intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ôn tập văn học 10 part 3

Chia sẻ: Pham Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

209
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương. 4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu, Ngàn thông chen chúc khóm lau, Cánh ghềnh thấp thoáng người đâu đi về, (Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")Tác giả, dịch giả 1. Tác giả Đặng Trần Côn sống vào nửa đầu thế kỷ 18 người Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, là một danh sĩ hiếu học tài ba.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ôn tập văn học 10 part 3

  1. Con chim b ạt gió, lạc loài kêu sương. 4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, Nhạn liệng không, sóng giụ c thuyền câu, Ngàn thông chen chúc khóm lau, Cánh ghềnh thấp thoáng người đâu đ i về, (Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")Tác giả, dịch giả 1. Tác giả Đặng Trần Côn sống vào nửa đầu thế kỷ 18 người Thanh Trì, ngo ại thành Hà Nộ i, là một danh sĩ hiếu học tài ba. 2. Dịch giả Hiện có bốn b ản dịch Chinh phụ ngâm. Bản d ịch lưu truyền rộng rãi lâu nay, được đánh giá là hay nhất - nhiều ý kiến vẫn cho là của Đoàn Thị Điểm (?) - Bà sinh năm 1705, m ất năm 1748, quê ở Giai Phạm, Hưng Yên, là một người phụ nữ có nhan sắc, có họ c vấn và có tài thơ. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm, bà còn đ ể lại tập truyện chữ Hán "Truyền kì tân phả" và nhiều thơ phú khác. Tác phẩm - Đặng trần Côn viết Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán theo điệu cổ Nhạc phủ có câu dài 5 từ, 7 từ, lại có câu 8, 9, 10 từ. - Bản dịch thơ theo điệu ngâm song thất lụ c bát, dài 40 câu. Nội dung tác phẩ m: Thế k ỷ 1 8, nội chiến, loạn lạc kéo dài. Chinh phụ ngâm nói lên nỗi niềm nhớ thương, lo lắng, mong mỏi và khao khát hạnh phúc của người thiếu phụ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, và miêu tả cảnh sống cô đơn, vất vả củ a nàng ở quê
  2. hương, cảnh gian khổ hiểm n guy của chồng trên chiến đ ịa. - Chủ đề: Chán ghét chiến tranh, niềm khao khát hạnh phúc, sum họp lứa đôi, được sống yên vui trong cảnh thanh bình là chủ đề của "Chinh phụ ngâm". Trích đo ạn "Trông bốn bể" 1. Đoạn thơ dài 16 câu nói lên nỗ i đợi chờ trông ngóng đến mòn mỏ i của nàng chinh phụ trong những năm dài chồng đi chinh chiến miền xa. Cứ 4 câu là một cảnh cũng là một nét của nỗ i lòng trông ngóng đợi ch ờ. Mỗi cảnh là mộ t phương hướng, trong một mùa. Có nam, bắc, đông, tây. Có xuân, h ạ, thu, đông. Bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng, cấu trúc cân xứng, qui phạm theo "tứ bình". a. Mùa xuân đến, ngư ời vợ trẻ "trông bến nam", chỉ thấy m ột màu xanh củ a "cỏ b iếc um", củ a "dâu mướt" mà thôi. Thấy nhà thôn "chông chênh" xa gần m ấy xóm, thấy "đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm". Sắc củ a cỏ, dâu thì m ơn mởn. Cảnh đàn cò kết b ầy kết đôi. Ngo ại cảnh ấy gợị lên trong lòng nàng chinh phụ còn trẻ nhiều khao khát, mong đ ợi. Tủi cho thân phận cô đơn. b. Mùa hè đ ến nàng "trông đường b ắc" nhìn xa chỉ thấy "rườm rà cây ngất núi non", mịt mù: trông gần ch ỉ thấy "đôi chòm quan khách" cũng gợi tả nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc. Câu thơ "Lúa thành thoi thóp bên cồn" cũng mượn ngoại cảnh ngọn lúa bay rập rờn trước gió bên bờ thành để đặc tả nỗi ám ảnh buồn thương tiêu điều củ a nàng chinh phụ. Nàng chợt nghe thấy tiếng sáo ngọc ngân lên véo von, dồn dập. Cũng là âm thanh gợi nhớ, gợi thương, não nùng
