intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nước: viễn cảnh ngắn của toàn cầu

Chia sẻ: Lê Thị Phương Tú | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

91
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vòng tuần hoàn nước toàn cầu liên quan tới hoạt động của nước từ các dòng dự trữ của trái đất tới những nguồn khác.vòng tuần hoàn nướccó thể được nhận thấy qua sự vận chuyển của nước từ biển vào khí quyển, rơi xuống từ khí quyển thông qua mưa, và sừ điều hướng lại từ biển như bề mặt chảy tràn và lớp dưới bề mặt dòng chảy hay tới khí quyển thông qua sự bốc hơi. Vòng tuần hoàn nước toàn cầu trong một năm được minh họa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nước: viễn cảnh ngắn của toàn cầu

  1. 10.1 Nước: viễn cảnh ngắn của toàn cầu: Vòng tuần hoàn nước toàn cầu liên quan tới hoạt động của nước từ các dòng dự trữ của trái đất tới những nguồn khác.vòng tuần hoàn nướccó thể được nhận thấy qua sự vận chuyển của nước từ biển vào khí quyển, rơi xuống từ khí quyển thông qua mưa, và sừ điều hướng lại từ biển như bề mặt chảy tràn và lớp dưới bề mặt dòng chảy hay tới khí quyển thông qua sự bốc hơi. Vòng tuần hoàn nước toàn cầu trong một năm được minh họa như sau: 1. Nơi lượng nước trong một năm di chuyển từ biển ( từ bốc hơi) vào đất liền(47000 km3) có sự cân bằng giống như lượng nước được điều hướng lại từ sông và bề mặt nước của dòng chảy ra biển. 2. 505000 km nước được bốc hơi từ biển trển thế giới cân bằng 3 với tổng lượng nước mưa rơi xuống biển( 458000 km3) và 47000 km3 nước di chuyển từ khí quyển vào đất liền. 3. Sự bốc hơi của nước từ đất liền là 72000 km /năm , tổng 3 lượng nước đó và lượng nước di chuyển từ khi quyển (47000 km3/năm) xuống đất liền hằng năm là 119000 km3. 4. Trong 119000 km nước rơi xuống đất liền, có 60%( 72000 km ) 3 3 do sự bốc hơi nước, 40%( 47000 km3) do sừ điều hướng lại của bề mặt biển hay bề mặt nước chảy tràn Nhưng nước trở lại bị thay đổi Bởi vì nó mang theo trầm tích xói mòn(cát, sỏi sét) từ đất.các dòng chảy trở lại không những mang nhiều tính chất hóa học mà còn bao gồm những hoạt động của con người và những hợp chất do con người đem lại ,nhiều hợp chất như chất thải hữu cơ, chất dinh dưỡng và hàng ngàn hóa chất từ hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và quá trình đô thị hóa. Trong chương này chúng ta sẽ đề cập đặc biệt tới bề mặt chảy tràn và lớp dưới bề mặt dòng chảy cũng như quan hệ của chúng đới vói hoạt động của con người. ở quy mô toàn cầu, vấn đề không phải về sự phong phú của nước mà là giá trị của nước ở đúng nơi, đúng thời điểm và đúng dạng.nước là một tài nguyên hỗn tạp có thể được tìm thấy ở các dạng như rắn, lỏng hay khí ở một vị trí hay gần bề mặt trái
  2. đất.những điều trên phụ thuộc vào vị trí đặc biệt của nước.thời gian tồn tại có thể thay thế từ vài ngày cho tới hàng ngàn năm. Hơn thế nũa, 99%nước trên trái đất thì không có giá trị hay không tương xứng cho việc sử dụng có ích cho con người bởi vì độ mặn hay các dạng và vị trí của nó.lượng nước cung cấp cho tất cả người trên trái đất hoàn toàn chi chiếm chưa tới 1% trong tổng số. Với sự Gia tăng dân số và phát triển công nghiệp làm cho việc sử dụng nước tăng thêm. Ngày nay, bình quân sử dụng nước theo đầu người trên thế giới khoảng 700m3/năm, tổng ; lượng nước mà con người sử dùng là 3850 km3/năm.ở mỹ bình quân theo đầu người sử dụng khoảng 1850m3/năm, hay hơn 2.5 lần bình quân theo đầu người của thế giới.theo đánh giá vào năm 2000, tổng lượng nước được sử dụng trên thế giới sẽ vì thế mà gia tăng đến 6000 km3/năm- sự phân bố quan trọng của lượng nước tự nhiên giá trị. Lượng nước trung bình hàng năm được đem lại từ những dòng sông và nước mặt của trái đất là khoảng chứng 47000 km3, nhưng nó phân bố không đồng nhất. Nhiều lượng nước chảy tràn xảy ra hầu như ở những vùng đất bỏ không, như Atarctica, nó cung cấp 2310km3, hay khoảng 5% tổng lượng nước chảy tràn của trái đất.ở Nam Mỹ bao gồm cả lưu vực sông Amazôn khoảng 12200km3 hay chiếm ¼ tổng lượng nước chảy tràn.Tổng lượng nước chảy tràn từ Bắc Mỹ chỉ khoảng 2/3 so với Nam Mỹ khoảng 8180km3.Thật đáng tiếc, nhiều dòng nước chảy tràn ở bắc Mỹ xảy ra ở những thuộc địa thưa thớt hay những vùng đất bỏ không, đặc biệt là ở phía bắc Canada và Alaska. So với tài nguyên khác như dầu mỏ, than đá, quặng kim loại và phi kim loại, nước được sử dụng với số lượng rất lớn.cách đây vài năm, tổng lượng nước được dùng hằng năm trên trái đất gấp khoảng 1000 lần tổng lượng nước được tạo ra trên thế giới. Vì sự phong phú như thế, nước là nguồn tài nguyên không hề đắt.nhưng vì lượng nước và chất lượng của giá trị nước có giá trị rất cao, sự lặp lại độ bão hòa của nước trên toàn cầu không phải là nền tảng sử dụng đặc biệt.Sự thiếu nước xảy ra và sẽ tiếp tục xảy ra với sự gia tăng thường xuyên, gây ra sự phá vỡ nền kinh tế nghiêm trọng và nhiều đau khổ cho con người.
