intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nội san Nghiên cứu khoa học sinh viên - Tập 6/2024

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

13
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội san Nghiên cứu khoa học sinh viên - Tập 6/2024 thuộc Học viện Tài chính gồm có các bài viết như: Những điểm mới trong Luật Đất đai (sửa đổi) và một số kiến nghị để đưa luật được triển khai hiệu quả, đồng bộ; xây dựng và lấp đầy khoảng trống hành lang pháp lý Fintech; thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; phát triển dịch vụ Mobile Money tại Việt Nam;... Mời các bạn cùng đón đọc để biết thêm những nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nội san Nghiên cứu khoa học sinh viên - Tập 6/2024

  1. NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC SINH VIEÂN Taäp 06/2024 MUÏC LUÏC TÀI CHÍNH VĨ MÔ 3. Những điểm mới trong Luật Đất đai (sửa đổi) và một số kiến nghị để đưa luật được triển khai hiệu quả, đồng bộ Vũ Văn Dưỡng - CQ59/41.03 7. Xây dựng và lấp đầy khoảng trống hành lang pháp lý Fintech Hoàng Thị Tuyết Mai - CQ58/21.12 11. Thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay Nguyễn Thu Phương; Đặng Thị Thu Trang - CQ59/11.07CLC Phạm Duy Anh - CQ59/11.08CLC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 15. Phát triển dịch vụ Mobile Money tại Việt Nam Bùi Mạnh Tuấn - CQ58/15.02; Đoàn Thị Hà - CQ58/15.08 19. Thực trạng triển khai ESG tại ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Trần Hà Ngọc - CQ58/09.04 22. Nhà ở xã hội: Thực trạng và giải pháp phát triển Nguyễn Thị Ngọc Hà - CQ59/11.05; Đào Thúy Hiền - CQ59/09.02CLC 25. Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp Vũ Thị Tâm - CQ59/09.04 29. Corporate bonds market: Opporturnities and threats Phạm Linh Chi; Nguyễn Hồng Trang - CQ59/11.06CLC 33. ESG, CSR, CSV - Hướng đi nào để các doanh nghiệp phát triển bền vững? Đào Ngọc Ánh - CQ59/22.04CLC CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ 36. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động các quỹ tài chính ngoài ngân sách tại Việt Nam Cù Hoàng Lâm Vũ - CQ58/01.02 39. Phòng chống gian lận trong sử dụng hoá đơn điện tử ở Việt Nam Nguyễn Trung Nguyên - CQ58/02.03 43. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa tới sự phát triển của ngành dịch vụ ở Việt Nam Đào Xuân Hùng - CQ59/63.02; Nguyễn Văn Đại - CQ60/01.01 47. Unlocking potential for Vietnamese businesses from the logistics passport program Lê Thị Hồng Ngọc - CQ60/05.02 Sinh viªn 1
  2. Taäp 06/2024 NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC SINH VIEÂN 51. Thu hút vốn đầu tư vào công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam Nguyễn Ngọc Mai - CQ59/11.12CLC 55. Phát triển kinh tế ban đêm tại Hà Nội - Thực trạng và một số giải pháp đề xuất Đào Thị Thu An - CQ60/08.01; Trần Hồng Ngọc - CQ60/08.04 58. Thị trường tín chỉ carbon - Giải pháp giảm thiểu tác động của dấu chân carbon đến nền kinh tế Việt Nam Đỗ Bảo Chi - CQ59/09.02; Doãn Hải Hà - CQ59/11.03; Nguyễn Thị Hồng Diệu - CQ59/11.06 61. Cơ hội và thách thức phát triển thị trường Carbon tại Việt Nam hiện nay Trần Phương Linh - CQ59/61.02 TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 65. The impact of EVFTA on exporting Vietnamese rice to the EU market Hà Thị Thảo Vân - CQ59/06.08CLC; Nguyễn Khánh Ly - CQ59/06.07CLC THÔNG TIN SỰ KIỆN 69. The effectiveness of personality tests and assessments for AOF students in finding right career orientation Đỗ Tuấn An - CQ58/51.04 73. Thương hiệu cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng thương hiệu cá nhân Chu Thị Ngọc Oanh - CQ59/21.05; Mạc Hải Minh - CQ59/22.03 Trần Phương Thảo - CQ59/21.10 76. Tích hợp chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế kế toán ICAEW trong chương trình đào tạo cử nhân chất lượng cao tại Học viện Tài chính Bùi Thu Trang; Đỗ Nguyễn Hải Linh - CQ59/22.09CLC thÓ lÖ Göi bµi Bài viết ngắn gọn, rõ ràng, đánh máy trên một mặt giấy A4 (độ dài không quá 5 trang, lề trái bằng 3,5cm, lề phải bằng 2,0cm, lề trên + dưới 3,0cm, cỡ chữ 14, khoảng cách dòng tối thiểu là 1,3cm), đánh số trang; các ký hiệu, công thức và hình vẽ phải chính xác, đúng quy định, đánh số và ghi rõ vị trí đặt hình, tiêu đề bài báo viết bằng chữ in hoa, họ và tên tác giả, số điện thoại... được đặt ngay dưới dòng tiêu đề sát với lề phải của trang 1. Tư liệu nước ngoài và dẫn liệu cần ghi rõ xuất xứ (tên tác giả, tên ấn phẩm, nhà xuất bản, năm xuất bản; báo chí phải ghi rõ số ra ngày, tháng, năm; tên trang Web và tên chuyên mục của trang Web. v.v...). Không nhận những bài viết đã đăng trên các ấn phẩm khác ở trong và ngoài Học viện. Bài viết và ý kiến trao đổi xin gửi về: Phòng 317 - Ban Quản lý Khoa học - Học viện Tài chính - Đức Thắng - Bắc Từ Liêm - Hà Nội Điện thoại: 024.02191967; Email: noisansvnckh@gmail.com Sinh viªn 2
  3. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 Những điểm mới trong Luật Đất đai (sửa đổi) và một số kiến nghị để đưa Luật được triển khai hiệu quả, đồng bộ Vũ Văn Dưỡng - CQ59/41.03 uật Đất đai (LĐĐ) là dự án luật lớn có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, tác L động đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trƣờng của đất nƣớc. LĐĐ có tác động sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, giữ vai trò trung tâm trong hệ thống pháp luật về đất đai, có mối quan hệ với nhiều quy định khác của pháp luật. Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thƣờng lần thứ 5, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Đất đai sửa đổi (LĐĐSĐ) với rất nhiều nội dung mới. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 (trừ một số điều khoản cụ thể). Luật mới bao gồm 16 chƣơng, 260 điều, tăng thêm 02 chƣơng so với LĐĐ năm 2013 (bổ sung thêm 01 chƣơng quy định về phát triển quỹ đất và tách chƣơng thu hồi đất, trƣng dụng đất, bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ thành 02 chƣơng), trong đó sửa đổi, bổ sung 180 điều, bổ sung mới 78, bỏ 30 Điều (do gộp 13 điều; bỏ 13 điều và tách 4 điều). Qua đó, LĐĐSĐ đã thể chế hóa đúng chủ trƣơng của Đảng, tháo gỡ đƣợc khó khăn, vƣớng mắc đã chỉ ra trong quá trình tổng kết thi hành LĐĐ. Một số điểm nổi bật trong LĐĐSĐ vừa được Quốc hội ban hành Thứ nhất, LĐĐSĐ cho phép nâng hạn mức chuyển, nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân. Nếu nhƣ trong LĐĐ 2013 quy định mức chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 thì LĐĐSĐ đã nâng hạn mức lên 15 lần tại Khoản 1 Điều 177. Thêm vào đó các quy định về “tập trung đất nông nghiệp” (Điều 192), “tích tụ đất nông nghiệp” (Điều 193) tạo điều kiện để nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lƣơng thực quốc gia và quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 phát triển 1 triệu ha đất chuyên canh lúa chất lƣợng cao và phát thải ròng bằng 0 (Net zero) tại đồng bằng sông Cửu Long. Thông qua việc tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn, LĐĐSĐ đóng vai trò nhƣ một cú huých đẩy mạnh quá trình Nông thông mới, thay đổi bộ mặt nông thôn và cuộc sống của ngƣời nông dân. Từ đó tác động tích cực đến cả nền kinh tế và thị trƣờng bất động sản trong quá trình đô thị hóa và phát triển các khu dân cƣ nông thôn, làm tăng nhu cầu tạo lập nhà ở của ngƣời dân nông thôn. Sinh viªn 3
