Đề bài: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi để làm nổi bật cảm hứng <br />
về đất nước của nhà thơ<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại <br />
không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là <br />
nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời.<br />
<br />
Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, <br />
mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.<br />
<br />
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong <br />
thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài <br />
thơ Đất nước.<br />
<br />
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới <br />
hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi <br />
ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết <br />
trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà <br />
thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau: Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, <br />
Đất nước là tình cảm nung nấu:<br />
<br />
Những đêm dài hành quân nung nấu<br />
<br />
Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là <br />
một tình cảm nung nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người <br />
làm chủ.<br />
<br />
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, <br />
trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với <br />
hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.<br />
Sáng mát trong như sáng năm xưa<br />
<br />
Gió thổi mùa thu hương cốm mới<br />
<br />
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.<br />
<br />
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội<br />
<br />
Những phố dài xao xác hơi may<br />
<br />
Người ra đi đầu không ngoảnh lại<br />
<br />
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy<br />
<br />
Mùa thu nay khác rồi,<br />
<br />
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi<br />
<br />
Gió thổi rừng tre phấp phới<br />
<br />
Trời thu thay áo mới<br />
<br />
Trong biếc nói cười thiết tha...<br />
<br />
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà <br />
Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu <br />
và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây <br />
lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa <br />
"Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu).<br />
<br />
Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đòng đầu đã có cái gì xôn <br />
xao, xào xạc trong hồn:<br />
<br />
Sáng mát trong như sáng năm xưa<br />
<br />
Gió thổi mùa thu hương cốm mới<br />
Tôi nhớ những ngày thu đã xa<br />
<br />
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ <br />
"mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mỗi phía <br />
đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là <br />
muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội. Cái riêng biệt cái "đã xa" đã <br />
"khóe rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" <br />
vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao <br />
xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi <br />
dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời <br />
khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.<br />
<br />
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi <br />
bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng <br />
giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà <br />
"nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng <br />
đổi:<br />
<br />
Gió thổi rừng tre phấp phới<br />
<br />
Trời thu thay áo mới<br />
<br />
Trong biếc nói cười thiết tha.<br />
<br />
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh.<br />
<br />
Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến <br />
đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng <br />
ta".<br />
<br />
Trời xanh đây là của chúng ta<br />
<br />
Núi rừng đây là của chúng ta<br />
Nước chúng ta...<br />
<br />
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" <br />
tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.<br />
<br />
Những cánh đồng thơm mát<br />
<br />
Những ngả đường bát ngát<br />
<br />
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...<br />
<br />
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:<br />
<br />
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất<br />
<br />
Những buổi ngày xưa vọng nói về<br />
<br />
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", <br />
ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng <br />
lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất".<br />
<br />
Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ <br />
là niềm vui của người làm chủ. Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức <br />
trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng <br />
thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và <br />
sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.<br />
<br />
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới <br />
hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm <br />
xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955. Nguyễn Đình Thi <br />