  3. Hội đồng tài nguyên nước của Mỹ đã đề nghị rằng cho tới năm 2020 , lượng nước sử dụng ở mỹ có thể sẻ làm tăng tài nguyên nước mặt là 13%. 10.2 Nước là một chất lỏng khác thường. Để hiểu về nước trong giới hạn nước được cung cấp, sử dụng,về dân số và quản lí, điều đầu tiên mà chúng ta cần là sự hiểu biết về đặc điểm của nước.nước là chất lỏng khác thường như chúng ta biết sự sống không thể không có nước. mỗi phân tử nước gồm hai nhuyên tử hydrogen và một nguyên tử oxygen. Lien kết hoá học để lien kết các phân tử với nhau gọi là lien kết cộng hoá trị, có nghĩa là mỗi nguyên tử hydrogen góp chung e duy nhất với nguyên tử oxigen và nguyên tử oxigen góp chung các e phía ngoài cùng với nguyên tử hydogen. Mặc dù phân tử làtrung tâm mang điện tích hydrogen mang điện tích dương, e mang điện tích âm , vì có nhiều e nên oxigen sẽ mất e nhiều hơn hydrogen. Phân tử có một đầu mang điện tích dương, đầu còn lại mang điện tích âm được gọi là lưỡng cực. Nước là một chất lưỡng cực , có nhiều đặc tính quan trọng và tác động đối với môi trường. ví dụ, phân tử nước hút các phân tử khác tạo nên màng mỏng, hoặc lớp phân tử nước giữa và xung quanh các hạt quan trọng trong sự chuyển động của nước trong vùng chưa bão hòa trên lớp nước mặt.quá trình đó được gọi là cobesion. Phân tử nước có thể hút được bề mặt chất rắn.đặc biệt, đầu mang điện tích âm của nước thì hút các ion dương như Na, Ca, Mg, K.vì các hạt sét hướng về điện tích âm, nó hút đầu mang điện tích dương của phân tử nước và trở thành hydrate. Sau cùng, sự lưỡng cực của phân tử nước thì chịu cho việc tao8 sự căng bề mặt: phân tử nước hút nhiều phân tử khác có trong phân tử của không khí..áp lực bề mặt thì rất quan trọng trong các tiến trình vật lí và sinh học liên quan đến sự vận chuyển nước qua các khe hở hay các lỗ. Nước thì thường được quy là chất có khả năng hòa tan chung. Nó hòa tan tất cả các vật chất lớn tạo các thành phần chất sống thiết
  4. yếu và to lớn. nước đặc biệt quan trọng trong phong hóa hóa học, các tiến trình vật lí và sinh hóa , quá trình hình thánh đất. ở nhiếu chất, nước ở dạng rắn thì nhẹ hơn ở dạng lỏng điều đó giải thích vì sao băng nổi., nếu băng nặng hơn nước ở dạng lỏng thì nó sẻ chìm. an toàn cho tàu thuyền di chuyển ở vùng lân cận của núi băng trôi của sinh quyển được tạo nên từ nhiều dạng khác nhau. Sông hồ và biển bị đóng băng ở đáy. Đặc tính quan trọng khác của nước là 3 trạng thái của nó, tại nhiệt độvà áp suất khác nhau, nước tồn tại ờ 3 trạng thái khác nhau rắn- lỏng và khí.3 trạng thái đó của nước xảy ra ngoài tự nhiên hay gầ bề mặt trái đất.điều đó có quan hệ đặc biệt tđối với sự vận chuyển của nước từ biển vào khí quyển và sinh quyển tạo vòng tuần hoàn nước.vòng tuần hoàn nước sẽ bị ngừng nếu nước không được bốc hơi từ biển vào khí quyển và từ bề mặt nước.ba trạng thái của nước có thể chỉ được hoàn thành trên trái đất trên điề kiện thí nghiệm. Nước có ảnh hưởng rất lớn tới môi trường vì sự tỏa nhiệt cao. Sự tỏa nhiệt được định nghĩa là nhiệt cần để tăng nhiệt độ của một g/cal. Sự tỏa nhiệt của nước lá 1.0 g/cal sự tỏa nhiệt của các chất hòa tan chỉ ở khoang 0.5g/cal .như thế ở trạng thái lỏng bình thường, nước hấp thu và giữ nhiệt lớn.sự giữ nhiệt này giúp điều hòa môi trường. 10.4 Nước ngầm Nguồn cung cấp chính của nước ngầm là lượng mưa xâm nhập vào bề mặt để vào và di chuyển qua phía trên của đới chưa bão hòa( hình 10.6). Đới chưa bão hòa bao gồm tất cả vật chất của trái đất phía trên mực nước ngầm( mực thủy cấp) ( VD: đất, phù sa, hoặc đá). Nước xâm nhập từ bề mặt có thể di chuyển xuống thông qua đới chưa bão hòa, nơi mà ít khi bão hòa. Cho đến gần đây, đới chưa bão hòa mới được gọi là đới không bão hòa, nhưng bây giờ chúng ta biết rằng một số khu vực bão hòa có thể tồn tại ở đó vào các thời điểm như lúc nước di chuyển qua. Đới chưa bão hòa có ý nghĩa đặc biệt bởi vì các chất ô nhiễm có khả năng xâm nhập trên bề mặt phải thấm qua
  5. đới chưa bão hòa trước khi thấm xuống đới bão hòa phía dưới mực nước ngầm . do đó trong giám sát môi trường dưới bề mặt, đới chưa bão hòa là một khu vực cảnh báo sớm ô nhiễm tiềm năng tài nguyên nước ngầm. Nước lọc thông qua đới chưa bão hòa để đi vào hệ thống nước ngầm, hoặc vùng bão hòa, nơi xảy ra bão hòa dòng chảy. bề mặt trên của khu vực này là mực nước ngầm. Rìa mao dẫn ngay phía trên là một vành đai có độ dày thay đổi nước được rút ra bởi hiện tượng mao dẫn, đó là do cả lưc hút giữa nước với bề mặt vật liệu đất, và sức căng bề mặt( sự hút nhau giữa các phân tử nước). Ngoài lượng mưa, nguồn nước ngầm khác bao gồm nước xâm nhập từ nước bề mặt, các hồ sông.Hồ lưu giữ hoặc nạp lại nước mưa, tưới tiêu nông nghiệp, và hệ thống xử lí nước thải, chẳng hạn như bể phân hoặc các cống bể tự hoại Sự di chuyển của nước vào vùng bão hòa thông qua các vật chất của Trái Đất là một phần của chu kì thủy văn và chu kì đá. Ví dụ như nước có thể hòa tan các khoáng chất từ những vật liệu nó di chuyển qua và lắng đọng ở một nơi khác như vật liệu xi măng, hình thành đá trầm tích. Nước ngầm có thể vận chuyển trầm tích, nhiệt, khí và các vi sinh vật. những gì thực sự xảy ra khác với các đặc tính hóa học và vật lý của nước, đất và đá như nước xâm nhập thông qua các môi trường sinh học và tầng đất phía trên mực nước ngầm và di chuyển thông qua hệ thống nước ngầm bên dưới mực nước ngầm. Tầng chứa nước( tầng ngậm nước) là một vùng vật chất dưới đất có khả năng cung cấp nước ngầm với một tốc độ hữu ích từ một cái giếng được gọi là tầng chứa nước. sỏi, cát, đất, đá sa thạch bị nứt gãy cũng như đá granit biến chất với độ xốp cao đo kết nối mở, gãy, là tầng chứa nước tốt nếu nước ngầm hiện diện. Một khu vực của vỏ trái đất mà sẽ giữ nước, nhưng không truyền tải nó đủ nhanh để được bơm từ một cái giếng được gọi là aquiclude hay lớp chứa nước. Lớp chứa nước thường tạo thành một lớp giới hạn mà nước đi qua được ít. Đất sét, đá phiến sét và đá lửa hoặc đá biến chất với ít kết nối độ xốp và/hoặc đứt gãy có khả năng để tạo thành lớp chứa nước.