  4. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Thứ hai, LĐĐSĐ quy định cụ thể 31 trƣờng hợp Nhà nƣớc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội tại Điều 79. Tại Khoản 32 Điều 79 còn quy định “32. Trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án, công trình vì lợi ích quốc gia, công cộng không thuộc các trường hợp quy định từ khoản 1 đến khoản 31 của Điều này thì Quốc hội sửa đổi, bổ sung các trường hợp thu hồi đất của Điều này” đảm bảo đƣợc tính công khai, minh bạch, dễ giám sát và khắc phục đƣợc tình trạng có một số trƣờng hợp địa phƣơng thu hồi đất tràn lan nhƣ đã xảy ra trƣớc đây. Thứ ba, LĐĐSĐ quy định chặt chẽ về công tác bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngƣời có đất bị thu hồi tại Chƣơng VII. Đặc biệt, Điều 91 đã xác định các nguyên tắc bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất, trong đó có nguyên tắc “khu tái định cư phải hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ theo quy hoạch chi tiết được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; đồng thời phải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng dân cư nơi có đất thu hồi” và “việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và việc bố trí tái định cư phải được hoàn thành trước khi có quyết định thu hồi đất”. Qua đó bảo vệ quyền lợi và tạo tâm lý ổn định cho ngƣời dân; đảm bảo tính công bằng, minh bạch; khuyến khích tuân thủ và phòng ngừa vi phạm về đất đai; tạo điều kiện cho phát triển bền vững. Thứ tư, LĐĐSĐ đã bỏ Khung giá đất và quy định Bảng giá đất tại Điều 159. Theo đó Bảng giá đất đƣợc xây dựng hằng năm và Bảng giá đất lần đầu đƣợc công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026. Hằng năm, UBND cấp tỉnh trình HĐND quyết định điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung bảng giá đất để áp dụng từ ngày 01/01 năm tiếp theo giúp cho Bảng giá đất tiệm cận giá đất thị trƣờng, nhƣng quy định này cũng sẽ làm gia tăng áp lực công việc cho các địa phƣơng. Đáng chú ý, khoản 5 Điều 158 và Điều 160 LĐĐSĐ đã quy định 4 phƣơng pháp định giá đất gồm phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thu nhập, phƣơng pháp thặng dƣ, phƣơng pháp hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá đất cụ thể và trong trƣờng hợp cần thiết phải quy định phƣơng pháp định giá đất khác chƣa đƣợc quy định thì Chính phủ đề xuất và đƣợc sự đồng ý của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, để đảm bảo vận hành thông suốt công tác định giá đất để phát triển kinh tế - xã hội Thứ năm, LĐĐSĐ đã bổ sung Chƣơng VIII về phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất quy định “nguyên tắc phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất yêu cầu việc phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất phải theo quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, công khai, minh bạch, hợp lý, hiệu quả và theo quy định của pháp luật; bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tái định cư, an sinh xã hội, bố trí đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số để thực hiện chính sách theo quy định của Luật này” (Điều 112). Sinh viªn 4
  5. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 Khi thực hiện đƣợc nguyên tắc này thì Tổ chức phát triển quỹ đất của Nhà nƣớc sẽ trở thành nhà cung cấp quỹ đất lớn nhất trên thị trƣờng sơ cấp đất đai phục vụ đầu tƣ phát triển kinh tế - xã hội và thông qua việc thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất thì toàn bộ địa tô chênh lệch sẽ thu vào ngân sách nhà nƣớc để phục vụ lợi ích công cộng, sẽ đƣợc sự ủng hộ, đồng thuận của ngƣời có đất bị thu hồi và xã hội. Thứ sáu, Điều 127 LĐĐSĐ quy định rất thông thoáng việc sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất đối với hầu hết các dự án phát triển kinh tế - xã hội bao gồm cả dự án nhà ở xã hội. Tuy nhiên, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 127 LĐĐSĐ có thể dẫn đến hệ quả là trong khoảng 5-7 năm tới đây thì thị trƣờng bất động sản nhà ở thƣơng mại sẽ tiếp tục thiếu nguồn cung quỹ đất dẫn đến thiếu nguồn cung nhà ở thƣơng mại do Tổ chức phát triển quỹ đất chƣa thể tạo quỹ đất. Thứ bảy, để đồng bộ với quy định phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất, LĐĐSĐ cũng quy định cụ thể việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất sạch do Nhà nƣớc tạo lập, hoặc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tƣ thực hiện dự án đầu tƣ có sử dụng đất, cũng nhƣ đất chƣa giải phóng mặt bằng mà nhà đầu tƣ trúng đấu thầu có trách nhiệm ứng vốn để thực hiện bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ theo yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Cụ thể, UBND cấp có thẩm quyền phải thực hiện xong việc bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ để giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tƣ trúng đấu thầu trong 36 tháng kể từ ngày ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu thầu hoặc thời hạn khác theo hợp đồng đã ký kết với cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Thứ tám, Điều 16 LĐĐSĐ quy định rõ trách nhiệm của Nhà nƣớc về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đó, luật quy định cụ thể các chính sách bảo đảm sinh hoạt cộng đồng; giao đất, cho thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất. Trong khi đó, LĐĐ năm 2013 chỉ quy định chung “có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng” và “có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn có đất để sản xuất nông nghiệp”. Cuối cùng, Quốc hội cho phép áp dụng ngay một số quy định của LĐĐSĐ (từ ngày 01/04/2024) với Điều 190 (hoạt động lấn biển) và Điều 248 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp) để tháo gỡ các vƣớng mắc từ thực tiễn. Nhất là việc cho phép áp dụng ngay các quy định về định giá đất sẽ tạo điều kiện cho Chính phủ xây dựng và ban hành “Nghị định quy định về giá đất” thực hiện LĐĐSĐ, thay vì ban hành “Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất”. Sinh viªn 5