  3. thê thiết! "Lúa thành thoi thóp bên cồn Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu". c. Mùa thu đ ến nhìn về phương đông, n àng th ấy lá rụng "ch ất đống" tàn tạ buồn thương. Trĩ từng đôi "xập xoè", khóm mai "bẻ bai" uốn lượn. Câu thơ "Trĩ xập xoè, mai cũng b ẻ b ai" là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Cỏ hoa, chim chóc được sánh đôi múa lượn còn nàng thì gố i chiếc chăn đơn. Nàng càng thêm sầu tủi, cô đơn lẻ loi hơn bao giờ hết khi nghe tiếng nhạc lạc b ầy kêu lên trong màn sương khói mịt mù: "K hói mù nghi ngút ngàn khơi, Con chim b ạt gió lạc loài kêu sương". Ngọn gió thu lạnh thổ i bạc cánh nhạc lạc bầy. Và đó cũng là bão táp chiến tranh làm cho nh ững lứa đôi trở n ên lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lùng. N àng chinh phụ còn thổ n th ức thương m ình bao nhiêu lại thương chồng nơi ải xa trong dãi d ầu sương tuyết bấy nhiêu. d. Mùa đông đến, nàng lại nhìn về phương tây, nhìn về Lũng Tây b ãi chiến trường núi xương, sông máu... Nàng chỉ nhìn thấy sông nước m ịt mù, ngàn thông, rừng lau trùng điệp. Cánh nh ạn và bóng người th ấp thoáng là hai nét vẽ đầy ấn tư ợng. Nhìn cánh nhạn, cô phụ ngỡ là cánh nhạn đưa thư. N h ìn về phía bên ghềnh, thấy thấp thoáng "người đâu đi về", chinh phụ tưởng là người chồng thân yêu từ chiến trường xa trở về.... Nh ớ quá, thương nhiều, đợi chờ, mòn mỏi, nên chinh phụ mới cảm nh ận hư ảo ấy. Hy vọng lắm nên càng thất vọng nhiều. Càng th ất vọng lại càng sầu tủ i! "Ngàn thông chen chúc khóm lau,
  4. Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về". 2. Nét đặc sắc nghệ thuật a. Màu sắc cổ diển: Cảnh vật mang tính ước lệ tựơng trưng (ngọc địch, mai, trĩ, nhạn, thuyền câu, thông, lau, Lũng Tây, bóng ngư ời....), cấu trúc cân xứng: Xuân, h ạ, thu, đông; nam, bắc, đông, tây. Lối diễn đạt cũng hài hoà cân xứng: ...Trông bến nam... ...Trông đường bắc... ...Non đông thấy... ...Lũng tây thấy... b. Tả cảnh ngụ tình đặ c sắc, điêu luyện. Thi sĩ m ượn ngo ại cảnh 4 phương trời, 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; lấy cỏ, dâu, lúa, thông, lau, bãi, núi, sông, ghềnh; lấy khói mù, sương gió, lấy đàn cò, chim trĩ, chim nh ạn, v.v... bấy nhiêu nét vẽ n go ại cảnh đều góp phần đặc tả tâm cảnh, khắc hoạ nhữmg biến thái, những rung động trong tâm hồn, những nhớ mong thương nh ớ, đ ợi chờ, cô đơn, hy vọmg để rồi thất vọng thêm sầu tủ i... c. Ngôn ngữ thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Các từ chỉ màu sắ c (cỏ biếc um dâu mướt màu xanh.... Khói mù nghi ngút ngàn khơi...), các từ láy tượng thanh tượng hình (chông chênh, rườm rà, thoi thót, véo von, xập xoè, bẻ bai, nghi ngút, chen chúc, thấp thoáng) được thi sĩ vận dụng rất thần tình, cho th ấy bút pháp điêu luyện, sự giàu có về từ ngữ sự phong phú về trí tưởng tượng tuyệt vời. Đến b ản dịch "Chinh phụ ngâm", ngôn ngữ d ân tộc trở n ên trong sáng, mềm m ại, giàu có và đẹp đ ẽ vô cùng. d. Vần điệu, âm điệu, nhạ c điệu
  5. Thơ song thất lụ c bát còn gọi là song th ất, mộ t điệu ngâm, một thể thơ dân tộ c giàu có về vần điệu, âm điệu, nhạc điệu. Trong 4 câu thơ "song thất lụ c bát" có đến 7 tiếng, đ ể gieo vần, vừa có vần chân, vừa có vần lưng, vừa có vần bằng, vừa có vần trắ c, tạo nên đ iệu ngâm du dương, réo rắt, trầm bổng, đọ c lên nghe rất thú vị (xem các từ in nghiêng, đọ c đúng trọng âm các từ gieo vần). Sự p hối hợp giữ a nhịp lẻ và nhịp chẵn ở câu 7 và câu lục bát làm cho âm điệu thơ, giai điệu thơ biến hoá đa thành, phức điệu. 3. Kết luận Đoạn thơ "Trông bốn b ề" giúp ta cảm nhận vẻ đ ẹp văn chương qua bút pháp tả cảnh ngụ tình và sử d ụng ngôn ngữ dân tộc. Bút pháp điêu luyện, thơ giàu cảm xúc, giàu hình tư ợng. Lấy th ời gian 4 mùa, lấy không gian 4 phương trời để tả tâm trạng nhân vật trữ tình, d ịch giả đã làm nổi bật nỗi mong nhớ đợi ch ờ chồng, nỗi buồn cô đơn.... củ a nàng chinh phụ ngâm trong một thời lo ạn lạc. Giá trị n hân b ản củ a đoạn thơ lay đ ộng mọi tâm hồn người xưa nay. Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ (Trích b ản dịch "Chinh phụ ngâm") 1...Lòng này gửi gió đông có tiện, N ghìn vàng xin gử i tới non yên, Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời. 2. Trời thăm thẳm xa vời khôn th ấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong, Cảnh buồn người thiết tha lòng,
  6. Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun. 3. Sương như búa bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. 4. Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc, Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên, Lá màn lay ngọn gió xuyên, Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trư ớc rèm. 5. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu... Đoàn Thị Điểm dịch (?) Phân tích Đoạn thơ dài 20 câu. Nhan đ ề đoạn thơ "Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ " do người soạn sách giáo khoa Văn 10 đặt ra, đó là ý tưởng chính của 20 câu thơ này. 1. Cũng như Lũng Tây, Bến Phì, non Yên... là cõi chiến trường, phía Tây Bắc Trung Quốc xa xôi, nơi "xương phơi trắng đất", nơi "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" rùng rợn thê lương.... Trong "Chinh phụ n gâm", các đại danh ấy ch ỉ là tượng trưng ước lệ hiện lên trong tâm tưởng người chinh phụ. Hai câu đầu, n àng chinh phụ muốn nhờ gió đông (mùa xuân) gửi tới chàng đang chinh chiến tại non Yên, dù m ất "nghìn vàng", nàng vẫn xin gử i đến bao nỗ i nh ớ thương tràn ngập trong lòng. Một cách nói thiết tha
  7. cảm động: "Lòng này gửi gió đông có tiện N ghìn vàng xin gử i đến non Yên..." 2. Nỗi nhớ chàng triền miên dằng d ặc,dài lê thê, day dứt bồn chồn lo lắng. Vừa cụ thể vừ a trừu tư ợng, đầy ắp trong lòng suố t đêm ngày. Lúc thì "Nhớ chàng đ ằng đẵng đường lên bằng trời". Có lúc lại là "N ỗi nh ớ chàng đau đáu nào xong". Sau vần thơ, sau cái tiếng "đằng đằng", "đau đáu" là những giọt lệ ứa ra, những tiếng than thầm, tiếng thở dài ngao ngán cho cảnh ngộ cô đơn, buồn nh ớ m à người chinh phụ đang nếm trải. Cố c nước đắng uống mãi vẫn đầy ắp!... 3. Cảnh buồn người thiết tha lòng Cảnh buông lạnh lẽo. Sương tuyết đầy trời. Cái lạnh tê tái lòng ngư ời, cái lạnh làm héo hon, tàn tạ cảnh vật. Liễu và ngô đồng là hai hình ảnh ẩn dụ nói về nỗi buồn tê tái của người chinh phụ : "Sương như búa bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô". Đây là hai câu thơ tả cảnh sương, tuyết cực hay, hiếm có trong thơ ca dan tộc. Chinh phụ thao thức suốt đêm. Tiếng trùng rả rích "phun mưa", tiếng "chim sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi", âm thanh xa gần, thương nhớ bồn chồn. tiếng dế râm ran, tiếng gió...nàng trằn trọ c lắng nghe để rồi thương nhớ bồi hồi. Tả nỗi nh ớ trong niềm thao thức cũng thật sâu sắc, não nùng: "Giọ t sương phủ bụi chim gù, Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi..." Từng canh dài trôi qua. Chinh phụ lắng tai nghe rồi nhìn thấy, hàng tiêu, thấy lá màn gió
