Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 1/2017<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG ÁP THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT<br />
LÊN MẶT HÀNG NƯỚC GIẢI KHÁT KHÔNG CỒN TẠI VIỆT NAM<br />
DETERMINING OF THE POSSIBILITY TO APPLY THE EXCISE TAX<br />
ON THE NON-ALCOHOLIC BEVERAGE PRODUCT IN VIETNAM<br />
Phạm Thành Thái1, Trương Ngọc Phong1<br />
Ngày nhận bài: 01/4/2016; Ngày phản biện thông qua: 13/5/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục đích của nghiên cứu này nhằm xác định khả năng áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải<br />
khát không cồn tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng dựa trên khung phân tích kinh tế<br />
học về thuế được Stiglitz (1986) đề xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặt hàng nước giải khát có cầu co giãn<br />
mạnh theo giá, và không phải là mặt hàng xa xỉ. Trong ba tính chất quan trọng của chính sách thuế hiệu quả<br />
có 2 tính chất mà chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nếu áp dụng lên mặt hàng nước giải khát sẽ không đạt được<br />
là (i) tính kinh tế và (ii) tính công bằng; tiêu chí (iii) tính đơn giản sẽ khó đạt được khi Chính phủ sử dụng các<br />
mức thuế suất phân biệt cho từng loại nước giải khát. Vì vậy, không nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt<br />
hàng nước giải khát ở thời điểm hiện tại.<br />
Từ khóa: Thuế tiêu thụ đặc biệt, nước giải khát không cồn, chính sách thuế hiệu quả, Việt Nam<br />
ABSTRACT<br />
This research aims to determine the ability to apply excise taxes on non-alcoholic beverage products in<br />
Vietnam. The study use the quantitative methods with the analytical framework of tax economics that proposed<br />
by Stiglitz (1986). The research findings show that beverage items are not strong elasticity of demand on price,<br />
and are not luxury items. There are two among of three important characteristics of a effective tax policy<br />
that will not not be achieved if the Government applies the excise taxes on non-alcoholic beverage products.<br />
They are (i) the economy characteristic and the justice characteristic. Moreover, the simplicity characteristic<br />
of the effective tax policy will be difficult to achieve when the Government uses the tariff rates for each type<br />
of different beverage. In conclusion, this study proposes that the Gonvement should not apply excise tax on<br />
non-alcoholic beverage products at present.<br />
Keywords: Excise tax, non-Alcoholic beverage, effective tax policy, Vietnam<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ngành công nghiệp nước giải khát hiện<br />
được xem là ngành kinh doanh hấp dẫn.<br />
Tổng doanh thu ngành tính riêng cho năm<br />
2013 của ngành là 11.870 tỷ VND, tổng sản<br />
lượng tiêu thụ lên đến 2.083,06 triệu lít,<br />
1<br />
<br />
Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
120 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
mức tiêu thụ bình quân là 23 lít/người/năm,<br />
và tốc độ tăng trưởng trung bình 19,35% giai<br />
đoạn 2009 - 2013. Điều kiện khí hậu nóng<br />
ẩm, dân số trẻ là các yếu tố chính khiến nước<br />
giải khát trở thành một thức uống phổ biến ở<br />
Việt Nam [14].<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Tháng 2 năm 2014 Bộ Tài Chính Việt<br />
Nam đưa nước giải khát có ga không cồn<br />
vào danh mục các mặt hàng chịu thuế tiêu<br />