  6. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Bên cạnh những thay đổi tích cực, LĐĐSĐ vẫn chƣa có những điều khoản hay hƣớng dẫn cụ thể về việc chuyển nhƣợng đất trên đảo cho các đối tác ngoại quốc. Điều này sẽ gây khó khăn cho cả ngƣời dân và doanh nghiệp vì sẽ phải phụ thuộc rất lớn vào cách hiểu và vận dụng các luật liên quan của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Một số đề xuất giải pháp để Luật sớm đi vào cuộc sống khi có hiệu lực Về phía Nhà nước - Trong thời gian chờ luật mới có hiệu lực, cần chuẩn bị kỹ lƣỡng, đầy đủ các nguồn lực để luật đƣợc triển khai đồng bộ và hiệu quả. Đồng thời nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm và dự thảo các Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật; về bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ, về điều tra cơ bản và cơ sở dữ liệu đất đai, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai… tránh vƣớng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. - Chỉ đạo và kết hợp với cơ quan báo đài, truyền thông xây dựng phƣơng án truyền thông chính sách, tuyên truyền phổ biến về Luật, đƣa các điều khoản, quy định của LĐĐSĐ đƣợc thực thi, áp dụng hiệu quả trong thực tiễn. Kiên quyết phản bác, lên án những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, gây kích động, hiểu lầm của các thế lực thù địch, phản động. - Nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, tƣ duy đổi mới và mức độ am hiểu luật pháp của đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật thông qua các lớp bồi dƣỡng, hội nghị, hội thảo phổ biến về Luật mới. Chỉ khi hiểu rõ về Luật thì các chủ thể hành chính công mới áp dụng đúng Luật, không gây phiền hà, sách nhiễu. - Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính công nói chung và kiểm tra giám sát lĩnh vực đất đai nói riêng bằng việc thu thập, xử lý và số hóa dữ liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai trực tuyến... Từ đó góp phần vào nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng tính minh bạch, thu hút các nguồn lực đầu tƣ vào lĩnh vực đất đai. Về phía doanh nghiệp, cần nắm vững, thực hiện và tuân thủ các thay đổi trong quyền sở hữu, quyền sử dụng, quản lý và giao dịch đất đai. Đồng thời đánh giá lại tài sản nói chung và tài sản đất đai nói riêng, từ đó xây dựng kế hoạch hoạt động kinh doanh sao cho phù hợp với pháp luật hiện hành, nhất là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Về phía người dân, cần tìm hiểu và học hỏi để có cái nhìn toàn diện về LĐĐSĐ từ đó áp dụng đúng Luật và tránh các rủi ro về pháp lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp; đóng góp ý kiến, tham mƣu cho các cấp chính quyền góp phần đƣa chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc đi vào cuộc sống. Tài liệu tham khảo: Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024 https://baochinhphu.vn/quoc-hoi-thong-qua-luat-dat-dai-sua-doi-102240118084911574.htm https://baoxaydung.com.vn/luat-dat-dai-sua-doi-co-the-khien-gia-va-nguon-cung-bat-dong-san-tang-len-368923.html https://plo.vn/10-diem-moi-dang-chu-y-cua-luat-dat-dai-sua-doi-post773028.html Sinh viªn 6
  7. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 Xây dựng và lấp đầy khoảng trống hành lang pháp lý Fintech Hoàng Thị Tuyết Mai - CQ58/21.12 uá trình chuyển đổi số của Việt Nam đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên nhiều Q phƣơng diện. Đặc biệt, thị trƣờng Fintech của Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển đột phá, tiềm năng lớn. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế, rủi ro cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tƣ do khung pháp lý chƣa đƣợc hoàn thiện rõ ràng, những khoảng trống cần hoàn thiện để thị trƣờng tài chính số phát triển bền vững. Fintech (Tên tiếng anh đầy đủ là: Financial Technology) - công nghệ tài chính, là sự kết hợp, ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại vào việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ tài chính. Thực trạng phát triển công nghệ tài chính (Fintech) tại Việt Nam Báo cáo thị trƣờng Fintech Việt Nam 2022 của Nextrans, nền tảng tiếp thị liên kết hàng đầu Việt Nam cũng ghi nhận sự tăng trƣởng đáng kể về số lƣợng công ty khởi nghiệp Fintech. Tính đến cuối năm 2022, số lƣợng startup trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam đã tăng gần 66,67% so với năm 2021, từ 156 lên 260 công ty và ƣớc tính sẽ ngày càng tăng trong các năm sắp tới. Trong đó có 81 công ty hoạt động trong mảng dịch vụ thanh toán (chiếm 31,1% tổng số lƣợng công ty Fintech tại Việt Nam), 42 công ty hoạt động trong mảng cho vay ngang hàng (P2P Lending) (14,7%); 31 công ty hoạt động trong mảng Blockchain/Crypto (tiền điện tử) (11,9%). Hình 1: Số lượng công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech năm 2022 Nguồn: Nextrans, 2022 Với tốc độ tăng trƣởng hiện tại, thị trƣờng Fintech ở Việt Nam đƣợc dự báo sẽ chạm mốc 18 tỉ USD vào năm 2024, tăng gấp bốn lần so với mức 4,5 tỉ USD năm 2016 và 93% vốn đầu tƣ mạo hiểm vào thị trƣờng này tập trung vào mảng ví điện tử và Sinh viªn 7
  8. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ thanh toán điện tử. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đến năm 2025, nền kinh tế Việt Nam sẽ vƣơn lên vị trí thứ ba trong khu vực Đông Nam Á về quy mô kinh tế với GDP là 571,1 tỉ USD vì thị trƣờng Fintech của Việt Nam sở hữu nhiều yếu tố để có thể trở thành một trong những thị trƣờng hấp dẫn nhất ở khu vực. Theo Báo cáo thị trƣờng Crypto Việt Nam 2022, Việt Nam có tỉ lệ nắm giữ tiền điện tử lớn thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Thái Lan và là một trong năm quốc gia đi đầu về công nghệ Blockchain. Từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022, giá trị các hoạt động giao dịch tài sản số ở Việt Nam đạt mốc 112,6 tỉ USD, cao hơn cả Singapore với 101 tỉ USD. Tính đến tháng 12/2022, các dự án Crypto Việt Nam đã kêu gọi thành công gần 170 triệu USD, và hơn 200 dự án Blockchain hoạt động trong nƣớc, chủ yếu tập trung vào các mảng GameFi, DeFi và NFT. Ngoài ra, theo báo cáo của Google và Bain năm 2022, tốc độ tăng trƣởng của thị trƣờng Insurtech Việt Nam là gần 50% mỗi năm, cùng tốc độ với Indonesia và Philippines. Mặc dù doanh thu từ các sản phẩm Insurtech chiếm tỉ lệ còn khiêm tốn (khoảng 2 - 3% tổng doanh thu thị trƣờng bảo hiểm ở Việt Nam vào năm 2022), song nếu giữ đà tăng trƣởng nhƣ hiện nay thì đến năm 2028, Việt Nam sẽ đạt quy mô Insurtech nhƣ Thái Lan và Singapore. Mặc dù đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc trong thời gian vừa qua, song thị trƣờng Fintech ở Việt Nam hiện vẫn chƣa thực sự phát triển. So với các nƣớc trong khu vực, quy mô thị trƣờng Fintech tại Việt Nam dựa trên số công ty trong ngành còn khá khiêm tốn. Tính đến cuối tháng 9/2022, số lƣợng công ty Fintech hoạt động ở Singapore là 1.580 công ty, Malaysia có 612 công ty, Thái Lan có 293 công ty, trong khi Việt Nam chỉ có 260 công ty. Fintech ở Việt Nam chƣa thực sự phát triển do hệ sinh thái Fintech còn thiếu sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia trong thị trƣờng. Và đặc biệt là sự nhất quán đồng bộ trong khuôn khổ pháp lí quản lí lĩnh vực Fintech, do đó chúng ta phải thực sự quan tâm. Những khoảng trống về hành lang pháp lý của thị trường Fintech Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty Fintech cũng đặt ra một thách thức lớn với Việt Nam trong việc quản lý và kiểm soát hoạt động Fintech, bởi Việt Nam hiện nay vẫn chƣa có một văn bản pháp lý nào hoàn thiện để điều chỉnh hoạt động Fintech, do đó, về cơ bản, có thể nói hoạt động này mặc dù đang rất phát triển nhƣng vẫn chƣa thực sự chịu sự điều chỉnh cụ thể, chi tiết bởi một quy định pháp luật nào. Hiện các quy định pháp lý điều chỉnh lĩnh vực Fintech nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhƣ Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/2/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, Thông tƣ số 18/2018/TT-NHNN ngày 21/8/2018 về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng... Sinh viªn 8