  6. Tầng ngậm nước được gọi là tầng chứa nước không áp nếu không có lớp giam giữ hạn chế bề mặt trên của các khu vực bão hòa ở mực nước ngầm. Nếu có một lớp giới hạn, tầng nước ngầm được gọi là tầng chứa nước bị giới hạn, và nước bên dưới nó có thể chịu áp lực hình thành các điều kiện tự chảy. Nước trong hệ thống phun có xu hướng tăng chiều cao của khu vực nạp lại( khu vực nơi mưa xâm nhập vào bề mặt để di chuyển xuống hệ thống nước ngầm) tạo ra một giếng phun. Trong một ý nghĩa tổng quát hơn groundwater recharge là bất kỳ quá trình thêm nước vào tầng chứa nước và có thể do xâm nhập tự nhiên hay do con người gây ra, ví dụ rò rỉ và xâm nhập từ một dòng nước bị vỡ. groundwater discharge là bất kì quá trình loại bỏ nước ngầm từ tầng ngập nước. bao gồm là dòng chảy tự nhiên từ một con suối đó là hiện tại nơi mà nước chảy trong tầng ngậm nước ra cắt bề mặt đất. suối chảy tràn có thể hình thành sự khởi đầu của một dòng chảy tự nhiên hoặc sông. Nước ngầm chảy tràn cũng xảy ra khi nước được bơm lên từ một cái giếng. cả hai tầng ngậm nước bị giới hạn và không giới hạn có thể được tìm thấy ở cùng một khu vực. Khi nước được bơm từ giếng, một nón điều trũng hình thành trong mực nước ngầm hoặc áp lực tự phun bề mặt. Một nón điều trũng lớn có thể làm thay đổi hướng nước ngầm di chuyển một khu vực. Máy bơm trên tầng ngậm nước khiến cho mực nước giảm liên tục theo thời gian, đòi hỏi phải hạ thấp các cài đặt máy bơm hoặc khoan giếng sâu hơn. Những điều chỉnh này thường tốn kém, và họ có thể hoặc không thể làm, tùy thuộc vào điều kiện thủy văn. Ví dụ, đào sâu hơn để cho đúng, khai thác đá lửa và đá biến chất được hạn chế. Nước từ các giếng được bơm từ các hệ thống đứt gãy hướng tới đóng và giảm về số lượng và kích thước với độ sâu tăng dần, hơn nữa chất lượng nước ngầm có thể bị suy thoái nếu nó được chiết suất từ nước sâu có chứa chất khoáng hòa tan Groundwater movement Cả tốc độ và hướng di chuyển nước ngầm phụ thuộc vào gradient của mực nước ngầm và các tính chất của vật chất thể hiện. Gradient thủy lực trong các trường hợp đơn giản cho một tầng chứa nước không áp là khoảng độ dốc của mực nước ngầm. Khả năng của vật
  7. liệu để cho phép nước di chuyển qua nó được gọi là hệ số thấm, được thể hiện trong các đơn vị như mét mỗi ngày. Biểu thị mối quan hệ của gradient thủy lực và hệ số thấm cho phép chúng ta giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nước ngầm. Hệ số thấm của một vật liệu Trái Đất là một chức năng của cả hai thuộc tính của vật liệu( chẳng hạn như đường kính, kích thước của khoảng trống và làm thế nào kết nối với nhau qua các khoảng trống), và các thuộc tính của chất lỏng di chuyển qua nó( như độ nhớt và mật độ). Tỉ lệ phần trăm của khoảng trống không gian trong đất hoặc đá được gọi là độ xốp của nó và phụ thuộc vào tính chất và mức độ sơ cấp( giữa các hạt) và mức độ thứ cấp( đứt gãy). Chú ý răng một số các vật liệu xốp, chẳng hạn như đất sét có hệ số thấm rất thấp mặc dù đất sét có nhiều không gian trống. Khả năng thẩm thấu cũng được sử dụng như một biện pháp cho khả năng của một vật liệu Trái Đất để truyền tải chất lỏng, nhưng chỉ trong giới hạn các thuộc tính của vật liệu( không phải là thuộc tính của chất lỏng). Nói về nước ngầm, chúng ta sẽ sử dụng cả hai hệ số thấm và độ thấm để mô tả các tính chất thủy lực của vật liệu đất. vd chúng ta có thể nói rằng sỏi và cát có tính thấm cao hơn so với bùn và đất sét. Tương tác giữa nước mặt và nước ngầm tương quan với nhau nên chúng ta cần phải xem xét cả hai như là một phần của cùng một tài nguyên. Gần như tất cả các môi trường nước bề mặt tự nhiên như sông, hồ, đất ngập nước cũng như môi trường nước con người xây dựng như hồ chứa có liên kết chặt chẽ với nước ngầm bởi bơm từ giếng có thể làm giàm dòng chảy, hạ mực nước hồ, giảm nước trong vùng đất ngập nước, hoặc thay đổi chất lượng nước mặt( khi nước ngầm chảy ở bề mặt từ các suối hoặc thấm vào dòng chảy tự nhiên, sông hoặc ao). Ngược lại, rút nước bề mặt có thể làm cạn kiệt nguồn nước ngầm hoặc thay đổi chất lượng nước ngầm ( ví dụ giảm sự nạp lại nguồn nước ngầm có thể dẫn đến tăng nồng độ các chất hòa tan trong nước ngầm nếu không bị pha loãng với nước bề mặt xâm nhập). Cuối cùng, ô nhiễm hoặc nước bề mặt hoặc nước ngầm có thể dẫn đến ô nhiễm nước ngầm hoặc nước bề mặt tương ứng. Kết
  8. quả là, quản lý nước ngầm đòi hỏi phải hiểu biết mối liên kết giữa nước ngầm và nước mặt. Hình 10.9 cho thấy một số sự tương tác thú vị giữa nước mặt và nước ngầm. Đặc biệt, hai loại dòng có thể được xác định. Dòng thải có xu hướng lâu năm có nghĩa là chảy cả năm. Trong suốt mùa khô, nước ngầm thấm vào kênh, duy trì dòng chảy. Dòng chảy vào ở khắp mọi nơi dọc theo kênh của chúng trên mực nước ngầm và chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nước mưa. Nước từ dòng chảy vào di chuyển xuống tầng chưa bão hòa để tới mực nước ngầm, tạo thành một vùng nạp lại. Dòng chảy vào có thể liên tục hoặc tạm thời nó chỉ chảy một thời điểm trong năm. Từ một quan điểm môi trường, dòng chảy vào đặc biệt quan trọng bởi vì nước ô nhiễm trong dòng có thể di chuyển xuống thông qua các lòng suối và cuối cùng gây ô nhiễm nước ngầm bên