  8. thổ i bay lên, thấy "Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm". Đây là bứ c tranh nói về trăng, hoa mang vẻ cổ đ iển: "Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng. Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu..." "Hoa nguyệt ngu yệt hoa"... "Nguyệt lồ ng hoa"... "Hoa giãi nguyệt"... "Trư ớc hoa dưới nguyệt"- qu ấn quýt, tự a vào nhau, lồng vào nhau mà khoe "thắm" trùng trùng lớp lớp. Sử dụng điệp ngữ và phép liên hoàn, nhân hoá "nguyệt hoa" đ ể diễn tả vẻ đẹp của trăng hoa đồng thời gợi tả nỗi lòng rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi của nh ững chinh phụ còn son trẻ trong những đêm trăng đ ẹp lạnh lẽo. Tổng kết Đoạn thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút. Có hình ảnh âm thanh, có hình ảnh màu sắc, có hình ảnh tâm trạng - có cảnh lạnh lẽo, có cảnh não nùng, lại có cảnh trăng, hoa giao hoà, qu ấn quýt khêu gợi. Tất cả đ ều hướng về sự thể h iện nỗ i nh ớ nhung, sầu muộn, nỗ i buồn thao thức cô đơn, nỗ i rạo rực khao khát yêu thương hạnh phúc lứa đôi mộ t thời son trẻ. Đó là chất nhân văn đằm thắm. Các câu thơ tả "nỗi nhớ chàng", tả sương tuyết, tả nguyệt hoa là hay nh ất. Người đọc có thể tìm thấy dấu ấn của nó trong bài thơ "Hoàng hôn" (Nhật kí trong tù), trong bài "Cảnh khuya" của nhà thơ Hồ Chí Minh sau này.
  9. Mời trầu Hồ Xuân Hương Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này củ a Xuân Hương mới quệt rồi. Có phải duyên nhau thì thắm lại, Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Tác giả Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỷ 18 đầu th ế kỷ 19. Gố c gác gia đ ình ở Ngh ệ An sống nhiều năm ở phường Khán Xuân, gần Hồ Tây, thành Thăng Long. Bà có tài thơ Nôm, giàu cá tính, một cuộ c đời "bảy... nổ i ba chìm"! Tác phẩm hiện còn trên dưới 50 bài thơ Nôm Đường luật và tập "Lưu Hương kí" b ằng chữ Hán. Hồn thơ dân tộ c và phong vị đồng quê là b ản sắc thơ Hồ Xuân Hương. Trong thơ của nữ sĩ có tình yêu thương, quí mến người phụ nữ, có tâm hồn nồng nhiệt với cuộc sống và thiên nhiên, có thái độ phủ định đố i với lễ giáo phong kiến và các thế lực thồng trị... Một tiếng cười, một tiếng nói trào phúng hóm hỉnh, sâu cay, có lúc trữ tình, đằm thắm mà chua xót. Thơ lưỡng ngôn, đa nghĩa rất hàm súc và độc đáo. Lời bình Không phải là cau vàng, trầu quế m à chỉ là "Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi". Một cách nói khiêm nhường, tình tứ. Câu thứ hai "Này của Xuân Hương m ới quệt rồi", cũng chỉ là cách xưng hô thân mật. Chữ "này" biểu thị một cử chỉ thân m ật, vồn vã, chân thành đối với khách. "Mới qu ệt rồi" - vừ a giới thiệu miếng trầu tươi ngon, vừa biểu lộ một tấm lòng chân thành, hiếu
  10. khách. Việc chủ nhân xưng tên "Này của Xuân Hương m ới qu ệt rồi" cho thấy đố i tượng được mời là một văn nhân tài tử từng có "tình ý" với nữ sĩ . Điều đó cũng cho biết Hồ Xuân Hương viết bài thơ này th ời con gái, vừa duyên dáng, vồn vã trong mời đón khách đến chơi nhà, vừa biểu lộ một cá tính Xuân Hương, sắc sảo trong ứng xử "có góc có cạnh". "Qu ả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này củ a Xuân Hương mới quệt rồi". Câu thơ - lời mời trầu - rất hóm h ỉnh đã gợi ra trong đối tượng được mời trầu bao liên tưởng thú vị. Thú vị củ a mối tình thôn nữ với chàng thư sinh thu ở nào: "Quả cau nho nhỏ - Cái vỏ vân vân - Nay anh học gần - Mai anh học xa - Lấy anh từ thuở mư ời ba - Đến năm mười tám thiếp đã năm con - Ra đư ờng thiếp hãy con son - Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng" - Thú vị ở sự dao duyên, đưa duyên, ngỏ tình qua miếng trầu chén rượu: "Có trầu cho miếng đỏ môi, Có rượu xin chén đ ẹp môi má hồng". Thú vị ở sự chân tình "mới quệt rồi" mà lá trầu, quả cau đều là cây nhà lá vườn đ ậm đà chân quê: "Vào vườn hái qu ả cau xanh, Bổ ra làm sáu m ời anh xơi trầu". Nói rằng thơ Hồ Xuân Hương mang phong vị hồn quê là như vậy. Hai câu tiếp theo là một lời nói "ướm thử", một cách thăm dò đối tượng - chàng trai mà cô gái đang m ời trầu: "Có ph ải duyên nhau thì thắm lại, Đừng xanh như lá, bạc như vôi". Xin cho được là miếng trầu ngon: miệng thơm, môi cắn ch ỉ qu ết trầu, cau, trầu, vôi