  9. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 Có thể thấy các quy định pháp lý của nƣớc ta đối với lĩnh vực Fintech chƣa thực sự đầy đủ, rõ ràng và hoàn thiện. Thứ nhất, cơ chế pháp lý chƣa đầy đủ, nhất là đối với những công nghệ mới. Thời gian cập nhật, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp lý còn chậm so với tốc độ phát triển khá nhanh của công nghệ. Khuôn khổ pháp lý hiện nay về cơ bản mới chỉ đáp ứng đƣợc một phần cho lĩnh vực Fintech trong hoạt động thanh toán, chƣa đầy đủ và đồng bộ cho các hoạt động khác, đặc biệt là hoạt động cho vay ngang hàng. Thứ hai, cơ sở pháp lý chƣa quy định rõ về bản chất sản phẩm, dịch vụ, các tiêu chuẩn của sản phẩm, dịch vụ cũng nhƣ mô hình hoạt động, địa vị pháp lý, các điều kiện thành lập và hoạt động của công ty Fintech. Thứ ba, Fintech ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, hoạt động, nhƣng đến nay, vẫn chƣa có quy định cụ thể về thể chế quản lý, giám sát cũng nhƣ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của bất kỳ cơ quan quản lý nhà nƣớc nào đối với Fintech, chƣa có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc quản lý hoạt động Fintech. Thứ tư, chƣa có quy định pháp lý cụ thể cho hợp tác phát triển giữa ngân hàng và Fintech khi chia sẻ thông tin khách hàng, chia sẻ rủi ro, trách nhiệm giữa các bên với khách hàng trong mô hình kinh tế chia sẻ này. Việc các cơ quan quản lý xem Fintech nhƣ một “cánh tay nối dài” của ngân hàng, mà chƣa đƣợc hoạt động độc lập trong hệ thống tài chính cũng là một khó khăn của các công ty Fintech trong hoạt động thanh toán điện tử. Ngoài ra, quy định pháp lý về an ninh mạng cho lĩnh vực Fintech cũng chƣa đƣợc ban hành. Sự cần thiết phải xây dựng hành lang pháp lý Với sự phát triển chóng mặt nhƣ hiện nay, việc quản lý, kiểm soát đối với thị trƣờng Fintech là điều thật sự cần thiết và cũng là bài toán đặt ra đối với các cơ quan có thẩm quyền. Nhằm thực thi Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 06/9/2021 của Chính phủ về việc thông qua đề nghị xây dựng nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng, đảm bảo thực hiện chủ trƣơng của Nhà nƣớc trong việc hƣớng đến phát triển Chính phủ số một cách toàn diện, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam hiện là cơ quan đƣợc giao chủ trì xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng (“Dự thảo Nghị định”). Theo đó, Dự thảo Nghị định dự kiến sẽ thử nghiệm việc điều chỉnh và kiểm soát hoạt động Fintech giới hạn trong lĩnh vực ngân hàng. Trong đó, Điều 7 của Dự thảo Nghị định đã đƣa ra 06 giải pháp Fintech đƣợc thử nghiệm mà theo Ngân hàng Nhà nƣớc đó là những giải pháp Fintech cơ bản đã đƣợc nhiều tổ chức triển khai trên thị Sinh viªn 9
  10. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ trƣờng, bao gồm: (1) Cấp tín dụng trên nền tảng công nghệ; (2) Chấm điểm tín dụng, (3) Chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng (API), (4) P2P Lending, (5) Ứng dụng công nghệ chuỗi khối, sổ cái phân tán (Blockchain Technology, DLT) trong hoạt động ngân hàng và (6) Ứng dụng các công nghệ khác trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, triển khai mô hình hợp tác kinh doanh đổi mới sáng tạo phù hợp với mục tiêu của cơ chế thử nghiệm. Một số giải giáp nhằm lấp đầy hành lang pháp lý Fintech Một là, mặc dù Nghị định về cơ chế thử nghiệm sắp đƣợc ban hành trong thời gian tới, tuy nhiên theo Dự thảo Nghị định này, chỉ các công ty Fintech hoặc các tổ chức tín dụng có nhu cầu tham gia vào cơ chế thử nghiệm thì mới thuộc đối tƣợng điều chỉnh của Nghị định. Vậy nên, cần xây dựng quy định về điều kiện để các công ty tham gia thị trƣờng Fintech, đặt ra các yêu cầu tối thiểu về công nghệ, chuẩn mực hoạt động, cơ cấu quản lý, ngành nghề kinh doanh phù hợp để có thể bảo đảm các dịch vụ, giải pháp đƣợc cung cấp cho khách hàng. Hai là, Chính phủ cần sớm hoàn thiện và chính thức ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm Sandbox cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng cũng nhƣ các quy định cụ thể cho các định chế phi ngân hàng liên quan nhằm hoàn thiện hệ sinh thái Fintech, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai công nghệ mới và thúc đẩy hợp tác giữa các công ty Fintech và hệ thống ngân hàng. Ba là, cần xây dựng đầy đủ và đồng bộ các quy định về hoạt động, dịch vụ Fintech nhƣ quy định về các sản phẩm, dịch vụ Fintech; quy định về mô hình kinh doanh của Fintech; quy định về chính sách ƣu đãi, hỗ trợ đối với hoạt động Fintech; quy định về cơ chế quản lý, giám sát đối với Fintech; quy định pháp lý liên quan đến việc hạn chế rủi ro đối với hoạt động Fintech... Bốn là, xây dựng chiến lƣợc, chính sách phát triển Fintech gắn với phát triển hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế. Đồng thời, tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan chức năng nhằm nâng cao chất lƣợng quản lí, giám sát những lĩnh vực mới nhằm hoàn thiện thể chế, bộ máy quản lí Fintech. Có thể thấy rằng tiềm năng phát triển của thị trƣờng Fintech rất lớn, tuy nhiên hành lang pháp lý chƣa rõ ràng. Có doanh nghiệp ví von rằng, hoạt động trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam nhƣ “đi trên tầng băng mỏng”, lúc nào cũng có thể sa chân xuống hố băng lạnh. Chính vì vậy, mối quan tâm nhất của thị trƣờng hiện nay là một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện để các doanh nghiệp vững tin đầu tƣ, từ đó giúp thị trƣờng phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Tài liệu tham khảo: Nhĩ Anh (2023), “Còn khoảng trống hành lang pháp lý cho Fintech”, Báo kinh tế số. Tú Ân (2023), “Sớm lấp khoảng trống pháp lý cho Fintech”, Báo đầu tư. Nhật Dương (2023), “Một số đề xuất xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động Fintech”, Tạp chí điện tử pháp lý. Bảo Ngọc (2023), “Thực trạng và giải pháp phát triển công nghệ tài chính tại Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng. Sinh viªn 10
  11. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 Thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay Nguyễn Thu Phương; Đặng Thị Thu Trang - CQ59/11.07CLC Phạm Duy Anh - CQ59/11.08CLC ốn ODA góp phần gia tăng tổng đầu tƣ xã hội, tạo động lực thu hút đầu tƣ tƣ V nhân và vốn FDI, từ đó thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Tuy nhiên, đƣợc hƣởng nguồn vốn ODA ít hay nhiều lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bài viết sẽ phân tích về vấn đề thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Tổng quan về ODA Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn của nhà tài trợ nƣớc ngoài cung cấp cho Nhà nƣớc hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng để hỗ trợ phát triển, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, có thể thông qua nguồn vốn ODA không hoàn lại là khoản vốn đƣợc tài trợ không phải hoàn trả cho nhà tài trợ nƣớc ngoài, đƣợc cung cấp theo hình thức dự án độc lập hoặc kết hợp với các dự án đầu tƣ sử dụng vốn vay ODA, vay ƣu đãi nƣớc ngoài. Hoặc Vốn vay ODA là khoản vay nƣớc ngoài có thành tố ƣu đãi đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có