thụ đặc biệt với thuế suất 10%, và đệ trình<br />
Quốc hội xem xét thông qua. Theo Bộ Tài<br />
chính, việc lạm dụng đồ uống có thể dẫn tới<br />
các vấn đề sức khỏe như tăng nguy cơ bị<br />
bệnh béo phì, tiểu đường, sỏi thận, loãng<br />
xương, sâu răng. Dự thảo này vấp phải phản<br />
ứng mạnh mẽ từ phía các nhà sản xuất nước<br />
giải khát có ga. Đồng thời làm tạo nên hai<br />
quan điểm đối lập với nhau. Thứ nhất, lập<br />
luận ủng hộ cho rằng nước giải khát gây ra<br />
<br />
Số 1/2017<br />
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích<br />
1.1. Khung phân tích kinh tế học về thuế<br />
Theo Stiglitz (1986), một hệ thống thuế tốt<br />
nếu nó đạt được 5 tính chất, (i) Hiệu quả kinh<br />
tế; (ii) Tính công bằng; (iii) Tính đơn giản về<br />
mặt hành chính; (iv) Tính linh hoạt; và (v) Tính<br />
trách nhiệm về mặt chính trị. Trong 5 yếu tố kể<br />
trên, 3 yếu tố cốt lõi của chính sách thuế hiệu<br />
quả là hiệu quả kinh tế, tính công bằng, và tính<br />
đơn giản.<br />
Hiệu quả kinh tế yêu cầu chính sách thuế<br />
<br />
các vấn đề sức khỏe và cần phải hạn chế<br />
<br />
không can thiệp vào việc phân bổ nguồn lực<br />
<br />
người dân sử dụng. Thứ hai, lập luận phản<br />
<br />
hiệu quả, hay không gây ra các bóp méo hành<br />
<br />
đối cho rằng việc áp thuế đối với nước giải<br />
<br />
vi kinh tế, hay nói cách khác là tổn thất vô ích<br />
<br />
khát là một chính sách thuế không hiệu quả<br />
<br />
do thuế gây ra là nhỏ nhất (Stiglitz, 1986). Một<br />
<br />
và gây tổn thất cho toàn nền kinh tế. Mặc<br />
<br />
loại hàng hóa có cầu (hoặc cung, hoặc cả hai)<br />
<br />
dù vậy, trên thế giới có nhiều nước đang áp<br />
<br />
ít co giãn theo giá thì khi hàng hóa này bị áp<br />
<br />
dụng thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế tiêu<br />
<br />
thuế sẽ ít gây ra tổn thất vô ích cho xã hội<br />
<br />
dùng đối với các sản phẩm nước giải khát<br />
<br />
(Mankiw, 2010).<br />
<br />
dựa trên hàm lượng đường trong mỗi sản<br />
<br />
Tính công bằng đòi hỏi một hệ thống thuế<br />
<br />
phẩm như Hoa Kỳ, Phần Lan, Croatia, Thái<br />
<br />
tốt phải đảm bảo được tính công bằng dọc và<br />
<br />
Lan, Pháp…v.v. Tuy nhiên, cũng có một số<br />
<br />
công bằng ngang. Tính công bằng ngang đạt<br />
<br />
quốc gia từng đánh thuế đối với sản phẩm<br />
<br />
được nếu các đối tượng về mọi mặt như nhau<br />
<br />
này nhưng rồi bãi bỏ hoặc giảm thuế suất vì<br />
<br />
phải chịu thuế ngang nhau. Ngược lại, tính<br />
<br />
những tổn thất kinh tế gây ra quá lớn, như Ai<br />
<br />
công bằng dọc đạt được nếu người càng có<br />
<br />
Cập, Ai-len, Đan Mạch.<br />
<br />
khả năng chi trả cao sẽ phải đóng thuế nhiều<br />
<br />
Trước việc rút lại đề xuất đánh thuế lên<br />
<br />
hơn. Nói cách khác, tính công bằng dọc đạt<br />
<br />
nước giải khát có ga không cồn cho thấy sự<br />
<br />
được nếu hàng hóa chịu thuế có cầu co giãn<br />
<br />
lúng túng trong việc ra quyết định của các cơ<br />
<br />
nhiều theo thu nhập.<br />
<br />
quan liên quan. Do vậy, để có cơ sở khoa học<br />
<br />
Tính đơn giản đòi hỏi hệ thống thuế phải<br />
<br />
cho việc ra quyết định áp thuế hay không,<br />
<br />
đơn giản để việc quản lý dễ dàng và không tốn<br />
<br />
nghiên cứu này nhằm phân tích hiệu quả của<br />
<br />
kém. Chi phí quản lý thu thuế là một vấn đề;<br />
<br />