  11. "thắm lại" trong cái duyên trầu cau. Mong miếng trầu này, miếng trầu "chàng" - anh sẽ ăn không nhợt nhạt, vôi đi đ ằng vôi, lá đi đằng lá, xin đừng "xanh như lá bạc như vôi". Câu thơ mang một hàm ý: cô gái mời trầu đã bày tỏ n iềm mơ ước thiết tha về mộ t tình duyên đ ằm thắm, mặn nồng, son sắt thu ỷ chung. Vừa cầu mong, mơ ước "Có phải duyên nhau thì thắm lại", vừa như thầm nhắc khẽ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi". Có người cho rằng, qua câu thơ này, cô Xuân Hương đã ngầm răn đe người khách đang mời trầu - Âu đó cũng là một cách cảm nhận. Có điều câu thơ đầy ám ảnh như mộ t "dự b áo về con đường tình duyên của nữ ch ủ nhân m ời trầu này. Câu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi" cho ta nhiều ngại ngùng về một điều gì sẽ xẩy ra, chẳng bao giờ "thắm lại" được! Miếng trầu là đầu câu chuyện. Duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứ a... Qua mời trầu, Hồ Xuân Hương nói lên một khát khao, mơ ước về một tình duyên đẹp, thu ỷ chung. Mộ t bài thơ th ất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ bình d ị, mượn miếng trầu để đưa duyên. Bài thơ mang vị đời và thắm tình người - người con gái làng quê hai trăm năm về trước. Tự tình Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, Oán hận trông ra khắp mọ i chòm, Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông chùa ch ẳng đánh cớ sao om? Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ, Sau giận vì duyên để mõm mòm.
  12. Tài tư văn nhận ai đó tá? Thân này đâu đ ã chịu già tom! Hồ Xuân Hương Xuất xứ, ch ủ đ ề 1. Hồ Xuân Hương có chùm thơ 3 bài với nhan đề "Tự tình". Đây là bài thơ thứ hai trong chùm thơ ấy. Giọng thơ cay đắng, buồn tủi... điều đó cho thấy nữ sĩ viết bài thơ này trong tâm trạng của người phụ nữ quá lứ a lỡ thì... 2. Bài thơ thể hiện tâm trạng cuả tác giả tủi hận về tình duyên mà vẫn thách thức với duyên số. Phân tích 1. Đề Thao thức cả đ êm dài. Lòng bồn chồn nghe tiềng gà gáy văng vẳng trên bom, từ một con thuyền trên m ặt hồ, trên dòng sông đưa tới. Nữ sĩ ngồi dậy "trông ra khắp mọi chòm", mọi thôn xóm, ch ỉ thấy mịt mùng mà lòng thêm "oán h ận" - oàn hận về con đường tình duyên. 2. Thực Hai câu 3, 4 đăng đối, phủ định đ ể khẳng định tiếng "cốc" củ a "mõ th ảm", tiếng "om" của "chuông sầu". "Mõ th ảm" và "chuông sầu" là hai hình ảnh ẩn dụ cực tả nỗ i đau khổ, sầu tủi củ a người đàn bà lỡ thì quá lứa, trắc trở trong tình duyên. Thao thứ c trong đêm dài, đau nỗi đau củ a đ ời mình như "mõ th ảm", chẳng ai khua "mà cũng cố c"; tủ i nỗ i tủ i củ a lòng mình như "chuông sầu", ch ẳng đánh "cớ sao om"?. Nỗi đau buồn, sầu tủi như thấm sâu vào đáy lòng, toả rộng trong không gian, kéo dài theo thời gian như những đêm dài. Đây là hai câu thơ hay nhất tả nỗ i "thảm, sầu" trong
  13. sự trắc trở tình duyên. "Mõ th ảm không khua, mà cũng cốc, Chuông sầu chẳng đánh, cớ sao om?" 3. Luận Hai câu 5, 6 đăng đối cũng là đ ể tả tâm trạng "rầu rĩ", tủi giận về con đường tình duyên: "Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ, Sau giận vì duyên để mõm mòm". "Trước nghe những tiếng", là những tiếng gì? - Tiếng gà gáy trên bom? Tiếng "chuông sầu", "mõ th ảm" dội lên từ lòng mình. Càng nghe càng thêm rầu rĩ, buồn tủi. Càng nghe càng "giận", h ờn về tình duyên. Tình duyên đư ợc ví với trái cây, không còn "non xanh má ph ấn" n ữa mà đã chín "mõm mòm", nghĩa là quá chín, đ ã n ẫu đi. Cũng có nghĩa là đã quá lứ a, đã lỡ thì! Trong câu thơ có nhiều lệ, nhiều tiếng th ở d ài, than thân, trách phận, buồn tủi về con đường tình duyên. Hồ Xuân Hương thương mình, thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ. 