điều kiện ràng buộc liên quan đến mua sắm hàng hóa và dịch vụ theo quy định của nhà tài trợ nƣớc ngoài hoặc đạt ít nhất 25% đối với khoản vay không có điều kiện ràng buộc. Tại Việt Nam, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã góp phần cực kỳ quan trọng thúc đẩy tăng trƣởng nền kinh tế, cải thiện mọi mặt tới đời sống nhân dân, đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc ta, nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao; thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, tiếp thu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nƣớc phát triển. Chiến lược thu hút nguồn vốn ODA tại Việt Nam Đƣờng lối ngoại giao “Cây tre” kết hợp khôn khéo hài hòa với chính sách “bốn không” quốc phòng và hệ thống chính trị chỉ tồn tại một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam từ đó mà tạo cho một Việt Nam vị thế hùng cƣờng về mặt đối ngoại, thể hiện một sự uy tín vững chắc trên trƣờng quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của mọi quốc gia, từ đó khẳng định đƣợc vấn đề chủ chốt nhất khi các nƣớc muốn đầu tƣ vào Việt Nam, đó là hòa bình, ổn định, phát triển bền vững. Với những lẽ đó mà Việt Nam ngày càng đƣợc các nƣớc lớn nhƣ Trung Quốc, Liên Bang Nga, mới đây là Hoa Kỳ và Sinh viªn 11
  12. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ các quốc gia thân Hoa Kỳ đổ dồn sự quan tâm và chú ý, đi theo kèm đó là sự hỗ trợ mạnh về phát triển kinh tế từ đó mà sẽ ra tăng nguồn vốn ODA, FII,... Vì vậy mà mới đây tổng bí thƣ Nguyễn Phú Trọng đã có phát biểu: “Với tất cả sự khiêm tốn, đất nƣớc ta chƣa bao giờ có đƣợc tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế nhƣ ngày nay” Thực trạng đầu tư phát triển vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh mới Việt Nam đƣợc hƣởng lƣợng lớn nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, giai đoạn từ năm 2021 - 2023, nguồn vốn ODA Việt Nam đã ký đạt khoảng 3,35 tỷ USD. Trong đó, khoảng 80% vốn ODA của Việt Nam đƣợc huy động từ 6 ngân hàng, gồm: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (KEXIM), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW). Nguồn vốn ODA của Việt Nam đƣợc thực hiện dƣới ba hình thức chính, bao gồm: Viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 10-12%; cho vay ƣu đãi chiếm khoảng 80% với lãi suất thấp, thời gian rút vốn từ 10-40 năm và ân hạn từ 5-10 năm (viện trợ không hoàn lại phải chiếm tối thiểu 25% số vốn cho vay); ODA hỗn hợp chiếm khoảng 8-10%, trong đó một phần là viện trợ không hoàn lại và một phần là vốn vay ƣu đãi. Nhờ tăng trƣởng kinh tế và ổn định chính trị, cam kết ODA của cộng đồng tài trợ quốc tế cho Việt Nam mặc dù khá cao nhƣng đang có xu hƣớng giảm dần qua các năm. Cụ thể, tính riêng trong giai đoạn 2011 - 2015, tổng số vốn ODA, vay ƣu đãi đƣợc ký kết đạt khoảng 26,4 tỷ USD, đóng góp phần lớn vào đầu tƣ cơ sở hạ tầng; trong giai đoạn 2016-2020, tổng vốn ODA và vốn vay ƣu đãi ký kết là 12,99 tỷ USD, giảm tới 51% so với giai đoạn 2011 - 2015, do nhiều quốc gia dừng hoặc giảm vốn ODA cho Việt Nam khi Việt Nam đã trở thành nƣớc thu nhập trung bình thấp từ năm 2010 và dòng vốn ODA vào Việt Nam trở nên ít ƣu đãi hơn khi đất nƣớc “tốt nghiệp” khóa học viện trợ chính thức của Hiệp hội Phát triển Quốc tế - IDA (2017) và Quỹ Phát triển Châu Á - ADF (2019), đồng thời, phù hợp với chính sách huy động nguồn vốn ODA và vốn vay ƣu đãi đặt trọng tâm vào chất lƣợng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ƣu đãi để đảm bảo nợ công bền vững. Trƣớc thực tế đó, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch quốc gia nhằm ƣu tiên các lĩnh vực cần ODA. Nguồn vốn ODA và vay ƣu đãi của các nhà tài trợ nƣớc ngoài vẫn là một trong những nguồn lực quan trọng để đầu tƣ cho những công trình cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, có tính lan tỏa cao và quan trọng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ cho biết, quy mô vốn ODA và vay ƣu đãi của các nhà tài trợ nƣớc ngoài có thể Sinh viªn 12
  13. TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Taäp 06/2024 cung cấp cho Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 25,82 tỷ USD (tức khoảng 5,13 tỷ USD/năm); riêng năm 2022, dự kiến huy động nguồn vốn vay ƣu đãi là 2,5 tỷ USD. Trong đó, vốn vay ODA chiếm khoảng 30,9%, vốn vay ƣu đãi của các nhà tài trợ nƣớc ngoài chiếm khoảng 64,8%, ODA viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 4,3%. Nếu tính thêm lƣợng vốn chuyển tiếp từ giai đoạn trƣớc, khả năng nguồn vốn ODA và vay ƣu đãi của các nhà tài trợ nƣớc ngoài dành cho Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2025 sẽ cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân đã giảm xuống còn hơn 0,44 tỷ USD năm 2021, so với khoảng 3,5 tỷ USD năm 2010, và 1,64 tỷ USD trong năm 2020. Có thể thấy, những mặt đạt đƣợc của việc đầu tƣ phát triển vốn ODA ở Việt Nam trong bối cảnh hiện tại: Nguồn ODA và vốn vay ƣu đãi nƣớc ngoài đã hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và hỗ trợ kỹ thuật phát triển năng lực nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ. Nhiều công trình, dự án trọng điểm quốc gia sử dụng nguồn vốn ODA, vay ƣu đãi đã hoàn thành, đƣợc đƣa vào khai thác, sử dụng, góp phần hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật đã góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ phục vụ xây dựng đƣờng cao tốc, vận tải đƣờng biển và đƣờng sông ở Việt Nam. Bên cạnh đó, vẫn còn những tồn tại một số hạn chế phải kể nhƣ: Cơ chế, chính sách và thể chế liên quan đến công tác thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vay ƣu đãi của các nhà tài trợ nƣớc ngoài thay đổi nhanh, thiếu ổn định và chƣa nhất quán; Trong quá trình thực hiện vẫn có tồn tại và phát sinh nhiều vấn đề từ trƣớc đây nhƣ thiết kế dự án chƣa sát, phải điều chỉnh nhiều lần, chất lƣợng lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tƣ chƣa cao. Tỷ lệ giải ngân thấp hơn giai đoạn trƣớc; một số dự án chậm tiến độ, phải hoàn trả vốn kế hoạch giao do không giải ngân đƣợc. Hiệu quả một số dự án chƣa cao do thời gian thực hiện kéo dài, chậm đƣa các công trình vào khai thác, sử dụng, phục vụ đời sống của Nhân dân... Kiến nghị và đề xuất Thời gian tới, nhằm tăng cƣờng hiệu quả đầu tƣ phát triển vốn ODA, cần chú trọng một số giải pháp sau: Thứ nhất, đẩy nhanh giải quyết tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA thông qua một số giải pháp nhƣ: Bồi thƣờng, đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cƣ ở các dự án ODA phải đƣợc thực hiện nhanh chóng và thỏa đáng; Tiếp tục thúc đẩy việc hài hoà, phù hợp các quy định, thủ tục tránh chồng chéo giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ. Khuyến khích các bên tham gia nghiên cứu thiết lập các tiểu nhóm theo lĩnh vực cải cách và bao gồm đơn vị chủ trì phía Việt Nam và các nhà tài trợ quan tâm. Sinh viªn 13
