơn: Vượng không chịu nổi xóc?<br />
Xóc mạnh ổ gà, ổ trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được - Vượng kể - chứ mà những<br />
đoạn nhún nhảy, êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng mặt đến buông cả<br />
tay lái. Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu vào thì<br />
còn lái chó gì được nữa. Mà tớ còn bị cái thói căm ghét kẻ bộ hành và xe đạp… Cứ thấy<br />
người láng cháng trước đầu xe là hết kiên nhẫn. Phải cố sức kìm mới khỏi dận ga thúc ba<br />
đờ xốc vào họ. Các cậu hẳn thấy cảnh tăng cán người rồi chứ? Nặng thế mà thân xe vẫn bị<br />
xương thịt con người mềm mại đội kích lên một chút. Ngồi trong xe, ở tay lái thì càng<br />
nhạy cảm hơn với cái sự hơi rướn lên ấy. Biết rất rõ xe đang lướt trên những thân người<br />
chứ không phải mô đất, gộc cây hay là cục gạch. Như cái túi đẫy nước thẳng người vỡ<br />
đánh bép một cái và đẩy nhẹ băng xích lên. Ối giời ơi? - Vượng rên lên, mặt méo đi Những cảnh như thế cán cả vào tôi khi ngủ. Các cậu không hiểu như thế là thế nào đâu…<br />
Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi đánh bọn lính sư đoàn 18, ở các rãnh xích đầy những<br />
thịt với tóc. Giòi lúc nhúc. Thối khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy… cái chủ yếu là…<br />
thoát khỏi ngủ mê…<br />
Vượng đã uống cho tới ngày đổ bệnh, quỵ hẳn. Những người khác có lẽ cũng chẳng<br />
<br />