4. Hai câu kết Như một sự thách đố với số phận, với duyên số: "Tài tử văn nhân ai đó ta? Thân này đâu đ ã chịu già tom?" Vừa nghi vấn, vừa cảm thảm, hai câu kết đầy ngh ịch lí. Nữ sĩ như vẫn tin vào tài năng củ a mình có th ể xoay đ ổi được duyên ph ận, vẫn hi vọng tìm được b ạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6, nữ sĩ viết: "Sau giận vì duyên để mõm mòm", câu 8, bà lại nói:"thân này đâu đã chịu già tom!". "Già tom" ngh ĩa là rất già, già hẳn. Một cách "nói cứng", thể h iện
  14. một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu cuộc đời của n ữ sĩ, về mặt tình duyên ta thấy hạnh phúc lứa đôi chưa một lần mỉm cười với bà. Người đọc mãi mãi cả m thông với những sầu tủi, cay đắng, oán hận của nữ sĩ, của những người phụ nữ duyên ôi phận hẩ m, quá lứa lỡ thì. Bài thơ gieo vần "om”, 5 vần thơ, vần nào cũng tài tình: "bom - chòm - om - mòm - tom". Vần nào cũng hóc hiểm, tạo nên âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán", cái "hận", cái "ngang bướng" củ a một tâm trạng, mộ t cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và h ạnh phúc - đó là vấn đ ề ám ảnh chúng ta khi đọc thơ "Tự tình" này của Hồ Xuân Hương. Tác giả Ph ạm Thái (1777 - 1813) hiệu là Chiêu Lì, quê ở Hà Bắc. Công danh lận đận, tình yêu dở dang. Cuôc đ ời Ph ạm Thái đ ầy bi kịch. Ông để lại "Sơ kính tân trang", "Văn tế Trương Qu ỳnh Như", bài "Chiến tụng Tây Hồ phú" và một số thơ nôm khác. "Sơ kính tân trang" cho thấy Phạm Thái là nhà thơ củ a tình yêu lãng mạn, của sự bộc lộ "cái tôi" trong thơ ca rất mới mẻ, báo hiệu thời kỳ cận đại. Tóm tắt "Sơ kính tân trang" nói về một chuyện tình như sau: Trương Công quê ở Kiến Xương, Sơn Nam. Phạm Công quê ở Từ Sơn, Kinh Bắc. Một người là võ quan, một người là quan văn kết b ạn tâm giao. Họ ước hẹn, n ếu sau này, một người sinh được con gái, một người sinh được con trai thì sẽ kết thành thông gia. Họ Trương trao cho họ Ph ạm mộ t chiếc gương vàng và được tặng lại một chiếc lược ngọ c, để đính ước. Sau
  15. đó, Ph ạm Công sinh con trai đặt tên là Phạm Kim, Trương Công sinh con gái, đặt tên là Trương Qu ỳnh Thư. Xảy ra quố c biến, Ph ạm Công chết, cơ nghiệp tan nát. Ph ạm K im lớn lên định nố i chí cha, nhưng mọi sự bất thành, chàng đi du ngo ạn thăm thú các danh lam thắng cảnh. Chàng tới miền Thú Hoa Dương, thấy cảnh đẹp nên thơ, bèn lưu lại. Chính tại đây chàng hạnh ngộ Trương Qu ỳnh Thư đang sống cùng cha mẹ n àng ở kề bên. Và được Hồng Nương hết lòng giúp đỡ, Phạm Kim và Trương Qu ỳnh Thư trao đổ i thư từ, thơ phú cho nhau. Mến vì sắc, trọng vì tài nên hai người yêu nhau. Phạm Kim có việc, phải trở lại quê nhà, trong khi đó lại có viên đô đốc ở Kinh kì đến hỏi Trương Qu ỳnh Thư làm vợ. Nàng vội gửi thư báo tin cho Phạm Kim biết. Chàng vộ i đến Thú Hoa Dương gặp người yêu. Cả hai người đ ều bế tắc. Họ chia tay trong nước m ắt và hẹn ư ớc sang kiếp sau nên vợ nên chồng - Sau đó Trương Qu ỳnh Thư tự tử. Phạm Kim cũng vô cùng đau buồn, ốm nặng, chán đời, chàng bỏ đ i tu. Trương Công từ quan về quê, lấy vợ lẽ, sinh được một người con gái, đặt tên con là Thụ y Châu. Lớn lên Thụ y Châu càng xinh đ ẹp và vô cùng phóng khoáng, cải dạng làm trai, tu luyện như mộ t đạo sĩ và hành hương ngao du khắp mọi miền, thăm thú cảnh đẹp. Một lần, Thụ y Châu đ ến Kim Sơn thì tình cờ gặp Phạm Kim. Hai người đàm đạo, xướng hoạ thơ phú. Lúc chia tay, Ph ạm Kim cứ đ inh ninh Thụ y Châu là mộ t cô gái, chàng ngẩn ngơ bỏ cả tu hành. Phạm Kim trở lại Thú Hoa Dương viếng mộ Trương Qu ỳnh Thư, một đêm trăng đẹp nghe tiếng đàn mà chàng nh ận ra Thụ y Châu. Hai người tâm sự, cùng đem gương vàng lược ngọc ra đối chiếu.... Trương Công vui lòng cho hai người lấy nhau và khuyên