  14. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Thứ hai, hoàn thiện hệ thống đánh giá các dự án ODA. Hoạt động đánh giá dự án cần đƣợc thể chế hoá nội bộ theo hƣớng tăng cƣờng khảo sát đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc; cần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ kiến thức và kỹ năng về theo dõi, đánh giá để có thể hỗ trợ các dự án cũng nhƣ phối hợp cùng các nhà tài trợ trong việc thực hiện nhiệm vụ này; Những dự án lớn cần chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành đánh giá hiện trạng ban đầu sau khi dự án đƣợc phê duyệt, bắt đầu đi vào hoạt động để đảm bảo có những điều chỉnh kịp thời trong thiết kế của dự án (nếu cần) và đồng thời để thu thập các thông tin phản ánh hiện trạng làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả và tác động của dự án sau này theo hƣớng: Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ trong giới hạn cho phép; tiếp tục tái cơ cấu nợ công; tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trƣờng. Thứ ba, nhận thức đúng đắn về bản chất nguồn vốn ODA với 2 mặt chính trị và kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau để trên cơ sở đó khai thác tác động tích cực về chính trị và kinh tế của vốn ODA có lợi cho sự nghiệp phát triển của đất nƣớc. Trong bối cảnh là nƣớc có mức thu nhập trung bình, Việt Nam cần xác định rõ định hƣớng tổng thể về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để làm căn cứ cụ thể hoá các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong việc huy động nguồn lực này; xác định đƣợc những lĩnh vực ƣu tiên cần sử dụng vốn ODA tránh tình trạng phân bổ dàn trải, tạo tâm lý ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác. Thứ tư, hợp tác công - tƣ (PPP): Hƣớng đi mới để thu hút đầu tƣ và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả. Theo đó, Nhà nƣớc nên khuyến khích tƣ nhân cùng tham gia đầu tƣ vào các dự án dịch vụ hoặc công trình công cộng của Nhà nƣớc có sử dụng vốn ODA làm hạt nhân thực hiện. Với mô hình PPP, Nhà nƣớc sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tƣ nhân đƣợc khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lƣợng dịch vụ. Việc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tƣ nhân tham gia vào các dự án sử dụng nguồn vốn ODA sẽ phát huy đƣợc hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Để bảo đảm an toàn nợ bền vững trƣớc khi ra quyết định, cần tăng cƣờng hơn nữa công tác giám sát của Quốc hội, chỉ ra những khiếm khuyết trong sử dụng viện trợ của những nhóm lợi ích cả trong và nƣớc ngoài, nhà tài trợ; phân tích những mặt lợi, bất lợi của vốn ODA từ đó đề xuất kiến nghị bảo đảm việc sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả. Tài liệu tham khảo: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Đề án định hướng thu hút, quản lý và sử dụng ODA giai đoạn 2011-2020, tr. 34-38. Nguyễn Phúc Cảnh, Phạm Gia Quyền (2017), “Ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài và độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế”. Sinh viªn 14
  15. TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Taäp 06/2024 Phát triển dịch vụ Mobile Money tại Việt Nam Bùi Mạnh Tuấn - CQ58/15.02 Đoàn Thị Hà - CQ58/15.08 obile money là hình thức thanh toán trực tuyến thông qua cơ sở dữ liệu M thuê bao di động nhằm cho phép ngƣời sử dụng thực hiện các giao dịch chuyển tiền, thanh toán mà không cần tài khoản ngân hàng. Đây là loại hình dịch vụ ngày càng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Mobile Money mới đƣợc triển khai trong thời gian gần đây nên còn gặp những khó khăn, rào cản nhất định. Để phát triển Mobile Money nhanh chóng ở nƣớc ta, cần phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự phát triển của dịch vụ này. Khái quát về dịch vụ Mobile Money Mobile Money là dịch vụ sử dụng định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động của nhà mạng cung cấp dịch vụ. Bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền trong tài khoản theo tỷ lệ 1:1, khách hàng nộp tiền mặt để nhận đƣợc một khoản tiền trong tài khoản Mobile Money có giá trị tƣơng đƣơng. Tài khoản Mobile Money gắn liền với SIM thuê bao của thiết bị di động nhƣng tách biệt với tài khoản viễn thông. Tuy nhiên, không phải cứ có SIM là có thể sử dụng Mobile Money. Để sử dụng dịch vụ Mobile Money, SIM thuê bao phải thuộc nhà mạng đƣợc phép cung cấp dịch vụ Mobile Money và ngƣời dùng phải đăng ký và đƣợc nhà mạng chấp thuận cho phép mới có thể sử dụng dịch vụ Mobile Money. Thực trạng phát triển dịch vụ Mobile Money ở Việt Nam Ngày 09/3/2021, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ. Theo Quyết định số 316/QĐ-TTg, mỗi khách hàng chỉ đƣợc mở một tài khoản Mobile Money tại một nhà mạng. Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng phải có SIM đƣợc đăng ký, các thông tin phải đƣợc đơn vị cung cấp dịch vụ di động xác thực theo quy định về đăng ký thuê bao di động và SIM đó phải hoạt động liên tục tối thiểu trong vòng 3 tháng. Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Mobile Money, khách hàng có thể nạp hay rút tiền từ tài khoản Mobile Money tại các điểm giao dịch của nhà mạng, sử dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận hình thức thanh toán này; chuyển tiền Sinh viªn 15
  16. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP sang tài khoản Mobile Money của ngƣời khác trong cùng một nhà mạng hay chuyển tiền sang tài khoản thanh toán tại ngân hàng và ví điện tử do nhà mạng cung cấp. Ngày 18/11/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 192/NQ-CP về việc gia hạn thời gian thực hiện thí điểm Mobile Money. Chính phủ quyết nghị gia hạn thời gian thực hiện thí điểm dùng tài khoản Mobile Money tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 9/3/2021 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt triển khai thí điểm Mobile Money nhƣ sau: “Doanh nghiệp đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam chấp thuận triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ đƣợc thực hiện thí điểm đến hết ngày 31/12/2024”. Cụ thể, theo thống kê của Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến đầu tháng 5/2023, Việt Nam đã có hơn 3,9 triệu ngƣời sử dụng dịch vụ Mobile Money, tăng 6,3% so với tháng 3/2023 và gấp 3 lần so với cùng kỳ tháng 4/2022. Đặc biệt, số lƣợng ngƣời dùng Mobile Money tại nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa đạt hơn 2,7 triệu khách hàng, chiếm 69% số ngƣời sử dụng dịch vụ. Hiện cả nƣớc có 9.953 điểm kinh doanh dịch vụ Mobile Money, tăng 12% so với tháng 3/2023. Số lƣợng đơn vị chấp nhận thanh toán qua hình thức Mobile Money đạt 15.326 điểm, tăng 0,2%. Tổng số lƣợng các giao dịch (nạp, rút, chuyển tiền, thanh toán) bằng Mobile Money là hơn 26,1 triệu giao dịch, với tổng giá trị giao dịch hơn 1.683 tỷ đồng. Do không yêu cầu phải có tài khoản ngân hàng, dịch vụ Mobile Money ở Việt Nam đã giúp tăng cƣờng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính cho mọi đối tƣợng khách hàng, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Trong 3 tháng đầu năm 2023, số lƣợng giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 8,55% về giá trị. Số lƣợng giao dịch qua hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 70,77% về số lƣợng và tăng 18,55% về giá trị. Đáng chú ý, số lƣợng giao dịch qua POS tăng 37,57% về số lƣợng và tăng 32,09% về giá trị, giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 2,37% về số lƣợng và giảm 4,02% về giá trị. Những vấn đề đặt ra cho phát triển Mobile Money tại Việt Nam Có thể nói rằng, dịch vụ Mobile Money có rất nhiều tiềm năng phát triển tại Việt Nam, tuy nhiên, để phát triển Mobile Money, một số vấn đề đặt ra cần giải quyết: Thứ nhất, thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt. Mặc dù mật độ thuê bao di động cao, nhƣng trên 99% các giao dịch có giá trị dƣới 50.000 đồng vẫn đƣợc thanh toán bằng tiền mặt, phát triển Mobile Money là một giải pháp mạnh mẽ để thay đổi tình trạng này. Tuy nhiên, để hình thành thói quen thanh toán mới, cần đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính để ngƣời dân thấy rõ lợi ích khi sử dụng dịch vụ Mobile- Money trên cả khía cạnh lợi ích tài chính và tính thuận tiện trong sử dụng. Đặc biệt, đây là một giải pháp tiềm năng đối với ngƣời dân vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn, không thể tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng. Sinh viªn 16