hình như chờ cho lịch sử viết xong thiên sử thi của dân tộc mình, rồi mới theo đó mà viết <br />
nốt phần thứ hai này. Có lẽ vì vậy mà dù thiên về xây dựng những hình ảnh có tính biểu <br />
tượng khái quát, lời thơ vẫn âm vang những tiếng vọng của cuộc sống hào hùng của một <br />
đất nước chiến đấu và chiến thắng, ơ đó, có âm vang của phong trào phát động quần <br />
chúng trong cải cách ruộng đất:<br />
<br />
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu<br />
<br />
Đã bật lên những tiếng căm hờn<br />
<br />
Có âm vang nhịp bước vào công nông binh "liên minh" kháng chiến:<br />
<br />
Khói nhà máy cuộn trong sương núi<br />
<br />
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng<br />
<br />
Ôm đất nước những người áo vải<br />
<br />
Đã đứng lên thành những anh hùng<br />
<br />
Nhưng nếu như những biểu tượng khái quát trên đây chỉ được xây dựng bằng cảm quan <br />
lịch sử, bằng sự kiện thì Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã không làm xôn xao lòng <br />
người đến thế. Rất nhiều những biểu tượng đã kết tinh từ những kĩ niệm riêng, từ chính <br />
quan sát, trải nghiệm của một nghệ sĩ từng sống lăn lộn trong kháng chiến. Cho nên, Đất <br />
nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều khổ, nhiều dòng lấp lánh cái chất sống của nhà thơ <br />
và của nhân dân.<br />
<br />
Khi ông viết:<br />
<br />
Ôi những cánh đồng quê chảy máu<br />
<br />
Dây thép gai đâm nát trời chiều<br />
<br />
Những đêm dài hành quân nung nấu<br />
<br />
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu<br />
<br />
Thì ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện vào những nỗi đau riêng, và nỗi đau ấy nung nấu <br />
thêm vì một nỗi nhớ xao xuyến chay lòng. Trong đó có kỉ niệm về một buổi chiều hành <br />
quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc hằn lên như cào cấu "đâm nát <br />
trời chiều". Ráng chiều đỏ bầm lại, rãnh cày đồng quê như "chảy máu". Những chi tiết <br />
rất thực, rất sống sít ấy đã vào thơ và trở thành biểu tượng đau thương của đất nước <br />
trong kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời mà là hình ảnh của <br />
mọi thời giặc giã, không còn là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang mà hiển thân của <br />
mọi vùng quê, mọi đất nước dưới gót giày quân xâm lược.<br />
<br />
Những hình ảnh đau thương quặn lòng ấy sẽ còn "nung nấu" những "đêm dài hành quân" <br />
nhưng cũng từ miền đau thương sâu thẳm ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp <br />
lánh, thao thức bồn chồn. Đó là ánh mắt "người yêu" là nỗi nhớ bồn chồn và cũng chính là <br />
sự thôi thúc, là niềm tin.<br />
<br />
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, nỗi "nhớ mắt người yêu" như nhớ một ánh sao lấp lánh ấy <br />
thường trở đi trở lại nhiều lần (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: "Nhớ em đôi mắt hay <br />
cười", Trong Em bảo anh: "Tia lửa nơi ta bay lên cao Trong mắt người yêu thành trời <br />
sao", trong Nhớ: "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo <br />
mây"...) Nhưng đặc biệt ở "Đất nước", "Mắt người yêu" gợi một nỗi nhớ lớn lao sâu <br />
thẳm, vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, vượt lên trên nỗi nhớ người yêu. Bởi thứ ánh sáng <br />
bất chợt bừng lên trong tâm hồn ấy có cả nỗi đau, nỗi nhớ, có cả buồn vui, cả tin yêu hy <br />
vọng, cả riêng và chung.<br />
<br />
Bài thơ khép lại băng một cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:<br />
<br />
Súng nổ rung trời giận dữ<br />
<br />
Người lên như nước vỡ bờ<br />
<br />
Nước Việt Nam từ máu lửa<br />
<br />
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa<br />
<br />
Cảnh tượng vĩ đại này cũng là một biểu tượng khái quát về sự lớn mạnh quật cường của <br />
đất nước từ trong đau thương gian khổ. Nhưng đó là một bức tranh sống động. Cảm hứng <br />
hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân "áo vải", "đứng lên thành những <br />
anh hùng" phất cao cờ chiến thắng trên nóc hầm viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều <br />
mùng 7 tháng 5 lịch sử. Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, chụp ảnh ghi lại, <br />
nhưng hiếm có ở đâu gợi cho ta thật nhiều ấn tượng như ở đây, có cái gì rung chuyển <br />
như một cơn trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta lồng lộng, chói lòa một <br />
"Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy..." Đó là cái "rũ bùn đứng dậy" của Phù <br />
Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.<br />
<br />
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở <br />
cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền <br />
với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh <br />
gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:<br />
<br />
Anh yêu em như yêu đất nước<br />
<br />
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần<br />
<br />
(Nhớ)<br />
<br />
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc <br />
vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những <br />
cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ <br />
máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".<br />
<br />
<br />