  16. Phạm Kim nên gắng sức học hành. Vui duyên mới, nhưng Phạm Kim vẫn buồn thương Trương Qu ỳnh Thư. Chàng nói với Thụ y Châu về mối tình cũ. Thụ y Châu liền giơ bàn tay có dấu hai chữ "Qu ỳnh Thư". Phạm Kim ứa lệ mới biết Thụ y Châu là hậu thân của Trương Qu ỳnh Thư... Chủ đề "Sơ kính tân trang" ca ngợi mố i lương duyên của tài tử giai nhân và niềm khát vọng trong tình yêu son sắ c chung thu ỷ. Phân tích đo ạn "Cảnh chùa chiền" 1. Đoạn thơ "Cảnh chùa chiền" tả lại những cảnh đẹp và những con người mà Phạm Kim đã thăm thú đã gặp trên con đường mưu đồ đại sự, sau khi Phạm Công - cha chàng đ ã mất. 2. Đoạn thơ có hai cảnh đầ y ấn tượng a. Cảnh đẹp thiên nhiên hữu tình - Cảnh đền Hùng: "Lên Hùng Vương rất non cao, Mấy dương ngóc ngách, m ấy cầu chông chênh" - Cảnh Yên Tử : "Vào Yên Tử rất non cùng, Đàn xô nước suố i, phách giong cây rừng". - Cảnh Kính Chủ (Đông Triều, Quảng N inh): "Đá sực sực, nước cồn cồn, Chênh vênh cửa động, chon von m ái chùa". Ph ạm Thái có một cách viết rất mới lạ, có thể nói, ông tạo ra những câu thơ đảo ngữ , siêu cú pháp: "Lên Hùng Vương rất
  17. non cao", hoặc "Vào Yên Tử rất non cùng". Cảnh suối rừng núi non hùng vĩ hiện ra vô cùng kì thú. Các từ láy tạo nên những vần thơ đ ầy hình tượng và giàu âm điệu: "ngóc ngách", "chông chênh", "sực sực", "cồn cồn", "chênh vênh", "chon von",.... b. Nhà tu hành dưới mái chùa xưa Ph ạm Thái miêu tả những nhà tu hành dưới mái chùa xưa vừa bằng nụ cười châm biếm vừa b ằng cái nhìn lãng m ạn. Tình yêu có một mãnh lực, mộ t ma lự c ghê gớm có th ể làm cho các nhà tu hành phải cởi áo cà sa để trở về cõi tục, về sống giữa "vườn trần" đông vui với bao lạc thú: "Sài Sơn tựa áng phồn hoa, Sư huynh chải chuốt, vãi già đong đưa. Ra vào tiểu gái lẳng lơ, Long lanh mắt liếc say sưa miệng cười..." Giữa cảnh phồn hoa, từ sư huynh, vãi già đến tiểu gái đã "lột xác" hoàn toàn, họ trở thành nh ững con người trần tục hoàn toàn: ham sống và ham yêu. Có lúc nhà thơ ngẩn ngơ, tiếc nuối cho những giai nhân "lạc lối" vào con đường tu hành. Đó cũng là cái nhìn lãng m ạn: "Người cung nữ tuổi xuân xanh, Đem thân bồ liễu, đổi cành đàn na... Tu hành đ ấy có sư cô, Dễ đ em nghìn nén mà mua tiếng cười?". Tóm lại, Ph ạm Thái là nhà thơ của tình yêu. Mố i tình của Phạm Kim với Qu ỳnh Thư - Thụ y Châu là m ột thiên diễm tình. "Sơ kính tân trang" chỉ d ài có 1482 câu thơ lục bát, có xen một vài bài thơ xướng hoạ nhưng đã đóng góp cho n ền thơ ca dân
  18. tộc nhiều đo ạn thơ tả cảnh, tả tình tràn đầy màu sắc lãng mạn. Phạm Thái không ch ỉ ph ản ánh cảnh ăn chơi sa đọa của tầng lớp nhà chùa trong thế kỷ 18, 19 ở n ước ta mà còn khẳng định một sự thật ở đ ời: tình yêu lứa đôi là chuyện đẹp nhất ở vườn trần và có một sức m ạnh ghê gớm. Đó là cái nhìn lãng m ạn, là bút pháp lãng mạn của Phạm Thái. Tác giả Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, h iệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong mộ t gia đình đại quý tộc th ời Lê, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn N ghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là Nguyễn Kh ản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa. Triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm gió bụ i" rồ i về sống ở Hà Tĩnh quê nhà, số ng ẩn giật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ", "Hồng Sơn liệp hộ". Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại m ới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm quan cho nhà Nguyễn. Năm 1813, Nguyễn Du đư ợc cử làm Chánh sứ sang Trung Quố c, có lúc giữ ch ức Tham tri bộ Lễ, Cần chánh điện đại học sĩ. Tác phẩm 1. - Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh). - Văn chiêu hồn (Văn tế th ập loại chúng sinh) - Thác lời trai phường Nón. 2. Thơ ch ữ Hán: - Thanh Hiên thi tập. - Nam trung tạp ngâm. - Bắ c hành tạp lụ c.
  19. Truyện Kiều 1. Nguyễn Du d ựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, đ ời Thanh Trung Quốc để sáng tạo ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát, kiệt tác số một, "tập đại thành" củ a n ền thơ ca cổ điển Việt Nam. 2. Cốt truyện Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngo ại ở Bắc Kinh sinh thành được ba người con: Thuý K iều, Thuý Vân, Vương Quan. Hai ch ị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân ngày hội Đạp Thanh ba chị em Kiều đi chơi xuân, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng "tình trong như đã m ặt ngoài còn e". Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều, nh ờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng "trăm năm tạc mộ chữ đồng đến xương". K im Trọng phải về Liễu Dương hộ táng chú. Gia đình K iều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao duyên cho Thuý Vân rồi theo họ Mã về Lâm Trụ y. Kiều mắc lận Sở Khanh, b ị Tú Bà làm nhục. Kiều vào lầu xanh lần thứ nh ất. Kiều được Thúc Sinh chuộ c ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộ c, lấy từ Hải trở thành mệnh phụ phu nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừ a Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều bị ép lấy viên thổ quan, nàng nh ảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được cứu thoat rồi đi tu. Kim Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ được b ổ đ i làm quan. Cả gia
  20. đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu. Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu biệt... 3. Giá trị nội dung a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn bạo, dã man đ ã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người, bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án mặt trái của đồng tiền hôi tanh... b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc b ị dập vùi, nói lên ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng, đề cao quyền sống củ a con người, v.v... 4. Giá trị nghệ thuật a. Nghệ thuật xây d ựng nhân vậ t đặ c sắc, tạo ra những m ẫu người với những tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... trong xã hộ i phong kiến suy tàn, thối nát. b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra nh ững tình huống, những bi kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đố i tho ại, câu truyện về n àng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch. c. Ngôn ngữ thi ca: N guyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ b ác họ c, sử dụng điển tích, thi liệu văn họ c cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ... nâng lên thành mộ t ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuố t, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lụ c bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du. "Truyện Kiều" xứng đáng là "tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày" (Tố Hữu).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2