chính sách thuế đối với mặt hàng nước giải<br />
<br />
thứ nhất, chi phí trực tiếp là các khoản chi tiêu<br />
<br />
khát để trả lời câu hỏi trên.<br />
<br />
cho công tác hành thu, còn chi phí gián tiếp là<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 121<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 1/2017<br />
<br />
các khoản mà người nộp thuế phải gánh chịu<br />
<br />
Trong số các dạng hàm cầu hệ thống thì<br />
<br />
(thời gian khai báo thuế, hoàn thành các biểu<br />
<br />
mô hình AIDS do Deaton & Muellbauer (1980)<br />
<br />
mẫu, hay thuê luật sư,…). Thông thường, một<br />
<br />
đề xuất là mô hình được sử dụng khá phổ biến<br />
<br />
sắc thuế đạt được tính đơn giản về mặt hành<br />
<br />
thời gian gần đây. Hàm cầu AIDS được hình<br />
<br />
chính nếu doanh thu thuế tạo ra cao hơn chi<br />
<br />
thành trong điều kiện giới hạn về ngân sách,<br />
<br />
phí hành thu để thực hiện chính sách đó.<br />
<br />
và mỗi phương trình hàm cầu có thể được viết<br />
<br />
1.2. Lý thuyết thuế tiêu thụ đặc biệt<br />
<br />
như sau:<br />
(1)<br />
<br />
Thuế tiêu thụ đặc biệt (Excise Tax) hay còn<br />
gọi là thuế phân biệt thường được sử dụng để<br />
đánh vào một mặt hàng mà chính phủ không<br />
<br />
Trong đó:<br />
(2)<br />
<br />
khuyến khích người dân sử dụng (hàng xa xỉ<br />
hay hàng hóa tội lỗi - sinful goods), chẳng hạn<br />
hóa được chọn để đánh thuế thường có một<br />
<br />
Các công thức tính các độ co giãn trong<br />
hàm cầu AIDS như sau:<br />
Độ co giãn theo chi tiêu (thu nhập):<br />
<br />
hoặc vài đặc điểm sau: (1) việc tiêu dùng nó<br />
<br />
(3)<br />
<br />
như thuốc lá, rượu bia, xe hơi đắt tiền. Hàng<br />
<br />
gây ra các ngoại tác tiêu cực; (2) những sản<br />
<br />
Độ co giãn theo giá riêng:<br />
<br />
phẩm có cầu ít co giãn theo giá; (3) hàng hóa<br />
có độ co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1;<br />
và (4) hàng hóa mà việc sản xuất và kinh<br />
<br />
(4)<br />
Độ co giãn theo giá chéo:<br />
(5)<br />
<br />
doanh cần được chính phủ điều tiết (Mccarten<br />
& Stotsky, 1995)<br />
Đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt là<br />
<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
2.1. Cách tiếp cận của nghiên cứu<br />
<br />
tương đối dễ quản lý, tổn thất xã hội thấp vì<br />
<br />
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra,<br />
<br />
cầu hàng hóa ít co giãn theo giá nên ít tạo ra<br />
<br />
phân tích này sử dụng phương pháp nghiên<br />
<br />
tổn thất vô ích cho xã hội, ít bị phản đối bởi hợp<br />
<br />
cứu định lượng. Nghiên cứu được tiến hành<br />
<br />
với đạo đức xã hội, tạo được nguồn thu cho<br />
<br />
qua ba bước như trong Hình 1 dưới đây.<br />
<br />
chính phủ. Vì vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt là loại<br />
<br />
2.2. Lựa chọn mô hình nghiên cứu<br />
<br />
thuế đạt được cả ba yêu cầu của chính sách<br />
<br />
Các nghiên cứu thực nghiệm về cầu tiêu<br />
<br />
thuế hiệu quả (Mccarten & Stotsky, 1995).<br />
<br />
dùng nước giải khát trên thế giới hiện nay chủ<br />
<br />
1.3. Lý thuyết xây dựng hàm cầu tiêu dùng<br />
<br />
yếu sử dụng hàm cầu AIDS [3], [4], [16]. Một số<br />
<br />
Về cơ bản hàm cầu có hai dạng: (1) Mô<br />
<br />
nghiên cứu về cầu tiêu dùng thực phẩm ở Việt<br />
<br />
hình phương trình đơn là các dạng hàm cầu<br />
<br />
Nam, ví dụ [9], [11], [15],… Chính vì vậy, trong<br />
