intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ôn tập văn học 10 part 5

Chia sẻ: Pham Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

152
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

- Rừng thu từng biếc chen hồng" (Câu 1520- Truyện Kiều) Núi Vu, kẽm Vu ở Quỳ Châu mịt mờ khí thu (khí tiêu sâm). Cũng là một nét thu hiu hắt buồn. Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ,

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ôn tập văn học 10 part 5

  1. - Rừng thu từng biếc chen hồng" (Câu 1520 - Truyện Kiều) Núi Vu, kẽm Vu ở Qu ỳ Châu mịt mờ khí thu (khí tiêu sâm). Cũng là một nét thu hiu hắt buồn. Hai câu đ ầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một m àu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. nguyễn Công Trứ đ ã thay vu Sơn, Vu Giáp bằng 2 chữ "ngàn non" cũng là một sự sáng tạo: "Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu h ắt, khí thu loà" "Kẽm" là khoảng không gian giữa 2 vách núi kề nhau. "Từ điển phổ thông tiếng Việt Văn Tân chủ b iên giải thích: "K ẽm là khe núi có sườn dốc đi được". Sách văn 10 giáo viên có gợi ý: "C âu thứ 3 tả riêng cảnh kẽm Vu, và câu thứ tư tả riêng cảnh núi vu. Căn cứ vào chữ "kẽm" như đã trình bày, chúng tôi không nghĩ phần "thực" bài thơ "Thu hứng" này là như th ế. - Câu 3, 4 vẽ tiếp cảnh thu bằng hai hình ảnh vừ a dữ dội vừa hoành tráng: Trên dòng sông thu, những đợt sóng cuồn cuộn vọ t lên, vỗ lên tận lưng trời. Kh ắp cử a ải, mây từng lớp từng lớp đùn lên, sa sầm giáp m ặt đất. Hình tượng thơ k ỳ vĩ, sóng và mây đ ối nhau, cái hư ớng về trời cao, cái sa xuống đ ất đ ể lại nhiều ấn tượng m ạnh m ẽ. Một bức tranh thu nói về dòng sông và con sóng, về cửa ải và mây, mang tầm vóc vũ trụ, hoành tráng. "Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thương phong vân tiếp địa âm" (Lưng trời sóng rợn, lòng sông thẳm,
  2. Mặt đất mây đùn cửa ải ra). Hai câu thơ này đã thể hiện sâu sắc những nét cơ bản trong phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đo ạn cuối đời: "trầm uấ t và bi tráng". Tóm lại, phần đ ầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông sóng vỗ , đến cửa ải mây đùn - tất cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đố i với kẻ tha hương. 2. Nỗi lòng thi nhân Như ta đ ã biết, năm 759, Đỗ Phủ từ đời quan, dời nhà đ ến Tân Châu. Ông phải trải qua 7 năm trời lưu lạc (759-766). Chùm "Thu hứng" 8 bài được viết vào mùa thu năm 766, tại Qu ỳ Châu. Ngày thu đến, đối cảnh sinh tình, vừ a thương đời, vừa thương vợ con, thương mình gian truân, chìm nổ i. Phần 2 bài "Thu h ứng" này là nỗ i lòng u ẩn của tác giả. Cúc, dòng lệ, con thuyền lẻ loi (cô chu), vườn cũ, dao thước, tiếng chày đập vải vừa mang tính hiện thực, vừa mang màu sắc ước lệ tượng trưng, rất giàu chất chữ tình. Mùa thu trước, Đỗ Phủ ở Vân An, màu thu này, ông ở Qu ỳ Châu. Hai mùa thu trôi qua, hai lần nhìn hoa cúc nở, cả hai đều rơi nước mắt: "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ". Đã bao lần nhà thơ gử i gắm hi vọng được về quê bằng mộ t chiếc thuyền, những chiếc thuyền vẫn bị buộc ch ặt ở bến sông, nơi đất khách quê người: "Cô chu nhật hệ cố viên tâm". Nói về nỗi nhớ quê nhà, nỗi buồn li hương thì đó là hai câu thơ tuyệt cú. Lời thơ đ ẫm lệ: "Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ Con thuyền buộc ch ặt mối tình nhà" Trời thu phương Bắc càng về chiều càng rét, nhất là những ngư ời luống tuổ i, đang ốm
  3. đau và phải sống xa quê như Đỗ Phủ nh ững năm cuố i đời. Nghĩ đến chuyện may áo rét mà lòng thêm sầu thương. Hai chữ "dao thước" (đao xích) trong câu 7 tả ít mà gợi nhiều. Lúc hoàng hôn nơi thành cao Bạch Dế, tiếng chà y đ ập vả dồn d ập vang lên (cấp mộ châm) nỗi lòng kẻ li hương càng thêm thổn thứ c. Tiếng vọng của âm thanh đời thường đã rung lên trong lòng nhà thơ bao cảm xúc bùi ngùi: "Hàn y xứ xứ thôi đao xích Bạch Đế thành cao cấp mộ châm" (" Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước, Thành Bạch chày vang bóng ác tà"). Kim Thánh Thán nhà phê bình văn họ c kiệt xuất đ ời Thanh viết: "K ẻ không biết thì bảo "lưỡng khai" (nở hai lần) ấy là "tùng cúc" (tùng: khóm, bụi cúc, hoa cúc) đâu biết rằng "lưỡng khai" ấy đều là "tha nhật lệ" (nước mắt ngay sau). Kẻ không biết thì bảo "cô chu" (chiếc thuyền lẻ loi) hà tất phải "nhật lệ" ấy chỉ là "cố viên tâm" (lòng nhớ vườn xưa). Trên ch ữ "lệ" đ ặt chữ "tha nh ật", tuyệt diệu! Ch ỉ có chính mình ở cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói "xứ xứ " (nơi nơi) chính là tiên sinh "buộc lòng" (h ệ tâm) vào một nơi (nhất xứ). Bạch Đế Thành ở phía đông Qu ì Phủ ; đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng ngh ĩ đến "dao thước" (đao xích) trong nhà mà trong tai thì chỉ n ghe th ấy tiếng "châm" thành Bạch Đế, khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới "châm" mà h ạ chữ "thành cao" liền thấy được là tai xa nghe, m ắt xa trông nỗ i khổ củ a khách xa nhà vì đó mà rât mực thê lương"
  4. Tóm lại, n ỗi lòng nhớ quê được biểu hiện một cách rất tinh tế, sâu sắc, cảm động bằng nhiều thủ pháp ngh ệ thuật điêu luyện. Cảnh và tình, hiện tại và quá kh ứ, sự vật và con người, âm thanh và nỗi lòng, gần và xa.... các chi tiết nghệ thu ật đ ã đan chéo vào nhau, hoà nh ập vào nhau, đ ể lại nhiều dư ba, chấn động trong lòng người đọc trên mộ t nghìn năm nay, nh ất là đối với nh ững kẻ đã trải qua những năm dài li hương, n ếm trải nhiều cay đắng. Kết lu ận 1. Đỗ Ph ủ từ ng nói: "Làm người tính thích câu văn đẹp - Đọ c chẳng kinh người ch ẳng ch ịu thôi" Đọc bài "Thu hứng" này, ta cảm nhận cái hay của áng thơ thất ngôn bát cú, mà mỗi câu, mỗi chữ đều mang cái "th ần" củ a nó, phô diễn cảnh và tình bằng nhiều hình tư ợng cảm động. Rừng phong phương Bắc trong khí thu m ờ, con thuyền lẻ loi vườn xưa với những hàng lệ của kẻ xa quê... làm ta thổn thức và nhớ m ãi. 2. Nỗi nhớ quê nhà, ước mơ được trở về vườn cũ, thăm ngôi nh à xưa nơi chôn rau cắt rốn.... không chỉ là tình cảm riêng, ước mơ riêng của Đỗ Phủ mà còn là tình cảm và ước mơ chung của hàng triệu con người trong lo ạn lạc chiến tranh, xưa và nay... Vì thế, "Thu hứng"chan chứa tình đời có giá trị nhân văn tuyệt đẹp. Hoàng lạc lâu Thôi Hiệu Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu. Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
  5. Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Lầu Hoàng Hạc Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi m ất từ xưa, N ghìn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày. Bãi xa Anh Vũ xanh d ày cỏ non. Quê hương khu ất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buông lòng ai? Tản Đà dịch Tác giả và dịch giả 1. Thôi Hiệu (704-752) đ ỗ tiến sĩ, nổi tiếng là tài hoa, để lại khoảng 40 bài thơ, hay nhất vẫn là những bài thơ vịnh cảnh. "Hoàng Hạc lâu" là bài thơ kiệt tác của Thôi Hiệu. Tương truyền, thi tiên Lý Bạch đến vãn cảnh Hoàng Hạc lâu, thấy thơ Thôi Hiệu đề lên vách, ông tấm tắc khen và viết: "N hãn tiền h ữu cảnh đ ạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu" (Trước mắt có cảnh đ ẹp, nhưng nói không được Vì đã có thơ của Thôi Hiệu đề ở trên đ ầu) 2. Tản Đà (1889 -1939) là nhà thơ nổi tiếng nhất những năm hai mươi củ a thế kỷ này, với vốn Hán họ c uyên thâm, với hồn
  6. thơ lãng m ạn bay bổng, về phương diện d ịch thơ Đường, ông vẫn là cây bút vô đ ịch. Những bài thơ Đường do Tản Đà dịch đều đăng tải trên tạp chí Ngày nay và Tiểu thuyết thứ bảy. Tất cả có 84 bài, phần lớn d ịch thành thơ lục bát 70/84 bài. Ông đã dịch: 38 bài củ a b ạch Cư Dị, 14 bài của Lí Bạch: 4 bài của Đỗ Phủ, 28 bài củ a các nhà thơ khác. Bài "Hoàng Hạc lâu" củ a Thôi Hiệu qua bản d ịch thơ lục bát của Tản Đà, là bản d ịch thơ hay nhất, thể h iện đẹp nh ất cái hồn Đường, điệu Đường kì diệu. Chủ đề Bài thơ nói lên cảm xúc của thi nhân khi ngắm nhìn lầu Hoàng Hạc mà bâng khuâng về huyền thoại, mà man mác buồn nh ớ quê hương. Phân tích 1. Đề Câu 1, 2 đối nhau xưa và nay, m ất và còn, Hạc vàng đi đâu mất cùng tiên, nay ch ỉ còn lại lầu Hoàng Hạc trơ trọi. Cảm hứng huyền thọai dâng đ ầy, nỗ i lòng thi nhân nhiều xúc động bâng khuâng: "Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ" Nhà thơ vừa ngắm lầu Hạc Vàng, vừa tự hỏi mình. Có gì đ ó cứ xao xuyến, ngơ ngác bồi hồ i khi nhớ đến "tích nhân", nhớ đến Phí Văn Vi trong huyền thoại. 2. Thực Câu 3, 4 đối nhau giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái m ất đi và cái đang còn hiển hiện, giữ a màu sắc củ a "Hoàng Hạc", "bạch vân" giữa cái hữu hạn và cái vô hạn:
  7. "Hoàng Hạc nh ất khứ bất ph ục ph ản Bạch Vân thiên tải không du du" Về bằng trắc, thanh điệu có một sự phá cách độc đáo. Câu 3 có 6 thanh trắc như thắt lại, nén lại, câu 4 có 3 tiếng "không du du" - phù bình thanh, gợi tả âm điệu chơi vơi, tiếc nuối, ngẩn ngơ. Câu thứ 4, Khương Hữu Dụng d ịch rất hay: "Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi" 3. Luận Cảnh đ ẹp đư ợc tả ở mộ t điểm nhìn xa và rộng. Có dòng sông và bãi sông. Có Hán Dương và Anh Vũ. Có h àng cây và bãi cỏ . Có màu ánh sáng trên dòng sông, có màu xanh và hương thơm củ a bãi cỏ . Nhà thơ say mê đứng lặng trên lầu cao ngắm nhìn: "Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh d ày cỏ non" Hai câu trong phần "lu ận" cho ta biết Thôi Hiệu đến chơi lầu Hoàng Hạc vào một chiều xuân đẹp, thanh bình. Cảm hứng huyền thoại chan hoà với cảnh hứ ng thiên nhiên trữ tình tạo nên những vần thơ đẹp, phản ánh một hồn thơ đẹp. Thi nhân như đang dẫn hồn mình vào cõi mộng. Cảnh đẹp và vô cùng vắng lặng, mênh mang. 4. Kết Bóng hoàng hôn phủ mờ dần cảnh vật. Nhà thơ tự hỏi đâu là quê hương? Ch ỉ nhìn th ấy khói sóng trên dòng sông xa, nỗi buồn nhớ dâng lên man mác trong lòng khách li hương: "Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?"
  8. Thi liệu đẹp, mang màu sắc cổ điển thi vị: "Mộ ", "hương quan", "yên ba giang thượng", "sử nhân sầu". Đây là những vần thơ tả nỗi buồn nhớ quê qua trên mộ t ngàn năm rồ i vẫn làm cho chúng ta rơi lệ: "Nh ật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu?" "Hương quan" là cái cổng làng; chỉ quê nhà. giấc hương quan : giấc mơ về nhà; Nguyễn du đã viết trong Truyện Kiều: Mối tình đòi đoạn vò tơ, Giấc hương quan luống lần mơ cảnh dài. Song sa vò võ phư ờng trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (1265-1268) Tác giả và xuất xứ bài thơ 1. Bạch Cư Dị (772 – 846) đậu tiến sĩ năm 28 tuổi, làm qua đ ời Đường tại kinh đô Tràng An. Có một thời gian bị giáng chức xuống làm Tư mã ở quận Cửu Giang. Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất đời Đường, đ ể lại trên 3000 bài thơ. Thơ ông chứa chan tinh th ần nhân đạo. 2. “Tì bà hành” là bài hành nói về tiếng đàn tì bà của mộ t giai nhân bạc mệnh trên bến Tầm Dương một đêm trăng thu. Năm 816, Bạch Cư Dị bị giáng chứ c xuố ng làm quan Tư Mã, quân Cửu Giang. Mộ t đêm trăng thu đ ẹp mà buồn, ông được nghe người ca nữ gảy đàn tì bà và kể về cuộ c đời nhiều b ất h ạnh của nàng, Bạch Cư Dị cám cảnh “Cùng một lứa bên trời lận đận…” đã khóc “sướt mướt” trong bữa tiệc hoa sau khi ca nữ n gừng đàn. Bài thơ dai 88 câu thất ngôn gồm có (7x88) – 616 tiếng. Bản dịch thành thơ song th ất lục bát, cũng 616 từ. Bản d ịch thơ
  9. này, lâu nay nói là của Phan Huy Vịnh, gần đây có ý kiến là của Phan Huy Thự c, thân sinh củ a Phan Huy Vịnh. Hầu như không có một nghệ nhên hát ca trù nào lại không thuộ c và hát hay “Tì Bà Hành” Chủ đề Bài thơ tả tiếng đàn tì bà huyền diệu của một ca n ữ trên b ến Tầm Dương trong một đêm trăng thu hiu h ắt, qua đó nói lên cuộc tương ngộ và sự đồng cả m cho số phận cay đắng giữa giai nhân và tài tử. Bố cục bài thơ 1. Câu 1 – 8 : cuộc đưa tiễn bạn buồn lưu luyến giữa một đêm trăng thu hiu h ắt trên bến Tầm Dương. 2. Câu 9 – 38: Gặp ca nữ và nghe nàng đàn. 3. Câu 39 – 62: Ca n ữ ngậm ngùi nói về cuộc đời nhiều bất hạnh củ a mình. 4. Câu 63 – 82: Nhà thơ thương người rồi tự thương mình lận đận. 5. Câu 83 – 88: Ca n ữ đàn lần thứ hai. Tiệc hoa đầy lệ Phân tích đo ạn thơ tả tiếng đàn tì bà 13… Mời mọ c mãi, th ấy ngư ời bỡ ngỡ, Tay ôm đàn che nử a m ặt hoa Vặn đàn mấy tiếng dạo qua Dẫu chưa nên khúc tình đà tho ảng hay Nghe não một m ất dây buồn bực Dường than niềm tấm tứ c b ấu lâu Mày chau tau gảy khúc sầu, Dãi bày hết nỗ i trước sau muôn vàn. Ngón buông bắt khoan khoan dìu d ặt Trước Nghê Thường sau thoắt Lụ c Yêu,
  10. Dây to đường đổ mưa rào, Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng. Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước su ối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ, Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay. Bình b ạc vỡ tuôn đ ầy dòng nước, Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao; Cung đàn trọ n khúc thanh tao: Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt, Một vầng trăng trong vắt lòng sông… Phân tích Thành tựu nổ i bật nhất trong “Tì bà hành” là nghệ thuật miêu tả tiếng đàn. Trong bữ a tiệc hoa trên bến Tầm Dương giữa trăng thu hiu h ắt, thính giả của ca nữ là một tài tử văn nhân rất sành nhạc, đ ặc biệt hơn nữa ông còn có mộ t cuộc đời, một n ỗi niềm cay đ ắng, trải qua nhiều thăng trầm, trôi nổi lận đận… Lần th ứ nhất, tả từ xa, tiếng đàn mơ hồ sương khói Tầm Dương. Câu th ứ hai, tiếng đàn được tả trong mọi cung b ậc, giai điệu và cảm xú c, nỗi niềm của tâm hồn đa tài, đa cảm.
  11. Ngón tay ca nữ “buông, b ắt” lướt trên phím đàn. Hai khúc nhạc cung đình ngân vang thánh thót. Câu thơ làm hiện lên một nghệ sĩ bì bà hành lỗ i lạc: “Ngón buông b ắt khoan khoan dìu d ặt Trước Nghê Thường sau thoắt Lụ c Yêu” Mười bốn câu tiếp theo, Bạch Cư Dị sử dụng một chuỗi 9 ẩn dụ so sánh để cực tả tiếng đàn tì bà củ a nàng ca nữ. Tiếng đàn biến hóa kì ảo, lúc thì ào ào như mưa rào, lúc th ì nỉ non, thủ th ỉ như lời tâm tình: “Dây to đường đổ mưa rào, Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.” Tiếng đàn lanh lảnh reo ngân như hạt châu nẩy trên mâm ngọc, như tiếng chim oanh ríu rít trong ngàn hoa: “Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau…” Tiếng tì bà đ ang như “nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh” thì bỗng đột ngộ t “ngừng đ ứt”. Nàng ca n ữ d iễn tấu “dấu lặng” trong b ản đàn một cách tài tình. Người dự tiệc hoa và ngồ i thưởng thứ c ca nữ đàn đ ều “ngẩn ngơ” trước sự huyền diệu củ a suố i âm thành: “Nước suố i lạnh, dây mành ngừng đứ t Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ, Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.” Tiếng đàn như sầu thương, như giận dữ, làm mê say, đắm đuối rung động hồn người. Tiếng đàn như th ể h iện nỗ i lòng và
  12. tâm tình một cuộ c đ ời nhiều nước mắt, nhiều cay đ ắng, đ ã trải qua những tháng ngày “ôm sầu mang giận ngẩn ngơ”. Người dự tiệc và nghe đàn như đang bị cuốn hút trước giai điệu buồn thương của tiếng đàn, hoặc tấm tắc trầm trồ, hoặc rơi lệ… Bốn ẩn dụ tiếp theo tả biến thái củ a giai điệu tiếng đàn tì bà. Lúc thì như nư ớc trào ra khỏi bình bạc vỡ. Lúc thì rầm rập như đoàn quân thiết kỵ xung trận, như ngựa hí đao khua trên chiến đ ịa. Có lúc như tiếng lụ a xé kề tai… Hình ảnh nào cũng thần tình. Câu thơ nào cũng đẹp. Ngôn ngữ thơ tràn ngập âm thanh. Đây là đoạn thơ tả âm thanh tiếng đàn tì bà nhanh, dồn dập, trầm hùng, mạnh mẽ: “Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước, Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao; Cung đàn trọ n khúc thanh tao: Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây” Trong suối âm thanh tì bà vang lên giữ a đêm thu, cảnh vật như nín thở cùng lắng nghe đàn với quan Tư Mã Giang Châu. Dòng sông, con thuyền, bầu trời, vầng trăng thu như ru hồn trong mộng tưởng, say đắm, bâng khuâng, tất cả đều “lặng ngắt” tận hưởng dư âm tì bà. Khung cảnh hiện lên qua một nét vẽ đầy chất thơ. Sông như thêm mông mênh hơn. Ánh trăng thu trong xanh hơn. Con thuyền như đắm chìm trong giấc một đêm thu: “Thuyền m ấy lá đông tây lặng ngắt, Một vầng trăng trong vắt lòng sông” Lấy ngoại cảnh đ ể b iểu cảm âm thanh tiếng đàn tì bà là một thủ pháp ngh ệ thuật tinh tế, điêu luyện của Bạch Cư Dị. Các nhà thơ Việt Nam đã kế thừ a sáng tạo. Có tiếng đàn cầm của nàng Kiều gảy cho Kim Trọng
  13. nghe sau ngày tái h ợp. Nguyễn Du cũng ví với tiếng ngọc: “Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông” (3203–3204) Lấy ngoại cảnh tả tiếng đàn: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ…” (485). Trong bài: “Tiếng sáo Thiên Thai”, Th ế Lữ cũng viết: “Mây h ồng ngừng lại sau đèo, Mình cây n ắng nhuộm, bóng chiều không đi” Tóm lại, đ ọc “Tì bà hành” qua bản d ịch thơ củ a Phan Huy Vịnh (?), ta vô cùng thú vị trước những vần thơ song thất lục bát réo rắt du dương, trầm bổng, u hoài. Giữa nàng ca nữ và thi nhân không chỉ có tấm lòng biệt nh ỡn liên tài, mà còn là đôi bạn tri âm, đồng điệu. “Cũng mộ t lứa bên trời lận đ ận – Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”… Bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu tấc lòng, bấy nhiêu tình đời cay đắng u u ất. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh… tiếng đàn tì bà và cuộc đời nàng ca nữ bước đường công danh lận đ ận củ a ông quan Tư m ã Giang Châu cho ta nhiều ám ảnh: “Lệ ai chan chứa hơn người Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh” Nguồn gốc 1. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một thành tựu kì diệu củ a n ền văn h ọc Trung Hoa. Nó hình thành và phát triển rự c rỡ từ thời Minh (1308–1644) và thời Thanh (1644–1911). Từ những thoại bản, những sự kiện lịch sử được các nhà văn lỗi lạc sáng tạo nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ m ấy nghìn trang, mấy trăm nhân vật, kết cấu chương hồi phát triển theo dòng
  14. ch ảy thời gian và lịch sử. 2. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có những bộ tiêu biểu nhấ t - Tây Du kí: 100 hồ i - Thủy Hử truyện: 120 hồ i - Tam quố c diễn nghĩa: 120 hồi - Hồng lâu mộng: 120 hồi Một vài nét về Tam Quố c diễn nghĩa 1. Tác giả La Quán Trung sống vào đầu th ời Minh đã dựa vào các chuyện kể d ân gian, các truyền thuyết và sử sách để viết nên bộ “Tam Quốc diễn nghĩa”, tác phẩm hay nh ất trong toàn bộ các tác phẩm tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. 2. Tóm tắ t Tam Quố c diễn nghĩa kể lại cuộc phân tranh trong vòng 87 năm giữa 3 tập đoàn phong kiến: Ngụ y, (Tào Tháo), Thục, (Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền). - Từ hồi 1 đ ến hồi 14 (năm 184–190) cuộc kh ởi nghĩa nông dân khăn vàng. Đổng Trác thâu tóm quyền hành. Vương Doãn dùng mĩ nhân kế d iệu Trác. - Từ hồi 15 đến hồi 50 (năm 190–208) Viện Thiệu xưng hùng rồi đại bại. Tào Tháo tiêu diệt sạch các tập đoàn phương Bắc, làm chủ trung nguyên Lưu Bị đã có binh hùng tư ớng mạnh nhưng chưa có đất. Tào Tháo đ ại bại ở Xích Bích. Lưu Bị được đ ất Kinh Châu: Thế chân vạc Ngụ y–Thục– Ngô hình thành. - Từ hồi 51 đến hết (208–280) Tào Tháo có binh hùng tướng m ạnh, lúc đánh Ngô, lúc tiến công Thụ c, thế trận giằng co,
  15. thì Táo Tháo chết. Con là Tào Phi lên thay, phế vua Hán, lập ra nước Ngụ y, quyền hành rơi dần vào tay th ừa tướng Tư Mã Ý. Lưu bị có mưu sĩ Khổng Minh, có ngũ hổ tướng, thế lực ngày một mạnh. Lưu Bị lên ngôi vua. Quan Vũ bị Đông Ngô giết. Trương Phi cất quân đánh báo thù cho anh mà bị hại. Lưu Bị thảm bại về trận hoả công của Đông Ngô rồ i ốm chết. Con là Lưu Thiện nối ngôi. Khổng Minh “thất cầm Mạnh Ho ạch”, “Lục xuất Kỳ Sơn”, sự nghiệp đang dở dang thì ốm chết. Thục suy vong d ần. Năm 263, tư ớng Ngụ y là Đặng Ngải, diệt Thục, Lưu Thiện đ ầu hàng. Nhà Ngô có địa thế Giang Đông hiểm yếu, có binh hùng tướng m ạnh, lấy thủ, làm công, nhiều lần đánh b ại Ngụ y, Thục. Sau khi Tôn Quyền chết, Tôn Hạo lên thay, thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm (cháu Tư Mã Ý), kéo đ ại binh đánh Đông Ngô, Tấn Hạo đầu hàng. Tư Mã Ý phế Ngụ y, lập ra nhà Tôn thống nhất Trung Quốc. 3. Giá trị của “Tam Quố c diễn nghĩa” - Ca ngợi nh ững tấm gương anh hùng nghĩa sĩ, trung dũng, có tài thao lược mộ t thời loạn lạc. - Nêu lên khát vọng của nhân dân về một bậc minh quân, về hòa bình ổn định. - Xây dựng được những điển hình như Ngũ hổ tướng, (Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, Mã Siêu), “Ngũ tuyệt” như Tuyệt nhân (Lưu Bị), Tuyệt trí (Khổng Minh), Tuyệt ngh ĩa (Quan Vũ), Tuyệt gian (Tào Tháo), Tuyệt d ũng (nhiều tướng lĩnh của ba phe). - Kể chuyện dùng mưu, tường thuật các trận đánh hào hùng, đầy kịch tính, hấp dẫn…. “Hoa Dung lộ ”, “Quá Ngũ quan
  16. trảm lụ c tướng”, “Hồi trống Cổ Thành”, “Th ất cầm Mạnh Hoạch” v.v… Đọc “Tam Quốc diễn ngh ĩa” không ai là không nh ớ… - “Tam Quốc diễn nghĩa” từ lâu đã đi vào tuồng, gần đây đ ã đ i vào Truyền hình làm chấn động 5 châu, 4 biển. Phân tích “Hồi trống Cổ Thành” 1. Tóm tắ t Biết tin anh là Lưu Bị ở Hà Bắc trên đất Viên Thiệu, Quan Vũ đưa hai chị (vợ củ a Lưu Bị) đi tìm anh. Tào Tháo tránh không tiếp Quan Vũ đến từ biệt vì muốn lưu giữ Quan Vũ để dùng. Tháo không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không cho tướng đuổi bắt. Các tư ớng giữ ải vẫn không cho Quan Vũ qua ải, Quan Vũ ph ải mở đường máu mà đi. - Qua ải Đông lĩnh chém Khổng Tú - Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thầu - Qua Nghi Thu ỷ giết Biện Hỷ - Vượt ải Hu ỳnh Dương chém Vương Thực - Đến bờ Hoàng Hà, giết Tần Kỳ - Đến Cổ Thành, Quan Vũ ngỡ là gặp được em xiết bao vui mừng, ai ngờ Trương Phi “m ắt trợn tròn xoe” râu hùm vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Bất ngờ Sái Dương lại kéo quân đến b ắt Quan Vũ. Phi càng nghi ngờ… Chỉ đến lúc đ ầu Sài Dương bị Quan Vũ chém đ ứt, Phi mới đánh một hồi trống, Phi mới nguôi giận dần. Và chỉ sau khi nghe tên lính kể đ ầu đuôi mọi chuyện,… Phi mới tin, “rỏ nước m ắt, thụp lạy Vân Trường”. 2. Hình ảnh Trương Phi
  17. Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung th ần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi th ì Quan Công đã hàng Tào, “được phong hầu tử tước”, đã “bội ngh ĩa” đ ến Cổ Thành là để lập mưu b ắt Phi! Nên ph ải đâm chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. “Xin hai chị thong th ả, để tôi giết th ằng phụ n ghĩa n ày đã…”. - Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo tin hai ch ị và Quan Vũ đ ến, mời Trương Phi ra đón, Phi “ch ẳng nói ch ẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đ i tắt qua Cửa Bắc”. Hành động dữ dội, sôi sục “m ắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Mạt sát Quan Công: “mày đã bộ i nghĩa còn mặt nào đ ến gặp tao nữa”. - Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có mộ t điều kiện “xong 3 hồ i trống phải chém đầu tướng Tào” để làm tin. Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì Phi mới tin: “rỏ nước m ắt, thụp lạy Vân Trường”. Phục thiện và biết điều. Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, th ẳng th ắn, quyết liệt, trong sáng và trung ngh ĩa. 3. Quan Vũ – đó là mộ t võ tướng: tuyệt nghĩa. Vượt qua nguy hiểm để đi tìm anh, quá ngũ quan trảm lụ c tướng. 4. Nghệ thuật: “Hồi trống Cổ Thành” hấp dẫn bởi tình huống và kịch tính. Tình huống1: Trương Phi ngỡ là Quan Công đ ến lừa bắt m ình nộp Tào Tháo. Phi phải giết Quan Công. Tình huống 2: Sái Dương mang quân đến hỏi tộ i Quan Công… Phi ngỡ là âm mưu của Quan Công. Tình huống 3: Trương Phi đánh ba hồ i trồng thì Quan Công ph ải chém ch ết Tào. Đầu Sái Dương bị Quan Công chém lăn dưới đ ất,
  18. Trương Phi vừ a đánh xong một hồi trống. Mâu thuẫn được giải quyết, Phi khóc, thụp lạy Vân Trường. Nhân vật được miêu tả bằng hành động các tình tiết diễn biến nhanh, đẩy xung độ t nên căng thẳng và hấp dẫn. Tóm lại, “Tiếng trống Cổ Thành” vang lên là đầu giặc bị chém rụng xuống đất đ ể n gười anh hùng minh oan bằng tài năng. Đó là tiếng trống hộ i ngộ của tình nghĩa, của lòng trung thực, của khí phách anh hùng. Cũng là tiếng trống thúc quân, tiếng trống th ắng trận tưng bừng giòn giã. Thời đại Phục hưng và Văn hóa Phụ c hưng 1. Sau đêm trường trung cổ, Tây Âu bước sang một thời đ ại mới là Thời đại Phục hưng trong th ế k ỷ 15-16. Phương Tây bàng hoàng và kinh ngạc phát hiện ra trong những di sản của nền văn họ c nghệ thuật Hi Lạp, La Mã vô cùng xán lạn, đã bị chôn vùi qua hàng ngàn năm từng bị nhà thờ và chế độ phong kiến xuyên tạc, bóp méo. Con người phương Tây khao khát, hăm h ở làm sống lại tinh hoa n ền văn hoá đó để xây d ựng mộ t nền văn minh mới vì tự do và hạnh phúc của con người. Lịch sử gọ i là Thời đạ i Phụ c hưng. 2. Cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa họ c, kỹ thuật, p hong trào văn hóa Phụ c hưng nở rộ khắp các nước Tây Âu. Trào lưu tư tưởng này lấ y chủ nghĩa Nhân văn làm nòng cốt đề cao trí tuệ con người, vì hạnh phúc, tự do của con người m à kiên quyết chống lại những th ế lực hắc ám, tàn bạo trong xã hộ i, để con người được phát triển tự do, tự nhiên, hài hoà, đẹp đẽ. Tác giả Sêcxpia
  19. Sêcxpia (1564–1616) là một nhà thơ, nhà soạn kịch thiên tài của nước Anh, “một trong nh ững ngọn đuố c chó i lọi” củ a Văn hóa Phụ c hưng. Th ị trấn Xtratpho on Âyvơn là quê hương ông. Ông bước vào kịch trường Anh quốc, lúc đ ầu là chân giữ ngựa và nhắc vở ở rạp hát, d ần dần được là diễn viên, đ ạo diễn, tài năng phát triển, trở thành kịch tác gia. Ông để lại 37 vở kịch, có hài kịch, có bi kịch, có kịch lịch sử. Cấu trúc hoành tráng, ngôn ngữ đố i thoại vừa bóng bẩy vừa hùng tráng, phản tích tâm lí sâu sắc… Kịch Sêcxpia là tiếng nói của lương tri, củ a chính nghĩa, của tự do, hạnh phúc và niềm tin vào con người, vào thế hệ trẻ trong tương lai. Kịch Sêcxpia sáng bừng chủ nghĩa nhân văn cao đẹp. Rômêô và Ju liet, Hamlet, Ôtenlô, Người lái buôn thành Vơnidơ… là những vở kịch - kiệt tác của Sêcxpia gần gũi, quen thuộc với hàng trăm triệu, nghìn triệu con người trên hành tinh chúng ta Tóm tắt vở kịch “Người lái buôn thành Vơnidơ” Baxaniô một quý tộc trẻ, có học. Bạn thân là Antôniô, một thương gia giàu có ở Vơnidơ. Baxaniô cần tiền cưới vợ - công nương Porxia xinh đẹp. Antôniô không sẵn tiền vì tất cả tài sản của chàng đang lênh đênh trên 3 chiếc thuyền buôn chưa về. Antôniô phải đến vay của tên Sailốc, một lái buôn Do Thái số tiền 3000 đuyca với điều kiện ghi vào văn kh ế: n ếu sau 3 tháng không trả được n ợ thì Sailốc có quyền xẻo mộ t cân thịt trên thân th ể n gười vay nợ. Tuy yêu Baxaniô, nhưng công nương Porxia phải thự c hiện đúng chúc thư củ a bố, người cầu hôn ph ải chọ n đúng cái hòm trong đựng chân dung nàng mới được kết duyên cùng nàng. Ông hoàng Marốc chọn cái hòm vàng, mở ra chỉ thấy cái đầu lâu và mộ t tờ thư châm biếm. Ông hoàng xứ Aragông chọn cái hòm bạc, trong chỉ có chân dung
  20. thằng ngốc với một bài thơ hài hước. Baxaniô chọn hòm chì, mở ra… và h ạnh phúc đã thuộc về chàng. Hạn nợ đã đến. Sailố c kiện ra toà. Baxaniô và Graxianô (chồng nàng Nêrixa h ầu gái củ a công nương Porxia phải cấp tốc về Vơnidơ. Được ông anh họ là quan toà viết thư ủ y nhiệm, Porxia cải trang thành tiến sĩ luật khoa, nàng Nêrixa cải trang thành viên thư ký. Hai nàng đã được thống lĩnh mời vào gh ế quan tòa. Porxia tuyên bố cho Sailốc thự c hiện đúng văn khế và lưu ý phải cắt đúng 1 cân th ịt không hơn không kém trên thân thể Antôniô và không làm ch ảy ra một giọ t máu nào. Sailốc b ị thua kiện, b ị ghép vào tộ i âm mưu hãm hại m ột công dân thành Vơnidơ, b ị toà tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản. Kết thúc phiên toà, hai vị “quan toà và thư ký” khéo léo xin được nhẫn của Baxanioo và Graxianô. Trở lại đời thường, hai nàng hỏi đức lang quân về nhẫn đính hôn đâu rồi và tỏ ý giận d ỗi. Cuối cùng Porxia đưa thư ủ y nhiệm củ a ông anh họ thì Baxaniô m ới biết rõ sự th ật, bàng hoàng khâm phục ngư ời yêu. Cùng lúc đó, tin ba thuyền buôn của Antôniô cập cảng, thuyền đầy ắp hàng hóa. Giá trị củ a tác phẩm 1. Về nội dung: Vở kịch “Người lái buôn thành Vônidơ” đã ca ngợi tình bạn, tình yêu thủ y chung cao cả, đề cao trí tuệ và công lý, lên án sự độ c ác tham lam. Vẻ đ ẹp và sự thông tuệ, sắc sảo của người phụ nữ trẻ được khẳng định và ngưỡng mộ. 2. Về ngh ệ thuậ t: Hành động kịch phong phú. Mâu thuẫn tạo nên xung đột và kịch tính (văn khế – cảnh xử kiện – chiếc nh ẫn). Ngôn ngữ rất bóng bẩy. Ch ất hài qua màn kịch chọn hòm vàng, hòm bạc, hòm chì…
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2