dưới Nhận thức về nước ngầm: -Nhận thức của người dân về nước ngầm ảnh hưởng đến cách họ giữ gìn tài nguyên nước -Bởi vì nước ngầm không nhìn thấy được nên nó ra khỏi suy nghĩ hoặc bí ẩn -Nước ngầm không đễ dàng đo lường định lượng như nước mặt do đó giá trị chính xác về trữ lượng nước ngầm không có sẵn và chúng ta dựa trên tính toán dự trữ có thể. 10.5 Nguồn cung cấp nước Cung câp nước ở bât cứ nơi nao trên bề măt đât phụ thuôc vao cac yêu ́ ́ ̀ ̣́ ̣ ̀ ́ ́ tố trong chu trinh thuy văn , bao gôm cả tỷ lệ có thể có mưa , bôc hơi , ̀ ̉ ̀ ́ dong chay , dong chay dưới bề măt .Viêc người dân sử dung nước với ̀ ̉ ̀ ̉ ̣ ̣ ̣ muc đich khac nhau cung anh hưởng đên nguôn cung câp nước .Trong ̣́ ́ ̃ ̉ ́ ̀ ́ phân nay chung tôi sẽ tâp trung vao ví dụ viêc cung câp nước là vân đề ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ̣ ́ ́ xay ra ở nhiêu nơi trên thé giới. NGÂN SACH NƯỚC.Môt khai niêm ̉ ̀ ́ ̣ ́ ̣ trong viêc tim hiêu nguôn cung câp nước là ngân sach nước –cac yêu tố ̣̀ ̉ ̀ ́ ́ ́ ́ đâu vao , đêu ra , và lưu trữ nước trong môt hệ thông .Ngân sach nước ̀ ̀ ̀ ̣ ́ ́
  9. giap ranh Hoa Kỳ thể hiên trong hinh 10.12.Lượng hơi nước đi qua ́ ̣ ̀ hang ngay trên toan Hao Kỳ tương đương 152000 triêu đông ,hoăc ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ̣ 40000 tỷ lit nước ở dang long .Trong số nay khoang 10 phân trăm giam ́ ̣ ̉ ̀ ̉ ̀ ̉ xuông như lượng mưa, tuyêt , mưa đá , mưa tuyêt .Khoang 2 phân 3 ́ ́ ́ ̉ ̀ lượng mưa bôc hơi môt cach nhanh chong hoăc cua tham thực vât giữ ́ ̣́ ́ ̣ ̉ ̉ ̣ lai . Con lai 1/3, hoăc 5510 triêu USD môi ngay đi vao hệ thông luư trữ ̣ ̣̀ ̣ ̣ ̃ ̀ ̀ ́ bề măt hoăt nước ngâm ,chay vao cac đai dương ,hoăc qua biên giới ̣ ̣ ̀ ̉ ̀ ́ ̣ ̣ cua quâc gia khac , được người dân sử dung ,hoăc bôc hơi từ hồ chứa. ̉ ́ ́ ̣ ̣ ́ Thât không may ,do sự thay đôi về lượng mưa là môt trong hai nguyên ̣ ̉ ̣ nhân gây ra lũ lut và han han , chỉ môt phân cua nước có thể được sử ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ̉ dung để phat triên chuyên sâu , do đó chỉ có khoang 2565triêu met khôi ̣ ́ ̉ ̉ ̣ ́ ́ mỗ ngay được coi là có săn 95 phân trăm thời gian.Trên quy mô khu ̀ ̃ ̀ vực ,cac mô hinh dong chay rât quan trong để xem xet lượng mưa hang ́ ̀ ̀ ̉ ́ ̣ ́ ̀ năm để phat triên ngân sach nước .Vân đề với nguôn cung câp nước có ́ ̉ ́ ́ ̀ ́ thể dự đoan trong khu vực nơi lượng mưa và dong chay trung binh là ́ ̀ ̉ ̀ tương đôi thâp , chẳ han như trong khu vực phia tây nam và vung đông ́ ́ ̣ ́ ̀ ̀ băng lớn cua Hoa kỳ cung như môt số thung lung trong khu vực .Giới ̀ ̉ ̃ ̣ ̃ han trên lý thuyêt cua cac nguôn cung câp nước bề măt là cac dong ̣ ́̉ ́ ̀ ́ ̣ ́ ̀ chay trung binh hang năm , giả sử nó có thể được lưu trữ thanh công. ̉ ̀ ̀ ̀ Thât không may, trữ lượng cua cac dong chay có thể tôn thât do bay hơi ̣ ̉ ́ ̀ ̉ ̉ ́ từ cac hồ chứa lớn ,số lượng han chê. Kêt qua là sự thiêu hut trong viêc ́ ̣ ́ ́ ̉ ́ ̣ ̣ cung câp nước đang bị rang buôc xay ra tai cac khu vực có dong chay ́ ̀ ̣ ̉ ̣́ ̀ ̉ và lượng mưa thâp . Thực hiên bao vệ là cân thiêt để đam bao 1nguôn ́ ̣ ̉ ̀ ́ ̉ ̉ ̀ nước đây đủ .Bởi vì cac biên đôi trong dong chay , thâm chí là khu vực ̀ ́ ́ ̉ ̀ ̉ ̣ có lượng mưa cao và dong chay đinh kỳ trong hang ngan năm vân gây ̀ ̉ ̣ ̀ ̀ ̃ ra han han. Ví dụ những năm khô cua năm 1961, 1996, và năm 1999 tai ̣ ́ ̉ ̣ đông băc Hoa kỳ ,1976-1977 và 1985 đên 1990ở cac bộ phân phia tây ́ ́ ́ ̣ ́ Hoa Kỳ , tinh trang thiêu nước nghiêm trong .May măn thay , ở phia ̀ ̣ ́ ̣ ́ ́ đông âm ướt hơn dong chay có xu hướng ôn đinh hơn cac khu vực ̉ ̀ ̉ ̉ ̣ ́ khac , han han là it có khả năng.Tuy nhiên , mua hè năm 1986 va1999 ́ ̣ ́ ́ ̀ ̀ han han ở đông nam và đông băc Hoa Kỳ gây thiêt hai hang tỷ đô la . ̣ ́ ́ ̣̣̀ Bảo vệ tài nguyên nước ngầm là một vấn đề môi trường mà dư luận quan tâm đặc biệt bởi vì rất nhiều người lấy được nguồn cung cấp nước từ nước ngầm. Thời gian cư trú cho nước ngầm trong tầng chứa nước thường được trai qua trong hàng trămhàng ngàn năm, do đó, một ̉
  10. khi tầng chứa nước bị hư hại bởi các chất ô nhiễm, nó có thể khó khănhoặc không thể hôi phuc để sử dung. Tầng chứa nước cũng ̀ ̣ ̣ rất quan trọng vì khoảng 30% của dòng chảy tại Hoa Kỳ được cung cấpbởi nước ngầm nổi lên như lò xo hoặc dang khác dọc theo dòng kênh. Hiện tượng này, ̣ được biết đến như dòng chảy cơbản, chịu trách nhiệm cho các dòng chảy thấp hoặc dòng chảy mùa khô của hầu hết các dòngcây lâu năm.Vì vậy, duy trì chất lượng nước ngầmcao là quan trọng trong việc duy trì dòng chảy chất lượng tốt . Ở nhiều nơi của đất nước, nước ngầm rút Grom giếng vượt quá lưu lượng vào tự nhiên.Trong trường hợp này, nước đang được khai thác và có thể được coi là một nguồn tài nguyên không thể tái tạo ,nước ngầm thấu chi là một vấn đề nghiêm trọng trong khu vực đồng bằng Texas-Oklahamocao; ở California, Arizona, Nevade, New Mexico, và bị cô lập ở vung Louisiana,Mississippi,Arkansas, và khu vực Nam Đại Tây ̀ Dương-Gulf Coast.Texas - Oklahoma - High Plains là môt khu vực, số ̣ tiền thấu chi là xấp xỉ bằng với dòng chảy tự nhiên của sông Colorade.Trong khu vực này , nước nằm ở các tầng nước ngầm Ogallala, trong đó bao gồm cát và sỏi chứa nước làm nền tảng cho một khu vực khoảng 400.000 km2 từ South Dakota vào Texas .Mặc dù tầng chứa nước nắm giữ một lượng lnước ngầm lớn, nó đang được sử dụng trong một số lĩnh vực với tốc độ lên đến 20 lần so với các nguồn tự nhiên bằng cách nước mưa có thể xâm nhập .Mực nước ở các bộ phận của tầng nước ngầm đã từ bỏ trong những năm gần đây, và phần đất được tưới tiêu đáng kể ở eventuallya có thể trở nên hư hai nếu tài nguyên được sử dụng. Cho đến nay, chỉ ̣ có khoảng 5% của tổng số nguồn nước ngầm đã cạn kiệt, nhưng mực nước đã giảm nhiều như 30 đến 60 m trong các bộ phận của Kansas, Oklahoma, New Mexico, và Texas.Khi mực nước ngầm thấp hơn, sản lượng nược giếng giảm và chi phí năng lượng để bơm nước gia tăng.Những vấn đề nghiêm trọng nhất trongvung cao và tầng ngậm ̀ nước Dgallala ngày hôm nay là ở những địa điểm nơi thủy lợi đã diễn ra lâu nhất mà là từ những năm 1940. Ở nhiều vùng, bơm nước ngầm đã mãi mãi thay đổi đặc tính của đất .Ví
  11. dụ, các con sông ởTucson, Arizona, khu vực trước khi hạ thấp mực nước ngầm thông qua bơm, cây lâu năm, với dân số khỏe mạnh của cá hồi, hải ly, và loài động vật khác.Ngày nay, cây ven sông thưa thớt và yêu (mực nước là dưới oots của họ) và các con sông khô ́ nhiều năm.Trớ trêu thay, các quá trình này cũng làm tăng nguy cơ lũ lụt ở Tucson, mà hiện đang được toàn bộ nguồn cung cấp nước từ nguồn nước dưới đất.Mất cây ven sông và sự gop dong làm ́ ̀ cho các kênh dễ bị xói lở bờ bên nhiều hơn Trong trận lũ năm 1983 và năm 1993 ở Tucson (xem Chương 5), điều này trở nên rất rõ ràng như đường giao thông, cầu, và xây dựng bị hư hại bởi các kênh thay đổi.Kênh rợp bóng cây là ổn định hơn nhiều, nhưng cây ven sông cần có một lượng gần bề mặt nước ngầm cho sự tăng trưởng lành mạnh cua cây.Thật không may, khai thác nước ngầm ̉ ở khu vực Tucson đã cản trở phục hồi của cây. Khử muối Khử muối của nước biển, mà chứa khoảng 3,5% muối (khoảng 40kilograms mỗi mét khối), là một đắt tiền từ nước xử lý thực hành hàng trăm khiếu trên toàn thế giới.Hàm lượng muối phải được giảm xuống còn khoảng 0,05% cho các nước có tiêu chuẩn chất lượng nước uống được và vượt qua.Nhà máy khử muối lớn sản xuất 20.000 đến 30.000 m3 nước mỗi ngày với chi phíkhoảng mười thời gian trả tiền cho nguồn cung cấp nước truyền thống tại Hoa Kỳ.Khử muối nước có một "nơi giá trị", có nghĩa rằng giá cả tăng nhanh chóng với khoảng cáchvận chuyển và tăng độ cao từ các nhà máy ở mực nước biển.Bởi vì các quá trình khác nhau mà thực sự loại bỏ muối yêu cầu năng lượng, chi phí củanước được gắn liền với chi phí năng lượng ngày càng tăng.Vì lý do này, khử mặn sẽ vẫn là một quá trình tốn kém mà sẽ chỉ được sử dụng khi không có nguồn nước thay thế.Bởi vì dân số ngày càng tăng và nguồn cung cấp nước không đầy đủ, có dấu bởi hạn hángần đây, một số communitiessuch như Santa Barbara, California, Hoa Kỳ đã xây dựngnhà máy khử muối như là một biện pháp khẩn cấp đối với hạn hán trong tương lai.Các nước Trung Đông nói riêng sẽ tiếp tục sử
  12. dụng khử muối.Trong nhiều khu vực khô cằn, bao gồm cả Trung Đông, là đất nước lợ và nước bề mặt với độ mặn khoảng 0,5%(một phần bảy của nước biển).Rõ ràng, khử muối của nước này là ít tốn kém, và thực vậtcó thể được đặt tại các trang web nội địa. 10.6 Việc sử dụng nước Để thảo luận về sự sử dụng nước, chúng ta phải phân biệt giữa sử dụng nội dòng và sử dụng ngoại dòng. Sử dụng ngoại dòng là di chuyển hoặc chuyển hướng nước từ nguồn của nó(Nước lấy từ nguồn nước mặt hay nước ngầm đem dùng ở nơi khác.). Những ví dụ đi kèm: đồng nuớc cho thuỷ lợi, năng luợng nhiệt điện nới chung, các quá trình công nghiệp và cung cấp cho cộng. Sử dụng tiêu thụ là sử dụng ngoại dòng nơi nước không trở lại dòng chảy hoặc nước ngầm ngay lập tức sau khi sử dụng(Nước chảy ra từ nguồn cung cấp sẵn có mà không trở về hệ thống nước nguồn, vd như nước dùng trong sản xuất, nông nghiệp và chế biến thực phẩm).Đây là nước bay hơi được kết hợp trong các mùa vụ và các sản phẩm hoặc được tiêu thụ bởi động vật và con người. Sử dụng nội dòng liên quan tới nước được sử dụng nhưng lấy từ nguồn của nó(Việc sử dụng nước diễn ra trong dòng kênh; ví dụ như tạo ra năng lượng thủy điện, phục vụ giao thông đường sông, cải thiện chất lượng nước, nhân giống cá, giải trí). Ví dụ, việc sử dụng nước sông cho nghề hàng hải, năng lượng thuỷ điện nói chung, các loài cá và môi trường sống hoang dã, và giải trí. Nói chung sử dụng tiêu thụ ít hơn nhiều so với sử dụng ngoại dòng, sử dụng ngoại dòng ít hơn nhiều so với sử dụng nội dòng. Ví dụ, ở Hoa Kỳ năm 1995 tiêu thụ khoảng 100 tỷ gallons(3.8x108 m3)/ngày, sử
  13. dụng ngoại dòng khoảng 400tỷ gallons(1.5x109m3)/ngày, và sử dụng nội dòng (cho thuỷ điện) khoảng 3000 tỷ gallons(1.1x1010m3)/ngày. Nhiều phần sử dụng nội dòng của sôngvà suối thường xuyên gây ra những tranh luận vì mối việc sử dụng yêu cầu các điều kiện khác nhau. Để ngăn chặn thiệt hại hoặc những tác động có hại. cá và cuộc sống hoang dã đòi hỏi cân bằng nước hoàn toàn và tỉ lệ dòng chảy cho năg suất sinh học lớn nhất và các mức độ và tỉ lệ này có thể khác với những yêu cầu cho sử phát sinh năng lượng thuỷ điện cái mà yêu cầu những dao động lớn trong dòng xả để tương xứng với nhu cầu năng lượng. tương tự thế hai cái này có thể mâu thẫun với những nhu cầu cho tàu thuỷ và thuyền buồn. lưu lượng cần thiết để di chuyển vật cặn trong một con sôngcó thể đòi hỏi những kiểu khác của dòng chảy. hình bản đồ 10.14 đuờng thể hiện cho lượng dung cho mỗi việc sử dụng. phần lớn những vấn đề lien quan tới lượng nước có thể di chuyển từ một dòng chảy hoặc sôngvà vận chuyển tới một vị trí khác mà không làm thiệt hại hệ thống dòng chảy. đây là một vấn đề ở Tây Bắc Thái Bình Dương, nơi các loài cá bao gồm cá hồi, đang suy tàn vì con người đã làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất( như khai thác gỗ) và dòng chảy( xây đập cản trở sự di trú của cá và thay đổi thuỷ vức hạ nguồn) làm suy biến môi trường sông của cá. Khái niệm quan trong kết hợp với việc sử dụng nước được minh hoạ ở hình 10.15. nguồn nước mặt và nước ngầm chuyển đến cho người sử dụng, bởi nhà cung cấp, có thể là một khu vực địa phương hoặc khu vực có nước. Sự chuyên chở nước tới con người Trong nền văn minh hiện đại của chúng ta, nước thường được vận chuyển với những khoảng cách lớn giữa các khu vực với lượng mưa phong phú tới khu vực có mức sử dụng cao. Thường xuyên mật độ dân số và nguồn cung cấp nước chính không trùng khớp. Vì vậy, nước phải được vận chuyển khoảng cách tuyệt
  14. vời để người tiêu dùng. California là một ví dụ tốt. Mật độ dân số lớn nhất trong thấp hơn 2/3 của California, phía nam San Francisco, trong khi nguồn cung cấp nước lớn nhất trên 1/3 dự án dẫn dòng nước lớn đã được thực hiện để vận chuyển nước đến các khu vực đông dân cư . Los Angeles và Thung lũng Owens (đối diện bên Sierra Nevada) đang đấu tranh về quyền nước. Điều này đã được một vấn đề đang diễn ra kể từ đầu những năm 1900! Đường dẫn nước sông LA-Owens được xây dựng, hoàn thành vào năm 1913. Vì vậy, nhiều nước đã được chuyển hướng đến La thung lũng Owens đã bị sa mạc hóa (biến đổi thành một môi trường sa mạc). Bằng cách hạn chế phân nước, suy thoái môi trường có thể được giảm. Khi tăng dân số của chúng tôi, sự cần thiết phải bảo tồn và quản lý nước cũng tăng. Khuynh hướng sử dụng nước Khuynh hướng lấy nước cho những mục đích sử dụng khác nhau ở Mỹ đua ra cái nhìn cho cả mối quan tâm và sự cần thiết cho quản lý tài nguyên nước của chúng ta. Gần một nửa dân số Mỹ sử dụng nước ngầm như là một nguồn chính cho nước uống Nước ngầm chiếm khoảng 20% của tất cả các nước thu hồi để tiêu thụ. Thật không may, ở nhiều địa điểm rút nước ngầm vượt quá mức nguồn tự nhiên. Hiện nay việc sử dụng nước thu hồi đang phổ biến hơn tăng từ khoảng 200gallons/ngày năm 1955 đến 1000gallons/ngày năm 1995. tăng 1%trong sử dụng nước tiêu dùng và 0.25% sử dụng nước ngoại dòng ở Mỹ. Hơn nữa khunh hướng này dường như đang tăng tốc: từ năm 1990 đến năm 1995 sử dụng nước thải thu hồi tăng 36%. Bảo tồn tài nguyên nước Những cải tiến trong bảo tồn nước baogồm:các kênh được lót và phủ làm giảmthấm và bốc hơi.Theo dõi máy tính và lập kế hoạch xả nước
  15. từ các con kênh ra.Sử dụng tích hợp nguồn nước mặtvà nước ngầm.Tưới tiêu vào đêm. Cải tiến các hệ thống thuỷ lợi. Sử dụng nước trong nước chiếm khoảng 6% tổng thu hồi quốc gia.tuy nhiên, vì việc sử dụng này được tập trung, nó đưa ra nhứng vấn đề địa phương chính. Thu hồi nước cho việc sử dụng nước trong nước có thể giảm đáng kể. 10.7 Quản lý nước Quản lý tài nguyên nước là một vấn đề phức tạp sẽ trở nên khó khăn hơn trong những năm tới khi nhu cầu về nước ngày càng tăng.Trong khi điều này sẽ là đặc biệt đúng ở Tây Nam Hoa Kỳ và các nơi khô hạn và bán khô hạn khác của thế giới,New York và Atlanta. Trong số các thành phố khác của Mỹ, cũng phải đối mặt với các vấn đề cung cấp nước trong tương lai. Tùy chọn mở cho những người muốn để giảm thiểu các vấn đề tiềm năng cung cấp nước bao gồm vật tư thay thế, quản lý vật tư hiện có tốt hơn, hoặc kiểm soát tăng trưởng Tương lai của việc quản lí nước Thành phố cần nước đang bắt đầu xử lý nước như một hàng hóa có thể được mua và bán trên thị trường mở, như dầu hoặc khí.Nếu thành phố sẵn sàng trả tiền nước và được phép để tránh dòng nước quy định, sau đó phân bổ và giá như họ biết bây giờ sẽ thay đổi.Nếu chi phí tăng đủ, nước mới từ nhiều nguồn khác nhau có thể trở thành có sẵn Ví dụ, vấn đề thuỷ lợi (quản lý nước cho một khu vực nông nghiệp) có thể hợp đồng với các thành phố để cung cấp nước cho khu vực đô thị.Họ có thể làm điều này mà không cần ít nước hơn là có sẵn cho cây trồng bằng cách sử dụng các biện pháp bảo tồn để giảm thiểu sự mất nước hiện tại thông qua bốc hơi và rò rỉ từ các kênh rạch unlined Hiện tại, hầu hết các huyện thủy lợi không có vốn để tài trợ cho các phương pháp bảo tồn đắt tiền, nhưng tiền của thành phố cho nước có thể tài trợ cho các dự án như vậyNó có vẻ rõ ràng rằng nước sẽ trở
  16. nên đắt hơn nhiều trong tương lai, và nếu giá là đúng, nhiều chương trình sáng tạo là có thể. Xem xét nghiêm túc được trao cho ý tưởng ban đầu là tảng băng kéo (trong đó bao gồm nước ngọt đông lạnh) đến các khu vực ven biển nơi nước sạch là cần thiết. Luna Leopold (một nhà lãnh đạo trong nghiên cứu của các dòng sông và nguồn nước) đã gợi ý rằng một triết lý mới của quản lý nước là cần thiết dựa vào các yếu tố địa chất, địa lý và khí hậu cũng như các yếu tố kinh tế, xã hội, và chính trị truyền thống. Ông lập luận rằng việc quản lý tài nguyên nước không thể thành công khi ta chỉ quan tâm đến quan điểm kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, đây là cách sử dụng nước được approached. hạn sử dụng nước là thích hợp bởi vì chúng ta hiếm khi thực sự quản lý nước Bản chất của triết lý quản lý nước của Leopold được tóm tắt trong phần này. Nước mặt, nước dưới đất là cả hai chủ đề thông lượng tự nhiên với thời gian.Vào những năm ẩm ướt, mặt nước phong phú, và bề mặt gần nguồn nước ngầm được bổ sung. Trong những năm này, chúng tôi hy vọng rằng cấu trúc kiểm soát lũ, cầu, và cơn bão cống sẽ chịu được nước dư thừa. Mỗi cấu trúc được thiết kế để chịu được một dòng chảy cụ thể (vd, cơn lũ 20 năm), trong đó, nếu vượt quá, có thể gây ra thiệt hại hoặc lũ lụt. All in all, Leopold kết luận chúng ta đang có nhiều chuẩn bị tốt hơn để xử lý lũ lụt hơn so với tình trạng thiếu nước. Trong những năm khô hạn, mà phải được dự kiến mặc dù họ có thể không được dự đoán chính xác, chúng ta nên có chiến lược cụ thể để giảm thiểu khó khăn.Ví dụ, nước dưới bề mặt tại các địa điểm khác nhau ở miền Tây Hoa Kỳ hoặc quá sâu được chiết xuất kinh tế hoặc có chất lượng nước biên.Những nước này có thể được phân lập từ các chu kỳ thủy văn hiện nay và do đó không thể là nguồn tự nhiên. Nước như vậy có thể được sử dụng khi có nhu cầu là rất tốt, nhưng điều này sẽ có thể chỉ khi kế hoạch là nơi để khoan giếng và kết nối chúng vào dòng nước hiện có phát sinh nhu cầu. Một kế hoạch khẩn cấp có thể có
  17. thể liên quan đến việc xử lý nước thải. Tái sử dụng nước trên cơ sở có thể là quá đắt tiền hoặc có thể bị phản đối vì các lý do khác, nhưng trước kế hoạch để tái sử dụng nước đã qua xử lý trong trường hợp khẩn cấp có thể là khôn ngoan. Khi giao dịch với nước ngầm tự nhiên được bổ sung trong những năm ẩm ướt, chúng ta nên xây dựng kế hoạch sử dụng nước bề mặt khi nó có sẵn và không ngại sử dụng nước ngầm trong những năm khô hạn. Nói cách khác, nước ngầm có thể được bơm ra với một tốc độ vượt quá tỷ lệ bổ sung trong những năm khô hạn, nhưng nó sẽ được bổ sung trong những năm ẩm ướt bởi cả hai nguồn tự nhiên và nhân tạo (bơm nước bề mặt vượt quá vào mặt đất). Kế hoạch quản lý nước này nhận ra rằng thái quá và thiếu sót trong nước là tự nhiên và có thể được lên kế hoạch . Một dòng sông được quản lý: Colorado Không có cuộc thảo luận về tài nguyên nước và quản lý nước sẽ được hoàn thành mà không có một đề cập đến lưu vực sông Colorado và tranh cãi xung quanh việc sử dụng nước của nó. Nhân dân đã được sử dụng nước của sông Colorado cho khoảng 800 năm. Từ lâu đời, người Mỹ bản địa trong lưu vực đã có một nền văn hóa văn minh cao với một hệ thống phân phối nước tinh vi. Nhiều kênh ban đầu của họ sau đó đã được dọn sạch các mảnh vụn và được sử dụng bởi những người định cư trong năm 1860. Với lịch sử ban đầu này, nó là hơi ngạc nhiên khi học Colorado đã không khám phá hết năm 1869, khi Jond Wesley Powell, người sau này trở thành giám đốc của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, lái thuyền bằng gỗ thông qua các hẻm núi Grand Canyon. Mặc dù nước của lưu vực sông Colorado được phân phối bởi các kênh và cống dẫn nước cho hàng triệu cư dân đô thị, và đến các khu vực nông nghiệp như Thung lũng Imperial ở California, các lưu vực chính nó, với diện tích khoảng 632000km2, chỉ có dân cư thưa thớt. Yuma,
  18. Arizona, với khoảng 42.000 người, là thành phố lớn nhất trên sông, và trong lưu vực chỉ có các thành phố Las Vegas, Phoenix và Tucson có hơn 50.000 dân. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 20% tổng dân số của lưu vực là khu vực rural.Vast là lưu vực có mật độ dân cư cực thấp, và trong một số lĩnh vực đo lường ngàn cây số vuông không có người thường trú . Rod Nash, viết về các giá trị vùng hoang dã của dòng sông, nói rằng tại nơi hợp lưu của sông Green và Colorado, nó là 80 km đến các trò chơi video gần nhất và bạn đang ở trong trái tim của một công viên quốc gia Đầu nguồn sông Coloroda ở dãy núi Wind River của Wyoming và trải dài 2300km tiếp giáp với 7 nước Wyorming, Coloroda, Utah, Newmexico, Nevada, Airzona va California-và Mexico. Mặc dù lưu vực thoát nước là rất lớn, bao gồm phần lớn của Đông Nam Hoa Kỳ, các dòng chảy hàng năm chỉ khoảng 3% của sông Mississippi và ít hơn một phần mười của Columbia. do đó, đối với kích thước của nó sông Colorado chỉ có một dòng chảy khiêm tốn, nhưng nó đã trở thành một trong những cơ quan quy định nhất, gây tranh cãi, và tranh chấp của các nước trên thế giới. các cuộc xung đột đã đi vào trong nhiều thập kỷ mở rộng vượt xa Colorado lưu vực sông liên quan đến các trung tâm đô thị lớn và phát triển nông nghiệp của California, Colorado, New Mexico và Arizona. Sự cần thiết cho nước trong các lĩnh vực bán khô cằn đã dẫn đến việc lạm dụng bị hạn chế và suy giảm chất lượng nước. Thỏa thuận giữa các bang, các khu định cư của tòa án, và các hiệp ước quốc tế đã nới lỏng định kỳ hoặc gia tăng căng thẳng giữa những người sử dụng vùng nước dọc theo sông. di sản của pháp luật và quyết định của tòa án, cùng với việc thay đổi mô hình sử dụng nước, tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh kế của triệu người ở Mexico và Hoa Kỳ. Vùng nước của sông Colorado đã bị chiếm đoạt trong số những người sử dụng khác nhau, bao gồm các tiểu bang bảy nước Cộng hoà Mexico. chiếm đoạt này đã xảy ra qua nhiều năm đàm phán, quyết định của điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa các tiểu bang, hợp đồng, pháp luật liên bang, và tòa án. như một toàn thể, cơ thể của quy định này được biết như là "quy luật của dòng sông". hai trong số nhiều tài liệu quan trọng đầu tiên trong luật này là nhỏ gọn sông Colorado năm