<br />
đầu tiên được xây dựng để nghiên cứu cầu<br />
<br />
nghiên cứu này chấp nhận sử dụng mô hình<br />
<br />
tiêu dùng. (2) Mô hình hàm cầu hệ thống được<br />
<br />
AIDS để xây dựng hàm cầu nước giải khát tại<br />
<br />
các nhà kinh tế xây dựng nhằm thỏa mãn được<br />
<br />
Việt Nam làm cơ sở cho việc phân tích hiệu<br />
<br />
các tính chất của lý thuyết cầu như tính cộng<br />
<br />
quả chính sách thuế. Bảng 1 dưới đây tóm tắt<br />
<br />
dồn, tính đồng nhất, và tính đối [2].<br />
<br />
các biến được sử dụng trong phân tích.<br />
<br />
122 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 1/2017<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 1/2017<br />
<br />
Bảng 1. Các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu<br />
Tác giả<br />
<br />
Kỳ<br />
vọng<br />
dấu<br />
<br />
Biến định<br />
lượng/định<br />
tính<br />
<br />
Các biến<br />
<br />
Định nghĩa<br />
<br />
Wi<br />
<br />
Tỷ phần chi tiêu cho mặt hàng i<br />
trong 4 mặt hàng đồ uống.<br />
<br />
Deaton & Muellbauer (1980)<br />
<br />
Pj<br />
<br />
Giá của mặt hàng j (j = 1, 2, 3, 4).<br />
<br />
Deaton & Muellbauer (1980)<br />
<br />
-<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
x<br />
<br />
Tổng chi tiêu của tất cả 4 mặt hàng.<br />
<br />
Deaton & Muellbauer (1980)<br />
<br />
+<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
Hk: Các biến giả và các biến nhân khẩu học của hộ gia đình<br />
<br />
Tuổi của chủ hộ<br />
<br />
Adam & Smed (2012); Zheng &<br />
Kaiser (2008); Phạm Thành Thái<br />
(2013); Vu Hoang Linh (2009); Le<br />
Quang Canh (2008)<br />
<br />
-<br />
<br />
Quy mô hộ gia đình<br />
<br />
Adam & Smed (2012); Alviola &<br />
cộng sự (2010); Phạm Thành Thái<br />
(2013); Vu Hoang Linh (2009); Le<br />
Quang Canh (2008)<br />
<br />
+<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
Học vấn của chủ hộ<br />
<br />
Adam & Smed (2012); Phạm<br />
Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh<br />
(2009); Le Quang Canh (2008)<br />
<br />
-<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
Biến giả cho biến giới tính của<br />
Gender<br />
chủ hộ (Nam =1, Nữ = 0)<br />
<br />
Adam & Smed (2012); Phạm<br />
Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh<br />
(2009); Le Quang Canh (2008)<br />
<br />
+<br />
<br />
Định tính<br />
<br />
Biến giả cho biến khu vực<br />
Location<br />
(Thành thị =1, Nông thôn = 0)<br />
<br />
Alviola & cộng sự (2010); Phạm<br />
Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh<br />
(2009); Le Quang Canh (2008)<br />
<br />
+<br />
<br />
Định tính<br />
<br />
Phạm Thành Thái (2013), Vu<br />
Hoang Linh (2009), và Le Quang<br />
Canh (2008)<br />
<br />
+<br />
<br />
Định tính<br />
<br />
Age<br />
<br />
Hsize<br />
<br />
Edu<br />
<br />
Groupi<br />
<br />
Biến giả cho biến nhóm thu<br />
nhập, i = 1, 2, 3, 4, 5 (Nhóm 1:<br />
thấp nhất; Nhóm 5: cao nhất)<br />
trong đó, nhóm 1 (Group1) là<br />
nhóm tham chiếu<br />
<br />
Định lượng<br />
<br />
i, j<br />
<br />
4 mặt hàng đồ uống (1: nước giải khát; 2: sữa; 3: cà phê; 4: chè)<br />
<br />
Ui<br />
<br />
Là nhiễu ngẫu nhiên được giả định là tuân theo quy luật phân phối chuẩn với giá trị trung<br />
bình bằng không và phương sai không đổi<br />
<br />
Nguồn: Đề xuất của tác giả dựa trên phân tích cơ sở lý thuyết<br />
<br />
124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />