intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phan Chu Trinh với xu hướng cải cách

Chia sẻ: Pham Dai Duong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:2

127
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xu hướng cải cách ở nước ta được báo hiệu khoảng năm 1902 khi xuất hiện tác phẩm Văn minh tân học sách (tác phẩm vô danh). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện một tư tưởng mới lạ là muốn chấn hưng dân trí, dân khí, phải bắt đầu bằng con đường cải cách, chủ yếu là về kinh tế và văn hóa (với 6 biện pháp gọi là 6 đường).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phan Chu Trinh với xu hướng cải cách

  1. Phan Chu Trinh với xu hướng cải cách Xu hướng cải cách ở nước ta được báo hiệu khoảng năm 1902 khi xuất hiện tác ph ẩm Văn minh tân học sách (tác phẩm vô danh). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hi ện một tư tưởng mới l ạ là muốn chấn hưng dân trí, dân khí, phải bắt đầu bằng con đường cải cách, ch ủ yếu là v ề kinh t ế và văn hóa (với 6 biện pháp gọi là 6 đường). Xu hướng cải cách ở nước ta được báo hiệu khoảng năm 1902 khi xuất hi ện tác ph ẩm Văn minh tân h ọc sách (tác phẩm vô danh). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện một t ư t ưởng m ới l ạ là mu ốn ch ấn hưng dân trí, dân khí, phải bắt đầu bằng con đường cải cách, ch ủ yếu là về kinh t ế và văn hóa (v ới 6 bi ện pháp gọi là 6 đường). Phan Châu Trinh (1872-1926), hiệu là Tây Hồ, là một sĩ phu t ư sản hóa, có đ ường l ối, th ủ pháp cách m ạng trái ngược với Phan Bội Châu. Ông đỗ Phó bảng năm 1901, cự tuy ệt con đ ường quan tr ường, l ại s ống t ại một vùng giao thương với nước ngoài phát triển là Quảng Nam- Đà Nẵng, Phan Châu Trinh không ch ỉ ch ịu ảnh hưởng Tân thư, ảnh hưởng của Nguyễn Lộ Trạch (tác giả Thiên hạ đại thế luận) mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhà dân chủ tư sản Pháp, Ấn Độ. Tháng 8-1906, sau khi từ Nhật Bản về, Tây Hồ viết Thư ngỏ gửi Toàn quyền Pôn Bô (Paul Be au) và l ập t ức trở thành thủ lĩnh của xu hướng cải cách trong cả nước. Ông ch ủ trương d ựa vào ng ười Pháp đánh đ ổ giai cấp phong kiến, phát triển kinh tế TBCN ở nước ta, rồi mới tính đến đ ộc lập. Ông g ọi đó là k ế sách " ỷ Pháp cầu tiến bộ", tiến hành song song duy tân, đánh đổ chế độ phong kiến, quan trường. Ở nước ta lúc đó cũng không ít người nghĩ như vậy và trở thành đ ồng chí c ủa ông nh ư Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Đào Nguyên Phổ (Bắc Kỳ), Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguy ễn Th ượng Hi ền (Trung Kỳ), Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Hưởng (Nam Kỳ). Nhưng Phan Châu Trinh cũng nh ư các sĩ phu cải cách, không ai nghĩ tới một đảng chính trị cho xu h ướng của mình. Đi ều này đã ph ần nào quy ết đ ịnh tính cách, bước đi của xu hướng này. Trước hết, ở địa bàn trung tâm là Trung Kỳ từ 1906 đến 1908, Phan Châu Trinh tr ực ti ếp lãnh đ ạo phong trào Duy Tân và phong trào chống thuế. Để cổ vũ cho lối học thực nghi ệp, t ừ năm 1906, Phan Châu Trinh cho thành lập hàng chục trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, văn hóa k ỹ thuật, lớn nh ất là tr ường Diên Phong. Các sĩ phu cải cách cũng rất chú trọng phát triển kinh t ế, l ập ra các h ội buôn (l ớn nh ất là ở H ội An, Phan Thiết với Liên Thành thương quán nổi tiếng), kinh doanh hàng d ệt v ải, lâm s ản (qu ế, chè), nông s ản (g ạo, ngô, sắn), hải sản... giao thương cả với nước ngoài. Hoạt động sôi động hơn cả là trên lĩnh vực t ư t ưởng, sinh hoạt, với khẩu hiệu để răng tr ắng, c ắt tóc ng ắn, ăn vận theo lối mới, họ tiến tới phê phán gay gắt biểu trưng của chế đ ộ phong kiến nh ư xé áo lam, gi ật bài ngà...Từ phong trào cắt tóc khi lan xuống nông thôn, đã dần bi ến thành phong trào kháng thu ế c ủa nông dân. Từ Hội An, Đại Lộc (Quảng Nam) phong trào lan xuống Phú Yên, Khánh Hòa, lan ra Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bao vây các phủ huyện, có khi bắt đi cả quan chức địa ph ương, đòi gi ảm s ưu thuế, th ậm chí có n ơi còn cướp chính quyền ở địa phương... Đến đây, phong trào đã vượt khỏi sự kiểm soát của các sĩ phu cải cách. Th ực dân Pháp đã l ợi d ụng s ự ki ện này, thẳng tay đàn áp phong trào Duy Tân Trung Kỳ. Một s ố sĩ phu b ị chém nh ư Trần Quý Cáp, Lê Khi ết và hàng chục người bị án lưu đày ở Côn Đảo như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đ ức K ế… Ở Bắc Kỳ, sự ra đời Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội có thể coi là s ự nối dài của phong trào Duy Tân. Ở đây, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền được sự ủng hộ của Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Lê Đ ại, Võ
  2. Hoàng, Phạm Duy Tốn... học theo kinh nghiệm của Nhật Bản đã m ở trường t ư th ục tháng 3-1907. Trường chủ trương dạy theo lối mới, chú trọng khoa học tự nhiên, h ọc sinh học b ằng ch ữ Quốc ng ữ, Hán và Pháp văn. Ban Giáo dục gồm nhiều nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Th ượng Hiền, Hoàng Tăng Bí, D ương Bá Trạc, Lê Đại, Nguyễn Văn Vĩnh... Phan Châu Trinh là ng ười th ường xuyên góp ý và tr ực ti ếp gi ảng d ạy. Số học sinh lên tới 1000 người, có già trẻ, trai gái và được chia thành 8 l ớp. Nhà tr ường th ường cho h ọc sinh đi ngoại khóa, tham gia các cuộc bình giảng thơ văn, nói chuyện v ới dân chúng. Ngoài Ban Giáo dục, trường còn có 3 ban khác: Ban Tài chính, Ban C ổ đ ộng và Ban Tr ước tác. Ban Cổ động lo việc kêu gọi dân chúng chống bọn hủ Nho (Văn t ế sống h ủ Nho, Đi ếu h ủ Nho...), c ổ đ ộng ra báo Quốc ngữ. Chính Ban này có sáng kiến mua l ại bản quyền t ờ Đại Nam đồng văn nh ật báo, t ờ báo chữ Hán đầu tiên ở Hà Nội, cho tục bản thành tờ Đăng cổ tùng báo (ch ữ Quốc ng ữ, ch ữ Hán) v ừa là c ơ quan ngôn luận của trường, vừa tuyên truyền những tư tưởng cải cách. Ban Trước tác, thực chất là một nhà xuất bản đầu tiên của xứ B ắc Kỳ, đã ph ụ trách vi ệc xu ất b ản m ột lo ạt sách bổ ích cho nâng cao dân trí, cổ động cho tinh thần dân t ộc. Hàng chục sách dịch hoặc do các tác giả thân tín của nhà trường viết bao g ồm l ịch s ử (Vi ệt Nam và th ế giới), địa lý, văn học ... được xuất bản ngay t ừ những tháng đầu trường m ới hoạt động. Nhi ều cu ốn sách đã trở thành những tác phẩm đầu tiên bằng Quốc ngữ in ở Hà Nội như Quôc dân độc b ản, Nam qu ốc giai s ử, Việt Nam Quốc sử lược, Nam quốc địa dư, Quốc văn giáo khoa thư…; đ ặc biệt đã xuất hi ện nh ững tác phẩm khuynh tả như Tiếng cuốc kêu (Việt Quyên), Thiết tiến ca (Nguyễn Phan Lãng), Bài ca v ận đ ộng lính tập làm chấn động lòng người. Cuối cùng, tháng 11-1907, thực dân Pháp quyết định cho đóng c ửa tr ường này. V ề Đông Kinh nghĩa th ục, Đặng Thai Mai đánh giá nó như là một một cuộc cách m ạng văn hóa đ ầu tiên. Ông vi ết: “Đông Kinh nghĩa thục không chỉ là một trường tư thục, không chỉ là một cơ quan giáo d ục thuần túy…Đông kinh nghĩa th ục là con số tổng cộng những cố gắng của mọi người có ý chí tư tưởng, văn ch ương ra ph ục v ụ T ổ quốc. Nó là cả một phong trào, một thời đại…”(4). Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ diễn ra có vẻ lặng lẽ hơn dưới cái tên Cuộc Minh tân, t ập trung vào nh ững hoạt động kinh tế. Ngoài Sài Gòn ra, nhiều tỉnh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, C ần Th ơ, Tây Ninh, Biên Hòa... đã mọc lên các khách sạn (Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn, Minh Tân khách s ạn ở Mỹ Tho...), các cơ sở công nghệ (dệt, làm xà phòng, may mặc...), các h ội T ương t ế và đ ặc bi ệt m ột s ố công ty như Minh Tân công nghệ xã, Nam Kỳ thương cuộc... Phong trào Duy Tân cải cách lắng xuống từ cuối năm 1908, sau phong trào ch ống thu ế. Phan Châu Trinh, năm 1911, được Pháp thả ra để mị dân, đã sang Pháp sinh sống và hoạt đ ộng su ốt 14 năm (1911 - 1925). Cuối năm 1925, thực dân Pháp để ông về Sài Gòn với dã tâm l ợi d ụng t ư t ưởng c ải l ương c ủa ông đã b ị th ời đại vượt qua, khi cao trào yêu nước và dân chủ đang lên mạnh do các đảng phái chính trị ti ểu t ư s ản có tính khuynh tả lãnh đạo. Phan Châu Trinh từ trần ở Sài Gòn tháng 3-1926. Ông là nhà dân ch ủ l ớn nh ất ở n ước ta lúc đó, nhi ều tác phẩm nổi tiếng của ông để lại như Sùng bái giai nhân truyện, Xăngtê thi t ập, Luân lý và đ ạo đ ức Đông Tây… làm phong phú thêm văn học, lịch sử tư tưởng cận đại của nước ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2