  19. 1922, chia nước ngay trong điều khoản của một lưu vực trên và dưới, và điều ước quốc tế với Mexico vào năm 1944, hứa hẹn cung cấp hàng năm là 1,85 km3 (1,5 triệu acre-feet [1 foot mẫu là khối lượng nước bao gồm 1 mẫu Anh đến độ sâu của 1 ft, hoặc 325.829 lít) nước sông Colorado Mexico. Gần đây là năm 1963 Tòa án tối cao Mỹ quyết định liên quan đến Arizona và California. Arizona từ chối ký tên vào năm 1922 và có cùng xung đột với California liên quan đến chiếm nước. Tòa đã quyết định rằng miền Nam California phải từ bỏ khoảng 0,74 km3 nước sông Colorado (600 acre-feet) khi Trung ương Arizona dự án được hoàn thành. Cuối cùng, vào năm 1974, các lưu vực sông Colorado Độ mặn kiểm soát Đạo luật đã được Quốc hội phê duyệt. hành động có thẩm quyền các thủ tục để kiểm soát độ mặn có hại của nước sông Colorado, bao gồm cả xây dựng các nhà máy khử muối để cải thiện chất lượng nước. quản lý lưu vực sông Colorado và các vùng nước của nó đã bực bội một phần vì lưu vực được đặc trưng bởi sự bất ổn cố hữu. Ví dụ, vào năm 1922 khi sông Colorado được làm việc ra, giả thuyết là trinh nữ dòng chảy của dòng sông là khoảng 20 km3 (16,2 triệu acre- feet) mỗi năm. Đó là dòng chảy hàng năm được cho là trung bình gần 16.6km3 (13,5 triệu acre-feet) annually.Even những con số này gây hiểu lầm, tuy nhiên, bởi vì sự bất ổn thủy văn to lớn trong lưu vực. Nước lũ trên sông Colorado có thể đến từ lũ lụt tuyết tan, ch sự kiện mưa mùa đông dài, hoặc các cơn bão mùa hè ngắn , do đó, tổng lượng nước có sẵn trên một cơ sở từ năm này sang năm là rất nhiều biến. Bảng 10,7 cho thấy quyền lợi pháp lý cho nước sông Colorado Basin.Chú ý rằng việc phân phối thực tế của nước lên đến 14500 triệu acre-feet mỗi năm, lớn hơn so với dòng chảy năm. Phân phối này có thể thu được vì sông Colorado là một trong những con sông quy định nhất trên thế giới.Hình 10,20 cho thấy một hồ sơ cá nhân của sông và một số của các đập và hồ chứa lớn. 9 cao đập trên sông có thể lưu trữ khoảng 86,3 km3 (70 triệu Arce-feet) của nước. rong số này, khoảng 80% được lưu trữ trong 2 hồ chứa phía sau đập Hoover và Glen Canyon. Lưu trữ này, nếu được quản lý rất hiệu quả, đại diện cho một bộ đệm của supply.However nước nhiều năm, nếu một đợt hạn hán
  20. nghiêm trọng của thời gian nhiều năm nên xảy ra, giao hàng của nước có thể trở nên rất khó khăn. Sông Colorado là một trong những đầu tiên trên con sông chính của quốc gia có toàn bộ dòng chảy của nó đầy đủ appropriated.Balancing nhu cầu nước trong tương lai của người sử dụng khác nhau sẽ tiếp tục là một vấn đề khó khăn và bực bội. Xây dựng các đập, hồ chứa, và nắn trên sông Colorado đã thường được xem như là một liên doanh thành công từ quan điểm về cung cấp nước. Tuy nhiên, điều này đã không phải luôn luôn được ví dụ case.For, Salton Sea hiện tại ở Thung lũng Imperial thành lập vào năm 1905 và 1906 khi hầu như toàn bộ sông Colorado đã vô tình chuyển hướng vào phía nam Thung lũng Imperial (Salton lưu vực) Vào thời điểm sông Colorado đã hoàn toàn undammed, và "công trình kiểm soát" (cấu trúc xây dựng để kiểm soát dòng chảy của sông Colorado) nằm trên lãnh thổ Mexico không thành công vì lũ lụt năm 1905 và 1906. Bởi thời gian sông được kiểm soát năm 1907,Mặt biển Salton được hình thành và mức độ cao hơn hiện tại.Nước biển ở Salton duy trì dòng chảy,nước ngấm vào đất sử dụng trong nông nghiệp.Dòng nước này sẽ dừng lại hoặc giảm xuống, biển Salton bị khô hạn, do tỉ lệ bốc hơi cao.Hồ đã trở thành khu giải trí quan trọng,nhưng tương lai vẫn còn nhiều tranh cãi.Nếu nước trong hồ mặn như bây giờ thì hệ sinh thái thủy sản sẽ bị thiệt hại đáng kể.Tuy nhiên hồ hiện nay không đa dạng như Salton Báin.Trước đó hồ ở thung lũng Imperial đã bị cạn kiệt vật chất lịch sử. Mặc dù việc cung cấp nước là vấn đề chính ở lưu vực sông Colorado,nhưng điều quan trọng là làm thế nào để quản lí chất lượng nước.Mặc dù kim loại nặng và các chất phóng xạ tập trung ở các vùng biển và hồ chứa nước cả lưu vực,nhưng muối mới là nguyên nhân chính gây nên vấn đề nghiêm trọng.Độ mặn 550 ppm( một phần triệu) là mức giới hạn của người tiêu dùng, và hơn 750 ppm có thể gây thiệt hại trong nông nghiệp. Độ mặn tự nhiên ở đầu nguồn sông Colorado là 50 ppm. Như 1 con sông chảy ra biển, nhánh sông chảy trên đường tiếp xúc muối,muối được thêm vào sông nên theo điều kiện tự nhiên,độ mặn của Colorado thấp hơn từ 250 đến 380 ppm. Tuy nhiên, ở thượng nguồn và do bốc hơi làm cho độ mặn của sông Colorado tăng trung bình 1500 ppm, và độ mặn lên tới 2700 ppm. Chất
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2