  17. TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Taäp 06/2024 Thứ hai, hoàn thiện và đồng bộ môi trường pháp lý cho hoạt động của Mobile Money. Mobile Money là dịch vụ mới, do vậy, các quy định pháp lý còn chƣa đầy đủ và đồng bộ, có thể tiềm ẩn những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện. Chính vì vậy, các bộ, ngành phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp luật trong quá trình thực hiện. Trong đó, các quy định pháp luật về bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu, cơ sở dữ liệu định danh khách hàng dựa trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ nên đƣợc ƣu tiên xây dựng, nhằm hạn chế các rủi ro về bảo mật thông tin. Thứ ba, hoàn thiện quy trình giao dịch, thanh toán. Dịch vụ Mobile Money liên quan đến các giao dịch tài chính - lĩnh vực mới đối với các nhà mạng, chính vì vậy, để các giao dịch tài chính thực hiện thuận lợi, an toàn và hiệu quả, các doanh nghiệp viễn thông cung cấp dịch vụ cần hoàn thiện hệ thống xử lý giao dịch, trung tâm thanh toán, quy trình, kịch bản ứng phó để kiểm soát, hạn chế các rủi ro có thể làm gián đoạn hoặc ngừng giao dịch; hoàn thiện quy trình nghiệp vụ và quy trình quản lý rủi ro hoạt động, nhất là các rủi ro về bảo mật thông tin. Thứ tư, sự phối, kết hợp trong công tác quản lý nhà nước: Mobile Money là dịch vụ mới liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau tại Việt Nam nhƣ tiền tệ, thanh toán; mạng truyền thông; cơ sở dữ liệu định danh khách hàng, do đó, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nƣớc; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Công an trong quá trình thí điểm triển khai. Một số khuyến nghị cho phát triển Mobile Money tại Việt Nam Để cải thiện và đẩy mạnh dịch vụ Mobile Money ở Việt Nam trong thời gian tới, tác giả đƣa ra một số khuyến nghị sau: Một là, Chính phủ cần xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho Mobile Money. Việc xây dựng hành lang pháp lý cần hƣớng đến: (1) Mở rộng đối tƣợng tham gia, vì đây là mô hình đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng và rất thành công. Còn ở nƣớc ta, nếu chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp viễn thông đƣợc phép tham gia cung cấp dịch vụ Mobile Money, thì lĩnh vực này sẽ khó thu hút đầu tƣ, thiếu các sản phẩm và dịch vụ mang tính mới mẻ và sáng tạo, đồng thời cũng rất khó phổ cập dịch vụ này tới tất cả ngƣời dùng và điểm bán hàng. Trong khi hiện nay, hệ thống ngân hàng, các công ty Fintech đang rất phát triển và có nhiều lợi thế, kinh nghiệm trong cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, cần tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ Mobile Money, qua đó thúc đẩy sự hợp tác giữa các tổ chức tham gia; (2) Nâng hạn mức giao dịch của Mobile Money. Việc nâng hạn mức làm sao không để quá chênh lệch so với ví điện tử và thỏa mãn đƣợc nhu cầu chi tiêu của đa số ngƣời dân Việt Nam, đồng thời có thể hạn chế tối đa các loại tội phạm liên quan đến dịch vụ này; (3) Có chính sách cho ngƣời sử dụng dịch vụ Mobile Money. Sinh viªn 17
  18. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Chính sách phải mang lại những lợi ích cho ngƣời sử dụng dịch vụ, có thể tiếp cận đƣợc các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác. Trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý, cần có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan, nhƣ: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nƣớc... Đồng thời, cần học hỏi kinh nghiệm từ các nƣớc có dịch vụ Mobile Money phát triển để đảm bảo tính phù hợp, đồng bộ và nhất quán trong các văn bản. Hai là, Bộ Thông tin và Truyền thông cần chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông tiếp tục đầu tƣ vào công nghệ, thiết bị viễn thông để nâng cao chất lƣợng dịch vụ, đảm bảo an toàn, an ninh mạng; tiếp tục phủ sóng các vùng lõm sóng và mạng 5G trên toàn quốc; giải quyết dứt điểm SIM rác, cuộc gọi rác, thƣ rác. Ba là, đối với các tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ Mobile Money, cần chú trọng tới công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong giao dịch và bảo vệ quyền lợi khách hàng nhằm hạn chế những rủi ro xảy ra. Các doanh nghiệp viễn thông ngoài đầu tƣ vào công nghệ, thiết bị viễn thông cũng cần xây dựng mạng lƣới điểm giao dịch và chấp nhận thanh toán trên toàn quốc, quy trình cung cấp dịch vụ Mobile Money đồng bộ, đồng thời đào tạo một đội ngũ nhân viên đủ về số lƣợng và đảm bảo về chất lƣợng; thực hiện nhiều chƣơng trình quảng cáo và hƣớng dẫn khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Money, mang đến sự hiểu biết và niềm tin của ngƣời dân vào dịch vụ này. Phía các ngân hàng cần tiếp tục đầu tƣ xây dựng, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và công nghệ số theo hƣớng đồng bộ, tập trung thống nhất có khả năng tích hợp, kết nối với các ngành, lĩnh vực khác… Kết luận: Mobile Money là dịch vụ thanh toán bằng tài khoản viễn thông cho khách hàng sử dụng dịch vụ di động mà không cần tài khoản ngân hàng hay điện thoại thông minh. Phát triển Mobile Money sẽ cung cấp thêm kênh giao dịch, phƣơng tiện thanh toán không dùng tiền mặt nhanh chóng và tiện lợi cho nhóm khách hàng không có tài khoản ngân hàng hay không có điều kiện tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Với Mobile Money, ngƣời tiêu dùng có thêm một công cụ thanh toán đơn giản, tiện lợi. Tài liệu tham khảo: Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 09/3/2021của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ. Lê Thanh Tâm, Nguyễn Thị Thu Trang (2019), Phát triển dịch vụ Mobile Money: cơ hội và thách thức tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 11. Ngân hàng Nhà nước (2021), Quyết định số 1820/QĐ-NHNN, ngày 18/11/2021 về việc chấp thuận triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ https://tapchinganhang.gov.vn/ve-dieu-kien-phat-trien-mobile-money-o-viet-nam-hien-nay.htm https://baochinhphu.vn/tiep-tuc-trien-khai-thi-diem-mobile-money-den-het-nam-2024-102231120150217503.htm Sinh viªn 18
  19. TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Taäp 06/2024 Thực trạng triển khai ESG tại ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Trần Hà Ngọc - CQ58/09.04 rong những năm gần đây, các mục tiêu môi trƣờng, xã hội và quản trị (ESG) đã trở T thành một phần không thể thiếu trong các kế hoạch chiến lƣợc và hoạt động kinh doanh của các công ty và ngân hàng trên khắp thế giới. ESG đề cập đến một tập hợp các tiêu chuẩn nhằm đo lƣờng tính bền vững và tác động đạo đức của một khoản đầu tƣ hoặc hoạt động kinh doanh. Các tiêu chí môi trƣờng kiểm tra các đóng góp cho sự thay đổi khí hậu, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Các yếu tố xã hội đánh giá các thực tiễn lao động, cam kết về nhân quyền và tác động đến sự phát triển của cộng đồng. Quản trị giải quyết về trách nhiệm của hội đồng quản trị, thù lao của ban điều hành, chính sách tuân thủ, đạo đức và quyền của cổ đông (SASB, 2021). Bằng cách xem xét các rủi ro và cơ hội trên tất cả các lĩnh vực tính bền vững này, việc hội nhập ESG giúp các khoản đầu tƣ phù hợp với các giá trị và tăng cƣờng hiệu quả xã hội và tài chính lâu dài (IRIS+, 2022). Việc tích hợp các yếu tố ESG đã trở thành một ƣu tiên chiến lƣợc cấp bách đối với ngành tài chính toàn cầu giữa bối cảnh kì vọng ngày càng tăng từ các bên liên quan và những rủi ro ngày càng gia tăng về biến đổi khí hậu (World Economic Forum - WEF, 2022). Các ngân hàng đặc biệt phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ các cơ quan quản lí, nhà đầu tƣ, ngƣời tiêu dùng và các nhà hoạt động nhằm cân bằng các hoạt động cho vay và danh mục đầu tƣ với các nguyên tắc bền vững nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lƣợng carbon thấp trong khi đảm bảo tác động tích cực đối với xã hội (Funds Europe, 2022). Thực trạng triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (NHNN) đã chủ động thúc đẩy ESG trong ngành Ngân hàng thông qua nhiều biện pháp và chính sách quan trọng nhƣ Ban hành Sổ tay đánh giá rủi ro môi trƣờng và xã hội (năm 2018), Thông tƣ số 17/2022/TT-NHNN của Thống đốc NHNN hƣớng dẫn thực hiện quản lí rủi ro về môi trƣờng trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài (năm 2022). Những sáng kiến này không chỉ định rõ việc đánh giá và quản lí rủi ro mà còn khuyến khích việc tích hợp các nguyên tắc ESG vào các quy trình kinh doanh hằng ngày giúp ngành Ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng tại Việt Nam không chỉ thực hiện trách nhiệm xã hội mà còn đạt đƣợc hiệu quả tài chính và tạo ra giá trị bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, điểm ESG trung bình của các NHTM tại Việt Nam vẫn còn thấp và ESG chƣa thực sự đƣợc áp dụng nhiều trong hoạt động kinh doanh. Tại Việt Nam, yếu tố môi trường (E) đƣợc áp dụng nhờ việc triển khai ngân hàng xanh, nhằm lồng ghép phát triển bền vững vào các hoạt động ngân hàng, đặc biệt thông qua việc thúc đẩy trách nhiệm môi trƣờng và xã hội trong hoạt động ngân hàng. Một số biện pháp cụ thể đã đƣợc triển khai nhƣ việc phát triển các dịch vụ ngân hàng trực tuyến nhƣ Internet Banking, SMS Banking và các thiết bị ATM thế hệ mới (CDM, CRM) không chỉ mang lại sự tiện lợi cho khách hàng mà còn giúp giảm lƣợng giấy và mực in, qua đó giúp kiểm soát việc Sinh viªn 19
  20. Taäp 06/2024 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP khai thác rừng. Việc này không chỉ đảm bảo sự tiết kiệm mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của ngân hàng đối với trách nhiệm môi trƣờng và xã hội. Mặc dù vậy, nhƣng các dịch vụ đƣợc cung cấp vẫn còn khá khiêm tốn về chủng loại và quy mô. Điều này có thể tạo ra những hạn chế trong việc đáp ứng đa dạng nhu cầu của khách hàng, do đó ngân hàng cần phải tiếp tục cải thiện để nâng cao chất lƣợng dịch vụ và tối ƣu hóa trải nghiệm của khách hàng. Yếu tố xã hội (S): Agribank tích cực tham gia dự án bảo vệ môi trƣờng đƣợc tài trợ bởi World Bank và các tổ chức tài chính quốc tế. Các hoạt động này bao gồm: Nâng cao chất lƣợng và an toàn sản phẩm nông nghiệp, phát triển chƣơng trình khí sinh học, quản lí rủi ro thiên tai, hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp, cung cấp nguồn nƣớc sạch và vệ sinh nông thôn tại vùng Đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, Agribank cũng đóng góp vào việc phát triển điện gió và hỗ trợ tài chính trong cuộc chiến chống hạn, mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung, Tây Nguyên... BIDV đã kí kết Thỏa ƣớc tín dụng xanh SUNREF trị giá 100 triệu USD với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực năng lƣợng tái tạo trong năm 2021, bao gồm: Mở rộng Nhà máy Thủy điện Ialy và Dự án nhà máy điện mặt trời Sê San; khoản vay 300 triệu USD từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đáp ứng các yêu cầu về môi trƣờng - xã hội. Tính hết quý III năm 2023, BIDV đã tài trợ cho hơn 1.500 khách hàng với 1.900 dự án/phƣơng án tín dụng xanh; tổng dƣ nợ đạt khoảng 71.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 5% tổng dƣ nợ của BIDV, tăng khoảng 11% so với năm 2022. Bên cạnh đó, thực hiện theo Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Thống đốc NHNN, việc thúc đẩy tăng trƣởng tín dụng xanh và quản lí rủi ro môi trƣờng và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng tại Việt Nam đã mang lại kết quả tích cực. Trong giai đoạn 2017 - 2022, dƣ nợ tín dụng cho các lĩnh vực xanh đã tăng trung bình hơn 23% mỗi năm, cao hơn tốc độ tăng trƣởng tín dụng chung của nền kinh tế (15%). Đến ngày 30/9/2023, dƣ nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564.000 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 4,4% tổng dƣ nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hƣớng dẫn các TCTD cho vay, dƣ nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lƣợng tái tạo, năng lƣợng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%). Đây là bƣớc tiến quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính xanh và đảm bảo quản lí rủi ro môi trƣờng và xã hội trong ngành Ngân hàng, góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Yếu tố quản trị (G): Vietcombank tiên phong trong việc nghiên cứu và áp dụng các mô hình cũng nhƣ phƣơng thức quản trị rủi ro tiên tiến, tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế và theo định hƣớng của cơ quan quản lí. NHTM cổ phần Hàng Hải Việt Nam thì tiên phong trong việc triển khai mô hình quản trị theo 03 tuyến phòng thủ, đào tạo đội ngũ và hoàn thiện quy trình quản trị, đồng thời nâng cao chất lƣợng và hiệu suất cho đội ngũ kinh doanh. Nhìn chung, các ngân hàng tại Việt Nam đã có nhận thức nhất định về tầm quan trọng của các vấn đề xoay quanh ESG. Kết quả khảo sát của PwC (2022) cho thấy 88% số ngƣời đƣợc phỏng vấn trong ngành dịch vụ tài chính đã thực hiện hoặc có kế hoạch thực hiện các cam kết ESG. NHTM đã tích cực triển khai xây dựng chiến lƣợc bền vững với sự tham vấn từ các bên liên quan; đồng thời có tiến bộ khi tham gia vào các sáng kiến tài chính toàn cầu. Một số ngân hàng đã lồng ghép định hƣớng về phát triển bền vững vào chiến lƣợc phát triển Sinh viªn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2